Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiếu luận Vai trò của triết học trong đời sống xã hội. - Copy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.35 KB, 12 trang )

Phần mở đầu.
1: Lý do chọn đề tài
Triết học đã ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một khoảng thời gian
(khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VII trước Công nguyên) tại các trung tâm văn hóa cổ đại
như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp. Chính bởi thời gian ra đời từ rất lâu triết học luôn phản
ánh và thúc đẩy sự phát triển trí tuệ lồi người từ đó giúp con người phát hiện ra nhiều thành
tựu về tự nhiên, xã hội và tư duy. Bởi vậy khi được học và tiếp thu tri thức của môn triết học,
là con người đang học và tìm hiểu tri thức của nhân loại - tri thức có giá trị được nghiên cứu
từ xa xưa - từ đó đặt ra nhiệm vụ chúng ta phải biến những nguồn tri thức vô biên của nhân
loại thành kiến thức của mình thơng qua q trình tìm hiểu triết học.
Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu của cầu thực tiễn, nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn
gốc xã hội chính bởi vậy việc học hiểu mơn triết học giúp ta hiểu được sâu xa bản chất của
cuộc sống. Từ đó ta có thể tìm tịi và nghiên cứu những hướng phát triển cho bản thân ta
cũng như phát hiện ra điều mới đem lại giá trị cho xã hội.
Đặt trong hoàn cảnh hiện tại của đất nước, việc mỗi cá nhân hiểu vai trò của triết học càng
được đặt lên cao hơn, bởi chúng ta không chỉ hướng đến xây dựng một đất nước có nền kinh
tế giàu mạnh mà ta cần quan tâm đến đào tạo cơng dân tồn diện. Đó là những người có hiểu
biết, có khả năng nghiên cứu, lao động hiệu quả và có phẩm chất đạo đức tốt. Việc nắm bắt
được vai trò của triết học trong cuộc sống giúp con người hình thành lên được thế giới quan,
phương pháp luận đúng đắn và hiểu được bản chất, sự vận hành của xã hội cũng như tiếp thu
tri thức từ mọi lĩnh vực trong cuộc sống của nhân loại ngàn đời. Từ đó đất nước ta có được
những cơng dân có hiểu biết, là động lực phát triển đất nước toàn diện.
Từ những lý do trên tôi xin được chọn đề tài nghiên cứu về “Vai trò của triết học trong thực
tiễn xã hội và sự vận dụng của bản thân mình sau q trình tìm hiểu về vai trị của triết học
trong thực tế xã hội.”

2: Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
*Mục đích:
- Thấy được vai trị của triết học trong thực tiễn; từ đó con người áp dụng vào để quan sát
thực tế xã hội, nhìn nhận xã hội một cách khách quan hơn. Đồng thời khi nắm bắt được bản
chất của xã hội con người sẽ tìm cho mình một phương hướng riêng để phát triển cũng như


tạo tiền đề để phát hiện ra những quy luật mới có tính ứng dụng trong thời đại mới, đem lại
lợi ích cho quốc gia cũng như tồn xã hội.
*Nhiệm vụ:
để đạt được mục đích đã đề ra, đề tài cần đi hiểu vấn đề sau:


- triết học và vấn đề cơ bản của triết học.
- vai trò của thế giới quan và phương pháp luận của triết học.
- vai trò của triết học đối với các khoa học cụ thể và đối với tư duy lý luận.
- chức năng và vai trò triết học Mác-Leenin trong đời sống xã hội và sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam hiện nay.
- sự vận dụng của bản thân khi tìm hiểu về vai trị của triết học, triết học Mác-Lênin.
*Phạm vi nghiên cứu: cơ sở lý luận của triết học.

Chương I: Cơ sở lý luận chung về triết học và vai trò của
triết học trong đời sống xã hội.
I: Định nghĩa về Triết học và vấn đề cơ bản của triết học
Đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm những nội dung cơ
bản giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là chỉnh thể, tìm ra những quy luật
chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể nói chung, của xã hội lồi người, của con
người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng
duy lý.
Vậy khái quát lại ta có thể hiểu: triết học là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế
giới (tự nhiên, xã hội, tư duy) và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về vị trí, vai trò của
con người trong thế giới ấy.
Triết học cũng như những khoa học khác phải giải quyết rất nhiều vấn đề liên quan đến nhau,
trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng là nền tảng và điểm xuất phát để giải quyết vấn đề còn lại
được gọi là vấn đề cơ bản của triết học. Theo Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết
học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.
Khi giải quyết vấn đề cơ bản, triết học không chỉ xác định nền tảng và điểm xuất phát để giải

quyết các vấn đề khác của triết học mà nó cịn là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới
quan của các triết gia và học thuyết của họ.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn.
Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định
cái nào? Nói cách khác, khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện tượng, sự vật hay sự
vận động đang phải giải thích, thì ngun nhân vật chất hay ngun nhân tinh thần đóng vai
trị quyết định.
Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay khơng? Nói cách khác, khi
khám phá sự vật và hiện tượng, con người có dám tin rằng mình sẽ nhận thức được sự vật và
hiện tượng hay không.


Cách trả lời câu hỏi trên quy định lập trường của các nhà triết học và của trường phái triết
học, xác định việc hình thành các trường phái lớn của triết học.
Để giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học thành hai
trường phái lớn dựa trên thế giới quan triết học khác nhau của các nhà triết học. Những
người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức của con người là
được coi là nhà duy vật, học thuyết của họ được hợp thành môn khác nhau của chủ nghĩa duy
vật. Ngược lại, những người cho rằng, ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên được gọi là các
nhà duy tâm, hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, thế giới vật chất tồn tại một
cách khác quan, độc lập với ý thức con người và khơng do ai sáng tạo ra; cịn ý thức là sự
phản ánh khác quan vào bộ óc con người; khơng có tinh thần, ý thức nếu khơng có vật chất.
Chủ nghĩa duy vật được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ
nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong đó chủ nghĩa duy vật biện
chứng là hình thức phát triển nhất, nó khơng chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân
nó tồn tại mà cịn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo
hiện thực ấy.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh thần là cái có trước và quyết định thế giới tự nhiên.
Giới tự nhiên chỉ là một dạng tồn tại khác của tinh thần và ý thức. Chủ nghĩa duy tâm chia

thành hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa
duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Chủ nghĩa duy tâm khách
quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng theo họ đấy là thứ tinh thần khách quan
có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường mang
những tên gọi khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới, v.v ... Chủ nghĩa
duy tâm triết học cho rằng ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới tự nhiên; như
vậy là đã bằng cách này hay cách khác thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới. Về phương diện
nhận thức luận, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem xét phiến diện, tuyệt
đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của q trình nhận thức mang tính biện
chứng của con người.
TỔNG KẾT: Qua việc tìm hiểu định nghĩa và vấn đề cơ bản của Triết học mỗi cá nhân tự xác
định được rằng thế nào là triết học và mình đang theo chủ nghĩa duy tâm hay chủ nghĩa duy
vật hay theo cả chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật từ đó xác định cách thức tiếp cận với
xã hội bên ngồi của cá nhân mỗi người.

II: Vai trị của triết học trong đời sống xã hội.
Vai trò của triết học trong đời sống xã hội đựơc thể hiện qua chức năng của triết học. Triết
học có nhiều chức năng như: Chức năng nhận thức, chức năng đánh giá, chức năng giáo dục,
chức năng thẩm mỹ…. Nhưng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng
phương pháp luận.


1: Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học
1.1: Chức năng thế giới quan của triết học
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm những quan niệm của con người về thế giới xung
quanh, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí con người trong thế giới đó. Đặc tính
của tư duy con người là muốn đạt tới sự hiểu biết hoàn toàn, đầy đủ, song tri thức mà con
người đạt được ln ln là có hạn. Q trình tìm hiểu về quan hệ giữa con người với thế
giới đã hình thành nên những quan niệm nhất định, trong đó có sự hồ quyện thống nhất giữa
cảm xúc và trí tuệ, tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới

quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi đã trở thành niềm tin định hướng cho hoạt động
của con người. Thế giới quan được hình thành và phát triển qua quá trình sinh sống và nhận
thức của con người; sau đó thế giới quan lại trở thành nhân tố định hướng cho con người tiếp
tục quá trình nhận thức thế giới xung quanh cũng như tự nhận thức bản thân mình. Và đặc
biệt từ đó con người xác định được cách thức hoạt động và sinh sống của mình. Thế giới
quan đúng đắn là tiền đề hình thành nhân sinh quan tích cực, tiến bộ.
Khác với thế giới quan thần thoại và tôn giáo, thế giới quan triết học dựa vào tri thức,
là sự diễn tả quan niệm của con người dưới dạng hệ thống các quy luật, phạm trù đóng vai
trị là những nấc thang trong quá trình nhận thức thế giới. Với ý nghĩa đó, triết học được xem
là hạt nhân lý luận của thế giới quan, là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế
giới và về vị trí của con người trong thế giới đó.
Thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò.
*Định nghĩa
Thế giới quan duy vật biện chứng là đỉnh cao của thế giới quan triết học và cũng là
đỉnh cao của thế giới quan đã có trong lịch sử. Có thể khẳng định rằng, thế giới quan duy vật
biện chứng là hệ thống những quan niệm khoa học chung nhất về tự nhiên, xã hội và con
người. Thế giới quan duy vật biện chứng gồm ba yếu tố cơ bản quan hệ hữu cơ với nhau: đó
là tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng.
*Vai trò:
+ Nó là lăng kính mà qua đó con người xem xét, nhìn nhận thế giới một cách đúng đắn, đưa
ra được sự giải thích khoa học các hiện tượng nảy sinh trong tự nhiên và xã hội.
+ Nó định hướng cuộc sống, chi phối nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Thế
giới quan đúng – hoạt động đúng. Thế giới quan sai – hoạt động sai.
+ Nó là tiêu chí quan trọng để hình thành và phát triển nhân cách của con người. Muốn có
thế giới quan đúng đắn phải có tri thức khoa học- niềm tin - định hướng hành động đúng.
Tóm lại, thế giới quan duy vật biện chứng có ý nghĩa khơng chỉ thiên về mặt lý luận
nhận thức mà cịn có một ý nghĩa lớn lao về mặt thực tiễn. Sự thống nhất biện chứng của


những yếu tố tri thức, niềm tin, lý tưởng, giúp cho con người nhận thức và cải tạo thế giới

ngày càng hiệu quả hơn theo sự vận động của quy luật khách quan.
Xét một ví dụ thực tế để chứng minh tính đúng đắn của thế giới quan duy vật biện chứng.
Người xưa vốn có quan niệm: “thơng minh vốn sẵn tính trời” hay trí khơn đã định sẵn với
mỗi người ngay từ khi sinh ra nên người thông minh vẫn là người thông minh, kẻ khờ dại
vẫn mãi khờ dại. Tuy nhiên quan niệm này là hoàn toàn sai lầm. Khoa học đã chứng minh
rằng: não bộ chúng ta mềm dẻo, nó liên tục sinh ra các tế bào thần kinh mới ngay cả khi ta đã
trưởng thành. Hơn nữa khi ta học tập và tư duy các tế bào thần kinh liên tục sinh ra, bản thân
kết nối cũng được gia cố khi ta học tập, càng hoạt động tích cực ta càng có não bộ khỏe
mạnh, chất lượng cuộc sống tốt hơn ngay khi về già. Thông minh hơn là do lao động và học
tập chứ không hề được quy định sẵn ngay từ khi sinh ra.
Như khi ta gặp một bài tốn khó giải mãi khơng ra, ta không nên cứ mất thời gian ngồi nghĩ
xem mình đã sai ở đâu và nên làm gì. Thay vào đó hãy giải lao bởi: não bộ chúng ta hoạt
động hai cơ chế:
-Tập trung (focused mode): khi tập trung xử lý bài tốn não dùng một số ít tế bào để suy
nghĩ tại một điểm không rời, khi ở trạng thái bí ý tưởng cũng chỉ có một số ít tế bào thần
kinh đó hoạt động dù có quay lại vẫn rơi vào trạng thái bế tắc.
-Khuếch tán (diffused mode): nếu ta tạm dừng bài toán và đi bộ/ vận động giúp não chuyển
sang chế độ khuếch tán thì lúc này vùng não khác cũng được kích hoạt, khi ấy quay trở lại
giải bài tốn sẽ tìm được ra hướng mới khơng bế tắc như ban đầu.

*Hình minh họa cơ chế hoạt động của não bộ.

Chính từ nghiên cứu khoa học đó đã củng cố niềm tin và tạo động lực cho con người trau dồi
phát triển bản thân mình. Từ đó nhận thấy rằng nếu như khơng có thế giới quan đúng đắn con
người tự buộc chân mình lại, khơng có niềm tin tiến lên. Và càng khẳng định vai trò của triết
học đối với sự phát triển của loài người.


1.2: Chức năng phương pháp luận
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tịi,

xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Xét phạm vi tác dụng của nó, phương pháp luận có thể chia thành ba cấp độ: Phương pháp
luận ngành, phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất.
- Phương pháp luận ngành (còn gọi là phương pháp luận bộ môn) là phương pháp luận của
một ngành khoa học cụ thể nào đó.
- Phương pháp luận chung là phương pháp luận được sử dụng cho một số ngành khoa học.
- Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận được dùng làm điểm xuất phát cho việc
xác định các phương pháp luận chung, các phương pháp luận ngành và các phương pháp
hoạt động khác của con người. Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về
thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung
nhất.
Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau. Phép biện
chứng duy vật là lý luận khoa học phản ánh khái quát sự vận động và phát triển của hiện
thực; do đó, nó khơng chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là sự diễn tả quan niệm về thế
giới, là lý luận về thế giới quan. Hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa duy vật mácxít, do
tính đúng đắn và triệt để của nó đem lại đã trở thành nhân tố định hướng cho hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng, đề phòng và chống chủ
nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình vừa là kết quả, vừa là mục đích trực tiếp
của việc học tập, nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng.

2: Vai trò của triết học đối với khoa học cụ thể và tư duy lý luận
Sự hình thành và phát triển của triết học không thể tách rời sự phát triển của khoa học cụ thể
cũng như triết học có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển khoa học cụ thể. Triết học là thế
giới quan, phương pháp luận cho khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận cho các khoa học cụ thể.
Trong việc đánh giá các thành tựu cũng như vạch ra phương hướng, phương pháp cho quá
trình nghiên cứu khoa học cụ thể Albert Einstein- nhà vật lý học thiên tài thế kỷ XX đã từng
nhận xét: “Các khái quát của triết học cần phải dựa trên các kết quả của khoa học, tuy nhiên
mỗi khi xuất hiện và được truyền bá rộng rãi chúng thường ảnh hưởng đến sự phát triển của

khoa học khi chúng chỉ ra nhiều phương hướng phát triển khả quan”.
Trong triết học, chủ nghĩa duy vật đóng vai trị tích cực đối với sự phát triển của khoa học,
ngược lại chủ nghĩa duy tâm thường được sử dụng cho tôn giáo làm cơ sở cản trở khoa học
phát triển. Vào thời cổ đại, khoa học tự nhiên mới bắt đầu hình thành, triết học tự nhiên - một
hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại đã trình bảy được bức tranh tổng quát về


thế giới, có nhiều tư tưởng, dự báo thiên tài cho khoa học phát triển. Đến thời kỳ trung cổ ở
phương Tây, triết học kinh viện là công cụ biện hộ cho tôn giáo cản trở sự phát triển của
khoa học. Vào thời kỳ phục Hưng, nhất là thời kỳ cận đại, chủ nghĩa duy vật phát triển gắn
với khoa học tự nhiên, góp phần tích cực vào sự phát triển của khoa học tự nhiên chống lại
sự thống trị của giáo hội. Tuy nhiên vào thời kỳ này quan điểm “Triết học là khoa học của
các khoa học” và phương pháp tư duy siêu hình vẫn giữ vị trí thống trị. Sự phát triển của
khoa học vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX đã làm cho quan điểm triết học là khoa học
của các khoa học và phương pháp luận tư duy siêu hình khơng cịn phù hợp nữa, từ đó chủ
nghĩa duy vật biện chứng đã ra đời. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng
luôn gắn liền với thành tựu của khoa học hiện đại và sự khái quát thành tựu khoa học mang
lại đồng thời đánh dấu vai trò to lớn đối với sự phát triển của khoa học hiện đại. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng thực sự là thế giới quan, phương pháp luận thực sự khoa học cho các
khoa học cụ thể đánh giá đúng các thành tựu đã đạt được cũng như xác định đúng phương
hướng và phương pháp trong nghiên cứu. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi cuộc cách
mạng khoa học công nghệ 4.0 phát triển như vũ bão, nhiều thành tựu to lớn của khoa học làm
thay đổi sâu sắc nhiều mặt của đời sống xã hội, tình hình thế giới có nhiều biến động phức
tạp thì nắm vững thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng càng có ý nghĩa
quan trọng.
Triết học khơng chỉ có vai trị to lớn với khoa học mà có vai trị với sự rèn luyện tư duy của
con người. Về điều này Friedrich Engels từng nhận xét: “Một dân tộc đứng vững trên đỉnh
cao của khoa học thì khơng thể khơng có tư duy và để hoàn thiện năng lực tư duy lý luận
khơng cịn cách nào khác hơn là nghiên cứu tồn bộ tư duy triết học thời trước”.


3: Chức năng và vai trò Triết học Mác-Lênin trong đời sống xã hội và trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3.1: Chức năng của triết học Mác- Lênin trong đời sống xã hội
*Chức năng thế giới quan và phương pháp luận:
Triết học Mác- Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, nó là hạt nhân của thế giới
quan cộng sản. Thế giới quan duy vật biện chứng dừng lại ở hai khía cạnh:
-Thế giới quan duy vật biện chứng giúp con người hình thành quan niện khoa học, giúp con
người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực, từ đó giúp con người xác định thái độ và cách
thức hoạt động của mình nâng cao vai trị tích cực, sáng tạo của con người. Triết học MácLênin làm cơ sở xác định nhân sinh quan tích cực.
-Thế giới quan duy vật biện chứng là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế giới quan
duy tâm tôn giáo phản khoa học. Thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân trong hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ trong việc nhận thức và cải tạo thế
giới.


Triết học Mác-Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận phổ biến chung nhất cho hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

3.2: Vai trò của Triết học Mác-Lênin
Triết học Mác-Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết
học nhân loại. Triết học Mác-Lênin được C. Mác và Ăngghen sáng tạo sau đó được Lênin bổ
sung phát triển: đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét giới tự nhiên cũng
như xem xét đời sống xã hội và tư duy con người với tư cách là hệ thống khoa học có sự
thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp. Triết học Mác- Lênin như Lênin từng nhận
xét “là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn mỹ và là một công cụ nhận thức vĩ đại”.
Triết học Mác-Lênin là cơ sở triết học của một thế giới quan khoa học, là nhân tố định
hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, là nguyên tắc xuất phát của phương
pháp luận. Trong Triết học Mác-Lênin lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau.
Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng là phép biện chứng duy
vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở

nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học, nhờ đó Triết học Mác-Lênin có
nhận thức đúng đắn về cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người. Nắm
vững Triết học Mác-Lênin không chỉ tiếp nhận một thế giới quan đúng đắn mà còn là xác
định một phương pháp luận khoa học. Nguyên tắc khách quan trong sự xem xét địi hỏi phải
biết phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng đồng thời ngăn ngừa thái độ chủ quan, tùy
tiện trong việc vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn. Trong quan hệ với các khoa học cụ
thể mối quan hệ giữa Triết học Mác-Lênin và các khoa học cụ thể là mối quan hệ biện chứng.
Các khoa học cụ thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của Triết học Mác-Lênin. Đến
lượt mình Triết học Mác-Lênin cũng cung cấp những công cụ, phương pháp luận phổ biến,
định hướng sự phát triển các khoa học cụ thể. Mối quan hệ này càng đặc biệt quan trọng
trong kỷ nguyên cách mạng khoa học và cơng nghệ. Chính vì vậy để đẩy mạnh phát triển
khoa học cụ thể cũng như bản thân triết học, sự hợp tác chặt chẽ giữa những người nghiên
cứu triết học và các nhà khoa học khác là hết sức cần thiết, điều đó được chứng minh bởi lịch
sử phát triển của khoa học và bản thân triết học. Hiện nay Triết học Mác-Lênin là cơ sở thế
giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng để phân tích xu hướng phát triển xã hội
trong điều kiện kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Triết học Mác-Lênin
đóng vai trị là cơ sở lý luận, phương pháp luận cho các phát minh khoa học, cho sự tích hợp
và truyền bá tri thức khoa học hiện đại, đồng thời những vấn đề mới của hệ thống tri thức
khoa học hiện đại cũng đòi hỏi Triết học Mác-Lênin có bước phát triển mới.
Triết học Mác-Lênin là cơ sơ thế giới quan và phương pháp luận khoa học cách mạng để
phân tích xu hướng vận động, phát triển của thế giới trong bối cảnh tồn cầu hóa. Triết học
Mác-Lênin tiếp tục là lý luận khoa học và cách mạng soi đường cho giai cấp công nhân, nhân
dân lao động trong cuộc đấu tranh giành giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Hơn
nữa Triết học Mác-Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vai trò thế giới quan,
phương pháp luận của Triết học Mác-Lênin thể hiện trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đó


là đổi mới tư duy nhất là tư duy lý luận. Nếu khơng có sự đổi mới tư duy lý luận sẽ khơng có
sự nghiệp đổi mới. Thế giới quan Triết học Mác-Lênin đã giúp cho Đảng Cộng sản Việt Nam

đánh giá, nhìn nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới, đánh giá định
hình thế giới, các mối quan hệ quốc tế, xu hướng vận động biến đổi của thời đại, thực trạng
tình hình đất nước và con đường phát triển trong tương lai. Đồng thời Triết học Mác-Lênin
cung cấp phương pháp luận để giải quyết vấn đề đặt ra trong thực tiễn đổi mới trong tiến
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên Triết học Mác-Lênin không phải đơn thuốc vạn năng chứa mọi cách giải quyết vấn
đề đặt ra trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, để giải quyết vấn đề
đó, bên cạnh những tri thức triết học cần có hàng loạt tri thức khoa học cụ thể cũng như tri
thức kinh nghiệm do cuộc sống tạo nên một cách trực tiếp ở mỗi con người; thiếu những tri
thức đó việc vận dụng tri thức triết học khơng những khó mang lại hiệu quả mà trong nhiều
trường hợp có thể dẫn đến những sai lầm mang tính giáo điều. Do đó trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn chúng ta cần tránh những điều sai lệch:
-Xem thường triết học sẽ va vào tình trạng mị mẫm, dễ bằng lịng biện pháp cụ thể nhất thời
đi đến chỗ mất phương hướng thiếu nhìn xa trơng rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong
cơng tác.
-Tuyệt đối hóa vai trị của triết học sẽ xa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách máy
móc các nguyên lý, những quy luận vào từng trường hợp riêng mà khơng tính đến tình hình
cụ thể và kết quả dễ vấp vào thất bại.
Do đó bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và chống
chủ nghĩa chủ quan, tránh tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả, vừa là mục đích trực tiếp của
việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung và Triết học Mác-Lênin nói riêng.

4: Vai trị của triết học Mác-Lênin trong q trình hình thành và phát triển
của sinh viên Việt Nam.
Khi bàn về sự cần thiết của việc tìm hiểu triết học nhiều sinh viên đã cho rằng đó là khơng
cần thiết và khó hiểu, học đại học là học và đào tạo kiến thức về các chuyên ngành làm việc
trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân nên tìm hiểu các mơn chun ngành
là đủ. Thoạt nghe luận điểm này khá có lý, nhưng thực ra là sai lầm. Thực tế cho thấy, Nhà
nước không đơn giản chỉ cần đến những chuyên gia, mà hơn hết là cần những cơng dân có
trách nhiệm với tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Để giáo dục ý thức cơng dân

thì cần có Triết học và các môn khoa học xã hội, nhân văn khác. Sinh viên ở các thời đại
khác nhau và ở các nước khác nhau đều thường đi tiên phong trong các phong trào và các
tiến trình chính trị. Triết học đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành thế giới quan,
phương pháp luận, nhân sinh quan, hệ thống giá trị văn hóa nhân văn cho sinh viên, nó như
“la bàn” giúp họ định hướng tính tích cực xã hội và chính trị của mình vào mục đích xây
dựng, sáng tạo. Triết học đem lại cho sinh viên tri thức về các mối quan hệ xã hội, về bản
chất, chức năng của nhà nước và của pháp luật, về mục đích tồn tại của con người, về cái


thiện và cái ác, về mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước và xã hội, về tự do và trách nhiệm.
Vì vậy, triết học có vai trị quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh
viên.
Sinh viên Việt Nam hiện nay là một bộ phận thanh niên đã được tuyển chọn qua các kỳ thi
quốc gia hết sức gắt gao và được đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng có bề dày lịch sử. Vì
vậy, họ mang trong mình những đặc điểm của tầng lớp trí thức, như có khả năng lĩnh hội và
sáng tạo tri thức khoa học, kỹ thuật và cơng nghệ, khá nhạy cảm với những vấn đề chính trị xã hội... Họ là nhóm xã hội dễ tiếp thu tư tưởng mới (kể cả tích cực lẫn tiêu cực). Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dạy: “óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm
xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ”. Bởi vậy ngay từ đầu quá trình hinh thành nhân
cách của sinh viên cần phải hướng họ đi theo một hướng đúng.
Khi nghiên cứu tính quy luật của sự hình thành nhân cách, nhân cách sinh viên, chúng ta thấy
rằng nhân cách chỉ được hình thành và phát triển cùng với quá trình giáo dục và tự giáo dục,
quá trình giao tiếp, quá trình hoạt động thực tiễn bộc lộ những "phẩm chất người" của mỗi
con người...; trong đó, giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Giáo dục triết học Mác - Lênin cho sinh
viên là một yếu tố hợp thành quan trọng của nền giáo dục đại học nước ta hướng đến việc
xây dựng những thế hệ sinh viên có nhân cách trong sáng, có lập trường tư tưởng chính trị
vững vàng, đáp ứng địi hỏi ngày càng cao của quá trình hội nhập và phát triển đất nước. Cơ
sở để khẳng định điều đó là:
Thứ nhất, giáo dục triết học Mác - Lênin trong trường đại học nhằm góp phần hình thành thế
giới quan khoa học trong nhân cách sinh viên Việt Nam. Giáo dục triết học Mác - Lênin
trước hết là giáo dục những nguyên lý, phạm trù cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm xây

dựng lập trường thế giới quan cho sinh viên. Đó chính là thế giới quan duy vật biện chứng nền tảng để sinh viên nhận thức và tiếp thu những nguyên lý, quy luật khác. Việc giáo dục
triết học Mác - Lênin trong các trường đại học có vị trí đặc biệt quan trọng đối với quá trình hình
thành và phát triển thế giới quan khoa học - thế giới quan duy vật biện chứng của sinh viên. Bởi
lẽ, triết học Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, nó
cung cấp cho con người một cách nhìn khoa học đối với hiện thực khách quan và khẳng định vai
trò, vị trí của con người trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Từ đó, giúp họ có thái độ
đúng đắn, khoa học đối với hiện thực, có phương hướng chính trị vững vàng, có khả năng nhận
biết, phân tích và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn xã hội trên tinh thần thế giới
quan Mác – Lênin. Tuy nhiên, thế giới quan khoa học khơng hình thành một cách tự động, tức là
cứ trang bị tri thức là có thế giới quan; trái lại, đó là q trình chuyển tri thức vào thực tế, dùng
tri thức đã học được để tạo ra những công trình khoa học. Cơ sở để hình thành và phát triển thế
giới quan là những nhận thức của sinh viên về thế giới tự nhiên và xã hội, là kết quả của q
trình sinh viên tích lũy thực tiễn và học tập. Đó chính là q trình hình thành và phát triển các
quan điểm, quan niệm, niềm tin về vai trị và khả năng của con người trong q trình nhận thức
và cải tạo thế giới.
Thứ hai, giáo dục triết học Mác - Lênin cịn góp phần xây dựng nhân sinh quan cộng sản chủ
nghĩa cho sinh viên, xây dựng trong họ những quan niệm đúng đắn về cuộc đời, về ý nghĩa
và mục đích của cuộc sống. Cụ thể là, triết học Mác - Lênin giúp sinh viên hiểu được mục


đích cao nhất của con người là xây dựng một xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh; trong đó,
mọi người đều có một cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần. Đó là một xã hội mà "sự
phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người".
Giáo dục triết học Mác - Lênin sẽ góp phần từng bước xây dựng và bồi dưỡng nhân sinh
quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên thông qua việc trang bị cho họ những kiến thức cơ
bản về lý luận cách mạng xã hội, về bản chất và chức năng của nhà nước, về con người và
các quan hệ xã hội của con người, về giai cấp, dân tộc, về xu hướng phát triển tất yếu của xã
hội... Đồng thời, từng bước xây dựng cho sinh viên cách nhìn, lối sống cũng như cách vận
dụng những định hướng giá trị xã hội đã được nhận thức vào thực tiễn cuộc sống.
Thứ ba, giáo dục triết học Mác - Lênin góp phần xây dựng lý tưởng cộng sản cho các thế hệ

sinh viên Việt Nam. Lý tưởng giữ vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách
sinh viên, vì lý tưởng là mục đích cao nhất, đẹp nhất, tạo ra nghị lực giúp con người vượt qua
mọi thách thức đạt đến mục tiêu đề ra. Mục tiêu cao nhất mà lý tưởng cộng sản hướng tới là
xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp: Xã hội xã hội chủ nghĩa và sau này là xã hội cộng sản
chủ nghĩa. ở đó, con người được tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Sinh viên khi tiếp nhận
những tri thức khoa học Mác - Lênin sẽ tìm kiếm được sức mạnh từ chính bản thân tri thức
ấy để tự mình vươn lên, bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, tin tưởng vào con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Có niềm tin, có hồi bão, sinh viên tất có ý chí thực hiện lý tưởng. Việc thực
hiện lý tưởng không phải trừu tượng, xa vời, mà ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường họ
cần xác lập ý chí học tập để sau này góp phần xây dựng Tổ quốc. Đồng thời, họ cần có tinh
thần đấu tranh với những hành vi lệch chuẩn của một bộ phận sinh viên sống thiếu trách
nhiệm, mất phương hướng, lòng tin, lý tưởng sa đà vào cuộc sống hưởng thụ, thực dụng chỉ
nghĩ đến lợi ích riêng mình, vơ cảm với lợi ích của đồng loại, của dân tộc.
Sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay dưới tác động của giáo
dục triết học Mác - Lênin cũng chính là q trình hình thành ở họ những phẩm chất cần thiết,
thể hiện sự tri thức hóa, sự trưởng thành đến độ nhất định về mặt xã hội, giúp sinh viên nâng
cao nhận thức lý luận, ý thức chính trị, nhạy bén với thực tiễn, xử lý tốt các tình huống xảy ra
trong thực tiễn, sống có lý tưởng, có ước mơ để học tập, phấn đấu và cống hiến. Trong cuộc
sống con người không thể sống mà thiếu lý tưởng phấn đấu. Lý tưởng là sự thôi thúc nội tâm
giúp con người hành động để thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích của cá nhân và xã hội. Vì vậy,
giáo dục triết học Mác - Lênin nhằm từng bước xây dựng lý tưởng cách mạng cho sinh viên
là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Đó cũng chính là giá trị đạo đức của từng cá nhân sinh
viên mang nhân cách, là mục tiêu phấn đấu của mỗi sinh viên. Đạt đến mục tiêu này, giáo
dục triết học Mác - Lênin hồn tồn khẳng định vai trị quan trọng và quyết định của mình
trong cuộc đấu tranh ngăn ngừa những biểu hiện về suy thoái đạo đức, nhân cách của sinh
viên trước những tác động tiêu cực của quá trình phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc
tế hiện nay.

III: Sự vận dụng của bản thân sau khi tìm hiểu vai trị triết
học Mác- Lênin.





×