Tải bản đầy đủ (.ppt) (24 trang)

Bài 44. Tìm hiểu địa lí tỉnh, thành phố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.4 KB, 24 trang )

Lạng Sơn còn gọi là xứ Lạng là một tỉnh ở
vùng Đơng Bắc Việt Nam.
1. Địa lý
Có vị trí 20°27'-22°19' vĩ Bắc và 106°06'-107°21' kinh Đơng. Phía bắc giáp
tỉnh Cao Bằng: 55 km, Phía đơng bắc giáp Sùng Tả (Quảng Tây,
Trung Quốc): 253 km, Phía nam giáp tỉnh Bắc Giang: 148 km, Phía đơng
nam giáp tỉnh Quảng Ninh: 48 km, Phía tây giáp tỉnh Bắc Kạn: 73 km, Phía
tây nam giáp tỉnh Thái Nguyên: 60 km.
Lạng Sơn có hai cửa khẩu quốc tế: cửa khẩu đường sắt Đồng Đăng và
cửa khẩu đường bộ Hữu Nghị; có hai cửa khẩu quốc gia: Chi Ma (Huyện
Lộc Bình), Bình Nghi (Huyện Tràng Định), Tân Thanh (Huyện Văn Lãng),
Cốc Nam (Huyện Cao Lộc) và 7 cặp chợ biên giới với Trung Quốc.
Địa hình
Đồi núi chiếm hơn 80% diện tích cả tỉnh. Dạng địa hình phổ biến ở Lạng
Sơn là núi thấp và đồi, độ cao trung bình 252 m so với mặt nước biển.
Nơi thấp nhất là 20 m ở phía nam huyện Hữu Lũng và nơi cao nhất là
núi Mẫu Sơn 1541m. Mẫu Sơn cách thành phố Lạng Sơn 30 km về phía
đơng, được bao bọc bởi nhiều ngọn núi lớn nhỏ, thỉnh thoảng có tuyết
rơi vào mùa đơng.


Khí hậu, thời tiết
Khí hậu của Lạng Sơn thể hiện rõ nét khí hậu miền Bắc
Việt Nam. Khí hậu phân mùa rõ rệt, ở các mùa khác nhau
nhiệt độ phân bố khơng đồng đều do sự phức tạp của địa
hình miền núi và sự biến tính nhanh chóng của khơng khí
lạnh trong q trình di chuyển ở vùng nội chí tuyến đã gây
nên những chênh lệch đáng kể trong chế độ nhiệt giữa các
vùng.
- Nhiệt độ trung bình năm: 17-22 °C
- Lượng mưa trung bình hàng năm: 1200-1600 mm


- Độ ẩm tuơng đối trung bình năm: 80-85%
- Luợng mây trung bình năm khoảng 7,5/10 bầu trời
- Số giờ nắng trung bình khoảng 1600 giờ
- Huớng gió và tốc độ gió của Lạng Sơn vừa chịu sự chi phối
của yếu tố hồn lưu, vừa bị biến dạng bởi địa hình. Mùa lạnh
thịnh hành gió Bắc, mùa nóng thịnh hành gió Nam và Đơng
Nam. Tốc độ gió nói chung khơng lớn, trung bình 0,8-2 m/s
song phân hố khơng đều giữa các vùng trong tỉnh.


Hệ thống sơng ngịi
Mật độ sơng suối của Lạng Sơn thuộc loại trung bình đến khá dày, qua
địa phận có các sơng chính là:
- Sơng Kỳ Cùng Độ dài: 243 km, Diện tích lưu vực: 6660 km², Bắt nguồn
từ vùng núi Bắc Xa cao 1166 m thuộc huyện Đình Lập, sông Kỳ Cùng
thuộc lưu vực sông Tây Giang Trung Quốc. Đây là con sông duy nhất ở
miền Bắc Việt Nam chảy theo hướng Đông Nam - Tây Bắc, do vậy mảnh
đất xứ Lạng cịn được gọi là "nơi dịng sơng chảy ngược".
- Sơng Bản Thín, phụ lưu của sơng Kỳ Cùng.Độ dài: 52 km, Diện tích lưu
vực: 320 km², Sơng Ba Thín bắt nguồn từ vùng núi cao thuộc Quảng Tây
(Trung Quốc) đổ vào bờ phải sông Kỳ Cùng ở xã Khuất Xá huyện Lộc
Bình.
- Sơng Bắc Giang, phụ lưu của sơng Kỳ Cùng.Độ dài: 114 km, Diện tích
lưu vực: 2670 km²,
Sông Bắc Khê, phụ lưu của sông Kỳ Cùng, Độ dài: 54 km, Diện tích lưu
vực: 801 km²
- Sơng Thương Là sông lớn thứ hai của Lạng Sơn, bắt nguồn từ dãy núi
Na Pa Phước (huyện Chi Lăng) chảy trong máng trũng Mai Sao - Chi Lăng
và chảy vào địa phận tỉnh Bắc Giang.Độ dài: 157 km, Diện tích lưu vực:
6640 km²

- Sơng Hố Độ dài: 47 km, Diện tích lưu vực: 385 km²
- Sơng Trung, Độ dài: 35 km, Diện tích lưu vực: 1270 km²


Các đơn vị hành chính
Lạng Sơn có một thành phố tỉnh lỵ là thành phố Lạng Sơn và 10 huyện:
Tràng Định ,Văn Lãng ,Văn Quan ,Bình Gia ,Bắc Sơn ,Hữu Lũng ,Chi Lăng ,
Cao Lộc ,Lộc Bình ,Đình Lập
Thay đổi hành chính
Biểu trưng
Lạng Sơn là một trong 13 tỉnh được vua Minh Mạng thành lập đầu tiên ở Bắc Kỳ
(năm 1831).
Từ ngày 9/9/1891 đến ngày 20/6/1905, là Tiểu quân khu Lạng Sơn thuộc Đạo Quan
binh II Lạng Sơn. Sau đó tái lập tỉnh.
Ngày 7/6/1949, huyện Lộc Bình của tỉnh Hải Ninh nhập vào tỉnh Lạng Sơn.
Trong kháng chiến chống Pháp, Lạng Sơn thuộc Liên khu Việt Bắc. Năm 1950 tỉnh
Lạng Sơn có 10 huyện: Bằng Mạc, Bắc Sơn, Bình Gia, Cao Lộc, Điềm He, Lộc
Bình, Ơn Châu, Thốt Lãng, Tràng Định, Văn Uyên.
Ngày 1/7/1956, huyện Hữu Lũng của tỉnh Bắc Giang nhập vào tỉnh Lạng Sơn và
tỉnh Lạng Sơn thuộc Khu tự trị Việt Bắc (được thành lập cùng ngày). Khu tự trị
Việt Bắc tồn tại đến 27/12/1975.
Ngày 16/12/1964, huyện Điềm He cùng 6 xã của huyện Bằng Mạc hợp nhất thành
huyện mới Văn Quan; huyện Ôn Châu cùng 8 xã còn lại của huyện Bằng Mạc hợp
nhất thành huyện mới Chi Lăng.
Từ 27/12/1975 đến 29/12/1978 nhập với tỉnh Cao Bằng thành tỉnh Cao Lạng, rồi lại
tách ra như cũ.
Ngày 29/12/1978 tái lập tỉnh Lạng Sơn, đồng thời sáp nhập huyện Đình Lập của
tỉnh Quảng Ninh vào tỉnh Lạng Sơn. Như vậy tỉnh Lạng Sơn có 10 huyện với tên



2. Dân cư
Dân số 731.887 người (điều tra dân số 01/04/2009));có
7 dân tộc anh em, trong đó người dân tộc Nùng chiếm
42,97%, Tày chiếm 35,92%,Kinh 16,5%,còn lại là các dân tộc
Dao, Hoa, Sán Chay, H'Mơng...
3. Văn học
Lạng Sơn có nhiều thắng cảnh nổi tiếng, được nhắc
đến nhiều trong thi ca Việt Nam, ví dụ như bài ca dao truyền
khẩu dưới đây:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tơ Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mải vui quên hết lời em dặn dò.


-Dân tộc, tôn giáo
Là một trong những nơi phát hiện ra các di chỉ của
người Việt thời sơ sử, tiền sử, Lạng Sơn in đậm dấu ấn của
các nền văn hoá truyền thống của nhiều dân tộc ở Việt Nam.
Những dân tộc có đơng cư dân ở Lạng Sơn như Nùng, Tày,
Việt, Dao. Họ có nhiều phong tục tập quán và lễ tết rất độc
đáo.
- Giao thông
Giao thông đường bộ, đường sắt đều thuận tiện. Quốc
lộ 1A nối liền Hà Nội - thành phố Lạng Sơn dài 154km, Hà Nội
- Lạng Sơn - Đồng Đăng dài 170km. Ngồi ra cịn quốc lộ 1B
tới tỉnh Thái Nguyên 60km, quốc lộ 4B qua Tiên Yên tới
Quảng Ninh 48km, quốc lộ 4A tới Cao Bằng 55km, quốc lộ

279 qua huyện Binh Gia tới Bắc Kạn 73km. Đường sắt liên
vận quốc tế Hà Nội – Trung Quốc chạy qua địa phận tỉnh
khoảng trên 100km.


Đặc sản vịt xứ Lạng: Đến Lạng Sơn, du khách khơng thể bỏ qua món
đặc sản vịt quay mật ong, có hương đặc biệt của lá mác mật. Ngồi ra,
cốm xào, mề vịt cũng là món lạ của vùng đất này.
Thất Khê, thung lũng bảy khe suối trên vùng cao Lạng Sơn, sẵn
gạo và vịt ngon. Nơi đây có món "cốm xào, mề vịt" tuyệt vời. Món ăn
đặc sản này khơng phải cỗ bàn nào cũng có. Chỉ đến mùa gặt tháng
mười, Tết cơm mới, chú rể tương lai phải làm một đĩa to mề vịt xào biếu
bố vợ sắp cưới. Chắc là phải 5-7 con vịt mới được một đĩa mề xào, nên
mới chỉ dành riêng vào dịp ân tình trọng đại đó. Từ vịt Na Sầm, sản vật
q hiếm của Thất Khê nổi tiếng, nay đã phát triển thành đặc sản "vịt
quay Lạng Sơn" của cả tỉnh. Suốt từ chợ địa đầu Chi Lăng đến Đồng
Đăng, Kỳ Lừa và khắp các chợ dọc quốc lộ 4, các sạp thức ăn chế biến
sẵn luôn đầy ắp những con vịt vàng rộm, thơm phức, thật bắt mắt.
Cung cách quay này có quy trình nhất qn, với các cơng đoạn tìm tòi,
sáng tạo rất riêng biệt, tay nghề bếp núc điêu luyện. Vịt tơ béo được
làm sạch mổ moi, nhồi lá mác mật vào bụng, để quay trên than hồng.
Vừa quay vừa bôi mật ong lên da vịt hoặc bôi tẩm mật ong rồi chiên
trong mỡ nước đang sôi, cho đến khi vàng ươm, chín đều. Thịt thơm
phức, mềm, ngọt mà da giòn. Ai lần đầu ăn cũng tấm tắc khen ngon.


Bánh cuốn trứng Lạng SơnBánh cuốn trứng Lạng Sơn khác
nhiều lắm so với bánh cuốn ở những địa phương khác.
Bánh cuốn Sài Gòn nhiều nhân, nào thịt, nào mỡ, nấm mèo,
củ sắn... ăn chung với chả giò, nem, giá trụng, rau thơm.

Bánh cuốn bán tại Hà Nội lớp nhân mỏng thôi, cũng thịt,
cũng nấm mèo... và được rắc lên đĩa bánh ruốc thịt, rau kinh
giới, cịn giị thì để chung trong chén nước chấm. Bánh cuốn
đặc trưng của Huế đơn giản hơn, hoặc cuốn với thịt nướng,
hoặc quen thuộc nhất là loại bánh cuốn với một lớp tôm chấy
mầu đỏ bắt mắt với nước chấm như nước chấm bánh khối,
có đậu phộng, có gan giã nhuyễn... Bánh cuốn trứng Lạng
Sơn chỉ đơn giản có trứng gà và một chén nước chấm là
nước thịt kho.


Phở chua Lạng Sơn: Đặc sản xứ Lạng này được chế biến khá cầu kỳ và
có hương vị vơ cùng hấp dẫn. Phở chua Lạng Sơn phải ăn nhẩn nha mới
thưởng thức hết hương vị đặc biệt của nó. Hiện nay, phở chua có bán ở
một số vùng miền núi phía Bắc, nhưng chỉ có sản phẩm của Thất Khê,
Lạng Sơn, là có tiếng hơn cả.

Phở chua gồm hai phần: nguyên liệu khô và phần nước.
Phần khô trước hết phải kể đến bánh phở. Cũng vẫn là thứ
bánh phở quen thuộc nhưng cái khác ở đây là bánh phở
được làm se lại sao cho vừa dẻo vừa dai. Tiếp đó là món
khoai tây thái chỉ và miếng được chao qua mỡ sao cho thật
giòn và vàng rộm lên. Gan lợn thái mỏng bằng nửa lòng bàn
tay, rán cháy cạnh. Thịt lợn ba chỉ loại ngon và dạ dày lợn
đem quay trong chảo mỡ. Riêng vịt quay thì nên chọn mua tại
các nhà hàng chuyên nghiệp nổi tiếng ở Thất Khê. Phần
nước phở gồm: nước báng tỏi, dấm, đường, mì chính...
Chính thứ nước hỗn hợp này làm cho người ăn không khơng
cảm thấy ngấy. Cịn nước lèo chính là thứ nước múc từ bụng
con vịt quay, vừa có vị ngậy của mỡ vịt, vừa thơm phức nhờ



Toàn bộ phần nguyên liệu được chuẩn bị từ trước và chờ
đến khi khách gọi mới bắt đầu trộn. Khâu trộn là khâu cuối
quyết định sự thành cơng của món phở chua. Phải trộn
lượng nước vừa đủ sao cho nguyên liệu không bị nát mà gia
vị vẫn thấm đều.
Những thứ trang điểm cho món phở chua gồm có lạc rang
giã đập, các loại rau thơm, hành khô, dưa chuột và vài lát lạp
xưởng thái mỏng. Ngồi ra cịn có thêm thứ gia vị đặc biệt
mà người địa phương quen gọi là xúng xàng tạo ra một
hương vị rất lạ. Người ăn tùy khẩu vị của mình có thể thêm
một chút chanh tươi, ớt hay tiêu... Đây là một món ăn khá
cầu kì địi hỏi sự cơng phu.
Phở chua là món ăn hàn thực nên nó được ưa chuộng nhất
vào mùa thu và mùa hè. Phở chua được coi là món ăn đặc
sản đáng tự hào của người Lạng Sơn, bởi vậy nó là món
khơng thể thiếu trong các dịp đón khách quý tới nhà.



- Động Tam ThanhVị trí: Nằm ở phường Tam Thanh thành
phố Lạng Sơn, phía tây phố Kỳ Lừa.
Đặc điểm: Vách động cịn khắc bài thơ của Ngơ Thì Sĩ ca
ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ nơi đây.
- Ðộng Tam Thanh nằm trong một dãy núi có hình đàn voi
phủ phục trên mặt cỏ xanh. Hang động Tam Thanh ở lưng
chừng núi. Cửa hang nhìn về hướng đơng cao chừng 8m có
lối lên là 30 bậc đá đục vào sườn núi, có nhiều cây cối um
tùm che khuất ánh nắng. Vách động bên phải có khắc bài

thơ của Ngơ Thì Sĩ (1726-1780) khi ông làm đốc trấn Lạng
Sơn, ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Ý của bài thơ là:
"Suối trong tuôn chảy trên hàng trăm mỏm đá như đang trị
chuyện. Quay lưng lại nhìn sang ngọn núi phía trước thấy
hịn Vọng Phu".
- Trong động có tượng Phật A - di - đà và nhiều nhũ đá ngoạn
mục.



- Động Nhị ThanhVị trí: Nằm ở thành phố Lạng Sơn, gần
động Tam Thanh
- Đặc điểm: Là một hang đá tự nhiên từ cửa trước ra cửa sau
dài hơn 500m, với nhiều cảnh đẹp kỳ vĩ.
Động Nhị Thanh gắn liền với danh nhân Ngơ Thì Sỹ ơng là
người phát hiện ra động Nhị Thanh và cho tu sửa tôn tạo
thành nơi du ngoạn vào tháng 5/1779. Ðộng Nhị Thanh khá
rộng, có nhiều ngóc ngách, nhiều nhũ đá rơi xuống mn
hình vạn dạng. Từ cửa động chính nhìn lên là ngơi chùa Tam
Giác thờ cả Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca. Trong động có
tượng truyền thần Ngơ Thì Sĩ tạc vào vách đá và trên vách
động còn ghi nhiều bài ký phú của ông và các danh nhân
khác.


- Núi Mẫu Sơn Vị trí: Cách thành phố Lạng Sơn 30km về phía đơng.

Đặc điểm: Nằm ở độ cao 1.541m so với mặt biển, khí hậu trên
núi ơn hịa, thích hợp cho việc nghỉ dưỡng.
-Núi Mẫu Sơn được bao bọc bởi hàng trăm quả núi nhỏ. Khí

hậu ở đây ôn hòa, Mùa đông, Mẫu Sơn luôn bị mây mù bao
phủ. Về mùa hè, nắng vàng rực rỡ. Còn khi vào xuân, cả
vùng Mẫu Sơn đỏ rực sắc hoa đào. Đào trái Mẫu Sơn vừa to,
vừa ngọt. Mẫu Sơn có loại chè tuyết rất ngon, đượm nước.
Và rượu Mẫu Sơn thơm nồng do chính người nơi đây nấu
bằng men có thành phần của một số cây thảo mộc chỉ có ở
Mẫu Sơn. Chỉ ở độ cao ấy, với nguồn nước chảy ra từ lịng
núi Mẹ, mới có hương vị rượu ngon nồng đến thế. Đến Mẫu
Sơn chẳng những để thưởng ngoạn cảnh sắc, khơng khí
trong lành, mà cịn được hịa mình vào cuộc sống con người,
nền văn hóa của các dân tộc ít người nơi đây.
- Trước đây, Mẫu Sơn vốn là khu nghỉ mát với nhiều biệt thự khang
trang chẳng thua kém mấy so với Sa Pa, Tam Đảo. Nhưng rồi chiến tranh
xảy ra, nhiều nhà cửa đã bị phá hủy. Trong tương lai, Mẫu Sơn sẽ được
xây dựng lại thành khu nghỉ dưỡng và phát triển ngành du lịch leo núi.



Núi Tơ Thị Vị trí: Chếch về phía tây bắc núi Tam Thanh, thành phố
Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Đặc điểm: Trên đỉnh núi Tơ Thị hay cịn gọi là núi Vọng Phu có tảng đá
tự nhiên giống hình người phụ nữ bồng con nhìn về phương xa.
Từ xưa, tảng đá hình người đã được gắn với truyện cổ tích nàng Tô
Thị bồng con chung thủy đứng chờ chồng đi đánh trận Phương Bắc.
Chờ mãi không được, nàng cùng con đã hóa đá. Vì thế nên người đời
cũng gọi tảng đá là nàng Tô Thị.
Trải qua bao năm tháng, do tác động của thiên nhiên và con người, di
tích này đã bị hủy hoại. Tỉnh Lạng Sơn đã cho dựng lại như ngun
bản để gìn giữ một di tích đã đi vào tình cảm của người dân Việt Nam.



Bắc Sơn: là huyện phía Tây Tây Nam của tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam.
Địa lý: Bắc Sơn là huyện miền núi, thuộc cánh cung Bắc Sơn của vùng
Đông Bắc Việt Nam. Trên địa bàn huyện có các ngọn núi cao 500-1.200 m,
như ngọn núi Khau Pi Ao (cao 1107 m), ngọn núi Pa Lép (503 m)... Huyện
Bắc Sơn có ranh giới phía Bắc giáp huyện Bình Gia, phía Đơng giáp
huyện Văn Quan, phía Nam giáp huyện Hữu Lũng, đều là các huyện của
tỉnh Lạng Sơn. Riêng phía Tây, huyện Bắc Sơn giáp huyện Võ Nhai của
tỉnh Thái Nguyên. Diện tích tự nhiên của huyện Bắc Sơn là 697,9 km².
Dân số, theo thống kê năm 1999, là 62.000 người.
Bắc Sơn, nằm gần rìa bắc huyện, trên quốc lộ 1B. Ngồi ra huyện cịn có
các xã: Long Đống, Quỳnh Sơn, Bắc Sơn, Hữu Vĩnh, Chiêu Vũ, Hưng Vũ,
Trấn Yên, Nhất Tiến, Nhất Hòa, Vũ Lăng, Vũ Sơn, Vũ Lễ, Tân Thành, Tân
Hương, Tân Lập, Tân Tri, Chiến Thắng, Đồng Ý, Vạn Thủy.


Lịch sử: Bắc Sơn là huyện có nhiều di chỉ khảo cổ về người
tiền sử, nơi đây các nhà khảo cổ đã phát hiện ra cả một nền
văn minh của người Việt cổ, vào sơ kỳ đồ đá mới, mang tên
văn hóa Bắc Sơn. Bắc Sơn là căn cứ địa kháng chiến, nơi nổ
ra cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, chống Nhật và Pháp của lực
lượng Việt Minh những năm 1940.
Giao thơng: Đường bộ có quốc lộ 1B chạy theo hướng Tây
Nam-Đơng Bắc, qua phần phía Tây Bắc huyện, nối thị trấn
Đình Cả huyện Võ Nhai-Thái Nguyên với Bình Gia-Lạng Sơn.


Những mốc son lịch sử trong quá trình phát triển của Đảng bộ huyện Bắc
Sơn
Ngay từ khi thực dân Pháp đặt ách thống trị trên châu Bắc Sơn, nhân dân

Bắc Sơn đã sôi nổi tham gia kháng chiến trong các phong trào do Cai
Kinh và Đề Thám lãnh đạo. Sau ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
một số thanh niên yêu nước ở Bắc Sơn đã sớm nhận thức, giác ngộ cách
mạng, chủ động liên lạc với các chiến sĩ cộng sản để xúc tiến việc thành
lập cơ sở Đảng ở Bắc Sơn. Ngày 25-9-1936, chi bộ Đảng đầu tiên ở Bắc
Sơn được thành lập ở thôn Mỏ Tát, xã Vũ Lăng.
Ngay sau khi thành lập, chi bộ Đảng non trẻ ở Bắc Sơn đã nhanh chóng
tổ chức, vận động quần chúng đứng lên đấu tranh chống ách thống trị,
áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến. Qua phong trào đấu
tranh cách mạng, cơ sở Đảng ở Bắc Sơn ngày càng được củng cố, mở
rộng, uy tín và vai trị của chi bộ Đảng ngày càng ảnh hưởng sâu rộng
trong các tầng lớp nhân dân và các vùng lân cận.
Được sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ uỷ Bắc Kỳ, đến tháng 5-1938, Châu uỷ
Bắc Sơn được thành lập, các tổ chức Đảng và phong trào cách mạng của
quần chúng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Kể từ đây, nhân dân các dân
tộc Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của Đảng đã lập nên nhiều thành tích và
chiến cơng vang dội, ghi những mốc son chói lọi trong lịch sử hào hùng



×