Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM VÙNG VĂN HÓA VIỆT BẮC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.88 KB, 22 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ PHÂN HIỆU TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ VĂN PHỊNG – LƯU TRỮ HỌC

TÊN ĐỀ TÀI :
PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM VÙNG VĂN HÓA VIỆT BẮC
BÀI TẬP TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Cơ sở Văn hóa Việt Nam
Mã phách:

Hà Nội – 2021


MỤC LỤC


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa Việt Nam vốn là sự kết tinh những giá trị truyền thống tốt đẹp
trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thế giới
tự nhiên. Đó cịn là sự đúc kết giữa cuộc sống và thực tiễn đấu tranh dựng
nước và giữ nước của con người Việt Nam qua mấy nghìn năm lịch sử.
Truyền thống ấy ln được giữ gìn và góp phần vào sự phát triển chung
của nền văn hóa thế giới. Văn hóa Việt Nam có vai trị to lớn trong việc
bồi dưỡng trí tuệ, đạo đức và tâm hồn người Việt Nam, xây dựng cho con
người Việt Nam một thế giới quan tốt đẹp, hướng con người tới những giá
trị Chân, Thiện, Mỹ cao đẹp. Và văn hóa các dân tộc ở Việt Bắc là một
trong những nét văn hóa khơng thể thiếu khi nói đến sự đa dạng về văn
hóa của Việt Nam. Bên cạnh đấy Việt Bắc cũng chính là cái nơi của cách


mạng là nơi khởi nguồn của những con người huyền thoại.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Nhằm giúp ta có thể tìm hiểu rõ hơn về lối sống phong tục tập
quán của người dân Việt Bắc
Nhiệm vụ nghiên cứu: Tìm hiểu đời sống tinh thần và nét văn hóa của
người dân Việt Bắc
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối Tượng: Người dân Việt Bắc( dân tộc Tày – Nùng)
Phạm vi nghiên cứu: Khu vực Việt Bắc
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài được sử dụng các phương pháp như: phân tích,
tổng hợp, so sánh, thu thập thông tin, nghiên cứu, sàng lọc,…

5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu


4

Đề tài giúp ta hiểu rõ hơn về vùng văn hóa Việt Bắc. Một nền văn hóa đậm
nét riêng biệt của núi rừng, về lối sống tín ngưỡng của người dân. Đồng thời
góp phần giúp người dân Việt Nam hiểu rõ hơn về những dân tộc anh em.


5

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên của văn hóa Việt Bắc
1.1. Khái niệm văn hóa:
Có nhiều định nghĩa về văn hóa tuy nhiên phổ biến và được phần đông
người công nhận là định nghĩa sau đây: Văn hóa là khái niệm mang nội hàm

rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau gồm có tất cả những giá trị tinh thần
và vật chất mà con người làm ra trong quá trình lao động, sinh sống thực tiễn
suốt chiều dài lịch sử. Qua văn hóa, người ta có khả năng đánh giá trình độ
phát triển của xã hội qua các thời kì lịch sử nhất định.
Nhưng theo Hồ Chí Minh định nghĩa về văn hóa như sau đại ý như sau
vì con người cần phải sinh tồn cũng như mục tiêu của cuộc sống nên phát
minh và sáng tạo ra chữ viết, ngôn ngữ, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, khoa học
cũng như văn học nghệ thuật, sáng tạo ra các công cụ sinh hoạt thường nhật
về ăn ở, mặc cùng các phương thức dùng. Tất cả những điều mà con người
phát minh và sáng làm ra chính là văn hóa.
Ngài ra văn hóa cịn có một số khái niệm khác dồm có văn hóa vật chất
là tinh thần. Dù cũng đều là do con người sáng tạo làm ra những đây là các
loại văn háo khơng giống nhau như:
- Văn hóa vật chất: Văn hóa vật chất sử dụng để chỉ khả năng
sáng tạo của con người thể hiện qua các vật thể, đồ sử dụng, dụng cụ do
con người làm ra. Từ các vật thể này, chúng ta có thể đánh giá, nhận xét
năng lực của con người đã tạo ra
- Văn hóa tin thần: Văn hóa tinh thần gồm có các tư tưởng, giá trí
tinh thần, những lý luận mà con người sáng tạo ra trong q trình sinh
sống. Văn hóa tinh thần được tạo ra nhằm phục vụ cho các hoạt động
tinh thần với những ngun tắc, tiêu chí có tác động chi phối các hoạt
động của con người, các hoạt động tinh thần như ứng xử, kĩ năng, tri


6

thức, giá trị khoa học nghệ thuật. Văn hóa tinh thần cũng là thị hiếu,
nhu cầu về tinh thần và cách thỏa mãn nhu cầu đấy.
1.2. Tín ngưỡng – Tơn giáo
1.2.1. Khái niệm tín ngưỡng – tơn giáo

Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những
lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự
bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng.
Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và
hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ
chức (Khoản 1 và 5 Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tơn giáo năm 2016).
1.2.2. Quyền tự do tín ngưỡng – tơn giáo
Ở Việt Nam, để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của cơng
dân, Điều 24 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào, các tơn giáo bình
đẳng trước pháp luật. Nhà nước tồn trong và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng,
tơn giáo. Khơng ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tơn giáo hoặc lợi dụng
tín ngưỡng, tơn giáo đề vi phạm pháp luật”.
Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tơn giáo được cụ thể hóa trong Luật Tín
ngưỡng, tơn giáo (được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ hai thông qua ngày
18/11/2016 ) và trong rất nhiều văn bản pháp luật khác, thể hiện qua các nội
dung sau:
- Việt Nam thừa nhận, ghi nhận, tôn trọng và bảo hộ quyền tự do
tín ngưỡng, tơn giáo của mọi người; bảo đảm để các tơn giáo bình đẳng
trước pháp luật;
- Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào.
- Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tơn giáo; thực
hành lễ nghi tín ngưỡng, tơn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành
giáo lý, giáo luật tôn giáo.


7

- Mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào

tạo tên giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo. Người chưa thành
niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
- Chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tơn
giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp
khác.
- Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp
luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù;
người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo
dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách,
bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tơn giáo.
1.3. Vị trí địa lý
Nói tới Việt Bắc là nói tới địa bàn của sáu tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn,
Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang. Tuy nhiên, ranh giới vùng
văn hóa Việt Bắc sẽ rộng hơn địa bàn này. Nghĩa là, nó bao gồm cả phần đồi
núi của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang và tỉnh Quảng Ninh. Trên
bản đồ, vùng đất này nằm ở những vĩ độ cao nhất, trong các vĩ tuyến từ 21 độ
đến 23 độ vĩ bắc, vì thế, đây là vùng có mơi trường tự nhiên với dấu hiệu
chuyển tiếp từ tự nhiên nhiệt đới sang á nhiệt đới. Thực tế vùng Việt Bắc, do
nằm ở vị trí địa đầu đất nước về phía Đơng Bắc nên Việt Bắc là vùng đón
nhận đầu tiên gió mùa đơng bắc và chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất. Địa hình
Việt Bắc có cấu trúc theo kiểu cánh cung tụ lại ở Tam Đảo, các cánh cung này
mở ra ở phía Bắc và đông Bắc và phần hướng lồi quay ra biển, thứ tự từ trong
ra biển là các cánh cung : sông Gâm, Ngân Sơn, Yên Lạc, Bắc Sơn và Đông
Triều. Các dãy núi đều thuộc loại có độ cao trung bình và thấp. Một số núi có
độ cao là Tây Côn Lĩnh (2431m), Kiều Liên Ti (2403m) và Pu Ta Ca
(2274m). Tồn vùng có 5 hệ thống sơng chính : sông Thao, sông Lô, hệ thống


8


các sông Cầu, sông Thương, Lục Nam; hệ thống các sông này chảy vào Tây
Giang và các sông ở miền duyên hải. Nét đặc trưng của hệ thống sông ở đây
là độ dốc lịng sơng lớn, mùa lũ là thời gian dịng chảy mạnh nhất. Mặt khác,
trong vùng cịn có nhiều hồ như hồ Ba Bể, hố Thang Hen …Cư dân chủ yếu
của vùng Việt Bắc là người Tày và Nùng. Ngồi ra cịn có một số dân tộc ít
người khác như Dao, H’mông, Lô Lô, Sán Chay.
1.4. Đặc điểm tự nhiên
- Địa chất: Có lịch sử phát triển trẻ hơn VB và Tây Bắc, tân kiến
tạo nâng lên yếu hơn, có bộ phận cánh cung ven biển bị sụt lún tạo nên
hệ thống đảo ở Hạ Long…(tự rút ra đặc điểm chung).
- Địa hình: khá đa dạng, với các dãy núi cánh cung điển hình.
Khu Đơng Bắc là vùng đồi núi thấp nối với khu Việt Bắc và vùng đồi
núi thấp Hoa Nam (Trung Quốc).
- Khí hậu: chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của gió mùa cực đới và
trong cực, tính chất nhiệt đới giảm sút mạnh nhất. Mùa mưa ngắn hơn
các khu vực khác 1 tháng, tháng khô dài hơn Việt Bắc, có thể có tháng
hạn; lượng mưa nhìn chung thấp hơn Việt Bắc, có sự phân hóa rõ rệt
giửa khu vực duyên hải và phía trong
- Thủy văn: so với các khu vực khác đồng bằngcó mạng lưới
sơng ngịi ko ptriển lắm, chủ yếu lá sơng trung bình; lượng nước sơng
chênh lệch 2 mùa lớn, mùa lũ đến sớm…
- Thổ nhưỡng-sinh vật: kém phát triển, bị hủy hoại nhiều bởi con
người, nghèo nàn, khả năng phục hồi chậm, tuy địa hình ko cao nhưng
ảnh hưởng của gió mùa cực đới nên ở đây có nhiều sinh vật á nhiệt
đới…


9


Chương 2: Đặc điểm vùng văn hóa Việt Bắc
2.1. Đặc điểm xã hội

2.1.1. Lịch sử
Truyền thuyết và kí ức của cư dân Việt Bắc còn ghi khá kĩ về tổ tiên họ
tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng Năm 548, cư dân Việt Bắc lại ủng hộ cuộc
khởi nghĩa của Lý Bôn chống quân nhà Lương. Trong thời tự chủ, vai trò của
cư dân Việt Bắc đối với cuộc chống xâm lược nhà Tống rất quan trọng. Các
đội quân của các thủ lĩnh địa phương tham gia đánh quân xâm lược Tống
Trong ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Ngun – Mơng, nhân dân
vùng Việt Bắc lại tích cực tham gia sức người sức của, góp phần vào sự đại
thắng của quân dân Đại Việt. Trong 10 năm kháng chiến chống quân Minh,
nhân dân Tày Nùng đã tham gia rất đông đảo dưới sự lãnh đạo của các thủ
lĩnh như Nơng Văn Lịch, Hồng Thiên Hữu, Nguyễn Văn Hách, Dương Thế
Châu .v..v… Nhà Mạc giành ngôi của nhà Lê, thất thủ ở đống bằng, kéo quân
lên miền núi xây thành, đắp lũy để chống lại nhà Lê. Một số tù trưởng đã
đứng về phía nhà Lê chống lại nhà Mạc. Khi vua Quang Trung chống quân
xâm lược Thanh, người dân Tày – Nùng đã hưởng ứng lời kêu gọi của Quang
Trung đứng lên đánh giặc. Người Pháp thiết lập ách cai trị trên đất nước ta,
đồng bào Tày – Nùng đã có những cuộc vận động, tổ chức đánh giặc. Từ
phong trào Cần Vương đến phong trào Việt Nam Quang Phục Hội, người dân
ở đây đều tham gia khá tích cực. Từ sau năm 1940, sau cuộc khởi nghĩa Bắc
Sơn, Việt Bắc đã trở thành khu căn cứ địa của cách mạng Việt Nam. Thực dân
Pháp trở lại xâm lược nước ta, Việt Bắc lại trở thành căn cứ địa kháng chiến
chống Pháp ở cả nước. Những năm cả nước chống giặc Mỹ, người Tày –
Nùng lại có những đóng góp rất lớn. Trong diễn trình lịch sử, cư dân Việt Bắc,
và chủ yếu là cư dân Tày – Nùng cùng gắn bó số phận với các dân tộc ở vùng
xi. Thời phong kiến, các vương triều đều có ý thức vun đắp cho sự gắn bó



10

này. Dù hiện tại là hai dân tộc, nhưng người Tày và người Nùng lại có những
nét gần gũi, sự gần gũi giữa họ là tương đối. Trong quan hệ với văn hóa Hán,
người Nùng chịu nhiều ảnh hưởng của Hán tộc nhiều hơn người Tày, người
Tày chịu ảnh hưởng của văn hóa Việt nhiều hơn
2.2. Đặc điểm vùng văn hóa
2.2.1. Văn hóa vật chất
2.2.2.1. Nhà ở
Người Tày – Nùng có hai loại nhà chính : nhà sàn và nhà đất. Nhà sàn
là dạng nhà phổ biến, có hai loại nhà sàn, sàn hai mái và sàn bốn mái. Nêú là
nhà sàn bốn mái, hai mái đầu hồi bao giờ cũng thấp hơn hai mái chính. Cửa
có thể mở ở mặt trước hoặc đầu hồi, cầu thang lên xuống bằng tre, gỗ, nhưng
số bực bao giờ cũng lẻ, không dùng bậc chẵn. Nhà đất là loại nhà xuất hiện
ngày càng nhiều, nhưng cũng có rất nhiều thay đổi so với ngôi nhà sàn về quy
mô, kết cấu, bố cục bên trong. Ở một số vùng cịn có loại nhà nửa sàn nửa đất,
đây là một loại nhà đặc biệt, vừa mang tính chất nhà đất vừa mang tính chất
nhà sàn.
2.2.2.2. Trang phục
Trang phục của người Tày – Nùng có tính thống nhất, được phân biệt
theo giới tính, địa vị, lứa tuổi, theo nhóm địa phương. Y phục của nam giới
người Tày theo một kiểu, gồm có áo cánh 4 thân, áo dài 5 thân, khăn đội đầu
và giày vải. Chiếc áo 4 thân được cắt may theo kiểu xẻ cao, có hàng cúc vải ở
trước ngực, cùng hai túi. Hàng cúc của áo này bao giờ cũng là 7 cái. Quần của
nam giới được may theo kiểu đũng chéo, cả quần lẫn áo của nam giới Tày
được may bằng vải chàm. Về đồ trang sức, họ ít dùng đồ trang sức. Vì vậy,
trang phục của người đàn ơng Tày khá giản dị, khơng có sự trang trí bằng hoa
văn.



11

Giữa nam giới Tày và nam giới Nùng chỉ khác nhau đơi chút về kích
thước trong trang phục. Trong khi đó, trang phục của nữ giới lại đa dạng và
phong phú. Người phụ nữ Nùng chỉ mặc một màu chàm, khác với người phụ
nữ Tày mặc chiếc áo lót trong màu trắng. Y phục nữ Tày – Nùng gồm có áo
cánh, áo dài 5 thân, quấn, thắt lưng, khăn đội đấu, hài vải. Đồ trang sức cũng
đơn giản, ngày trước chị em thường đeo vòng cổ, vòng tay, vòng chân và xà
tích bằng bạc. Chiếc khăn của phụ nữ Tày là khăn vuông, khi lễ tết, họ buộc
thêm chỉ đỏ, xanh quanh vành khăn rồi thắt nút ra phía sau. Phụ nữ người
Nùng có khác đơi chút là họ thường bịt răng vàng, ưa thích đồ trang sức bằng
bạc như vòng chân, vòng tay, vòng cổ, khuyên tai, hoa tai …
2.2.2.3. Ẩm thực
Về mặt ăn uống, tùy theo từng tộc người mà cách thức chế biến thức ăn
và khẩu vị của cư dân Việt Bắc có hương vị riêng. Việc chế biến món ăn của
cư dân Tày – Nùng, một mặt có những sáng tạo, một mặt tiếp thu kĩ thuật chế
biến của các tộc lân cận như Hoa, Việt v.v…. Họ chế biến ngô một cách tinh
tế, ngô được giã, hay xay nhỏ để nấu với cơm, làm các loại bánh. Thức ăn
chính là gạo tẻ, nhưng việc chế biến các món ăn từ gạo nếp lại càng được chú
trọng. Trong ngày tết, cốm là món đặc biệt hấp dẫn. Các loại xơi màu hấp dẫn
thường có mặt trong ngày lễ tết của cư dân Tày – Nùng. Thịt lợn, thịt vịt quay
thường được làm cầu kì như thịt lợn quay Lạng Sơn, vịt quay Thất Khê. Bữa
ăn của cư dân Việt Bắc, mang tính bình đẳng, nhân ái. Tất cả các thành viên
trong nhà ăn chung một mâm, khách đến nhà rất được ưu ái, nể trọng.
2.2.2.4. Hoạt động kinh tế
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và
xã hội hóa cao; phát triển du lịch không chỉ nằm trong một vùng, một tỉnh mà
vượt ra khỏi phạm vi hành chính của một địa phương, một quốc gia, một khu



12

vực. Việc liên kết phát triển du lịch giữa các địa phương là xu thế chung tất
yếu trong thời đại hiện nay. Nằm ở phía Bắc của Việt Nam, vùng Việt Bắc bao
gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái
Nguyên, là các tỉnh có nhiều điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên, kinh tế,
văn hóa, xã hội, có truyền thống giao lưu gắn kết tình cảm, phối hợp với nhau
trong nhiều lĩnh vực. Đồng thời, nơi đây cũng là Thủ đô kháng chiến, là vùng
đất đã chứng kiến và ghi dấu những chiến công lừng lẫy của quân và dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Với những tiềm năng phong phú về du lịch sinh thái, du lịch văn hóa
lịch sử, du lịch biên giới, những di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, những khu
điểm du lịch nổi tiếng, việc liên kết hợp tác phát triển giữa các tỉnh trong
vùng Việt Bắc có ý nghĩa quan trọng, là bước đi vững chắc trong việc thúc
đẩy tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá về miền đất, con người, tiềm năng văn
hóa, du lịch của 6 tỉnh vùng chiến khu Việt Bắc, tăng cường mối quan hệ giao
lưu, hợp tác giữa các tỉnh, thu hút các nhà đầu tư đến liên kết, khai thác tiềm
năng phát triển du lịch và thu hút khách du lịch đến với Thái Nguyên nói
riêng và vùng Việt Bắc nói chung.
Đối với mỗi tỉnh Việt Bắc, đây là sự kiện du lịch lớn trong năm. Bên
cạnh các hoạt động văn hoá, thể thao, du lịch, chúng tôi luôn tổ chức các hội
thảo, tọa đàm nhằm lấy ý kiến, đưa ra các giải pháp tăng cường liên kết du
lịch 6 tỉnh Việt Bắc, tiến tới mở rộng kết nối liên vùng, khu vực (năm 2020,
các tỉnh Việt Bắc đã tham gia ký kết hợp tác phát triển du lịch với tỉnh Quảng
Ninh và 8 tỉnh trong vùng Đông Bắc với TP Hồ Chí Minh). Cùng với đó, phát
huy hơn nữa các giá trị di sản trong phát triển du lịch để tạo sản phẩm du lịch
đặc trưng riêng.


13


2.2.2. Văn hóa tin thần
2.2.2.1. Tín ngưỡng - Tơn giáo
Đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Việt Bắc có những nét cơ bản
giống với các khu vực khác. Về tín ngưỡng tơn giáo, tín ngưỡng dân gian của
cư dân Tày – Nùng hướng niềm tin của con người tới thần bản mệnh, trời –
đất, tổ tiên. Các thần linh của họ rất đa dạng, có khác là nhiều thần như thần
núi, thần sơng, thần đất. Ngồi ra lại có các vua, có Giàng Then, ý thức cộng
đồng được củng cố thông qua việc thờ thần bản mệnh của mường hay của
bản. ý thức về gia đình, dịng họ được, củng cố thông qua việc thờ phụng tổ
tiên. Mỗi gia đình có một bàn thờ tổ tiên đặt ở vị trí trạng trọng nhất trong
nhà. Ngồi ra, trong nhà họ cịn thờ vua bếp. Diện mạo tơn giáo Việt bắc cũng
có những nét khác biệt. Các tơn giáo như Khổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo
đều có ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của người dân ở Việt Bắc, chùa thờ
Phật ít hơn dưới đồng bằng, nhưng cũng có những chùa đáng lưu ý, như chùa
Hang, chùa úc Kỳ ở Bắc Thái, chùa Diên Khánh, chùa Vinh Quang, chùa Nhị
Thanh, chùa Tam Thanh ở Lạng Sơn. Tam giáo được cư dân Tày tiếp thu gần
giống với người Việt, nhưng ở mức độ thấp, trong sự kết hợp với các tín
ngưỡng vật linh vốn có từ lâu đời trong dân gian.
2.2.2.2. Chữ viết và văn học dân gian
Về chữ viết, vùng Việt Bắc với người Tày – Nùng, chữ viết trải qua các
giai đoạn : giai đoạn cổ đại không có chữ viết, giai đoạn cận đại có chữ Nơm,
giai đoạn hiện đại, vừa có chữ Nơm, vừa có chữ Latinh. Năm 1960, Đảng và
Nhà nước ta đã giúp người Tày – Nùng xây dựng hệ thống chữ viết theo lối
chữ Quốc ngữ, bằng chữ cái Latinh. Cũng chính vì vậy, nét đáng chú ý là cư
dân Tày – Nùng ở Việt Bắc đã có những nhà văn viết văn bằng chữ viết dân


14


tộc. Đáng kể là các tác giả như Hoàng Đức Hậu, Nơng Quốc Chấn, Bàn Tài
Đồn v.v…
Trong khi đó, văn học dân gian Việt Bắc khá đa dạng về thể loại, phong
phú về số lượng tác phẩm, như thành ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích, nói ví, câu
đố và đồng dao, dân ca. Riêng dân ca, loại phong phú là loại khá riêng biệt
được viết trên nền giấy vải khá công phu. Đặc biệt, lời ca giao duyên : lượn
coi và lượn lương, là những thể loại tiêu biểu được các thế hệ trẻ Tày – Nùng
ưa chuộng.
2.2.2.3. Lễ hội
Đồng bào Nùng có một kho tàng văn hóa dân gian phong phú và có
nhiều làn điệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc. Tiếng Sli giao duyên của thanh
niên Nùng Lạng Sơn hòa quyện vào âm thanh tự nhiên của núi rừng gây ấn
tượng sâu sắc cho những ai đã một lần lên xứ Lạng. Then là làn điệu dân ca
tổng hợp có lời, có nhạc, có kiểu trang trí, có hình thức biểu diễn đã làm rạo
rực tâm hồn bao chàng trai Nùng khi ở xa quê hương.
Lễ hội nổi tiếng thu hút được nhiều người, nhiều lứa tuổi khác nhau là
hội "Lùng tùng" (cịn có nghĩa là hội xuống đồng) được tổ chức vào tháng
giêng hàng năm.
Hát soong hao – Nét văn hoá đẹp của dân tộc Nùng
Tiếng Nùng, soong hao có nghĩa là hai ta, đơi ta. Hát soong hao là hình
thức sinh hoạt dân ca trữ tình đối đáp nam nữ của các thế hệ thanh niên dân
tộc Nùng ở huyện Lục Ngạn và một phần ở các huyện Sơn Động, Yên Thế,
Lục Nam.


15

Hát soong hao được tiến hành chủ yếu vào mùa xuân, từ những phiên
chợ đầu năm đến những phiên chợ cuối cùng của tháng ba âm lịch. Hát soong
hao ở Lục Ngạn đông vui nhất vào những ngày mùng tám tháng giêng, mời

tám tháng hai âm lịch, trùng vào ngày hội Từ Hả và hội chợ Chũ. Ngày rằm
tháng tám âm lịch đi chợ Biển Động, trai gái dân tộc Nùng rủ nhau đi từng
đoàn. Họ vào chợ chỉ mua bán qua loa rồi kéo nhau vào các nhà hàng ăn uống
và hát với nhau. Nam ngồi một dãy, nữ ngồi một dãy, đối diện nhau mà hát.
Trời ngả về chiều họ mới đứng dậy ra về, cuộc hát kéo dài theo con đường về
bản xa và nhiều đôi đã thành vợ thành chồng sau đó.
Hát then
Hát then là một thể loại ca nhạc tín ngưỡng của người Tày, Nùng. Có
thể xem hát then là một cuộc diễn xướng trường ca mang màu sắc tín ngưỡng
tường thuật lại cuộc hành trình lên thiên giới để cầu xin ngọc hồng giải quyết
một

vấn

đề



đó

cho

gia

chủ.

Các bản trường ca thường gồm nhiều chương đoạn với độ dài ngắn và nội
dung chi tiết ít nhiều khác biệt. Bản dài nhất đã sưu tầm được dài tới 4949 câu
với 35 chương đoạn.
Hát then là một hình thức diễn xướng tổng hợp bao gồm cả ca nhạc,

múa, diễn với nhiều tình huống khác nhau. Trong cuộc lễ, ngồi nhiệm vụ
thực hiện các nghi thức cúng, then hoặc giàng đồng thời phải đảm nhiệm chức
năng của một diễn viên tổng hợp. Họ vừa hát, tự đệm, vừa múa và diễn để thể
hiện nội dung các câu hát, đôi khi còn biểu diễn cả những trò nhai chén, dựng
trứng, dựng gươm...


16

Âm nhạc luôn luôn là yếu tố xuyên suốt cuộc hát then. Hát then có
nhiều bài bản, làn điệu. Nhạc cụ đệm đơn giản song ở đây có thể gặp những
đoạn hát hai ba bè lý thú.
Người Tày, Nùng bất kể tuổi tác, giới tính, những người mê tín cũng
như khơng mê tín rất thích nghe hát then. Một vài tộc khác như Mông, Việt ở
trong vùng cũng tiếp nhận thể loại hát này trong đời sống tinh thần của mình.
Hát Sli (vả Sli) là một làn điệu đặc trưng của dân tộc Nùng. Có thể kể
đến một số kiểu loại chính như: Người Nùng Cháo có Sli Slình làng, nguời
Nùng Giang có Sli Giang, người Nùng Phàn slình có Sli bốc, sli Phàn slình…
Thực chất Sli (vả Sli) là một hình thức hát thơ (kiểu như Phong Slư của dân
tộc Tày nhưng cơ bản khác nhau về mặt tính chất). Sli của đồng bào Nùng
được coi là một thể loại trữ tình dùng trong các ngày hội, ngày chợ, ngày
cưới, ngày vào nhà mới…
Trước đây, đã là người Nùng, hầu hết ai cũng biết hát Sli, yêu thích Sli
bởi ngồi việc ví, đối … lời hát Sli cịn được coi như tiếng hát giao duyên.
Hát Sli thể hiện sự ứng đối tài hoa của mỗi người với những lời Sli ví von,
bóng bẩy, tinh nghịch, xa xơi, ẩn chứa rất nhiều hàm ý… Đối với Sli giao
duyên, thường do một đôi trai gái hoặc một vài đôi trai gái thể hiện theo lối
đối đáp. Bao giờ cũng có người đứng ra Sli trước (kiểu mời gọi lĩnh xướng).
Người hát trước thường là người có giọng vang, trong và phải có khả năng
ứng đối khéo léo, tài tình và nhanh nhậy. Khi bên này vừa ngừng tiếng Sli

(hỏi) thì bên kia cũng phải có người nhanh chóng cất lời Sli để đáp lại. Lời Sli
đôi khi không chỉ bao hàm nội dung mượt mà, tế nhị của chuyện tình cảm ấm
nồng, đằm thắm của bao đơi trai gái mà cịn có cả mn mặt của đời sống như
các hiện tượng tự nhiên, các mốc thời gian cùng sự kiện nhân vật và lịch sử…
đơi khi có cả những lời chào mời sang trọng, những lời thách đố kiêu ngạo,


17

đáng

u…

Về hình thức thể loại, nhìn chung Sli có những bài thơ có độ dài ngắn khác
nhau. Có bài Sli chỉ khoảng 4 đến 8 câu, lại có những bài Sli dài đến hàng
trăm câu, câu thơ thường chỉ có từ 5 đến 7 chữ. Vần của bài thơ được xác
định bởi vần của chữ cuối cùng câu đầu tiên của bài thơ. Các chữ cuối cùng
của các câu chẵn tiếp theo được gieo gối vần trên cơ sở hiệp vần với chữ cuối
cùng câu đầu tiên.
Thông thường vần trong bài Sli đều là thanh bằng. Chẳng hạn bài Hội
chợ- Sli Phàn Slình ở hội chợ Xuân Dương(Na Rì): Vằn này bươn sham háng
nhì hả Dỉ noọng quẩy sẩy mại cần mà Shíp nhì bươn pi vằn toọc Đếch kế Sli
cốc tèo mà lầy… (Hôm nay ngày hội 25 tháng 3 Anh em ở gần xa về dự Cả
năm chỉ có một ngày như thế Trẻ già, trai gái tới cùng vui…) Có thể nói, Sli
là một làn điệu mang đậm dấu ấn bản sắc của đồng bào dân tộc Nùng. Đến
nay, người biết hát Sli không nhiều, nhất là Sli theo đúng nguyên bản ngày
xưa. Đây chính là nét văn hóa đặc sắc rất cần được bảo tồn và phát huy.
Lễ hội lồng tòng ( Người tày)
Lễ hội Lồng tồng thường được diễn ra ở sân đình hoặc tại khu đất
ruộng bằng phẳng giữa cánh đồng hay gò đất nơi thuận tiện cho hành lễ và

vui hội. Địa phương nào khơng có đình thì chọn khu đất ruộng rộng nhất của
cánh đồng để tổ chức. Nói đến Lễ hội Lồng tồng trước hết phải kể đến tục thờ
thần thánh như: Thờ Thổ thần (đây là vị thần bảo vệ, che chở cho cộng đồng
dân bản); thờ Thành hoàng của người Tày, Nùng ở đình (đây là vị thần quản
lý địa phận lãnh thổ của bản, làng hay xã trên một khu vực rộng lớn; nơi ngụ
cư của nhiều dòng họ trong khơng gian đất đai, núi sơng). Theo tín ngưỡng
của người Tày, Nùng, bản làng là nơi “sống gửi hồn, chết gửi xương”, có tác
động mạnh mẽ đến sự an cư của con người và súc vật; bởi vậy, dân làng phải
thờ Thành hoàng. Mặt khác, thờ Thành hoàng còn xuấn phát từ quan niệm của


18

họ, muốn lạc nghiệp phải cầu trời phù hộ cho mưa thuận, gió hịa, dân bản
khỏe mạnh, thóc lúa đầy bồ, đầy kho, gia súc phát triển. Ngoài ra thờ Thần
Thành hồng cịn để tưởng nhớ người có cơng khai sơn, phá thạch, lập làng
bản.
Trước khi diễn ra Lễ hội Lồng tồng, đồng bào dân bản làm công tác
chuẩn bị rất chu đáo, như: Họp ban điều hành lễ hội gồm các cụ cao tuổi, có
uy tín; sửa chữa, lau chùi, dọn vệ sinh sạch sẽ, trang trí đẹp đẽ trong đình,
dựng nhà thờ Thần nơng (gọi là kệ tồng) gồm 3 cấp tượng trưng cho Thượng
nguyên, Trung nguyên, Hạ nguyên. Hướng đặt kệ tồng các thầy cúng chọn
hướng tốt được dựng làm bằng tre, làm các đạo cụ cho trị chơi “sĩ, nơng,
cơng, thương”. Trồng cây nêu, làm quả còn, làm yến, làm bàn cờ, quân cờ,
dây kéo co, chuẩn bị nỏ, mũi tên, hình nộm, cà kheo, đánh đu, đánh khăng, bi
đá, bao, đáo.v.v.
Về lễ vật cúng tế, tộc người Tày, Nùng chuẩn bị rất chu đáo cẩn thận,
tất cả những người tham gia cũng như vật dùng đều phải sạch sẽ; các món ăn
phải ngon, tinh túy, cầu kỳ, đẹp mắt như: Bánh khảo (sla cao) làm từ gạo nếp,
lạc, vừng, đường được rang lên và xay thành bột; bánh bỏng (pẻng khô) cũng

từ gạo nếp với nhựa cây khoai ngứa được đồ lên thành xôi rồi đưa vào cối giã
bằng tay; ngồi ra cịn có 2 loại bánh bỏng (thóc théc, khẩu sli) cũng được
làm từ gạo nếp nhưng cách chế biến khác nhau; bánh chè lam (pẻng khinh);
bánh chưng Tày (pẻng tổm, khẩu tổm); gà cúng phải là gà sống thiến béo có
chân, đầu, mào đỏ đẹp; lợn đen tế phải từ 50kg trở lên; ngồi ra cịn có thêm
các loại sản phẩm nơng nghiệp do dân bản trồng trọt, chăm sóc và các dụng
cụ lao động sản xuất.v.v.
Các nghi thức của lễ hội gồm có:
* Xin Thần Thành hồng cho mở lễ hội: Sau khi đặt các đồ cúng gồm
thịt lợn, gà, rượu, nước, sla cao, thóc théc, khẩu sli, tiền vàng.... lên bàn thờ,


19

chủ lễ làm lễ xin Thần linh phù hộ cho dân làng làm ăn mùa vàng bội thu, cây
cối xanh tươi phát triển, nhà nhà ấm no, dồi dào sức khỏe và xin thần cho dân
bản được phép tổ chức Lễ hội Lồng tồng; chủ lễ xin âm dương (đây là nghi lễ
rất quan trọng thể hiện sự kính trọng ngưỡng mộ Thần linh).
* Chủ lễ làm lễ cúng tại nhà: Sau khi đặt các đồ cúng lên bàn thờ, ông
chủ lễ báo cáo với tổ tiên, ông, bà, cụ kỵ, thưa Ngọc Hoàng thượng đế xin cho
phép con cháu mở Lễ hội Lồng tồng và phù hộ độ trì cho họ mạnh khỏe, mùa
màng tươi tốt, lúa nhiều hạt, vật ni chóng lớn, dân làng an khang, thịnh
vượng.
* Sau khi chủ lễ làm lễ xin Thành hồng, Thần nơng cho dân làng được
mở lễ hội xong, dân làng mới được đưa các mâm tồng cúng dâng lên Thành
hoàng và Thần nông. Chủ lễ báo cáo với Thần linh kết quả một năm, dân làng
làm ăn vất vả khó nhọc, có một vụ mùa tốt đẹp, mọi người trong bản luôn vui,
khỏe; cảm ơn Trời, Đất, các Thần linh đã phù hộ,độ trìcho dân làng ăn nên
làm ra... cây cối ln xanh tốt; báo cáo tồn bộ con cháu trong dân bản Tế tửu
tại đây cho vui Lễ hộiLồng tồng.

* Các trò diễn trong Lễ hội Lồng tồng gồm:
- Múa Sư tử, có múa chào Thần thánh, múa vui hội, múa báo đơng, múa
trị vui của khỉ...
- Múa võ (c quyền), có múa chào Thần thánh, múa gậy, múa cơn,
đoản đao, đinh ba chạc (Slamsla), múa đàn, múa quạt…
- Ném còn, kéo co, đấu gậy, cờ tướng, chọi chim, bắn nỏ, cau quay,
đánh yến, đánh đáo, đánh bi, đánh khăng, đi cà kheo...
- Trong các trò vui chơi của người Tày, Nùng, trò hát then, Sli, lượn thu
hút nhiều khách thập phương hơn cả. Các trò này được kéo dài từ lúc bắt đầu
cho đến lúc kết thúc lễ hội, được đưa vào nhà và khắp thôn bản đều hát; nội


20

dung hát chủ yếu là hát giao duyên, hát chúc tụng, hát mừng xuân mới, đặc
biệt các đôi trai gái thanh niên tìm hiểu nhau sau này trở thành vợ chồng..
* Lễ hội Lồng tồng của người Tày, Nùng là một nghi thức đặc trưng
của văn hóa vùng, mang tính chất tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng cầu mưa,
tín ngưỡng thờ mặt trời. Chứa đựng nhiều hoạt động tín ngưỡng dân gian, và
cũng chính là Lễ hội cầu mưa của người làm nghề nông là nghề truyền thống
của dân tộc Tày, Nùng với các nội dung chào mừng mùa xuân mới, mừng vụ
mùa trước cho mùa vụ sau bội thu, cho mọi người, mọi nhà khỏe mạnh ấm no,
hạnh phúc, bản làng yên vui.


21

KẾT LUẬN
Nền văn hóa Việt Bắc là một trong những điểm sáng của nền văn hóa nước
nhà. Chính nét đẹp trong đời sống sinh hoạt văn hóa cộng đồng của đồng bào

người dân Việt Bắc đã hình thành nên một nét một bản sắc văn hóa khác biệt
mà khơng thể nào lẫn đi đâu được. Dù ngày nay nền văn hóa đẹp đẽ ấy đã dần
bị lu mờ đi nhưng vẫn cịn những nét văn hóa vẫn sáng chói. Đi theo đấy suốt
chiều dài lịch sử cùng với sự tiếp thu và phát triển của nhân loại đã làm cho
nền văn hóa Việt Bắc ngày càng trở nên sáng chói hơn cũng như là một điểm
sáng của một nét đẹp văn hóa từ ngàn đời được lưu giữ.


22

DANH MỤC THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Lan Hương, Điều kiện tự nhiên khu vực Việt Bắc,
123doc, />2. Tổng

quan

vùng

Việt

Bắc,

Du

28/8/2019
3. Quyền
tự
do
tín
ngưỡng,


lịch

lạng
tơn

sơn,
giáo,

/>%20gap%2011%20-%20Tin%20nguong%20-%20Tieng%20Viet.pdf
4. Tiến sĩ Đặng Chí Thơng, Văn hóa nghệ thuật, đại học văn hóa
nghệ thuật quân đội, 04/02/2015
5. Trần Dung, Thêm động lực phát triển kinh tế vùng Việt Bắc,
Quân đội nhân dân, 20/04/2021, 17:53



×