Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

TIỂU LUẬN môn LỊCH sử ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM đề tài vai trò của nguyễn ái quốc trong quá trình vận động thành lập đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.04 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LỊCH SỬ

---o0o---

TIỂU LUẬN MƠN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM

ĐỀ TÀI: Vai trị của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Họ và tên:
Mã sinh viên:
Mã lớp:
Trường:

TS. Lương Thị Phương Thảo
Lê Đức Tĩnh
19020457
HIS1001 3
Đại học Công Nghệ

Hà Nội 2021


MỞ ĐẦU
I.

Lý do chọn đề tài
Nhìn lại quá trình lịch sử của Cách mạng Việt Nam chúng ta thấy Đảng Cộng


sản Việt Nam đã thể hiện vai trò lãnh đạo, tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân
tộc khi thắng lợi cũng như lúc khó khăn, khi thành cơng cũng như lóc sai lầm,
khuyết điểm. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một điều tất yếu khách quan của
cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong thời đại
mới; là kết quả của một quá trình lựa chọn con đường cứu nước, tích cực chuẩn bị
về tư tưởng , chính trị và tổ chức của một tập thể cách mạng, là mét sù sàng lọc và
lựa chọn nghiêm khắc của lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi mất nước vào tay đế
quốc thực dân Pháp. Đảng ra đời là một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách
mạng dân tộc Việt Nam.
Trước khi Đảng ra đời đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra nhưng chúng đều
bị thất bại trước sự đàn áp dã man của bọn thực dân Pháp. Chỉ đến năm 1924
Nguyễn Ái Quốc trở về thống nhất ba Đảng lúc bấy giờ thành một Đảng duy nhất
là Đảng Cộng sản Việt Nam thì cuộc khủng hoảng về đường lối cách mạng mới
được giải quyết. Sự ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh – người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam. Người là
người Việt Nam đầu tiên nắm bắt Chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào
đặc điểm lịch sử cách mạng dân tộc Việt Nam. Vai trò quan trọng của Người được
thể hiện rõ nét trong quá trình thành lập Đảng cũng như trong q trình đấu tranh
giải phóng dân tộc thống nhất đất nước.

II.

Tổng quan đề tài
Đề tài làm rõ hơn về vai trị của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng cộng
sản Việt Nam đặc biệt trong quá trình chuẩn bị về mặt tổ chức, được coi như là
bước ngoặt lịch sử cách mạng Việt Nam.

2


III.


Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận làm rõ vai trị của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành

lập Đảng Cộng sản Việt Nam, nêu khai quát bối cảnh lịch sử về các cuộc phong
trào của ta, chỉ ra sự đúng đắn của con đường mà Nguyễn Ái Quốc đã chọn.

IV. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam
4.2. Phạm vi đề tài
- Về nội dung: Nêu bối cảnh lịch sử trước khi thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị về tổ chức.
- Về thời gian: Lịch sử cách mạng Việt Nam

V.

Phương pháp nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu môn Đường lối cách mạng của Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam dựa
trên thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan điểm có
ý nghĩa phương pháp luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng.
Ngoài ra các phương pháp lịch sử và phương pháp lơgíc cũng như các phương
pháp khác như phân tích, tổng hợp, so sánh cũng được sử dụng.

VI. Đóng góp của đề tài
Bài tiểu luận này có thể trở thành một tài liệu hữu ích, đóng góp được cho
nguồn thơng tin tìm kiếm của các bạn sinh viên khác khi thực hiện nghiên cứu về
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.


VII. Kết cấu của đề tài
Nội dung tiểu luận gồm có các phần sau:
-

Mở đầu
Nội dung:

Phần I: Khái quát về xã hội Việt Nam và phong trào đấu tranh của nhân dân
ta trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
3


Phần II: Quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
-

Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Mục lục

NỘI DUNG
Chương 1: Khái quát về xã hội Việt Nam và phong trào đấu tranh của
nhân dân ta trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
I.

Khái quát về xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Vào đầu thế kỷ XIX, tình hình thế giới có nhiều biến động, bức tranh phân chia
thế giới của chủ nghĩa đế quốc ngày càng được phác hoạ cơ bản và rõ nét. Sự áp
bức và xu hướng thơn tính dân tộc của Chủ nghĩa đế quốc đã tăng lên rõ rệt. Sự
xuất khẩu tư bản vào các nước thuộc địa đã làm cho các dân tộc thuộc địa bị lôi
cuốn vào con đường tự bản thực dân Chủ nghĩa. Cũng từ đó sự thức tỉnh về ý thức

dân tộc và phong trào đấu tranh để giải phóng khỏi ách áp bức của thực dân tăng
lên một cách mạnh mẽ. Việt Nam đã chịu sự tác động của bối cảnh lịch sử đó.
 Năm 1858, nước Việt Nam đã bị thực dân Pháp xâm lược, mở đầu bằng cuộc

tiến công vào cảng Đà Nẵng. Chúng từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo,
phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Sau khi hồn thành việc xâm
lược và bình định vũ trang, thực dân Pháp tiến hành những cuộc khai thác thuộc
địa nhằm cướp đoạt tài nguyên thiên nhiên, bóc lột nhân cơng rẻ mạt, cho vay nặng
lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hành hố của chính quốc. Chính sách “khai hố văn
minh”, “khai hố và cải tạo theo kiều phương Tây” của bọn thực dân Pháp được
Hồ Chí Minh vạch rõ: “Khi người ta là một nhà khai hố thì người ta có thể làm
những việc dã man mà vẫn cứ là văn minh nhất” và nếu dân bản xứ không nhịn
nhục chịu đựng mà đứng dậy đấu tranh thì các nhà khai hố sẽ đưa qn đội, súng
liên thanh và tàu chiến đến. Trên tất cả mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến văn
hố tư tưởng chúng đều tìm mọi cách kìm hãm sự phát triển của dân tộc ta.
4


1. Tình hình chính trị
Thực dân Pháp ra sức thi hành chính sách “chia để trị”; chúng trực tiếp nắm
giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, bên cạnh đó là một hệ thống
chính quyền tay sai bù nhìn người Việt: chúng lập ra những đội quân thuộc địa
người ngoại quốc và những đội lính cơ giới người Việt, những toà án Tây và
toà án Nam, nhiều nhà tù để đàn áp các cuộc nổi dậy. Chúng thi hành chính
sách cai trị chuyên chế, thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã man,
tàn bạo, chia rẽ dân tộc tôn giáo.... làm cho nhân dân mất hết quyền độc lập,
quyền tự do dân chủ, mọi phong trào đấu tranh của nhân dân đều bị chúng đàn
áp dã man.

2. Tình hình kinh tế

Trong thời kỳ này thực dân Pháp đã không từ một thủ đoạn nào để bóc lột
nhân dân ta, thu lợi nhuận tối đa, thẳng tay cướp đoạt và bần cùng hố nơng
dân, chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên, nắm các mạch máu kinh tế ở Việt Nam,
nắm độc quyền trong công nghiệp khai thống và cơng nghiệp chế rượu, kìm
hãm cơng nghiệp nặng, hạn chế công nghiệp nhẹ, độc chiếm thị trường Việt
Nam, tăng cường cho vay nặng lãi; đồng hoá lãnh thổ kinh tế Việt Nam vào
trong toàn bộ lãnh thổ của đế quốc Pháp và biến Việt Nam thành khâu khăng
khít trong sợi dây chuyền của kinh tế thế giới Tư bản chủ nghĩa.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, q trình tập trung hố ruộng đất
diễn ra với quy mô lớn và tốc độ nhanh hơn trước. Chúng đã trắng trợn cướp
đoạt ruộng đất của nông dân để lập ra các đồn điền trồng cao su, cà phê, ...và
bắt dân ta lao động khơng cơng cho chóng hoặc thuê với giá rất rẻ mạt. Không
những thế, thực dân Pháp còn tạo điều kiện để bọn địa chủ tăng cường chiếm
đoạt ruộng đất của nơng dân. Ngồi ra bọn chúng còn đặt ra nhiều thứ thuế vụ
lý bắt nhân dân phải đóng. Bọn thực dân và địa chủ đã kìm hãm nơng nghiệp
Việt Nam trong vịng lạc hậu để làm lợi cho chúng thực dân Pháp chưa bao giờ
đặt vấn đề kĩ nghệ hố nơng nghiệp ở Việt Nam nên công cụ lao động sản xuất
rất thô sơ. Thiên tại xảy ra liên miên, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó
5


khăn. Chúng cịn duy trì lối bóc lét phong kiến, kết hợp với lối cướp bóc của đế
quốc (đây là đặc điểm của phương pháp bóc lột thuộc địa), làm nơng dân phá
sản, kìm hãm sản xuất.
Vì muốn biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp đồ thừa
của Pháp, nên chúng đã ra sức kìm hãm sự phát triển của cơng nghiệp nước ta.
Do sự kìm hãm đó nên cơng nghiệp Việt Nam rất nhỏ bé, q quặt. Điều đó thể
hiện rõ rệt ở chỗ trong hoạt động công nghiệp, thực dân Pháp chỉ chú trọng vào
việc khai thác mỏ mà không hề quan tâm đến những ngành nghề khác. Không
chỉ trên lĩnh vực công nghiệp mà trên tất cả mọi phương diện kinh tế, thực dân

Pháp đều tìm mọi cách đưa nước ta vào trong quỹ đạo phát triển của Chủ nghĩa
tư bản theo kiểu thực dân và biến chuyển theo quá trình.

3. Tình hình văn hóa - xã hội
Từ khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, chúng thực hiện chính sách
ngu dân, khuyến khích văn hố nơ dịch, vong bản, tự ti, sùng Pháp, kìm hãm
nhân dân ta trong vịng tối tăm, dốt nát, lạc hậu, phục tùng và cai trị của chúng.
Với chính sách khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam
có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư
sản. Từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến, xã
hội Việt Nam xuất hiện hai mâu thuẫn: mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lịng xã
hội Việt Nam phong kiến cũ là mâu thuẫn giữa nhân dân ta, trước hết là nông
dân, với giai cấp địa chủ phong kiến không mất đi, mà vẫn tiếp tục tồn tại, tuy
khơng cịn hồn toàn giống như trước. Bên cạch mẫu thuẫn này, xuất hiện mâu
thuẫn với bao trùm lên tất cả, đó là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc thực
dân Pháp. Mâu thuẫn này ngày càng mở rộng và gay gắt hơn. Hai mâu thuẫn đó
quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc
Pháp xâm lược vừa là mâu thuẫn cơ bản đồng thời là mâu thuẫn chủ yếu của xã
hội Việt Nam – mét xã hội thuộc địa của Pháp. Vì vậy, nhiệm vụ chống đế quốc
Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống bọn phong kiến tay sai không tách rời nhau.
6


Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn liền với đấu tranh địi quyền dân sinh,
dân chủ. Đó là yêu cầu của Cách mạng Việt Nam đặt ra cần được giải quyết.

II.

Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài gian khổ ác liệt, dân

tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh
dũng kiên cường bất khuất. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã
liên tiếp đứng lên chống lại chúng. ở khắp nơi trong nước, nhân dân ta đã tham gia
đấu tranh dưới ngọn cờ của các sĩ phu yêu nước đương thời theo nhiều khuynh
hướng khác nhau. Từ những phong trào tự phát đến những phong trào có tổ chức,
lãnh đạo, các phong trào diễn ra ngày càng một hoàn thiện hơn. Tuy rằng các
phong trào đều bị đàn áp dã man nên đã bị thất bại nhưng tất cả những cuộc khởi
nghĩa đó đã để lại tiếng vang lớn, gây cho địch nỗi hoang mang lo sợ.

1. Phong trào Cần Vương
Sau khi thực dân Pháp căn bản hoàn thành cuộc xâm lược Việt Nam với hoà
ước 1884, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống xâm lược đã chuyền
qua một giai đoạn mới. Mở đầu là cuộc tấn công trại lính Pháp mằn cạnh kinh
thành Huế, dưới sự chỉ huy của Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa nhà vua yêu
nước trẻ tuổi Hàm Nghi. Bị thất bại, Tôn Thất Thuyết đã phò vua Hàm Nghi
lánh vào vùng rừng núi, thảo chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu văn thân
cùng tồn dân tiếp tục chiến đấu. Từ đó phong trào Cần Vương đã phát triển
trong nhiều địa phương ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, cho đến những năm cuối của
thế kỷ XIX.
Trong phong trào Cần Vương, các thủ lĩnh sĩ phu văn thân, liên kết với các
thổ hào địa phương, đã tập hợp đông đảo quần chúng nông dân trong vùng,
dùng vũ khí thơ sơ nổi dậy chống lại cuộc bình định của thực dân Pháp. Các sĩ
phu muốn khơi phục một vương triều phong kiến có chủ quyền, các thổ hào
7


muốn dành lại những thế lực bị tước đoạt, nông dân chống lại sự bóc lột thuế
má và cướp đoạt động đất, tất cả gắn bó lại trên danh nghĩa của một phong trào
yêu nước chống xâm lược mang tính chất truyền thống. Nhưng cuối cùng
phong trào Cần Vương đã thất bại vì rời rạc, lẻ tẻ, thiếu sự chỉ huy thống nhất.


2. Phong trào dân tộc – dân chủ của tầng lớp sĩ phu yêu nước
2.1.
Sự chuyển biến của xã hội Việt Nam và những ảnh hưởng tác
động bên ngoài
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển
biến, trước những chính sách cai trị của thực dân Pháp, cơ cấu xã hội truyền
thống Việt Nam biến đổi. Giai cấp công nhân Việt Nam (chủ yếu là trong
các cơng trường và hầm mỏ) hình thành ở đô thị xuất hiện một tầng lớp
công thương và tiểu tư sản thành thị. Tầng lớp sĩ phu nho học bên cạch đọc
các kinh sách nho giáo, các nho sĩ này cũng đã đọc những cuốn sách mới
của các tác giả châu Âu và Trung Quốc. Vì vậy phong trào cải cách chính trị
- văn hố ở Trung Quốc, cùng với những tư tưởng cách mạng Pháp được
dịch qua chữ Hán đã tác động vào Việt Nam. Giới sĩ phu lúc này thấy được
thế suy tàn của các chế độ phong kiến Châu Á và sự cần thiết phải cải cách
xã hội.

2.2.

Trào lưu dân tộc chủ nghĩa
Những nhận thức chính trị đó đã làm nảy sinh một khuynh hướng

chính trị mới trào lưu dân tộc chủ nghĩa. Trào lưu chính trị này kế tục phong
trào Cần Vương yêu nước chống Pháp nhưng đồng thời đã mang nhiều nét
mới khác trước. Tầng lớp khởi xướng trào lưu này là những sĩ phu yêu nước
tiến bộ. Lòng yêu nước của họ khơng cịn bám giữ vào những tư tưởng
“trung qn” mà đã chuyển sang ý thức về một chủ nghĩa quốc gia – dân
tộc, vì lợi ích chung của nhiều triệu đồng bào trong cả nước. Những sĩ phu
yêu nước tiến bộ ở Việt Nam lúc bấy giờ cho rằng, muốn đánh đuổi thực
8



dân Pháp, khơng thể chỉ hạn chế trong những hình thức khởi nghĩa vũ trang
như trước đây, mà còn phải kết hợp cả với nhiều biện pháp mới về chính trị,
ngoại giao, tiến hành một phong trào cải cách xã hội sâu rộng trong đông
đảo quần chúng nhân dân. Hai gương mặt nổi bật cho trào lưu dân tộc dân
chủ là các nhà chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
Phan Bội Châu là một sĩ phu sớm có lòng yêu nước, chủ trương vận
động quần chúng trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài, tổ chức
bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, xây dựng nền
chế độ chính trị dựa vào dân. Ông đã lập hội Duy Tân, vượt biển sang Nhật
mưu cầu ngoại viên, tổ chức phong trào Đông Du đưa các thanh thiếu niên
Việt Nam sang học ở Nhật để chuẩn bị lực lượng chống Pháp và dùng văn
thơ yêu nước để thức tỉnh quốc dân . Cuộc vận động Đông Du chỉ diễn ra
được mấy năm và đã bị thực dân Pháp bóp chết . Những du học sinh Việt
Nam bị trục xuất ra khỏi Nhật và cả Phan Bội Châu cũng phải rời khỏi đất
nước này. Sau cách mạng Tân Họi, ông lưu lạc ở Trung Quốc, lại lập ra tổ
chức Việt Nam Quang Phục hội, chuẩn bị đưa quân về nước khởi nghĩa,
nhưng cũng không tránh khỏi bị thất bại. Phan Bội Châu là một người anh
hùng đầy nhiệt huyết nhưng không gặp thời thế.
Phan Châu Trinh gần giống với Phan Bội Châu, là một sĩ phu ở
Quảng Nam đã giương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội. Ơng đã từng
bơn ba ở nhiều nước, sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ, chủ trương cứu
nước bằng phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền. Ông vạch trần chế độ
vua quan phong kiến thối nát, địi Pháp phải sửa đổi chính sách cai trị ở
thuộc địa. Chịu nhiều ảnh hưởng tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh,
nhiều phong trào cải cách xã hội lúc đó đã nổi lên như việc thành lập nhà
trường kiểu mới Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội, phong trào Duy Tân. Tư
tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh thể hiện nét tinh thần dân tộc yêu nước
sâu sắc, nhưng chủ trường dùng cải cách để cứu nước của ông có phần

không hợp thời thế.
9


2.3.

Phong trào đấu tranh của quần chúng công, nông, binh
Các phong trào chính trị của giới sĩ phu đã có ảnh hưởng trực tiếp

hoặc gián tiếp đến phong trào đấu tranh của quần chúng công nông binh
trong thời kỳ này. Ở đây những cuộc đấu tranh so với phong trào của giới sĩ
phu thường là thiếu đường lối, tổ chức nhưng lại đông đảo, quyết liệt hơn.
Năm 1908, do ảnh hưởng của những tư tưởng cải cách của Phan Châu Trinh
và phong trào Duy Tân hô hào đời sống mới, một phong trào chống sưu
thuế của nông dân đã lan rộng ra ở nhiều tỉnh. Hàng ngàn nông dân nổi dậy
biểu tình, bao vây huyện lị địi giảm sưu thuế. Đáng chú ý là khởi nghĩa của
nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám, họ đã liên lạc với tổ chức yêu
nước của Phan Bội Châu trong một kế hoạch tấn công vào Hà Nội.
Giai cấp công nhân Việt Nam tuy mới ra đời, số lượng cịn ít những
bước đầu đã tham gia đấu tranh, điển hình có những cuộc bãi công bạo động
của công nhân các công trường đường sắt(Yên Bái), học sinh trường Bách
Nghệ (Sài Gòn) và một số cơng nhân tàu biển. Ngồi ra cịn có những cuộc
bạo động khởi nghĩa chống Pháp của dân tộc ít người.
Ngồi tầng lớp sĩ phu và quần chúng cơng nơng, đầu thế kỷ XX cịn
có một lực lượng xã hộ mới tham gia phong trào đấu tranh chống Pháp. Đó
là các binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Do thực hiện chính sách
dùng người Việt để trị người Việt nên qua những cuộc càn quét những binh
lính Việt đã thấy được tận mắt những tội ác của giặc, lòng căm thù giặc
được khai dậy. Hơn nữa do sù đối xử của thực dân Pháp đối với họ là khinh
miệt, bạc đãi nên đã dẫn tới việc họ nổi dậy bạo động khởi nghĩa.

Những phong trào dân tộc - dân chủ chống Pháp ở Việt Nam đầu thế
kỷ XX do những sĩ phu yêu nước tiến bộ lãnh đạo, được đông đảo các tầng
lớp nhân dân hưởng ứng tham gia, tuy khơng thành cơng nhưng đã có tiếng

10


vang lớn. Đó là những bước đi ban đầu để tìm ra một con đường mới, đúng
đắn trong cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng xã hội.

Chương 2 : Quá trình thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
Từ đầu thế kỷ XX trở đi, song song với sự phát triển của phong trào yêu nước và
dân chủ theo kiểu tư sản, phong trào công nhân chống lại chế độ bọc lột của bọn địa
chủ và thực dân Pháp đã lần lượt diễn ra bằng nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là
những hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp mình như bãi cơng, biểu tình. Tuy
nhiên trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, do nhiều nguyên nhân những phong trào này
cuối cùng đều không thành công. Những nguyên nhân cơ bản đó là những người yêu
nước đương thời chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn phản ánh đúng nhu cầu
phát triển của xã hộ Việt Nam. Cách mạng nước ta đang đứng trước cuộc khủng hoảng
về đường lối.

I.

Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang trong đêm tơi chưa tìm được lối ra,
Nguyễn Ái Quốc với tên gọi Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc từ tháng 6 năm
1911 đi sang phương Tây, nơi mà Người cho là có tư tưởng tự do, dân chủ và khoa
học kỹ thuật phát triển để xem họ làm như thế nào, học tập họ rồi trở về giúp đồng
bào mình cởi bỏ xiềng xích nơ lệ. Trên con đường bơn ba khắp năm châu, bốn bể,
vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách

mạng tư sản điển hình trên thế giới như cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp Đồng
thời Người tìm mọi cách tham dự tất cả các cuộc mít tinh, hội họp do Đảng xã hội
Pháp – một đảng duy nhất trong số các đảng ở Pháp đấu tranh bảo vệ các dân tộc
thuộc địa. Đến cuối năm 1918, mét biến chuyển quan trọng đã diễn ra trong cuộc
đời của Nguyễn Ái Quốc: Người tham gia Đảng xã hội Pháp. Người là người Việt
Nam đầu tiên tham gia mét đảng chính trị của “mẫu quốc”. Trong quá trình tham
gia hoạt động Đảng và nghiên cứu về cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp, Nguyễn
11


Ái Quốc đã tập hợp được nhiều bài học quý về lực lượng cách mạng, về tổ chức,
về tinh thần, ý chí cách mạng và đặc biệt là bài học về con đường cách mạng.
Người vạch rõ: ” Cách mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư
bản, cách mệnh khơng đến nơi, tiếng là cơng hồ và dân chủ, nhưng kỳ thực trong
thì nó tước lực cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa”. "Chúng ta đã hy sinh
làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi nghĩa là làm sao cách mạng rồi thì quyền
giao cho dân chúng số nhiều... Thế mới phải hy sinh nhiều lần, thì dân chúng mới
được hạnh phúc”.
Giữa tháng giêng năm 1919, Pa - ri long trọng tổ chức hội nghị hồ bình. Giới
cầm quyền các cường quốc thắng trận muốn “tổng kết chiến tranh càng nhanh càng
tốt, hay nói cách khác muốn giàu lên bằng cách bóc lột các nước bại trận. Nguyễn
Ái Quốc đã gửi đến hội nghị một bản tài liệu có tên là “Bản yêu sách của nhân dân
An Nam” địi chính phủ Pháp cơng nhận các quyền tự do dân chủ và bình đẳng của
nhân dân Việt Nam. Bản u sách đó khơng được hội nghị quan tâm đến. Từ thực
tế đó người ra một kết luận quan trọng: tự do bình đẳng bác ái...những chữ tốt đẹp
đó chẳng qua chỉ là màn khói để giai cấp tư sản che đậy những tội ác của chúng.
Những bản tuyên ngôn mà bọn đế quốc tung ra bừa bãi trong những năm chiến
tranh để làm bia đỡ đạn cho chóng hố ra chỉ là một trị bịp bợn. Chẳng bao giờ
cầu xin được công lý ở bọn đế quốc. Vậy thì lối thốt ở đâu ? Chỉ ở trong đấu
tranh, đấu tranh một mất, một còn. Để giải phóng nhân dân các dân tộc thuộc địa

phải lật đổ ách thống trị của bọn áp bức. Cách mạng là trận đánh quyết liệt, nhờ nó
mà thành luỹ thực dân tưởng như bất khả xâm phạm cũng có thể bị hạ. “Bản yêu
sách” đã trở thành một tuyên ngơn chính trị báo hiệu sự mở đầu của giai đoạn mới
trong việc phát triển phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trong những ngày đang hoạt động sôi nổi lựa chọn con đường cách mạng của
Nguyễn Ái Quốc thì cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ và thắng
lợi, làm chấn động toàn cầu. Sự thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga có ý
nghĩa lịch sử rất quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc của các nước
thuộc địa trên thế giới. Nhờ có Cách mạng thánh Mười Nga, phong trào giải phóng
12


dân tộc ở các nước phương Đông và phong trào công nhân ở các nước tư bản đế
quốc phương Tây đã có sự gắn bó mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống
kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Nguyễn Ái Quốc đã hướng đến con đường
Cách mạng tháng Mười và chú tâm tìm hiểu tư tưởng đường lối của cuộc cách
mạng đó. Và bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi
Người đọc toàn văn Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lê - nin đăng trên báo “Nhân đạo”. Đây là tác phẩm đầu tiên
của Lê - Tin mà Nguyễn Ái Quốc được làm quen. Người đọc đi đọc lại mét sè cầu,
cố gắng hiểu sâu hơn nữa bản chất những tư tưởng của Lê nin và Người rưng rưng
nước mắt, hân hoan vơ cùng. Người nói to lên như đang đường trước quần chúng
đông đảo: ” Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta,
đây là con đường giải phóng chúng ta”. Bản đề cương đó đã chỉ rõ cho Người
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác là con
đường cách mạng vô sản”. Từ đây, Người dứt khoát đi theo con đường cách mạng
của Lê-nin, con đường cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Đây là bước ngoặt từ
chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc
trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế của Người. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước
ngoặt mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam. Nguyễn

Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra
con đường đúng đắn giải phóng dân tộc.

II.

Con đường “Cách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc
Sau khi trở thành người chiến sĩ Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hoạt
đọng trong phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế, tích cực vận động phong
trào cách mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lenin về Việt
Nam qua các báo “Ngươi cùng khổ”, “Nhân đạo”, “Đời sống công nhân” và sau
này là tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”(1925) của Người. | Tháng 12 năm
1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn
bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người tham gia sáng lập Hội liên
hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, sáng lập và viết bài cho báo Thanh niên. Và
13


đặc biệt là đầu năm 1927, tác phẩm “Đường cách mệnh” được Hội liên hiệp các
dân tộc bị áp bức xuất bản. Tác phẩm này là sự tiếp theo một cách lơ - gíc cuốn
“Bản án chế độ thực dân Pháp”. “Đường cách mệnh” đã vạch ra con đường cụ thể
để giải phóng dân tộc. Tác phẩm chỉ ra rằng: để chiến thắng kẻ thù hùng mạnh,
những nhà cách mệnh Việt Nam phải giải quyết ngay hai nhiệm vụ cơ bản: nắm
vững học thuyết chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập đội tiên phong tức là Đảng
cách mạng.
“Trước hết phải có Đảng cách mệnh đề trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có
vững, cách mạng mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới
chạy. Đảng có vững thì phải có chủ nghĩa làm nịng cốt, trong Đảng ai cũng phải
hiểu, ai cũng phải tuân theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như
người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”. Nguyễn Ái Quốc đã trình bày

một cách sáng tạo những nguyên lý cơ bản của học thuyết Lê- nin áp dụng vào
những điều kiện cụ thể của nước Việt Nam thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc chỉ ra rằng
Việt Nam đang đứng ở ngưỡng cửa cách mạng giải phóng dân tộc. Cuộc cách
mạng này phải là một giai đoạn chuyển tiếp để đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhiệm vụ chủ yếu của Đảng
Cộng sản Việt Nam sau này là lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống bọn thực dân và
Đảng phải kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa yêu nước. Theo Nguyễn Ái
Quốc, lực lượng cơ bản của cách mạng Việt Nam sau này là giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Luận điểm quan trọng này được Nguyễn Ái Quốc trình bày
ngay rõ buổi đầu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và về sau trở thành luận
điểm chủ đạo, luận điểm quyết định trong hoạt động của Nguyễn Ái Quốc và các
đồng chí của Người.
Tác giả “Đường cách mệnh” cũng phát triển hơn nữa tư tưởng của mình và cho
rằng chủ nghĩa yêu nước chân chính khơng thể tách rời chủ nghĩa Quốc tế vơ sản.
Vì vậy, nhiệm vụ quốc tế quan trọng nhất của các nhà cách mạng Việt Nam là
chăm chú nghiên cứu Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Con đường của cách
14


mạng Việt Nam là con đường cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phải liên minh với giai cấp vô sản cách mạng
chính quốc. Thống nhất và gắn cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với phong
trào cách mạng thế giới là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược. “Cách mạng Việt
Nam là bộ phận hợp thành của cách mạng thề giới. Tất cả các nhà cách mạng đều
là bạn của nhân dân Việt Nam”.
Nói tóm lại, hệ thống quan điểm và lý luận về con đường cách mạng của
Nguyễn Ái Quốc là nội dung tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc theo chủ
nghĩa Lê-nin, nó được truyền vào Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX đã
trở thành tư tưởng cách mạng hướng đạo phong trào giải phóng dân tộc và các tổ
chức chính trị theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời các tổ chức

cộng sản ở Việt Nam hình thành nên Đảng Cộng sản Việt Nam.

III.

Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp
công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường đang khát mà có
nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lơi cuốn những người u nước Việt Nam
đi theo con đường cách mạng vô sản, làm dấy lên phong trào đấu tranh mạnh mẽ,
sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp cơng nhân trở thành một lực lượng chính trị
độc lập. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều tầng lớp nhân dân
phát triển mạnh mẽ, ý thức giác ngộ chính trị của cơng nhân ngày càng cao. Những
nhóm cộng sản bí mật đã bắt đầu xuất hiện trong các xí nghiệp cơng nghiệp ở các
thành phố lớn địi hỏi phải có tổ chức Đảng chính trị lãnh đạo.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên
bố thành lập: ở Nam Kỳ là An Nam Cộng sản Đảng, ở Bắc Kỳ là Đông Dương
Cộng sản Đảng, ở Trung Kỳ là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Ngay từ khi
thành lập, giữa các tổ chức đó đã xảy ra xích mích, bởi vì, mỗi tổ chức đều có ý
muốn đóng vai trị Đảng Cộng sản duy nhất ở trong vước. Những cuộc xung đột
nghiêm trọng giữa hai tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ đã xảy ra. Mối quan hệ
15


giữa các tổ chức Đảng khơng bình thường lại khơng có một cương lĩnh hành động
thống nhất làm các Đảng mất hết tính chiến đấu và khơng thể hoạt động có kết quả
trong quần chúng. Vì vậy u cầu bức thiết của Cách mạng là cần có một Đảng
duy nhất lãnh đạo. Nguyễn ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc
Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử:
thống nhất các tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung

Quốc) từ ngày 3 đến 7 tháng 2 năm 1930 đã nhất trí thành lập Đảng duy nhất , lấy
tên là Đảng Cộng sản Vệt Nam. Các đại biểu tán thành chánh cương vắn tắt, sách
lược vắn tắt, chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của
các hội quần chúng, vạch kế hoạch thành lập Ban Chấp hành Trung ương lâm thời.
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là cương
lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là một cương lĩnh cách
mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại mới, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm được tinh thần dân tộc.
Độc lập tự do gắn liền với định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi
của cương lĩnh này. Đảng lấy lý tưởng chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng, làm kim chỉ nam cho mọi hành động.
Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu bước ngoặt lên trong lịch sử
cách mạng Việt Nam và đó là một kết quả tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh
dân tộc và giải phóng giai cấp. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp lý luận Mác Lênin với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động.
Sự ra đời của Đảng “chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành, đủ sức
lãnh đạo cách mạng”. Sự ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh – người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.

16


KẾT LUẬN
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một yếu tố quan trọng quyết định
sự thành công của phong trào Cách mạng giải phóng dân tộc và thống nhất đất
nước. Với đường lối cách mạng đúng đắn, Đảng đã cùng nhân dân xây dựng nên
một lượng cách mạng to lớn và rộng khắp đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn
phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đảng đã lãnh đạo nhân da cả
nước dấy lên cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉng cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh,
cao trào đấu trang chính trị 1936 - 1939. Với khí thế cách mạng, nắm chắc thời cơ
lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổng khởi nghĩa tài tình, Đảng ta đã lãnh

đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn, khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Quá trình thực tế lịch sử đã chứng minh rằng: Lựa chọn con đường cách
mạng vô sản, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản là một sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt của Cách mạng Việt Nam,
mà người tiên phong là Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ thiên tài của
dân tộc Việt Nam, người thầy vĩ đại của Đảng. Hồ Chí Minh là tấm gương sáng
ngời của một chiến sĩ Cộng sản trọn đời vì nước, vì dân, là biểu tượng của khí
phách anh hùng, ý chí độc lập tự cường, kiên trì lý tưởng, sáng tạo và quyết thắng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình “ Lịch Sử Đảng cộng sản Việt Nam”
2.Tài liệu học tập chính trị - nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................................................2
NỘI DUNG......................................................................................................................................4
Chương 1: Khái quát về xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và phong
trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời...................................................................4
17


I.

Khái quát về xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.......................4

II. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời............................................7
Chương 2 : Quá trình thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.........................................................11
I.


Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước....................................................................11

II. Con đường “Cách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc..............................................................13
III. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam..........................................................................15
KẾT LUẬN....................................................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................17

18



×