Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

THBK6NGUYENTHITHUONGTHUONGKTGHP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.85 KB, 6 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC MẦM NON

BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN: PPDH TIẾNG VIỆT 1
Năm học: 2018 - 2019

Giáo viên giảng dạy: Th.S. TRẦN DƯƠNG QUỐC HÒA
Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THỊ THƯƠNG THƯƠNG
LỚP: Đại học Sư phạm Tiểu học - BK6
MSSV: 1161070091
TRƯỜNG: ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
GIÁO VIÊN: Th.S: TRẦN DƯƠNG QUỐC HÒA

Ngày
06VIÊN
tháng
12 năm
SINH
THỰC
HIỆN:2018
VÕ HUỲNH CẨM TÚ
LỚP: ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TIỂU HỌC C – K6
Sau 4 tuần thực tế tại trường
Tiểu1171010160
học Kim Đồng, tôi đã học hỏi được rất kinh nghiệm
MSSV:
ĐỒNG
quý báu ở các thầy cô trongTRƯỜNG:
trường. CácĐẠI


thầyHỌC
cô trong
nhàNAI
trường ln tận tình giúp đỡ.


Tôi được phân vào lớp 4/5. Qua những tiết cô hướng dẫn dạy mẫu, tiết dự giờ của giáo
viên trong khối cũng như khối khác, tôi nhận thấy việc thực hiện 03 nguyên tắc dạy học
Tiếng Việt ở trường Tiểu học hoàn toàn đảm bảo .
Yêu cầu 1: Xem xét - đánh giá việc thực hiện 03 nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở
trường Tiểu học (Nguyên tắc phát triển tư duy; Nguyên tắc giao tiếp; Nguyên tắc chú
ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của HSTH).
* Nguyên tắc phát triển tư duy:
- Bài “Ông Trạng thả diều” (Tập đọc lớp 4)
+ Cho HS nhìn tranh chủ điểm và gợi mở cho HS biết ý nghĩa chủ điểm bằng những câu
hỏi mở.HS sẽ tự rút ra được bài học cho mình thơng qua các câu hỏi nhằm nâng cao khả
năng tư duy.
+ GV cho học sinh tự giải nghĩa của từ mới hoặc nhờ học sinh khác giải nghĩa dùm.
+ Cho HS suy nghĩ và chia đoạn trước sau đó GV mới sửa.
+ Cho HS suy nghĩ và nói lên ý chính của từng đoạn theo cách hiểu.
+Luyện đọc diễn cảm GV sẽ đọc mẫu rồi hỏi HS là “nhấn giọng ở những từ nào,Từ đó
nói về cái gì?”
+ Sau khi học xong bài, GV sẽ đưa ra một câu hỏi mở rộng để giáo dục HS biết nổ lực
cố gắng vươn lên trong học tập.
- Bài “Nghe – viết : Người tìm đường lên các vì sao” (Chính tả lớp 4)
+ GV cho HS tự tìm từ khó và ghi ra bảng con.
+ GV đặt câu hỏi mở giúp HS tự nêu lên được các lưu ý khi viết bài chính tả này.
- Học vần “iên-yên” (Tiếng việt lớp 1)
+ GV cho HS tìm các tiếng, từ hoặc câu có mang vần ở bài trước.
+ GV treo tranh và hỏi câu hỏi giúp HS phát triển tư duy.

Ví dụ như : “Bức tranh của cô vẽ gì ?”; “Trong từ đó có tiếng nào chưa học ?”; “Có vần
iên muốn ghép tiếng điện ta ghép như thế nào?”;...
+ GV yêu cầu HS so sánh vần iên và vần yên khác nhau chỗ nào.
+ GV tổ chức cho HS chơi trò ghép các tiếng để thành từ có nghĩa rồi rút ra các từ ứng
dụng; sau đó, rút ra từ ứng dụng.
+GV để HS tự giải nghĩa các từ ứng dụng.(GV chỉ gợi ý giải nghĩa các từ khó)
+ HS tự nói về cách viết các vần và tiếng vừa học sau đó GV sẽ lại.


+ Ći tiết cho HS nhìn hình nói tiếng, từ hoặc câu có mang vần vừa học sao cho phù
hợp với từng hình.
- Luyện từ và câu “Mở rộng vớn từ: Ý chí - nghị lực”( lớp 4)
+ Giáo viên đưa ra câu hỏi giúp HS phát triển tư duy
Ví dụ: Trước khi vào bài mới GV sẽ hỏi HS về các nhân vật mà em biết là có ý chí nghi
lực trong cuộc sống.
+ GV sẽ cho HS tự giải nghĩa từ “ý chí, ý tình, ý thân, quyết chí,....” hoặc trao đởi nhóm
nhờ bạn giải nghĩa dùm.
+ Tìm nghĩa đúng của từ nghi lực, GV sẽ hỏi “ Vì sao em lại khơng chọn các đáp án còn
lại? ” và yêu cầu HS nói nghĩa của các ý còn lại và đặt câu với nghĩa của chúng.
+ Giáo viên cho HS thảo luận nhóm để giải thích các câu tục ngữ liên quan đến bài học.
* Nguyên tắc giao tiếp
- Nguyên tắc này đảm bảo thực hiện qua:
+ Trong tiết dạy, GV thường xuyên đặt câu hỏi liên quan đến bài học hay câu hỏi mở
rộng cho HS và gọi nhiều HS trả lời.
Ví dụ: Dạy tập đọc GV sẽ hỏi các câu hỏi để khai thác nội dung câu chuyện hay các câu
hỏi mở rộng để HS có thể trả lời theo cách nghĩ của các em.
+ Cho các em nói lên ý kiến hoặc thắc mắc của mình nhiều hơn.
Ví dụ: HS đặt ra các câu hỏi về nghĩa thì GV sẽ cho các HS giải nghĩa dùm bạn trước,
nếu HS khơng biết thì GV sẽ giải nghĩa bằng những hình ảnh cụ thể.
+ GV thường tở chức hoạt động nhóm, trong q trình các nhóm hoạt động GV luôn đi

từng nhóm để hướng dẫn, hỗ trợ cho HS khi gặp khó khăn .(giúp các em phát triển khả
năng giao tiếp với bạn và GV)
Ví dụ: Dạy Luyện từ và câu, GV sẽ cho HS thảo luận nhóm giải nghĩa của các câu tục
ngữ. GV sẽ đi từng nhóm và giúp HS hiểu nghĩa của câu rõ hơn.
+ Khuyến khích HS trình bày ý kiến và đưa nhận xét về ý kiến của các em trước lớp.
Giúp HS có thể đứng trước đám đông và mạnh dạn bày tỏ ý kiến của mình.
+ Trong tiết dạy, GV luôn cho những lời khen, tuyên dương nhằm giúp cho HS ngày
càng tích cực trong hoạt động học tập và cũng đưa ra những nhận xét giúp HS biết cách
sửa sai kip thời cho những lỗi mà các em mắc phải.
* Nguyên tắc chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của HSTH
-Ngun tắc này được đảm bảo thực hiện qua:


+ Đầu giờ HS sẽ hát khởi động.Điều này giúp HS thoải mái hơn khi học.
+ Dạy tiết tập đọc, GV sẽ gọi nhiều HS đọc giúp phát triển vốn từ hơn.
+ Khi HS đọc sai GV thường cho HS luyện đọc và chữa lỗi phát âm tại chỗ. Sau đó cho
cả lớp cùng đọc lại từ đó.
+ Tùy vào trình độ mỗi HS, GV sẽ mời học sinh đọc yếu đọc các từ hay câu ngắn; còn
học sinh đọc tốt sẽ đọc những câu dài và đoạn văn diễn cảm.
+ Dạy Chính tả: các em HS phát âm tốt và viết tớt thì giáo viên ln khen trước lớp để
khích lệ các em.
+ Một số học sinh còn viết sai lỗi thì giáo viên sẽ gạch những lỗi đó và yêu cầu HS viết
lại các lỗi sai.
+ Giáo viên thường xuyên chú ý đến những HS hay phát âm sai, để sửa lỗi cho các em.
+ Đối với HS yếu trong môn chính tả với những bài nghe - viết, GV thường xuyên theo
dõi các em và đọc cho các em chậm hơn và kỹ hơn so với các em học tốt.
+ GV luôn dùng những lời khen, lời động viên các em để giúp các em thoải mái và hăng
say hơn trong học tập.
- Trong những tiết dự giờ và các tiết dạy của GV hướng dẫn thường đảm bảo dạy học
theo tiêu chí 1 tiết dạy tích cực, đổi mới phương pháp dạy học theo thông tư 22 hợp

nhất văn bản 03.
- Tất cả HS được tham gia hoạt động: GV khi tổ chức trò chơi khởi động đầu giờ sẽ
thường sử dụng bảng con hoặc những hoạt động mà để tất cả HS đều được tham gia.
Ví dụ: trong tiết học vần “iên-yên” , khi kiểm tra bài cũ GV sẽ cho HS suy nghĩ và viết
tiếng, từ hoặc câu mà trong đó có vần đã học ở bài trước.
- Lớp học sinh động, thoải mái:
+ GV thường tổ chức trò chơi trong lớp tạo không khí thoải mái không gây áp lực cho
HS.
Ví dụ: trong tiết kể chuyện của tuần 12 (TV lớp 4 tập 1), GV cho HS chơi thi nhau hai
dãy lần lượt nói tên các nhân vật có ý chí nghi lực vươn lên trong cuộc sớng mà mình
biết lần lượt cho đến khi có nhóm thắng.
+ Trong các tiết học vần hoặc tiết có nhiều lý thuyết GV sẽ cho HS hát hoặc chơi giữa
giờ để thư giãn.
Ví dụ: Trong tiết học vần GV thường cho HS hát theo giai điệu vần vừa học trước khi
sang phần từ ứng dụng.


- HS tự sản sinh kiến thức: GV chỉ đưa ra các gợi ý là chủ yếu và tự HS rút ra các kiến
thức cho mình.
Ví dụ: trong tiết tập đọc “Ông Trạng thả diều”, để giúp HS hiểu được ý nghĩa của bài thì
GV gợi ý cho HS trả lời các câu hỏi bằng lời của mình. Thường trong tiết tập đọc, HS sẽ
phải tự rút ra ý nghĩa của bài qua việc tìm hiểu bài.
Yêu cầu 2. Các băn khoăn, thắc mắc của bản thân khi tiếp cận thực tế với các tiết dạy
học Tiếng Việt ở các trường Tiểu học.
- Các băn khoan, thắc mắc khi tiếp cận thực tế với các tiết dạy học tiếng việt ở trường
Tiểu học
+ Trong các tiết tiếng việt hầu như GV ko dạy đúng với quy trình hồn tồn.Gv thường
đi nhanh ở phần luyện đọc và tìm hiểu bài trả lời câu hỏi.Phần luyện đọc và tìm hiểu bài
có quan trọng hay không?
+ Trong tiết tập đọc GV thường chỉ ghi Ý nghĩa của câu chuyện lên bảng mà không sử

dụng bảng cho phần luyện đọc.Có nên viết những từ khó trong phần luyện đọc lên bảng
hay không?
+ Giáo viên khi dạy bài mới thường sẽ không ôn lại kiến thức và khi kết thúc bài cũng
không củng cố lại kiến thức cho HS. Việc ôn lại bài cũ và củng cố kiến thức cuối bài có
quan trọng không ?
+ GV khi cho HS hoàn thành vở bài tập tiếng việt thì có chỉ HS giải 1 sớ bài tập để hoàn
thành đủ vở.Việc làm như vậy có nên làm hay không?
+ GV đọc chính tả nghe – viết thường đánh vần từ khó cho HS hoặc yêu cầu HS đánh
vần trước lớp.Việc đánh vần từ khó trong lúc HS đang viết chính tả có cần thiết không?
- Bên cạnh những thắc mắc thì bản thân em cịn đưa ra một số giải pháp để giải
quyết
+ GV nên ghi các từ khiến HS dễ đọc sai và từ khó lên bảng để HS nhớ.
+ Nên cho HS luyện đọc nhiều hơn và đọc diễn cảm sau khi tìm hiểu bài vì hoạt động này
sẽ giúp các em ghi nhớ bài lâu hơn.
+ Khi vào các tiết dạy bài mới , cần nhắc lại kiến thức bài trước vào đầu giờ và củng cố
kiến thức bài mới khi cuối tiết để giúp HS khắc sâu được kiến thức hơn.
+ Khi làm vở bài tập nên hướng dẫn, gợi mở để HS có thể giải được những bài khó.Vì đó
sẽ giúp HS phát triển khả năng tư duy.


-Trên đây là báo cáo về việc nhận xét, đánh giá các tiết học Tiếng Việt ở trường Tiểu
học cũng như những thắc mắc, băn khoăn trong 4 tuần thực tập. Bài báo cáo trên
không thể tránh khỏi những thiếu sót nên em rất mong nhận được ý kiến đóng góp
thầy để em học thêm được nhiều kinh nghiệm . Em xin chân thành cảm ơn!
Đồng Nai, ngày 08 tháng 12 năm 2018
Sinh viên ký tên

Nguyễn Thị Thương Thương




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×