BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC MẦM NON
BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN: PPDH TIẾNG VIỆT 1
Đồng Nai, ngày 7 tháng 12 năm 2018.
GIÁO VIÊN: Th.S: TRẦN DƯƠNG QUỐC HÒA
SINH VIÊN THỰC HIỆN: THÂN THỊ THUÝ HẰNG
LỚP: ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TIỂU HỌC A – K6
MSSV: 1161070029
TRƯỜNG: ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
NĂM HỌC 2018 - 2019
Qua những tiết dự giờ, tiết sinh hoạt chủ nhiệm, những đợt rút kinh nghiệm tiết dạy,
em nhận ra rằng Tiếng Việt là một mơn rất quan trọng, hồn tồn đảm bảo được việc
thực hiện các nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học.
1. Xem xét đánh giá việc thực hiện 3 nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở trường
Tiểu học (Nguyên tắc phát triển tư duy; Nguyên tắc giao tiếp; Ngun tắc
chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của HSTH).
Nguyên tắc phát triển tư duy:
- Trong các tiết dạy, giáo viên đã đảm bảo được các yếu tố hình thành tư duy cho
học sinh, thơng qua các phân mơn:
+ Chính tả: Học sinh tự đưa ra những lưu ý khi viết Chính tả như viết hoa tên riêng,
sau dấu chấm; Học sinh biết được quy tắc viết thể thơ lục bát, … Ví dụ: Nghe- viết:
Mẹ lớp 2, học sinh tự biết viết hoa các tên riêng; Quy tắc viết thể thơ lục bát là câu
lục lui vào 2 ô li, câu bát lui vào 1 ô li, …
+ Tập đọc: Học sinh sẽ tự thắc mắc nghĩa của từ mới và đưa ra một số kỹ năng sống
được thông qua các bài tập đọc. Giáo viên sẽ đưa ra một số câu hỏi nhằm nâng cao
nhận thức và khả năng tư duy của học sinh. Ví dụ: Sau khi học xong bài tập đọc Bà
cháu, học sinh sẽ thắc mắc: Tại sao 2 anh em trong bài lại buồn khi đã có trong tay
rất nhiều của cải vật chất ? ; Khi gặp lại bà cảm xúc của 2 anh em như thế nào ?. Học
sinh tự đưa ra kỹ năng sống sau khi học bài tập đọc: Biết yêu thương mọi người
trong gia đình.
+ Tập làm văn: Học sinh có thể kể về 1 ngườu thân trong gia đình. Các em kể về ơng
bà, cha mẹ, anh chị, cơ dì chú bác với những tính cách, khn mặt, vóc dáng rất sáng
tạo.
+ Luyện từ và câu: Học sinh biết mở rộng vốn từ: từ ngữ về đồ dùng và công việc
trong nhà. Các em biết tên các đồ dùng trong sgk và có thể kể thêm các đồ dùng có
trong nhà của các em. Không những thế, các em còn kể tên các cơng việc trong gia
đình các em đã từng làm.
Nguyên tắc giao tiếp:
- Thông qua các tiết dạy, giáo viên đã đảm bảo nguyên tắc này được thực hiện trong
quá trình giảng dạy:
+ Giao tiếp giữa giáo viên với học sinh: Thông qua các bài học, giáo viên đặt câu hỏi
học sinh trả lời, học sinh thắc mắc bài học giáo viên giải đáp thắc mắc của học sinh,
giáo viên nhận xét và khen ngợi học sinh.
+ Giao tiếp giữa học sinh với học sinh: Thông qua các bài học, giáo viên cho học
sinh thảo luận nhóm đôi, nhóm lớn, … Việc thảo luận nhóm sẽ giúp học sinh kỹ
năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, phát hiện lỗi và tự chữa lỗi. Ví dụ: Thông
qua phân môn Tập đọc và Luyện từ và câu, mỗi học sinh sẽ có những câu trả lời của
riêng mình, việc thảo luận nhóm sẽ giúp các em trao đổi ý kiến, phất hiện chỗ chưa
đúng của bạn mình, từ đó giúp học sinh có thể nhận xét bạn mình, thống nhất ý kiến
với nhóm và đưa ra ý kiến của bản thân.
Nguyên tắc chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của HSTH:
- Thơng thường qua các tiết Tập đọc, khi cho học sinh đọc các câu dài hay cả bài
giáo viên rất ít khi mời học sinh đọc chậm hoặc tư duy chậm vì việc này sẽ làm mất
thời gian, giáo viên thường sẽ dành thời gian ra chơi hay ngoài giờ lên lớp để giúp
các em luyện đọc và chữa lỗi phát âm. Bên cạnh đó, giáo viên sẽ mời các em đọc các
câu ngắn và trả lời các câu hỏi theo từng mức độ tăng dần, việc này sẽ giúp các em
tự tin hơn, rèn luyện được kỹ năng đọc và phát triển khả năng tư duy của các em.
- Về Chính tả, một số học sinh còn phát âm sai, viết sai lỗi chính tả thì giáo viên sẽ
chú ý đến các em này và chữa lỗi cho các em. Điều này sẽ giúp các em rèn luyện kỹ
năng phát âm của mình, cẩn thận hơn.
- Đầu tiết học và cuối tiết học, giáo viên thường tổ chức ca hát, chơi trò chơi nhằm
kiểm tra kiến thức cũ và củng cố bài mới. Điều này giúp các em thích thú hơn trước
và sau bài học. Trong quá trình tiết học, giáo viên thường dùng những lời khen, lời
động viên giúp các em tập trung hơn và có thêm động lực để học bài tốt hơn.
- Với các học sinh rụt rè: Giáo viên sẽ chú ý động viên, khen ngợi các em giúp các
em tự tin hơn trong học tập cũng như cuộc sống hàng ngày.
- Với các học sinh thường hiều động làm mất trật tự lớp học: Giáo viên sẽ chú ý cho
các em tham gia trả lời câu hỏi, nhận xét câu trả lời của bạn.
Hiện nay, các tiết dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học được dạy học theo tiêu chí 1
tiết dạy tích cực, đổi mới phương pháp dạy học theo thông tư 22 hợp nhất văn
bản 03.
- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên lấy học sinh làm trung tâm.
- Trong tiết học, giáo viên đưa ra các câu hỏi với mức độ tăng dần từ biết đến vận
dụng (biết, hiểu, thực hành, vận dụng).
- Về nội dung bài học, giáo viên có thể điều chỉnh, thay thế hình thức dạy học nếu
có. Ví dụ: Trong phân môn Luyện từ và câu lớp 2, bài “Mở rộng vốn từ: Từ ngữ về
đồ dùng và công việc trong nhà ”, thông thường giáo viên sẽ cho mời học sinh đặt
câu “ Các em hãy quan sát tranh và cho cô biết” giáo viên có thể thay thế bằng cách
cho học sinh làm bài các nhân sau đó trao đổi theo nhóm đôi hay nhóm lớn rồi cho
ban tự quản lên điều hành lớp. Từ đó giúp học sinh biết cách trao đổi thông tin với
nhau và tập trung học hơn khi ban tự quản lên điều hành lớp thay giáo viên.
- Phân môn Tập đọc, giáo viên có thể đưa thêm các câu hỏi ngoài: Qua bài học trên,
em học được những gì?
- Về phân mơn Tập làm văn, giáo viên rèn cho học sinh tính sáng tạo khi viết văn,
hạn chế học sinh viết rập khuôn, máy móc phụ thuộc sách giải. Ví dụ: Giáo viên cho
học sinh làm trực tiếp trên lớp, lấy một số bài để chữa lỗi và sưu tầm vào chủ đề năm
học để các em có thể tham khảo.
2. Các băn khoăn, thắc mắc của bản thân khi tiếp cận thực tế với các tiết dạy học
Tiếng Việt ở các trường Tiểu học.
Bên cạnh việc học hỏi những kinh nghiệm giảng dạy từ các giáo viên phổ thông
thông qua các tiết dạy mẫu, các tiết dự giờ, bản thân em có những thắc mắc khi lần
đầu được tiếp cận với thực tế, em cảm thấy những điều học ở trường Đại học có vài
điểm khác biệt với thực tế ở trường Tiểu học:
- Đầu tiên, việc soạn giáo án: ở trường Tiểu học được soạn chi tiết hơn giáo án được
hướng dẫn ở trường Đại học. Ví dụ: Từng lời nói, câu chữ, câu lệnh giáo viên nói
với học sinh như thế nào đều được ghi rõ và chi tiết vào giáo án.
- Giáo viên còn phụ thuộc qua nhiều vào sách giáo khoa. Ví dụ: phân mơn Chính tả,
Luyện từ và câu, giáo viên vẫn còn cho học sinh nhìn sách và làm các bài tập trong
sách, chưa đưa thêm các bài tập ngoài vào bài học. Điều này phù hợp với 1 tiết đạy
tích cực khơng ạ?
- Trong q trình giảng dạy, giáo viên thường ít dạy theo giáo án đã soạn, giáo viên
thường bỏ qua các bước sau: Kiểm tra kiến thức cũ, viết bảng con, củng cố bài cũ,
củng cố bài mới. 35 phút có đủ cho tất cả các hoạt động dạy và học? Và học sinh
tiếp thu bài học có đảm bảo mà mục tiêu đặt ra không?
- Giáo viên thường chọn bảng của học sinh làm đúng vì chọn bảng học sinh làm sai
sẽ mất thời gian và học sinh tự chữa lỗi sai. Điều này có nên không?
Bên cạnh những thắc mắc trên thì bản thân em cịn đưa ra một số giải pháp của
mình để giải quyết các vấn đề:
- Giáo viên cần kết hợp chọn bài làm sai, bài làm đúng của học sinh và có lời khen
khéo léo đến cả hai bài. Từ đó, các em đều cảm nhận được sự quan tâm của giáo
viên để các em cố gắng và phát huy.
- Khi làm bài tập các phân môn Luyện từ và câu, Chính tả. Giáo viên nên lờng ghép
các trò chơi hoặc cho ban tự quản điều hành lớp. Từ đó sẽ tạo khơng khí sơi động
cho tiết học.
- Nên đưa các câu hỏi hoặc bài tập ngoài sgk nhưng vẫn đảm bảo nội dung bài học.
Phần trình bày về việc nhận xét, đánh giá các tiết học Tiếng Việt ở trường Tiểu
học qua chuyến đi thực tế lần này cũng như những thắc mắc, băn khoăn mà em
còn nhiều điều chưa hiểu, chưa biết. Và một số giải pháp mà em đưa ra cịn
nhiều điều thiếu sót. Kính mong thầy xem xét giải đáp các thắc mắc và chỉnh sửa
những điều thiếu sót trong bài. Em xin chân thành cảm ơn!
Đồng Nai, ngày 7 tháng 12 năm 2018
Sinh viên thực hiện
Thân Thị Thuý Hằng