Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Lợi ích của các nước đang phát triển khi gia nhập tổ chức WTO” docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (908.34 KB, 79 trang )






LUẬN VĂN


Lợi ích của các nước đang
phát triển khi gia nhập tổ chức
WTO

1

Lời mở đầu

1-Tính cấp thiết của đề tài.
Tổ chức thương mại thế giới gọi tắt là WTO (World Trade
Oganiztion) là một tổ chức thương mại toàn cầu lớn nhất và quan trọng nhất
thế giới, thu hút tới 145 nước (trong số khoảng 200 nước là thành viên của
liên hiệp quốc) và chi phối tới 95% tổng kim ngạch thương mại toàn thế
giới. WTO cũng là tổ ch
ức kinh tế - thương mại đưa ra các yêu cầu rất cao
về minh bạch hoá các quy định thương mại, về cắt giảm thuế quan nhập
khẩu, tiến tới xoá bỏ thuế quan, tự do hoá thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu
tư, sở hữu trí tuệ; về thực hiện quy chế tối huệ quốc - hay thương mại bình
thường; về xoá bỏ biện pháp phi thuế quan như hạn chế
định lượng, giấy
phép xuất nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu; về thực hiện biện pháp đầu tư có
liên quan đến thương mại, nhưng không vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc
gia nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, tăng cường xuất khẩu hàng hoá và nâng


cao khả năng phát triển kinh tế. Chính vì vậy, tham gia vào tổ chức WTO là
xu thế tất yếu và là mẫu số chung của các quốc gia trên thế
giới trong xu
hướng toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Việc tham gia tổ
chức WTO sẽ mang lại cho quốc gia thành viên nhiều cơ hội mới lớn lao và
mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tiếp nhận những hàng hoá, dịch vụ, công
nghệ kỹ thuật quản lý và được đối xử công bằng trên trường quốc tế để cải
thiện các điề
u kiện cần thiết cho phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của
nhân dân trong nước.
Trước xu thế toàn cầu hoá và hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ hiện
nay, việc gia nhập tổ chức WTO là một tất yếu khách quan. Đặc biệt đối với
các nước đang phát triển, nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu, dân số đông,
khoa học - kỹ thuật lạc hậu, trình độ lao động thấp kém việ
c gia nhập WTO
càng trở nên cần thiết. Bên cạnh những lợi ích như khả năng thu hút nguồn
vốn, công nghệ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý mở rộng thị trường, đào tạo

2
nhân lực cho sự phát triển mở cửa tạo cơ hội cho sự hội nhập vào nền kinh tế
thế giới, khi gia nhập tổ chức WTO các nước đang phát triển cũng đứng
trước nhiều khó khăn thử thách lớn như cạnh tranh diễn ra gay gắt trong điều
kiện thị trường nội địa yếu kém; sự phân hoá giàu - nghèo, thành thị và nông
thôn ngày càng mạnh; vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái và ngu
ồn lực lao
động chất lượng thấp; luật pháp chưa hoàn thiện là những thách thức lớn
đối với các nước đang phát triển hiện nay. Đó là những vấn đề đang đặt ra
cần được nghiên cứu nhằm làm rõ lợi ích, cũng như những thách thức và
những bài học kinh nghiệm hữu ích của các nước đang phát triển đã gia nhập
tổ chức WTO cho lộ trình gia nhập tổ chức này c

ủa nước ta hiện nay.
Với những lý do đó người viết mạnh dạn chọn đề tài: - Lợi ích của các
nước đang phát triển khi gia nhập tổ chức WTO - cho luận văn tốt nghiệp cử
nhân của mình. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường lợi ích của
các nước khi gia nhập WTO.
2- Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cậ
p đến vấn đề này
dưới những góc độ khác nhau được công bố. Tiêu biểu như các tác phẩm:
+ Đỗ Đức định: Các nền kinh tế đang phát triển trong tiến trình tham
gia tổ chức WTO. Tạp chí: Những vấn đề kinh tế thế giới, số 3/199, tr.15.
+ Mười lợi ích của hệ thống thương mại thế giới, Nxb thế giới,
Hà nội, 2001.
+ Từ diễn đàn Siatơn: Toàn cầu hoá và tổ ch
ức thương mại thế giới
(WTO).
+ Bộ ngoại giao: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Nxb CTQG,
2000.
Nhìn chung, các công trình trên đã ít nhiều đề cập tới các vấn đề của các
nước đang phát triển khi gia nhập tổ chức WTO. Tuy nhiên, vẫn chưa có
những công trình trình bày một cách có hệ thống về lợi ích của các nước đang
phát triển khi gia nhập tổ chức WTO.
3- Mục đích nghiên cứu.
- Hệ thố
ng hóa những vấn đề liên quan đến tổ chức WTO.

3
- Chỉ ra những lợi ích và khó khăn của các nước đang phát triển khi
gia nhập tổ chức WTO, đồng thời nêu lên một số kinh nghiệm của Trung
Quốc.

- Nêu ra một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường lợi ích của các
nước đang phát triển khi gia nhập tổ chức WTO.
4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
a- Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu kinh tế các nước
đang phát triển khi
gia nhập tổ chức WTO, chủ yếu đi vào thương mại hàng hoá.
b-Phạm vi nghiên cứu
Tập trung vào nghiên cứu kinh tế của các nước Đông Nam Á, đặc biệt
là Trung Quốc.
5- Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật lịch sử - duy vật biện chứng,
phân tích - tổng hợp kết hợp các phương pháp khác như thống kê, so sánh để
rút ra những kết luận cần thiết.
6- Những đóng góp của đề tài.
- Hệ thống hoá những vấn đề liên quan đến tổ chức WTO
- Đánh giá những lợi ích và khó khăn mà các nước đang phát triển đạt
được sau khi gia nhập tổ chức WTO
- Nêu ra một số kinh nghiệm và giải pháp cơ bản nhằm tăng cường lợi
ích của các nước đang phát triển khi gia nhập WTO.
7- Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết lu
ận, mục lục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương.
Chương I: Những vấn đề chung của Tổ chức thương mại Thế giới
(WTO).
Chương II: Lợi ích của các nước đang phát triển trong tiến trình
gia nhập tổ chức WTO – Cơ hội và thách thức.

4

Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường lợi ích của các
nước đang phát triển khi gia nhập WTO.
Chương I

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ
GIỚI

1- Một vài nét khái quát về tổ chức thương mại thế giới:
1.1- Lịch sử hình thành và phát triển của tổ chức thương mại thế giới:
Tóm tắ
t lịch sử tổ chức tiền thân của tổ chức thương mại thế giới.
Tổ chức WTO có tiền thân là tổ chức Hiệp định chung về thuế quan
và mậu dịch (GATT). GATT là tổ chức được thành lập tạm thời sau chiến
tranh Thế giới thứ II theo gương các tổ chức đa phương khác tham gia vào
hợp tác kinh tế quốc tế, đánh chú ý là các tổ chức của "Bretton Woods",
Ngân hàng Thế giớ
i (WB), Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF).
Hai mươi ba nước thành viên ban đầu của GATT trong số 50 nước đã
đồng ý với dự thảo hiến chương thành lập Tổ chức thương mại quốc tế
(ITO) - một cơ quan chuyên môn mới của Liên hợp quốc. Hiến chương dự
định không chỉ đưa ra các nguyên tắc thương mại thế giới, mà còn đưa ra các
nguyên tắc liên quan đến việc làm, các hiệp định hàng hóa, thự
c tiễn kinh
doanh, đầu tư và dịch vụ quốc tế.
Nhằm nhanh chóng thúc đẩy tự do hóa thương mại sau Chiến tranh
thế giới thứ hai, và sửa chữa những thiếu sót lớn về các biện pháp bảo hộ
được duy trì từ đầu những năm 1930, các cuộc thương lượng về thuế của các
bên ký kết đã được tiến hành giữa 23 thành viên sáng lập của GATT vào
năm 1946. Vòng đàm phán đầu tiên này đã dẫ
n đến có tới 45.000 sự nhượng

bộ về thuế gắn với 10 tỷ USD hàng hóa, chiếm khoảng 1/5 tổng trị giá
thương mại toàn cầu. Vòng đàm phán này cũng thỏa thuận rằng, nhượng bộ
sẽ được bảo vệ bằng việc chấp nhận và phổ biến rộng rãi các nguyên tắc về

5
thương mại trong bản dự thảo hiến chương của ITO. Sự nhượng bộ về thuế
và các quy tắc cùng tạo thành một tổ chức là GATT và được hoạt động từ
tháng 1 năm 1948.
Tuy bản hiến chương của ITO cuối cùng cũng được chấp thuận tại
cuộc họp của Liên hợp quốc về thương mại và việc làm tại Havana tháng 3
năm 1948, nhưng một số
các cơ quan lập pháp quốc gia không thực hiện
việc phê chuẩn - Năm 1950, Chính phủ Mỹ tuyên bố rằng hiến chương
Hanava không được Quốc hội Mỹ phê chuẩn, thế là ITO hoàn toàn vô hiệu.
Mặc dù mang tích chất tạm thời, GATT vẫn là một công cụ đa biên duy nhất
điều chỉnh nền thương mại quốc tế từ năm 1948 cho tới khi thành lập WTO.
Trong 47 năm tồn tại của mình, văn bản pháp lý c
ơ bản của GATT
vẫn còn hiệu lực như năm 1948, có cả những sự bổ xung dưới hình thức "đa
phương"- hội viên tự nguyện - các Hiệp định và những nỗ lực không ngừng
nhằm giảm thu. Nhiều sửa đổi đã được nhất chí thông qua tại hàng loạt vòng
đàm phán thương mại.
Các vòng đàm phán thương mại
Những bước tiến vượt bậc tới tự do hóa th
ương mại quốc tế đã diễn ra
thông qua những cuộc đàm phán về mậu dịch đa phương, hay còn gọi là
"những vòng đàm phán mậu dịch", được tiến hành dưới sự bảo trợ của
GATT. Đặc biệt, vòng đàm phán Uruguay là vòng đàm phán cuối cùng và
kéo dài nhất so với các vòng đàm phán trước nó.
Mặc dù các cuộc đàm phán thường kéo dài liên miên, nhưng cuối

cùng cũng đưa ra được cách tiếp cận tổng thể
cho các cuộc thương lượng
thương mại, một cách tiếp cận với nhiều lợi thế qua từng vấn đề. Lúc đầu,
vòng đàm phán cho phép các thành viên nêu lên quan điểm của mình trong
việc tìm kiếm và đảm bảo lợi thế thông qua một loạt vấn đề. Sau đó là có sự
nhượng bộ để có thể bảo vệ được các điều kiện chính trị trong nước; các
nhượng bộ này có thể gi
ải quyết dễ dàng hơn trong một tổng thể bao gồm
các lợi ích kinh tế và chính trị hấp dẫn. Tiếp theo, các thành viên là các nước
đang phát triển có cơ hội lớn hơn trong tác động và gây ảnh hưởng đối với

6
hệ thống đa phương trong một vòng đàm phán so với trong quan hệ song
phương với các nước phát triển. Cuối cùng, cải cách toàn diện trong lĩnh vực
nhậy bén của mậu dịch thế giới có thể trở thành thực thi hơn trong bối cảnh
tổng thể toàn cầu - cải cách về thương mại nông sản là một bằng chứng
thành công của Vòng đàm phán Uruguay.
Phần lớn các vòng đàm phán mậu dị
ch ban đầu của GATT chú trọng
đến quá trình liên tục giảm thuế quan. Tuy nhiên, kết quả của Vòng đàm
phán Kennedy vào giữa những năm 60 bao gồm một hiệp định của GATT về
chống phá giá. Vòng đàm phán Tokyo giữa những năm 70 là nỗ lực nhằm
mở rộng và cải thiện hệ thống này.
Vòng đàm phán Tokyo - nỗ lực đầu tiên nhằm cải cách hệ thống
thương mại
Được tiến hành giữa nă
m 1973 và 1979 và với 102 nước tham dự,
Vòng đàm phán Tokyo tiếp tục những cố gắng của GATT nhằm cắt giảm
nhanh chóng thuế. Kết quả đã cắt giảm trung bình 1/3 biểu thuế hải quan tại
9 thị trường công nghiệp chính của thế giới, giảm xuống 4,7% thuế bình

quân các sản phẩm chế biến từ mức 40% khi mới thành lập GATT. Sự cắt
giảm thuế được tiến hành trong 8 năm vớ
i sự kết hợp hài hòa, cụ thể biểu
thuế cao nhất đã giảm đồng thời với việc giảm biểu thuế thấp nhất.
Mặc dù Vòng đàm phán Tokyo đã đem lại các kết quả tổng hợp, song
nó đã không theo kịp những vấn đề cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến thương
mại nông sản và cũng không đưa ra được hiệp định v
ề tự bảo vệ cũng như về
"các biện pháp nhập khẩu khẩn cấp ".
Một loạt thỏa thuận phi thuế quan đã phát minh ngay sau các cuộc
thương lượng, trong một số trường hợp giải thích các qui tắc hiện hành của
GATT, trong các trường hợp khác lại đưa ra luận cứ mới hoàn toàn.
Trong nhiều trường hợp, có một số ít thành viên của GATT, chủ yếu
là các nước công nghiệp, đã coi các Hiệ
p định và những thỏa thuận này như
là "bộ luật ". Chúng bao gồm các hiệp định sau:

7
- Trợ giúp các biện pháp bù trừ (được thể hiện ở các điều 6,12 và 23
của GATT).
- Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (đôi khi còn gọi là Luật về tiêu
chuẩn).
- Các thủ tục cấp giép nhập khẩu.
- Mua sắm của chính phủ.
- Định giá hàng hóa của hải quan ( thể hiện ở điều 7).
- Chống phá giá (thể hiện ở điều 6 và được thay thế bằng Luật chố
ng
phá giá của Vòng Kennedy).
- Hiệp định về thịt bò.
- Hiệp định về sản phẩm sữa quốc tế.

- Thương mại trong ngành hàng không dân dụng.
Nhiều vấn đề nêu trên đã được chỉnh lý và mở rộng trong Vòng đàm
phán Uruguay. Những hiệp định về trợ giúp các biện pháp bù trừ, hàng rào kỹ
thuật trong thương mại, cấp giấy phép nhập khẩu, định giá của hải quan và
chống phá giá hiện nay đã tr
ở thành những cam kết đa biên trong Hiệp định
WTO. Nói cách khác, tất cả các thành viên WTO cam kết thực hiện chúng,
trong khi các hiệp định mua sắm của chính phủ, thịt bò, sản phẩm sữa và
thương mại trong ngành hàng không dân dụng vẫn là hoạt động đa phương.
Sự thành công của GATT
Xét bản chất tạm thời của các điều khoản và phạm vi hoạt động hạn chế
của GATT, trong 47 năm qua, GATT đã thành công trong việc xúc tiế
n và
đảm bảo sự tự do hóa thương mại toàn cầu. Chỉ tính riêng mục thuế quan
giảm liên tục cũng đã làm cho thương mại thế giới tăng rất cao - trung bình
khoảng 8% hàng năm tính cho những năm của thập niên 50 và 60. Và nhờ có
động lực của tự do hóa thương mại toàn cầu đảm bảo nên tỷ lệ tăng trưởng
thương mại đã vượt quá mức tăng sản xuất trên toàn thế
giới trong kỷ nguyên
của GATT. Sự tham gia ồ ạt vào GATT trong thời gian Vòng đàm phán
Uruguay chứng tỏ hệ thống đa biên do GATT đưa ra đã được coi nền móng

8
của sự phát triển và là một công cụ để cải tổ nền kinh tế và thương mại thế
giới.
Bên cạnh kết quả của việc cắt giảm thuế quan, những thành công nhất
định của Vòng đàm phán Tokyo là một dấu hiệu của thời kỳ khó khăn sẽ
đến. Thành công của GATT trong việc cắt giảm thuế quan tới mức thấp nhất
cùng với một loạ
t nhượng bộ kinh tế trong những năm của thập niên 70 và

80 đã khiến các chính phủ đưa ra các hình thức bảo vệ khác cho các lĩnh vực
kinh tế phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ nước ngoài. Tỷ lệ
thất nghiệp cao và sự đóng cửa thường xuyên của các nhà máy đã buộc các
chính phủ ở châu Âu và Bắc Mỹ tìm kiếm các thỏa hiệp song phương phân
chia thị trường vớ
i các đối thủ cạnh tranh, tiếp tục trợ giúp cho ngành nông
nghiệp của mình. Cả hai hình thức thay đổi làm giảm độ tin cậy và hiệu quả
của GATT.
Ngoài sự suy giảm của môi trường chính sách thương mại, vào đầu
những năm 1980 người ta cũng thấy rõ rằng, không lâu nữa GATT sẽ không
thể giữ được vai trò chi phối nền thương mại thế giới như những năm 1940.
Trước hết, thương m
ại thế giới đã trở nên cực kỳ phức tạp và quan trọng hơn
nhiều so với 40 năm trước đây: Sự toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đang
hình thành, việc đầu tư quốc tế bùng nổ và thương mại dịch vụ- loại hình
không được GATT điều chỉnh - là mối quan tâm ngày càng tăng của nhiều
nước liên quan chặt chẽ với sự gia tăng liên tụ
c của thương mại hàng hóa thế
giới. Mặt khác, trong những khía cạnh khác, giờ đây người ta thấy GATT có
nhiều hạn chế, ví dụ đối với nông nghiệp, hệ thống đa biên có nhiều lỗ hổng
không thể khắc phục được, các nỗ lực tự do hóa đem lại thành công nhỏ
nhoi, trong ngành dệt và may mặc chỉ đạt được một thỏa thuận duy nhất như
một ngoại lệ
của các nguyên tắc thông thường của GATT- hiệp định đa sợi.
Thậm chí thể chế của GATT và hệ thống giải quyết tranh chấp cũng có
những dấu hiệu đáng lo ngại.

9
Các yếu tố trên và nhiều lý do khác đã khiến các thành viên của
GATT cho rằng cần phải có nỗ lực để tăng cường và mở rộng hệ thống đa

biên này. Các cố gắng này đã dẫn đến Vòng đàm phán Uruguay.
Vòng đàm phán Uruguay - sự thiết lập một hệ thống mới.
Những hạt giống của vòng đàm phán Uruguay đã được gieo ngay tại
cuộc họp cấp bộ trưởng củ
a các thành viên GATT tại Geneva, tháng 11 năm
1982. Mặc dù các bộ trưởng dự tính sẽ tiến hành một cuộc họp đàm phán
mới và rất quan trọng, nhưng cuộc họp này bị bế tắc ở vấn đề nông nghiệp
và nó bị coi là thất bại. Thực tế, chương trình làm việc được các bộ trưởng
thống nhất đã tạo nên nền tảng cho chương trình nghị sự của Vòng đàm phán
Uruguay.
Tuy nhiên phải m
ất 4 năm để tìm tòi, làm sáng tỏ những vấn đề liên
quan và vượt qua những khó khăn để tìm ra sự nhất trí chung trước khi các
Bộ trưởng gặp nhau tại Punta del Este (Uruguay) vào tháng 9 năm 1986. Lúc
này các bộ trưởng có thể chấp nhận một chương trình nghị sự cho đàm phán.
Chương trình bao trùm các vấn đề quan trọng, bức xúc của chính sách
thương mại, cả việc mở rộng hệ thống thương mại tới một vài lĩnh v
ực mới,
đáng chú ý là thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Đây là chương trình đàm
phán lớn nhất về thương mại đã được nhất trí và các Bộ trưởng đã phải mất 4
năm để hoàn thành chương trình này.
Năm 1988, những cuộc đàm phán đã tiến hành được đến chặng gọi là
"đánh giá giữa kỳ". Hình thức tổ chức này là một cuộc họp cấ
p Bộ trưởng tại
Mornteal (Canada) và dẫn đến việc thiết lập chương trình thương lượng cho
giai đoạn của hai vòng đàm phán này. Các Bộ trưởng đã nhất trí với một
tổng thể các kết quả ban đầu, bao gồm nhượng bộ cho thâm nhập thị trường
của các sản phẩm nông sản nhiệt đới với mục tiêu giúp đỡ các nước đang
phát triển đồng thời đưa ra hệ
thống giải quyết các tranh chấp đã soạn thảo

hoàn chỉnh và cơ chế đánh giá chính sách thương mại, nhằm đánh giá tổng
thể thường xuyên, rõ ràng, có hệ thống về các chính sách thương mại của các
thành viên GATT.

10
Tại cuộc họp Bộ trưởng ở Brussels, tháng 12 năm 1990, sự không
thống nhất về bản chất của các cam kết cải cách thương mại nông nghiệp
trong tương lai đã dẫn tới phải kéo dài vòng đàm phán.
Tháng 12 năm 1991, bản "dự thảo toàn diện của dự thảo cuối cùng",
bao gồm các văn bản pháp lý thể hiện từng vấn đề của chương trình nghị sự
Punta del Este, trừ
các kết quả của việc thâm nhập thị trường, đã trình tại
Geneva. Hai năm sau, đã diễn ra các cuộc thương lượng liên tục bàn về hàng
loạt vấn đề từ những thất bại chưa giải quyết được tới dự đoán các thành
công sẽ đến. Người ta dự tính nêu vấn đề tranh cãi chính sẽ là thương mại
nông sản được kết hợp với dịch vụ, tiếp c
ận thị trường, quy định về chống
phá giá và đề nghị thành lập một tổ chức mới. Những ý kiến khác biệt giữa
Liên Hợp Quốc và Cộng đồng Châu Âu đã trở thành vấn đề trọng tâm và
việc giải quyết chúng đã đi đến kết luận cuối cùng. Tới ngày 15-12-1993,
từng vấn đề đã được giải quyết và các cuộc thương lượng về thâm nhập thị

trường của hàng hóa và dịch vụ cũng kết thúc. Ngày 15-4-1994 văn kiện đã
được các Bộ trưởng của hầu hết 125 nước tham gia ký tại cuộc họp ở
Marakesh (Moracco). "Tuyên bố Marakesh" ngày 15-4-1994 khẳng định kết
quả của Vòng đàm phán Uruguay là nhằm "tăng cường nền kinh tế thế giới
và thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng việc làm và thu nhập trên toàn thế
giới". Tổ chức WTO bắt đầ
u hoạt động ngày 1-1-1995, sau 48 năm tồn tại
tạm thời của Hiệp định GATT, kế thừa di sản của GATT nhưng tổ chức

WTO không phải là sự kế tục của GATT, tổ chức WTO là một tổ chức độc
lập, đóng trụ sở tại Geneva.
Hệ thống pháp lý
Hệ thống pháp lý của tổ chức WTO bao trùm Hiệp định GATT-1947,
GATT-1994, giữ nguyên nội dung của GATT-1947 đồng thời v
ới 12 Hiệp
định kèm theo giải thích chi tiết về các điều khoản về thương mại hàng hóa,
các lĩnh vực riêng. Hệ thống này còn bao trùm thương mại, dịch vụ, quyền
sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại, các biện pháp đầu tư liên quan đến

11
thương mại, cơ chế kiểm tra chính sách của các thành viên, quy tắc mới về
giải quyết tranh chấp cùng 4 Hiệp định đa phương .
Tổ chức WTO mặc nhiên công nhận giá trị pháp lý của khoảng 200
quyết định và thỏa thuận đã được thông qua trong thời kỳ GATT tồn tại tạm
thời.
Khác với hệ thống pháp lý "da báo" trước đây của GATT, trong đó
nhiều thỏa thuận tuỳ thu
ộc vào việc một bên có chấp nhận hay không, tổ
chức WTO đưa ra yêu cầu chấp nhận cả gói các văn kiện trên (ngoại trừ 4
hiệp định đa phương).
Có thể nói rằng hệ thống pháp lý của tổ chức WTO có tính chất hệ
thống, đồng nhất chặt chẽ hơn.
Hiệp định đa sợi (1974-1994) trước đây là một luật lệ của GATT nay
đã chấm dứt và hàng d
ệt được đưa vào khuôn khổ tổ chức WTO.
Do tính chất phong phú và phức tạp của các nội dung và nghĩa vụ thực
hiện hiệp định, thời kỳ 1995-2004 được coi là giai đoạn chuyển tiếp.
Mục tiêu, phạm vi và chức năng của tổ chức WTO
Tổ chức WTO vẫn theo đuổi những mục tiêu được đề ra tại phần mở

đầu của hiệp định GATT. Đó là thông qua tự
do hóa thương mại, trên cơ sở
lập ra một hệ thống pháp lý chung làm căn cứ để mỗi thành viên hoạch định
và thực thi chính sách nhằm mở rộng thương mại, tạo thêm việc làm, tăng
thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân các nước thành viên.
Bằng ngôn ngữ thực tế, các mục tiêu của tổ chức WTO được xác định
như sau:
- Tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ thông qua đàm phán và
bỏ thuế quan, loạ
i bỏ chung các hạn chế số lượng, quy chế các trở ngại phi
thuế quan.
- Không phân biệt đối xử qua chế độ tối huệ quốc (MFN) và chế độ
đãi ngộ quốc gia (NT), đồng thời tạo điều kiện cho phát triển kinh tế bằng
cách chấp nhận một cách mềm dẻo các thỏa thuận riêng và ngoại lệ.

12
- Thiết lập và phát triển môi trường cho sự phát triển thương mại quốc
tế nhằm đảm bảo sự trong suốt, chắc chắn và khả năng tiên liệu các diễn
biến (không có sự bất ngờ)
- Tăng cường khả năng tham khảo ý kiến trong giải quyết để hạn chế
thiệt hại đồng thời thể chế hóa quy chế này, đảm bảo sự tôn trọng các
điều ước.
Phạm vi của tổ chức WTO là, trong khi GATT chỉ bao trùm thương
mại hàng hóa thì tổ chức WTO không những đã củng cố hệ thống pháp lý
thương mại hàng hoá mà còn mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác.
Đó là thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại
và các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại. Hơn thế nữa, tổ chức WTO
còn có ch
ương trình tiếp tục đàm phán nhiều nội dung khác trong thương mại
quốc tế.

So với GATT, tổ chức WTO có nhiều điểm khác cơ bản.Tổ chức
WTO hoạt động trên cơ sở được các thành viên công nhận chính thức như là
một thể chế thường trực, độc lập, có tư cách pháp nhân, bộ máy và ngân
sách. Mức độ độc lập của tổ chức WTO còn do Hội nghị cấp bộ tr
ưởng lần
đầu dự kiến họp vào tháng 12-1996 tại Xingapo quyết định. Hiệp định thành
lập tổ chức WTO dự kiến phối hợp chặt chẽ giữa WTO, WB, IMF. Nhiều
người đánh giá rằng sự phối hợp này sẽ có tầm quan trọng lớn, tác động lên
sự hợp tác kinh tế chung ở quy mô toàn cầu.
Các chức năng chính của tổ chức WTO:
1. Quản lý Ban thư ký WTO, trụ sở
đặt tại Geneva.
2. Quản lý việc thực thi các hiệp định đã được ký kết.
3. Rà soát những chính sách thương mại của các nước thành viên.
4. Là diễn đàn đàm phán, tổ chức và phục vụ các cuộc đàm phán.
5. Giải quyết tranh chấp về thương mại giữa các nước thành viên.
6. Hợp tác kết hợp với các tổ chức kinh tế thương mại khác như Ngân
hàng (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) khác nhằ
m nâng cao hiệu quả hoạt động.

13
Cơ cấu và hoạt động của tổ chức WTO
Trong cơ cấu của tổ chức WTO có một cơ quan cao nhất, đó là hội
nghị cấp bộ trưởng, bao gồm tất cả các đại diện của các nước thành viên
được tổ chức ít nhất 2 năm một lần. Hội nghị quyết định tất cả các vấn đề
liên quan đến các Hiệp định thương mạ
i đa biên.
Song công việc hàng ngày của tổ chức WTO do một số cơ quan chức
năng giải quyết, chủ yếu là Đại hội đồng, bao gồm đại diện có thẩm quyền
của tất cả các thành viên của tổ chức WTO, có nhiệm vụ báo cáo cho Hội

nghị Bộ trưởng. Trong việc thay mặt Hội nghị Bộ trưởng giải quyết công
việc hàng ngày, Đại hội đồng được chia thành hai ủ
y ban: Ủy ban giải quyết
các tranh chấp để giám sát các thủ tục giải quyết tranh chấp và Ủy ban đánh
giá chính sách thương mại thường xuyên của từng nước thành viên.
Đại hội đồng cũng phân chia trách nhiệm thành 3 ủy ban chính: Hội
đồng về thương mại hàng hóa, Hội đồng thương mại dịch vụ và Hội đồng về
các vấn đề liên quan đến các sở hữu trí tuệ. Hội đồng về thương mạ
i hàng
hóa giám sát việc thực thi và các chức năng của tất cả các hiệp định thương
mại liên quan đến hàng hóa (phụ lục 14 của Hiệp định WTO), mặc dù các
hiệp định đó có các ủy ban giám sát riêng. Hai hội đồng sau chịu trách
nhiệm đối với các hiệp định riêng của tổ chức WTO (phụ lục 18 và IC) và có
thể thành lập các nhóm làm việc dưới quyền mình nếu cần thiết.
Ba ủy ban khác được thành lập bởi H
ội nghị Bộ trưởng có nhiệm vụ
báo cáo lên hội đồng chung, đó là Ủy ban về thương mại và phát triển, giải
quyết các vấn đề liên quan đến các nước đang phát triển và đặc biệt là các
nước kém phát triển. Ủy ban về cán cân thanh toán có trách nhiệm tư vấn
cho các thành viên WTO và các nước khác, áp dụng các biện pháp hạn chế
thương mại theo điều 12 và 18 của GATT để giải quyết các trở ngại về cán
cân thanh toán. Cuố
i cùng các vấn đề liên quan đến tài chính và ngân sách
của tổ chức WTO sẽ do ủy ban về dự toán, tài chính và hành chính giải
quyết.

14
Trong 4 hiệp định đa phương của tổ chức WTO - hiệp định về hàng
không dân dụng, hiệp định mua sắm của chính phủ, hiệp định sản phẩm sữa
và hiệp định thịt bò - thì hiệp định nào cũng có cơ quan quản lý riêng làm

nhiệm vụ báo cáo lên Đại hội đồng.
Sự đại diện trong tổ chức WTO và các nhóm kinh tế
Công việc của tổ chức WTO được thự
c hiện bởi các đại diện thương
mại của các nước thành viên. Chính sách thương mại và vị thế thương thuyết
lại được quyết định tại thủ đô của các nước với ý kiến tư vấn chủ yếu của
các công ty tư nhân, các tổ chức kinh doanh cũng như những người tiêu
dùng và các nhóm có lợi ích khác. Phần lớn các nước đều có đại diện ngoại
giao tại Geneva, một số
nước cử Đại sứ chuyên trách WTO. Các quan chức
này dự rất nhiều cuộc thương lượng và gặp gỡ các quan chức lãnh đạo WTO
tại trụ sở của tổ chức WTO. Đôi khi các đại diện của cấp chuyên viên được
gửi tới từ các nước để trình bày những đánh giá của chính phủ mình về vấn
đề cụ thể.
Do kết quả của tiến trình khu vực hóa kinh tế dưới hình th
ức liên minh
quan thuế và khu vực kinh tế mậu dịch tự do - và những thỏa thuận dựa trên
các sản phẩm gần gũi về địa lý cùng với sự cởi mở về chính trị, một vài
nhóm nước đã cử một đại diện duy nhất tại cuộc họp và thương lượng của tổ
chức WTO.
Nhóm các nước lớn nhất có tiếng nói chung nhất là Liên minh châu
Âu với 15 nước thành viên. Liên minh châu Âu là liên minh thuế quan v
ới
chính sách ngoại thương và biểu thuế đơn giản. Trong khi các nước thành
viên điều phối vị trí của mình tại Bruxen và Geneva thì ủy ban châu Âu là
đại diện duy nhất cho toàn EU tại hầu hết các cuộc họp của tổ chức WTO.
EU là thành viên của tổ chức WTO, đại diện cho quyền lợi của mỗi nước
thành viên EU tại WTO.
Một hình thức liên kết kinh tế thấp hơn của các nước là thành viên của
GATT cũng đ

ã thành công, đó là Hiệp hội các nước Đông Nam á- ASEAN.

15
Hiệp hội này có rất nhiều lợi ích thương mại chung và nó thường có khả
năng điều chỉnh lợi ích để có cùng một tiếng nói chung.
Một liên kết được biết nhiều trong vòng đàm phán Uruguay có nhiều
lợi ích thương mại tương đồng hơn là một liên minh kinh tế theo khu vực, đó
là nhóm Cairri, bao gồm các quốc gia xuất khẩu nông sản phát triển, đang
phát triển và các nước vùng trung tâm châu Âu.
Việc thông qua các quyết định c
ủa tổ chức WTO
Tổ chức WTO vẫn tiếp tục truyền thống lâu đời của GATT là thông
qua các quyết định bằng sự nhất trí chứ không phải bằng bỏ phiếu. Thủ tục
này cho phép các nước thành viên bảo đảm các lợi ích riêng của mình bằng
cách xem xét kỹ càng, thậm chí cũng có thể quyết định tới sự nhất trí về
những lợi ích chung của hệ thống thương mại
đa biên. Một khi không đạt
được sự nhất trí, hiệp định của WTO cho phép bỏ phiếu. Trong các tình
huống như vậy, quyết định được áp dụng nếu có đa số tán thành và trên cơ
sở "mỗi nước thành viên chỉ một lá phiếu".
Có 4 tình huống bỏ phiếu đặc biệt được dự tính trong hiệp định của tổ
chức WTO. Thứ nhất là các số nước thành viên tán thành đủ để thông qua
một s
ự giải thích bất kỳ của các hiệp định thương mại đa biên. Thứ hai là
trên cơ sở các số nước tán thành, Hội nghị Bộ trưởng có thể quyết định phủ
quyết một sự từ bỏ nghĩa vụ của một thành viên cụ thể trong một hiệp định
đa biên. Thứ ba là quyết định sửa đổi các điều khoản của các hiệ
p định đa
biên chỉ có thể thông qua nếu được tất cả hay ít nhất 2/3 số nước thành viên
(phụ thuộc vào bản chất của các điều khoản liên quan) tán thành. Tuy nhiên,

những sửa đổi đó chỉ có tác dụng đối với các thành viên tán thành. Cuối
cùng, quyết định kết nạp thành viên mới chỉ được thông qua nếu được 2/3 số
nước thành viên tán thành tại Hội nghị Bộ trưởng.
Ban thư ký và ngân sách của tổ ch
ức WTO
Ban thư ký của tổ chức WTO có trụ sở duy nhất được đặt tại Geneva,
với khoảng 550 người, đứng đầu là Tổng giám đốc. Ban thư ký không quyết
định các quyền lực đang nắm giữ, chỉ các thành viên mới có quyền quyết

16
định. Nhiệm vụ chính của ban thư ký cung cấp, trợ giúp kỹ thuật cho các
nước đang phát triển, Đáp ứng ủng hộ kỹ thuật và tay nghề cho các Hội đồng
và các ủy ban, nhằm điều chỉnh và phân tích sự phát triển trong thương mại
Thế giới, nhằm cung cấp thông tin tới công chúng và tổ chức các cuộc họp
cấp Bộ. Ban thư ký cũng cung cấp một số thể thứ
c trợ giúp hợp pháp trong
tiến trình giải quyết tranh chấp và tư vấn cho chính phủ các nước muốn trở
thành thành viên của tổ chức WTO.
Nhân viên của ban thư ký gồm các cá nhân đại diện cho khoảng 60
quốc gia. Các nhân viên này hầu hết bao gồm các nhà kinh tế, các luật sư,
các chuyên gia về vấn đề chính sách thương mại quốc tế. Toàn bộ nhân viên
chủ yếu làm công việc ủng hộ các dịch vụ bao gồm về các kiến thức tài
chính, nguồn nhân lực, dịch vụ ngôn ngữ. Ngôn ngữ làm việc của tổ chức
WTO là bằng tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha.
Ngân sách của tổ chức WTO là gồm các đóng góp được quy định theo
cổ phần thương mại quốc tế của mỗi thành viên, dựa vào hoạt động trong
hàng hóa, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ trong 3 năm gần nhất theo số liệu
sẵn có. Mức đóng góp tối thiểu là 0,015% cho các thành viên tham gia vào
toàn bộ vi
ệc trao đổi buôn bán của tất cả các thành viên ít hơn 0,015%. Toàn

bộ ngân sách đóng góp của các nước năm 2003 là 153.800.000 CHF.
Thủ tục gia nhập tổ chức WTO
Phần lớn các thành viên của tổ chức WTO là các thành viên của
GATT đã ký hiệp định cuối cùng của vòng Uruguay và cam kết thương
lượng về sự xâm nhập của các hàng hóa dịch vụ vào thị trường của mình
theo quyết định của cuộc họp tại Marrakesh năm 1994. Một số
nước gia
nhập GATT vào cuối năm 1994 cũng ký hiệp định cuối cùng, cam kết
thương lượng về những chương trình tự do hóa hàng hóa và dịch vụ đã trở
thành thành viên WTO. Các nước khác cũng tham gia các cuộc thương
lượng tại Vòng đàm phán Uruguay, cam kết chỉ trong năm 1995 sẽ thực hiện
các thủ tục phê chuẩn trong nước và đã trở thành thành viên sau đó. Ngoài
các thỏa thuận liên quan đến các thành viên ban đầu của tổ chức WTO, bất

17
cứ quốc gia hay tổ chức liên minh thuế quan nào có tư cách hoàn toàn độc
lập trong các chính sách thương mại đều có thể gia nhập tổ chức WTO với
điều kiện là được các thành viên WTO nhất trí.
Trong giai đoạn đầu tiên của thủ tục gia nhập, chính phủ nước đó khi
nộp đơn được yêu cầu cung cấp cho tổ chức WTO bản ghi nhớ bao gồm tất
cả các khía cạnh của chính sách thương mại và kinh t
ế liên quan đến các
hiệp định của tổ chức WTO. Bản ghi nhớ này sẽ là cơ sở cho cuộc điều tra
chi tiết về thủ tục gia nhập do một nhóm làm việc thực hiện.
Bên cạnh những nỗ lực của nhóm làm việc, chính phủ đệ đơn phải tiến
hành các cuộc thương lượng tay đôi với các nước thành viên quan tâm về
thâm nhập thị trường, khi đã hoàn thành, nhóm làm việc sẽ so
ạn thảo các
điều kiện cơ bản của sự gia nhập.
Cuối cùng báo cáo kết quả của nhóm làm việc, bản dự thảo biên bản

gia nhập và các chương trình đã được nhất trí từ các cuộc thương lượng song
phương sẽ được đệ trình lên Hội đồng chung hoặc Hội nghị Bộ trưởng để
phê chuẩn. Nếu được 2/3 số nước thành viên WTO tán thành, nước nộp đơn
có th
ể ký vào sau khi được sự phê chuẩn tại Quốc hội hoặc cơ quan lập pháp
của nước đó.
Sự giúp đỡ các nền kinh tế đang phát triển
Các nước đang phát triển, chiếm hơn 1/2 trong tổng số thành viên của
tổ chức WTO và đóng một vai trò quan trọng trong WTO. Do vậy, cần chú ý
hơn đến các nhu cầu và các vấn đề đặc biệt của các nước đang phát triển. Ví
dụ, Ban Thư ký củ
a tổ chức WTO tự mình hay hợp tác với các tổ chức quốc
tế để tổ chức các cuộc viếng thăm, các cuộc hội thảo và cung cấp sự hợp tác
kỹ thuật thiết thực cụ thể cho các chính phủ và các quan chức của các chính
phủ làm việc trong nhóm đàm phán về việc thực hiện các cam kết WTO hay
tìm kiếm sự tham gia có hiệu quả trong các cuộc thương lượng đa biên. Các
khóa học hay sự
giúp đỡ đơn lẻ về các hoạt động cụ thể của tổ chức WTO
bao gồm cả giải quyết tranh chấp và các đánh giá chính sách thương mại.
Hơn nữa, các nước đang phát triển cần được sự giúp đỡ trong cung cấp

18
thông tin về thương mại và thuế quan liên quan đến lợi ích xuất khẩu của các
nước này và việc tham gia vào các cơ quan của tổ chức WTO.
Ban Thư ký của tổ chức WTO cũng tiến hành các chương trình đào
tạo của GATT. Đó là khóa học một năm hai lần, kể từ năm 1998 mỗi năm ba
khóa đào tạo trong 90 ngày dành cho các quan chức của các nước đang phát
triển. Từ khi bắt đầu, năm 1995 đế
n cuối năm 1997 đã có gần 1.400 quan
chức thương mại từ 125 nước và 10 tổ chức khu vực được đào tạo.

Sự giúp đỡ đặc biệt đối với xuất khẩu
Trung tâm thương mại quốc tế ITC đã được GATT thành lập do nhu cầu
của các nước đang phát triển nhằm giúp đỡ họ xúc tiến xuất khẩu. Tổ chức này
hiện đang hoạt động dướ
i sự đồng bảo trợ của tổ chức WTO và Liên Hợp
Quốc (thông qua UNCTAD - Hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát
triển).
ITC đáp ứng yêu cầu từ các nước đang phát triển dưới hình thức trợ
giúp thiết lập và thực hiện các chương trình xúc tiến xuất khẩu cũng như các
nghiệp vụ và kỹ thuật nhập khẩu. ITC cung cấp thông tin và tư vấn về thị

trường xuất khẩu và kỹ thuật marketing và đào tạo nhân sự theo yêu cầu của
các dịch vụ trên.
Các thỏa thuận thương mại khu vực
Các dàn xếp thương mại khu vực, trong đó một nhóm các nước nhất
trí xóa bỏ hay cắt giảm hàng rào thuế quan nhưng không làm tổn hại đến
hành nhập khẩu từ nước khác, đã thiết lập ở nhiều phần của thế giới. GATT
đã công nh
ận trong điều 24, giá trị của sự hòa nhập chặt chẽ hơn các nền
kinh tế quốc gia thông qua thương mại tự do hóa. Tuy nhiên, sự cho phép
các nhóm như vậy chỉ như là một ngoại lệ nguyên tắc chung của sự đãi ngộ
tối huệ quốc, đưa ra các tiêu thức hạn chế cụ thể. Các quy định nhằm mục
đích đảm bảo rằng các dàn xếp sẽ tạo thuận l
ợi cho thương mại giữa các
nước liên quan, mà không có sự tăng thuế đối với các nước bên ngoài. Bằng
cách này, khu vực hóa phải là một phần bổ sung của hệ thống thương mại đa
phương và không đe dọa nó. Nhóm nước liên kết thương mại khu vực theo

19
điều 24 có thể được xây dựng dưới hình thức liên minh quan thuế hay khu

vực mậu dịch tự do. Trong cả hai trường hợp, thuế và các hàng rào khác đối
với thương mại giữa các nước trong nhóm về căn bản đều được yêu cầu xóa
bỏ. Trong khu vực mậu dịch tự do, các nước không phải là thành viên được
duy trì chính sách ngoại thương riêng, bao gồm cả thuế. Trong hiệp hội hải
quan thuế hay các quy định đi
ều chỉnh thương mại của các thành viên trong
nhóm các nước không phải là thành viên, đòi hỏi không hạn chế hơn so với
những gì đã áp dụng trước khi nhóm được thành lập.
Vai trò của WTO trong hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu
Một khía cạnh quan trọng trong chức năng của tổ chức WTO là hợp
tác với IMF, WB và các tổ chức đa phương khác để đạt được sự kết hợp hơn
nữa trong hoạch đị
nh chính sách kinh tế toàn cầu. Một tuyên bố riêng cấp bộ
trưởng đã được phê chuẩn tại cuộc họp Bộ trưởng Marrkesh, tháng 4 năm
1994, nhằm thực hiện mục tiêu này.
Tuyên bố công nhận có những liên kết giữa các khía cạnh khác nhau
của chính sách thương mại và kêu gọi các thành viên của tổ chức WTO phát
triển sự hợp tác với các tổ chức quốc tế chịu trách nhiệm về tiền tệ tài chính.
Tuyên bố c
ũng thừa nhận tự do hóa thương mại đã góp phần vào tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế các nước. Tuyên bố đánh giá rằng, tự do hóa
là một nhân tố ngày càng quan trọng cho sự thành công của các chương trình
điều chỉnh, được rất nhiều nước thành viên WTO cam kết.
Kiểm soát chính sách thương mại quốc gia
Việc giám sát chính sách thương mại quốc gia là hoạt động cơ bản
xuyên suốt các hoạt động củ
a tổ chức WTO. Trọng tâm của vấn đề này
chính là Cơ chế đánh giá chính sách thương mại (Trade Policy Review
Mechanism- TPRM).
Các mục tiêu chính của TPRM, thông qua việc giám sát thường xuyên

là nâng cao tính rõ ràng và sự hiểu biết về các chính sách và thực tiễn
thương mại, cải thiện chất lượng của cuộc đàm phán chung giữa các chính
phủ, tạo điều kiện cho việc đánh giá đa phương về các ảnh hưởng của các

20
chính sách đối với hệ thống thương mại toàn cầu. Bằng cách này, sẽ khuyến
khích các chính phủ thành viên tuân thủ chặt chẽ các quy định, nguyên tắc
của tổ chức WTO và thực hiện các cam kết của mình.
Việc đánh giá các chính sách thương mại được tiến hành trên cơ sở
thường kỳ. Bốn thành viên buôn bán lớn nhất: EU, Mỹ, Nhật và Canada,
được đánh giá khoảng hai năm một lần, 16 nước có khối lượng th
ương mại
thế giới tiếp theo sau, cứ 4 năm tiến hành đánh giá một lần. Đối với các nước
còn lại, việc đánh giá được tiến hành 6 năm một lần và có thể lâu hơn đối
với các nước chậm phát triển.
Việc đánh giá do Ủy ban đánh giá chính sách thương mại (TPRB) được
hình thành ở cấp độ giống như là Hội đồng chung - tiến hành trên cơ sở hai tài
liệu: tuyên bố
về chính sách của chính phủ thuộc nước được đánh giá và báo
cáo chi tiết do Ban Thư ký của WTO chuẩn bị độc lập. Cả hai tài liệu này
cùng với những biên bản lưu của TPRB sẽ được công bố sau buổi đánh giá.
Ngoài TPRB, có nhiều hiệp định khác của WTO quy định nghĩa vụ
cho các thành viên là phải thông báo cho Ban Thư ký WTO về các biện pháp
thương mại mới, hay đã thay đổi. Ví dụ, các chi tiết của Bộ luật chố
ng phá
giá hoặc thuế đối kháng (nhằm triệt tiêu tác dụng trợ cấp áp dụng cho các
tình huống nhất định), các tiêu chuẩn kỹ thuật mới ảnh hưởng tới thương
mại dịch vụ, việc thực hiện các cam kết về nông nghiệp và các luật quy định
liên quan đến Hiệp định TRIP, tất cả phải được thông báo cho cơ quan tương
ứng của tổ chức WTO. Các nhóm làm việc đặc biệt cũng s

ẽ được thiết lập để
kiểm tra các hiệp định thương mại mới và các chính sách thương mại của
các nước xin gia nhập WTO.
1.2- Điều kiện gia nhập WTO:
Trong các quy định và yêu cầu của WTO về tự do hóa thương mại,
đáng chú ý có những quy định như sau:
Tổ chức WTO quy định đến năm 2000 các thành viên phát triển phải
giảm 40% thuế quan trung bình đối với hàng công nghiệp so với năm 1974,
các nước
đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi thì giảm bằng 2/3

21
mức này, tức là 24%. Theo đó, năm 2000, thuế quan trung bình của các nước
đang phát triển sẽ còn 3,9% (từ 6,3%), các nền kinh tế chuyển đổi còn 6%
(từ 8,6%), các nước đang phát triển còn 12,3% (từ 15%). Trong nông
nghiệp, các nước phát triển cam kết giảm thuế quan trung bình 36% trong
vòng 6 năm từ 1995-2000, ít nhất giảm 15% cho mỗi sản phẩm; các nước
đang phát triển sẽ giảm 24% trong vòng 10 năm từ 1995 đến 2004, ít nhất là
10% cho mỗi sản phẩm, các nền kinh tế chuy
ển đổi phải giảm trung bình
36%.
Bên cạnh những quy định về giảm thuế quan, WTO cũng đưa ra yêu
cầu "chỉ bảo hộ bằng thuế quan" trong lĩnh vực thương mại hàng hóa. Theo
nguyên tắc này, các nước thành viên không được phép sử dụng các hạn chế
về số lượng, trừ một số trường hợp được quy định chặt chẽ. Việc sử dụng
các hàng rào phi thuế quan khác cũng phải dỡ
bỏ, lới lỏng và việc áp dụng
phải tuân thủ các quy định của tổ chức WTO. Theo những quy định này,
những biện pháp bảo hộ trước đây như cấp giấy phép nhập khẩu, trợ cấp
rất khó áp dụng, thay vào đó là những hàng rào vệ sinh, kỹ thuật, các biện

pháp tự vệ đang ngày càng trở nên phổ biến.
Các quy định này áp dụng cho các nước đã là thành viên. Đối với các
nước ch
ưa phải là thành viên và đang trong quá trình gia nhập thì các yêu
cầu cắt giảm thuế quan và phi thuế sẽ được xem xét với từng trường hợp cụ
thể và được thỏa thuận trong quá trình đàm phán. Nhìn chung, các cam kết
sẽ dựa trên điều kiện kinh tế của nước xin gia nhập và các quy định của tổ
chức WTO.
Để gia nhập tổ chức WTO, các nước muốn xin gia nhập vừa phải đàm
phán với tổ chức WTO (
đàm phán đa phương), vừa phải đàm phán song
phương với một số thành viên chủ chốt của tổ chức này, thường là những
nước lớn, có quan tâm đến việc các nước muốn xin gia nhập mở cửa thị
trường.

22
Đàm phán gia nhập tổ chức WTO thường kéo dài nhiều năm. Việc kết
thúc đàm phán sớm hay muộn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan, trong đó, điều quan trọng là phải tính toán các cam kết sao cho phù
hợp với khả năng phát triển của đất nước phù hợp với quy định của tổ chức
WTO có tính đến các cam kết của các nước mới gia nhập tổ chức WTO; khả
n
ăng đàm phán và kết quả đàm phán sẽ là tổng hợp của các yếu tố đó lại.
Ví dụ như để gia nhập tổ chức WTO, Trung Quốc đã phải trải qua 15
năm đàm phán, trong khi đó, các nước như Gruzia chỉ mất có 4 năm. Tuy
nhiên, Gruzia đã đưa ra những cam kết tương đối cao, chấp nhận mở cửa ở
hầu hết các lĩnh vực, còn Trung Quốc tuy có những nhân nhượ
ng mở cửa rất
lớn song vẫn đưa ra được lộ trình tương đối dài hạn và dành được một số
điều kiện phù hợp với trình độ phát triển của mình.



2. Sự cần thiết gia nhập tổ chức WTO của các nước đang phát triển:
Tổ chức WTO được thành lập tại Vòng đàm phán Uruguay và bắt đầu
đi vào hoạt động từ ngày 1-1-1995. Tổ chức WTO thay thế
tổ chức tiền
nhiệm GATT kiểm soát thương mại quốc tế giữa các nước thành viên trên
cơ sở những luật lệ đã được thông qua. Hiện nay, tổ chức WTO có 145 thành
viên và hơn 30 nước đang trong quá trình đàm phán gia nhập tổ chức này.
Tổ chức WTO hiện đang kiểm soát trên 95% tổng khối lượng thương mại
quốc tế và các kinh tế cho rằng nhờ có tổ chức WTO mà năm 2002 tỷ lệ

phúc lợi ròng của thế giới sẽ tăng khoảng 270 tỷ USD so với mức nó có thể
đạt được - tính theo thời gian năm 1993 - nếu như mức độ bảo hộ mậu dịch
giữ nguyên không thay đổi. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của tổ chức
WTO đối với thương mại quốc tế và cũng lý giải tại sao các nước xin gia
nhập tổ chức này. Thêm vào đó, hội nhập kinh t
ế quốc tế đang là xu hướng
hiện nay và không có quốc gia nào muốn ở ngoài cuộc. Tuy nhiên, trở thành
thành viên của tổ chức WTO là vấn đề thực sự khó khăn đối với các nước
xin gia nhập và quá trình gia nhập thường kéo dài 3 đến 5 năm, thậm chí có

23
thể dài hơn. Mỗi nước thường có những lý do riêng để xin gia nhập tổ chức
WTO, nhưng cũng có thể thấy một số lý do chung để các nước xin gia nhập
tổ chức WTO thông qua việc phân tích lợi ích trong thương mại quốc tế khi
đứng trong tổ chức WTO.
Không bị phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế.
Theo nguyên tắc của tổ chức WTO, một thành viên của tổ chức này sẽ


mặc nhiên được hưởng chế tối huệ quốc và những đãi ngộ quốc gia khác nếu
như chúng được áp dụng từ tất cả các thành viên của tổ chức WTO. Ngược
lại, nếu không phải là thành viên thì sẽ không được hưởng những ưu đãi mà
các thành viên dành cho nhau thông qua các cuộc thương lượng. Hàng hoá
nhập khẩu và một số dịch vụ từ các nước không phải thành viên sẽ bị đánh
thuế
ở mức phổ thông; không phải mức độ ưu đãi, thường cao hơn nhiều
mức MFN mà các thành viên dành cho nhau. Ngoài ra, các thành viên có thể
thay đổi các chính sách và biện pháp áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ
nước không phải thành viên, do đó sẽ tạo ra môi trường thương mại không
ổn định cho các nước này. Điều này có thể thấy rõ trong biểu thuế quan của
các nước phát triển. Chẳng hạn, hàng hoá xuất khẩu sang Mỹ trong điều ki
ện
không được hưởng ưu đãi MFN thường bị đánh thuế mức phổ thông rất cao
(mức trung bình 30%), trong khi đó mức thuế MFN chỉ khoảng 5%. Ví dụ,
mức thuế MFN của Mỹ đối với áo sơ mi sợi bông nhập khẩu là 25%, trong
khi mức thuế phổ thông là 40%. Mỹ áp dụng mức thuế 40% đối với mật ong
nhập khẩu, những mức thuế này có thể tăng lên đến 150% khi xảy ra tranh
chấp thương mại với các nước trở thành thành viên của WTO sẽ được hưởng
MFN lâu dài của tất cả các thành viên khác, nhờ đó sẽ tăng được khả năng
cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu, đồng thời góp phần xoá bỏ những lý do
để các cường quốc thương mại áp dụng các biện pháp phân biệt đối xử trong
việc ấn định các biện pháp chống bán phá giá và biện pháp tự vệ.
Tuy nhiên, trên thực t
ế, khi đã vào WTO, để không bị phân biệt đối xử
các nước phải thường xuyên tiếp cận nguyên tắc này trong tiến trình đàm

24
phán, phải tính đến sự đa dạng của các quan hệ kinh tế - thương mại của
mình với từng nước và phải tuân thủ theo nguyên tắc có đi có lại.

Ổn định thị trường xuất khẩu
Mục tiêu của WTO là tạo ra được sự hợp tác giữa các thành viên để
kiểm soát thương mại quốc tế theo những tiêu chuẩn và luật lệ đã được
thông qua nhằm tạo thuận l
ợi cho việc tiếp cận thị trường của nhau và trợ
giúp cho sự phát triển bên trong của từng nền kinh tế thành viên. Tại vòng
đàm phán Uruguay, các nước đã nhất trí giảm các hàng rào quan thuế và phi
thuế quan để cho hàng hoá được lưu chuyển một cách thuận lợi. Do đó, nếu
là thành viên của WTO thì nước đó sẽ được hưởng quy chế này để mở rộng
thị trường xuất khẩu hàng hoá của mình. Điều này sẽ
giúp cho thành viên có
thể dự báo được thị trường cho hàng xuất khẩu trong tương lai và tạo ra mối
quan hệ thương mại chắc chắn hơn, góp phần tạo thuận lợi cho việc hoạch
định các chính sách về đầu tư và phát triển sản xuất công - nông nghiệp,
giảm thiểu những rủi ro trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên, sự ổn định thị
trường chỉ được đảm bảo trong đi
ều kiện không ngừng nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hoá.
Củng cố được hệ thống pháp luật trong nước
WTO là một tổ chức với những quy định và “Luật chơi” chặt chẽ
kiểm soát thương mại toàn cầu. Các hiệp định của WTO không ngừng nâng
cao tính minh bạch của chính sách thương mại và tập quán thương mại quốc
tế. Do đó, nếu trở thành thành viên, nhất là các nước đang phát triển và nướ
c
có nền kinh tế chuyển đổi, sẽ có điều kiện xây dựng và tăng cường các chính
sách và thể chế điều hành, quản lý nền kinh tế của mình phù hợp với luật
pháp thông lệ quốc tế nhằm tăng cường sự ổn định trong môi trường kinh
doanh, nâng cao hiệu quả và năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế.
Đồng thời, khi là thành viên của WTO, nước đó sẽ tăng c
ường được khả

năng thu hút đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ cao từ các thành
viên do tạo ra được sự tin tưởng vào cơ chế, chính sách ổn định. Mặt khác, là
thành viên, nước đó còn tranh thủ được sự hỗ trợ của các định chế tài chính

×