Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

TRÌNH BÀY VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.41 KB, 7 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

BÀI TIỂU LUẬN

CHỦ ĐỀ: TRÌNH BÀY VAI TRỊ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Giáo viên bộ môn : Lê Thị Quỳnh Nga
Sinh viên thực hiện: Bùi Đức Thành An
Lớp: HIS1001 05
Mã sinh viên: 20100223


NỘI DUNG
I. Vai trị về việc tìm kiếm và lựa chọn đúng đắn con đường giải phóng cho đất
nước, cho dân tộc (1911-1920)
Ý thức về việc tìm kiếm con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện từ rất
sớm, Người đã từng kể: "Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự
do, Bình đẳng, Bác ái... Và từ thuở ấy, tơi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn
tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy... Tơi quyết định tìm cách đi ra nước
ngồi"1. Pháp là nơi đầu tiên Người lựa chọn, là nước có cuộc Cách mạng 1789 điển hình,
đồng thời cũng đang thống trị Tổ quốc ta với chế độ thực dân. “ Biết người biết ta, trăm trận
trăm thắng”, muốn đánh bại kẻ thù thì trước hết phải hiểu rõ kẻ thù, qua đó tìm ra con đường
cứu nước, giải phóng dân tộc theo đường lối mới.
Ngày 5/6/1911, với tên gọi là Văn Ba, Người đã từ bến Nhà Rồng đến tàu Latútsơ
Tơrêvin để ra đi để tìm đường cứu nước. Khi đến Pháp, Bác tự hỏi "ở Pháp cũng có người
nghèo khổ như bên ta, tại sao người Pháp khơng "khai hóa" đồng bào của nước họ trước khi
đi "khai hóa" chúng ta". Người nhận ra nước Pháp không giống như trong Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của cuộc Đại cách mạng Pháp 1789 đã viết. Trên thực tế, người dân lao


động ở Pháp cũng bị đàn áp, bóc lột dưới trướng những kẻ thống trị tại đây. Với sự nhạy bén
của mình, Người nhận ra rằng giai cấp cơng nhân, những con người tại các nước phát triển sẽ
là đồng minh đáng tin cậy của người dân Việt Nam và các nước thuộc địa.
Giữa tháng 12/1912, Người tiếp tục hành trình đến Mỹ để tìm ra chân lý cách mạng
cho Tổ quốc. Tại đây, ngoài lao động để kiếm sống, Người đã dành phần lớn thời gian để
nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776.
Cuối năm 1913 là lúc Chính phủ Anh đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc chiến tranh thế
giới. Người đến Anh, hiểu được bản chất của cái gọi là “sứ mệnh khai hoá văn minh” của các
nước đế quốc. Sau đó Người tham dự nhiều buổi diễn thuyết chính trị, lên tiếng ủng hộ cuộc
đấu tranh yêu nước của nhân dân Ailen. Đặc biệt Người đã tham gia tổ chức Cơng đồn lao
động hải ngoại, một tổ chức bí mật của những người lao động ở các thuộc địa sống trên đất
Anh.
Cuối năm 1917, Người quay trở lại Pháp và tới Pari. Người không chỉ dừng lại ở việc
quan sát, mà còn thực sự đi vào hoạt động, tổ chức trong những người Việt Nam yêu nước,
trong giai cấp công nhân Pháp và trong những người thuộc các màu da sống trên đất Pháp.
Đầu năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp. Được hỏi về quyết định này, Bác
trả lời: "Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo
đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng. Bác ái"2. Đây là một bước
chuyển về chất của Người: từ người yêu nước thành đảng viên – người cộng sản. Tham gia
phong trào công nhân Pháp giúp Người thấy được sức mạnh đồn kết của giai cấp cơng nhân
vì họ có chung nỗi khổ, cùng mục đích và quan trọng hơn là cùng một kẻ thù. Hay nói theo
cách khác, đó là cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa liên minh cùng nhân dân ở
chính quốc. Nguyễn Tất Thành cùng Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, là những người Việt
Nam yêu nước sống tại Pháp, họ đã cùng nhau tuyên truyền, tiến hành tổ chức, khơi dậy lòng
yêu nước và trách nhiệm đối với Tổ quốc.
Tháng 1/1919, Hội nghị "Hịa bình" họp ở Vécxây. Tổng thống Mỹ Uynxơn với "Kế
hoạch 14 điểm" nêu cao quyền dân tộc tự quyết. Tháng 6/1919, Người thay mặt Hội những
người Việt Nam yêu nước gửi “Bản yêu sách 8 điểm” đến Hội nghị đòi quyền tự do, dân chủ
cho nhân dân Việt Nam và ký tên Nguyễn Ái Quốc. Tất nhiên "Bản yêu sách" về các quyền
“tối thiểu” và “cấp thiết” đã khơng được đề cập đến vì Hội nghị Vécxây thực chất là nơi bọn

đế quốc chia nhau khu vực ảnh hưởng và quyền lợi quốc tế sau cuộc Chiến tranh thế giới lần
1
2

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, t.1, tr.477
Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t.1, tr.47


thứ nhất. Qua đó Người rút ra nhận xét: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn… và
muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trơng cậy vào mình, trơng cậy vào lực lượng
của bản thân mình”3.
Cuộc hành trình bơn ba khắp các châu lục đặc biệt là các đế quốc lớn nhất thời đó
(Mỹ, Anh, Pháp) đã giúp Người có cơ hội tiếp cận với những nền văn hố mới, tư tưởng mới
để qua đó học hỏi và rút ra những chính sách phù hợp với truyền thống của dân tộc ta và các
dân tộc bị áp bức. Người đưa ra kết luận: “Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc
địa da vàng hay da đen cũng không đúng một xu"4 và tất cả bọn đế quốc đều tàn bạo. Đây là
những nhận thức mang tính chất nền tảng trong việc xác định kẻ thù, để có cơ sở cho Bác viết
bản luận tội danh thép: Bản án chế độ thực dân Pháp. Bác nhận ra sự giả tạo của "Tự do, Bình
đẳng, Bác ái" của Cách mạng Mỹ và Cách mạng Pháp. Sau này, trong tác phẩm Đường cách
mệnh, Bác có viết: "Mỹ tuy rằng cách mạng thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công
nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ là tính cách mệnh lần thứ hai"5, cịn Pháp thì "cách mệnh đã bốn
lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thốt khỏi
vịng áp bức"6. Qua đó, Bác nhận thấy rằng không thể mang lại tự do cho dân tộc bằng đường
lối Cách mạng của Mỹ và Pháp, mà phải đi theo con đường cách mạng khác.
Ngày 17/7/1920 sau khi được biết Quốc tế Cộng sản đoàn kết với các dân tộc thuộc
địa và nhất là được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa của Lênin, thì lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc nhận biết được một tổ chức quốc tế
ủng hộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân áp bức và tìm thấy
con đường cứu nước đúng đắn. Luận cương của Lênin đã giải quyết trọn vẹn một vấn đề rất
cơ bản mà Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm là vấn đề dân tộc và thuộc địa được đặt trong

mối quan hệ với phong trào cộng sản quốc tế, chỉ ra con đường giải phóng cho các dân tộc
thuộc địa. Người nói: "Luận cương của Lênin làm cho tơi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ,
tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to
lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hội đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái
cần thiết cho chúng ta, dậy là con đường giải phóng chúng ta!"7. Luận cương tạo ra bước
chuyển biến căn bản trong nhận thức tư tưởng, giúp Nguyễn Ái Quốc đi đến khẳng định:
"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác, con đường cách mạng
vơ sản". Đó là con đường Cách mạng Tháng Mười, con đường của Quốc tế Cộng sản và
Đảng Bơnsêvích Nga, con đường của chủ nghĩa Lênin.
Chủ nghĩa Lênin và Quốc tế Cộng sản là nhân tố quan trọng nhất, nhân tố quyết định
hình thành con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Trải qua gần mười năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã từ chủ nghĩa yêu nước đến
với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, từ một thanh niên yêu nước trở thành một
chiến sĩ cộng sản quốc tế.
II. Vai trò trong sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và truyền bá lý luận giải phóng
dân tộc để chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng
Sau khi tìm ra con đường cách mạng chân lý, có thể dẫn dắt người dân Việt Nam đi
đến tự do thì việc đầu tiên cần làm là để nhân dân biết đến và tiếp cận với chủ nghĩa MácLênin . Với tình hình lúc bấy giờ, việc đó gần như khơng khả thi vì Việt Nam đang bị Pháp
đàn áp và thống trị, chưa kể cái tên Nguyễn Tất Thành trong Bản yêu sách tại hội nghị
Vécxây đã trở thành mục tiêu truy lùng của mật thám Pháp. Để có thể thực hiện ý định của
mình, bước đầu Người đã chọn phương thức “mưa dầm thấm lâu”, đầu tiên là hoạt động
Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, 2001, tr.28.
Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 24.
5
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr.192.
6
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tr.197.
7
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.127.
3

4


chính trị ở Pháp, Liên Xơ, Trung Quốc nhằm truyền bá tới tầng lớp trí thức, rồi dần dần đến
các giai cấp khác.
1. Thời kỳ ở Pháp (1921-1923)
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã cho Người niềm tin để tìm ra cơ sở cho con đường giải
phóng dân tộc Việt Nam. Hoạt động đầu tiên của Người là tham gia sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp. Tại đây, Người tích cực các hoạt động chính trị để truyền đạt cho các nước phương
Đơng hiểu được tầm quan trọng của Đảng cộng sản và sự đồn kết với giai cấp cơng nhân
chính quốc với nhau và với các dân tộc thuộc địa. Do đó, một trong những hướng hoạt động
đầu tiên là tố cáo, lên án sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, thu hút sự quan tâm,
đồng tình của bạn bè quốc tế đối với tình cảnh của các dân tộc thuộc địa; đồng thời thức
tỉnh, cổ vũ họ đứng lên đấu tranh tự giải phóng.
Năm 1921, Người thành lập Hội liên hiệp thuộc địa dưới sự hỗ trợ của Đảng Cộng
Sản Pháp cùng với những người ở thuộc địa sống trên đất Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân. Hội đã xuất bản tờ báo Người cùng khổ (Le Paria), do Nguyễn Ái Quốc làm chủ
nhiệm kiêm chủ bút…
Cuối năm 1921, tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp họp ở Mácxây,
Nguyễn Ái Quốc trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề "Chủ nghĩa cộng sản và các thuộc
địa" và kiến nghị thành lập Ban Nghiên cứu thuộc Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Pháp
được Đại hội chấp nhận. Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa được thành lập, Nguyễn Ái
Quốc được cử làm trưởng tiểu ban nghiên cứu về vấn đề Đông Dương.
Để tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa, Người đã đăng tác
phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la colonisation Franỗaise) trên các báo
Người cùng khổ (Le Paria), Nhân đạo (L'Humanité) của Đảng Cộng sản Pháp, Đời sống công
nhân (La Vie ouvrière) của Tổng Liên đoàn Lao động Pháp và được xuất bản lần đầu tiên ở
Pari năm 1925. Với lối diễn văn tinh tế cùng với các bằng chứng cụ thể, tác phẩm đã tố cáo
tội ác tày trời của bọn chúng trước dư luận Pháp và thế giới, cụ thể như: "Chủ nghĩa tư bản là
một con đỉa có một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi khác bám

vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng
thời cắt cả hai vịi. Nếu người ta chỉ cắt một vịi thơi, thì cái vịi kia vẫn tiếp tục hút máu của
giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra".
Tháng 6-1923, Người sang Mátxcơva để tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân, đồng
thời trực tiếp học tập nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Lênin.
2. Thời kỳ ở Liên Xô (1923-1924)
Năm 1924, Người tham gia Đại hội V của Quốc tế Cộng sản và các đại hội của Quốc
tế Công hội đỏ, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ. Trong hai bản tham
luận quan trọng đọc tại Hội nghị Quốc tế nông dân và Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng
sản, Nguyễn Ái Quốc đã đề cập hai vấn đề lớn sau:
● Tăng cường mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong
trào cách mạng ở các nước thuộc địa.
● Vấn đề nông dân ở các nước thuộc địa.
Người đã thẳng thắn nhận xét và phê bình một số đảng cộng sản ở các nước tư bản
chủ nghĩa đã coi nhẹ vấn đề thuộc địa, chưa biết kết hợp phong trào cách mạng ở chính quốc
và cách mạng ở các nước thuộc địa để thành lập một mặt trận đấu tranh chung. Đối với vấn
đề nông dân, Người chỉ rõ rằng: Nông dân bị áp bức bóc lột nặng nề, nạn đói luôn luôn xảy
ra, sự phẫn uất ngày càng lên cao nhưng còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế
Cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ
cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng.
Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây Người
cùng các nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, ...,
thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức.


3. Thời kỳ hoạt động ở Trung Quốc (1924-1927)
Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, với hạt nhân là
Cộng sản đoàn. Cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo Thanh niên. Đây là một bước
chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1925-1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo

một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Sau các khóa học một số được chọn đi học ở
trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, một số được cử đi học trường qn sự
Hồng Phố, cịn phần lớn trở về nước để "truyền bá lý luận giải phóng dân tộc, và tổ chức
nhân dân".
Đầu năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các lớp đào tạo cán bộ tại
Quảng Châu được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản thành
sách với tên gọi là Đường kách mệnh. Trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc vạch ra những
phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam. Đường kách mệnh còn dành một phần thích đáng để giới thiệu các tổ chức chính trị của
Quốc tế Cộng sản và hướng dẫn nhân dân Việt Nam tham gia các tổ chức đó.
Tháng 4-1927, Tưởng Giới Thạch phản bội cách mạng Trung Quốc, đàn áp những
đảng viên cộng sản và những người cách mạng. Nguyễn Ái Quốc phải rời Quảng Châu sang
Liên Xô. Mùa thu năm 1928, Người về Thái Lan tiếp tục công việc chuẩn bị thành lập Đảng.
4. Việc truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin tới nhân dân Việt Nam
Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thực hiện chủ trương "Vô sản hóa",
đưa hội viên của mình vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền trong nước, cùng sống và làm
việc với công nhân, đồng thời cũng là phương thức truyền bá lý luận giải phóng dân tộc, tổ
chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Những người theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, con đường cách mạng của
học thuyết Mác Lênin vừa phải đấu tranh với các đề xướng và vận động thành lập các chính
đảng quốc gia, thành lập "khối dân tộc", vừa phải đấu tranh chống lại chính sách khủng bố
của bọn đế quốc. Lập trường giải phóng dân tộc đúng đắn của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên đã thắng lập trường giải phóng dân tộc tư sản. Nó đã giáo dục, giác ngộ nhiều
người yêu nước chân chính theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, đào tạo và rèn luyện họ
thành những chiến sĩ cách mạng trung thành làm nòng cốt cho việc thành lập đảng cộng sản.
Sự truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh vào phong
trào cơng nhân và phong trào yêu nước gắn liền với việc xây dựng các tổ chức cơ sở của Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng.
Qua đó, việc truyền bá đã thể hiện rõ ba điều. Thứ nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin đã
được Nguyễn Ái Quốc vận dụng thông minh, sáng tạo chứ khơng hề máy móc. Người đã

chọn những vấn đề căn cốt nhất, cách diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu nhất… Thứ hai, Người
không chỉ truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào cơng nhân mà cịn truyền bá vào
phong trào yêu nước. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của đảng cộng sản ở Việt
Nam. Thứ ba, phương pháp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc cũng rất đặc biệt. Người tuyên truyền thông qua các bài viết, tác phẩm, bài
báo (đặc biệt là báo Thanh niên); thông qua tổ chức (Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên)
và thông qua những con người cụ thể (các lớp học tại Quảng Châu -Trung Quốc, phong trào
“vô sản hóa” tại Việt Nam). Nhờ vậy việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
nhanh và sâu rộng hơn.

III.

Vai trò Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở
Việt Nam

1. Nguyễn Ái Quốc triệu tập thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
Nửa cuối năm 1929, đầu năm 1930, ở Việt Nam xuất hiện 3 tổ chức cộng sản là Đông
Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đơng Dương Cộng sản Liên đồn. Tuy


nhiên, 3 tổ chức cộng sản lại hoạt động riêng rẽ, làm phân tán sức mạnh chung của phong
trào, điều này nếu để lâu sẽ khơng có lợi cho cách mạng. Yêu cầu của cách mạng Việt Nam
lúc này phải thành lập ngay một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam để tiếp tục đưa cách
mạng tiến lên.
Ngày 27/10/1929, Quốc tế Cộng sản đã gửi chỉ thị cho những người cộng sản ở Đông
Dương về việc phải thành lập ngay một Đảng Cộng sản, nêu rõ: “Nhiệm vụ quan trọng nhất
của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một Đảng cách mạng có tính chất
giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng ở Đơng Dương.
Đảng đó chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương”8.
Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động tại Xiêm. Người vẫn thường xuyên

theo dõi tình hình của cách mạng Việt Nam. Sau khi nhận được tin tức về sự chia rẽ của cách
mạng Việt Nam, mặc dù chưa nhận được Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, song bằng nhãn quan
chính trị nhạy bén của mình, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động lên đường đi Trung Quốc, viết
thư gửi các tổ chức cộng sản để bàn về vấn đề hợp nhất.
2. Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành cơng Hội nghị hợp nhất
Việc hợp nhất là vấn đề phức tạp, bởi lẽ các tổ chức cộng sản trước đây đã nhiều lần
họp bàn để hợp nhất nhưng đều không thành công bởi các vấn đề nhạy cảm như hợp nhất như
thế nào? tổ chức nào còn, tổ chức nào mất? tên Đảng là gì? Đường lối ra sao?. Bằng tài trí và
kinh nghiệm hoạt động chính trị của mình, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, trên cương vị là người
chủ trì Hội nghị đã giải quyết như sau:
• Về vấn đề hợp nhất, Người đã thẳng thắn chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của cả hai
bên nhưng cả hai đều có chung một mục đích, lí tưởng, đó là chống lại chủ nghĩa đế
quốc, giải phóng dân tộc. Vì vậy phải tập hợp vào một tổ chức cộng sản thống nhất.
• Về vấn đề tên Đảng, sau một hồi tranh luận, hội nghị thống nhất lấy tên Đảng là Đảng
Cộng sản Việt Nam
3. Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng có ý
nghĩa chiến lược đối với cách mạng Việt Nam
Hội nghị hợp nhất đã thống nhất thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắt tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đặc biệt, nội dung của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo được Hội nghị thơng qua đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng tuy vắn tắt nhưng đã xác định đúng đắn những vấn đề
cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh đã giải quyết nhuần nhuyễn vấn đề
dân tộc và giai cấp trên lập trường của giai cấp công nhân. Độc lập dân tộc và tự do là tư
tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.
Kết luận
Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc tổ chức, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt
Nam là vô cùng to lớn. Sự nhanh nhạy, sách bén trong tư tưởng chính trị của Người đã dẫn
dắt Đảng và nhân dân ta tới chiến thắng, tới độc lập dân tộc. Những bài học của Người về vận

dụng lý luận vào thực tiễn, về tình nhân ái, thương dân, về nhân nghĩa đồn kết,… Trước tình
hình phức tạp như hiện nay, các bài học này vẫn còn giữ nguyên giá trị. Đảng, nhà nước và
toàn dân ta phải vận dụng linh hoạt và hiệu quả các bài học trên trong công cuộc xây dựng và
kiến thiết đất nước.

8

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, sđd, t.1, tr.614.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Biên tập bởi: PGS.TS. Trình Mưu
2. NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH TRÊN ĐƯỜNG SÁNG LẬP ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM. NXB LAO ĐỘNG
3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, 15 tập, nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
4. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
5. Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, 2001
6. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch
7. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Văn kiện Đảng 1930 1945, Hà Nội, 1977
8. Bài báo cáo “Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam” của các nhóm 2,12,13.
9. Vai trị của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam –
tuyengiao.vn



×