Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Xúc tiến thương mại trong thương mại điện tử và một số giải pháp với các doanh nghiệp Việt Nam” ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (936.71 KB, 105 trang )

TRƯỜNG
KHOA








LUẬN VĂN


Xúc tiến thương mại trong
thương mại điện tử và một
số giải pháp với các doanh
nghiệp Việt Nam


Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

1
LỜI MỞ ĐẦU
Xúc tiến thương mại là các hoạt động xúc tiến việc bán sản phẩm của các
doanh nghiệp trên thị trường nói chung và thị trường mục tiêu nói riêng. Nó
có một tác dụng hết sức to lớn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
và còn được coi là một bộ phận hữu cơ gắn liền với hoạt động sản xuất. Các
công ty trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đều mong muố
n hoạt
động kinh doanh của mình được suôn sẻ, mang lại lợi nhuận cao điều đó
không ngừng thôi thúc họ tìm ra các giải pháp xúc tiến thương mại hiệu quả.


Trước đây, khi thương mại điện tử chưa ra đời, họ sử dụng các biện pháp
đơn giản hơn như sử dụng nhân viên trong công ty đi giới thiệu về sản phẩm
của công ty hoặc tiến hành quảng cáo trên các phươ
ng tiện truyền thanh,
truyền hình, hay dùng các biểu ngữ, các biển quảng cáo trên các đường phố
Hình thức xúc tiến thương mại như vậy vừa phải bỏ ra chi phí lớn hoặc mất
nhiều thời gian mà khách hàng nhắm tới lại chủ yếu là người tiêu dùng trong
nước. Do đó, hoạt động xúc tiến thương mại truyền thống bị giới hạn về mặt
địa lý. Tuy nhiên, khi nền kinh tế số hoá ra đời, th
ương mại điện tử được áp
dụng vào hoạt động xúc tiến thương mại thì dường như những mặt hạn chế đó
được khắc phục.
Xúc tiến thương mại trong thương mại điện tử giúp doanh nghiệp giảm
được chi phí bởi họ có thể giới thiệu cho người tiêu dùng về sản phẩm, các
loại hình kinh doanh của doanh nghiệp thông qua Website riêng, đồng thời
họ còn có thể
thường xuyên liên hệ với các khách hàng bằng thư điện tử (E-
mail) để tìm hiểu về sở thích, nhu cầu của khách hàng, hoặc tiến hành giao
dịch trực tiếp với khách hàng qua mạng. Do đó, hoạt động xúc tiến thương
mại của doanh nghiệp vừa tiết kiệm được chi phí, lại có thể thu hút được
lượng khách hàng lớn do không bị giới hạn về mặt địa lý, không chỉ người
tiêu dùng trong nước mà cả
người tiêu dùng nước ngoài cũng có thể là đối
tượng để doanh nghiệp nhắm tới.
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

2
Do xúc tiến thương mại trong thương mại điện tử mang lại nhiều lợi ích
nên hiện nay rất nhiều công ty trên khắp toàn cầu áp dụng. Ở các nước tiên
tiến, việc đưa thương mại điện tử vào áp dụng trong hoạt động xúc tiến

thương mại đã phổ biến. Còn ở Việt Nam thì vẫn còn hạn chế, gần 90% doanh
nghiệp Việt Nam chưa thực sự quan tâm tớ
i thương mại điện tử. Một số
doanh nghiệp Việt Nam áp dụng nhưng chưa thành công, nhiều trang Web có
nội dung tẻ nhạt, thông tin không cập nhật, việc gửi thư điện tử tới các khách
hàng hay tiến hành quảng cáo qua mạng nhiều khi không đúng lúc, không hợp
lý, dẫn đến gây sự khó chịu cho khách hàng. Do đó, các doanh nghiệp Việt
Nam cần có những giải pháp phù hợp để xây dựng nên một chiến lược xúc
ti
ến thương mại thành công. Xuất phát từ thực tiễn đó, em đã mạnh dạn chọn
đề tài “Xúc tiến thương mại trong thương mại điện tử và một số giải pháp
với các doanh nghiệp Việt Nam” làm mục tiêu nghiên cứu của mình.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, khoá luận gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về thương mại đi
ện tử
Chương II: Xúc tiến thương mại trong thương mại điện tử và một số
bài học kinh nghiệm rút ra với Việt Nam
Chương III: Giải pháp ứng dụng xúc tiến thương mại trong thương mại
điện tử tại Việt Nam
Trong quá trình viết khóa luận, em đã nhận được sự giúp đỡ hết sức quý
báu của các thầy, cô giáo trong khoa Kinh Tế Ngoại Thương, đặc biệt là sự
giúp đỡ tận tình của thầy giáo Nguyễn Quang Hiệp. Em xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo hướng dẫn, các thầy cô giáo khoa Kinh Tế Ngoại
Thương, gia đình và bè bạn đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để em có thể hoàn
thành đề tài này. Tuy nhiên, do khả năng và trình độ còn nhiều hạn chế nên
khoá luận không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Rất mong được các
thầy, cô giáo và các bạn ch
ỉ bảo, trao đổi thêm.
Hà nội, ngày 15 tháng 12 năm 2003
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT


3
Sinh viên
Trần Thị Thuỷ
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

4
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

I/ KHÁI NIỆM VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1. Khái niệm, bản chất của thương mại điện tử
1.1 Khái niệm về thương mại điện tử

Thương mại điện tử (TMĐT)
(*)
là một lĩnh vực tương đối mới; trong quá
trình phát triển đã có nhiều tên gọi khác nhau: “thương mại trực tuyến”
(Online trade); “thương mại điều khiển học” (Cybertrade); “kinh doanh
điện tử” (Electronic business); “thương mại không giấy tờ” (paperless
commerce hay paperless trade) v v. Gần đây, tên gọi “thương mại điện tử”
(Electronic commerce hay E-commerce) đã trở nên quen thuộc và trở thành
quy ước chung, xuất hiện trong các văn bản pháp lu
ật quốc tế. Bên cạnh đó
các tên gọi khác vẫn được dùng và được hiểu với cùng một nội dung.
Theo nghĩa phổ biến thì thương mại điện tử là việc trao đổi thông tin
thương mại thông qua các phương tiện điện tử, và không cần in ra giấy trong
bất cứ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch. Thuật ngữ “thông tin”
(information) được hiểu là bao gồm: văn bản, hình ảnh, âm thanh, các c
ơ sở

dữ liệu (database), các bảng tính (spread sheet), hình ảnh động (video
image), Bản chất của thương mại điện tử chính là việc sử dụng các phương
tiện điện tử để tiến hành giao dịch thương mại.
Theo Ủy ban Liên Hiệp quốc về luật thương mại quốc tế, đã được ghi trong
đạo luật mẫu về TMĐT, thuật ngữ “thương mại” cầ
n hiểu theo nghĩa rộng để
bao quát các vấn đề nảy sinh từ mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại,
dù có hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thương mại
(commercial) bao gồm các giao dịch sau đây: Bất cứ giao dịch thương mại

*
TMĐT: Thương mại điện tử-Electronic commerce
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

5
nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá, dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại
diện hoặc đại lý thương mại; uỷ thác hoa hồng (factoring); cho thuê dài hạn
(leasing); xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình (engineering);
đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận khai thác, liên doanh hoặc
các hình thức khác về hợp tác công nghệ hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng
hoá hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường
bộ”.
Như vậy, “thương mại” (commerce) trong “thương mại điện tử” (Electronic
commerce) không chỉ là buôn bán hàng hoá và dịch vụ theo cách hiểu thông
thường, mà bao quát một phạm vi rộng hơn nhiều, và do đó việc áp dụng
thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của hầu như tất cả các
hoạt động kinh tế. Theo ước tính hiện nay thương mại điện tử có tới trên 1300

nh vực ứng dụng, trong đó buôn bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một lĩnh vực
ứng dụng.

1.2 Đặc điểm của thương mại điện tử

Thương mại điện tử cũng như thương mại truyền thống, bao gồm các bước:
1. Người tiêu dùng và nhà cung cấp tìm kiếm lẫn nhau, người tiêu dùng
muốn tìm một nhà cung cấp đáng tin cậy, còn nhà cung cấp thì tiến
hành các hoạt động quảng cáo, tiếp thị, tư vấn và các hỗ trợ khách
hàng, tạo niềm tin và lôi kéo người tiêu dùng đến với mình.
2. Đánh giá, thương lượng và thảo luận;
3. T
ổ chức điều phối và giao nhận hàng hoá;
4. Thanh toán;
5. Xác nhận sự đúng đắn của mọi khâu trong quá trình mua bán.
Tuy nhiên, thương mại điện tử vẫn chứa đựng những đặc thù riêng so với
thương mại truyền thống. Đó là khả năng tạo ra một “cửa hàng ảo” (virtual
store) trên Internet ngày càng giống như thật. Các cửa hàng ảo hoạt động 24
giờ/ngày, 7 ngày/tuần, 365 ngày/năm, không có ngày nghỉ (Death of time); và
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

6
có khả năng đến mọi nơi, không bị ràng buộc bởi khoảng cách địa lý (Death
of Distance); và cũng không cần phải tiến hành giao dịch qua trung gian
(Death of Intermediary), có thể tạo một kênh tiếp thị trực tuyến (Online
Marketing), đồng thời có thể thực hiện thống kê trực tuyến. Thương mại điện
tử đặc biệt thích hợp với việc cung cấp hàng trực tuyến đối với một số dung
li
ệu (hàng hóa đặc biệt), hay dịch vụ như phim ảnh, âm nhạc, sách điện tử,
phần mềm, tư vấn Yếu tố thành công trong nền kinh tế mạng không thuộc về
các công ty lớn, giàu mạnh về tiềm lực kinh tế mà phụ thuộc vào việc các
công ty có khả năng thay đổi một cách linh hoạt và thích ứng nhanh với sự
biến đổi của nền kinh tế ảo hay không hay nói cách khác các công ty phải có

tính nhạy cảm cao.
2. Quá trình hình thành thương mại điện tử
2.1 Lý do ra đời của thương mại điện tử

Thương mại điện tử ra đời như một tất yếu của quá trình phát triển trong
môi trường cạnh tranh khắc nghiệt, doanh nghiệp nào muốn tồn tại phải ứng
dụng những tiến bộ công nghệ một cách có hiệu quả. Công nghệ thông tin
mang đến những biến đổi thần kỳ trong chính bản thân nó, đồng thời lại tác
động đến hầu hết các ngành nghề trong đó có cả kinh t
ế. Nó làm thay đổi bộ
mặt thế giới. Sự phát triển chín muồi của các công cụ như Internet, Email,
WWW là lý do ra đời phương thức giao dịch mới – thương mại điện tử.
Giao dịch truyền thống bằng giấy tờ vừa tốn kém lại mất nhiều thời gian.
Điều này đã gây cản trở rất lớn khi khối lượng giao dịch thương mại quốc tế
ngày càng tă
ng. Hơn nữa giao dịch truyền thống ngày càng bộc lộ nhiều
nhược điểm, đây là thời điểm tốt nhất để cho ra đời phương thức giao dịch
mới với nhiều ưu điểm hơn, đó là thương mại điện tử.
2.2 Quá trình hình thành của thương mại điện tử

Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

7
Năm 1969, Bộ Quốc phòng Mỹ thành lập Mạng các dự án Nghiên cứu tiên
tiến (ARPANET)
(1)
. ARPANET là mạng đầu tiên nối các tổ chức hay gọi là
INTERNET. Cùng trong thời gian này, việc tự động hoá trong ngành công
nghiệp dịch vụ tài chính bắt đầu hình thành và phát triển, chẳng hạn như quá
trình xử lý séc ra đời, tiếp theo là quá trình xử lý thẻ tín dụng và chuyển tiền

điện tử (Electronic Funds Transfer-EFT) cho phép thanh toán qua mạng và
đưa đến các nghiệp vụ ký cược và ghi nợ trực tiếp. Đầu thập niên 80, các hoạt
động thương mại điện tử tr
ở nên mở rộng giữa các doanh nghiệp dưới các
hình thức trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange-EDI ) và thư
điện tử (E-mail). EDI cho phép các công ty gửi và nhận qua mạng các giấy tờ
kinh doanh như lệnh đặt hàng chẳng hạn. Cuối những năm 80, TMĐT đã trở
thành một bộ phận quan trọng trong các hoạt động kinh doanh, mặc dù vẫn
chưa được thực hiện qua mạng Internet công cộng. Cũng trong khoả
ng thời
gian này, công nghệ thương mại điện tử mới ra đời với sự phát triển mạnh của
mạng Internet toàn cầu tuy còn xa lạ với người sử dụng và phần lớn các thủ
tục đều chưa thuận tiện và tự động hoá.
Năm 1992 đánh dấu sự ra đời của mạng toàn cầu (World Wide Web). Điều
này giúp cho mạng Internet dễ sử dụng hơn và giao diện cũ
ng có tính đồ họa
hơn nếu so với những kỹ năng kỹ thuật cần thiết trước đây.
TMĐT đang phát triển nhanh trên bình diện toàn cầu dựa trên nền tảng sự
phát triển của công nghiệp công nghệ thông tin (CNTT). Công nghiệp CNTT
đang dần dần chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân của nhiều nước.
Đặc biệt là sự kết hợp hữu cơ củ
a 3 bộ phận công nghiệp: máy tính (mạng,
máy tính, thiết bị điện tử, phần mềm và các dịch vụ khác), truyền thông (điện
thoại hữu tuyến và vệ tinh) và nội dung thông tin (cơ sở dữ liệu, các sản phẩm
nghe nhìn, vui chơi giải trí, xuất bản và cung cấp thông tin ) đang tạo ra tính
chất và vai trò mới của công nghiệp CNTT.
3. Các hình thức hoạt động và giao dịch thương mại điện tử

1
ARPANET: Advanced Research Projects Agency Network

Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

8
3.1 Các hình thức hoạt động thương mại điện tử

a.
Thư tín điện tử (E-mail)
Giống như trao đổi thư từ bình thường, các đối tác (người tiêu thụ, các
doanh nghiệp cơ quan Chính phủ) sử dụng thư điện tử để gửi thông tin cho
nhau một cách “trực tuyến” thông qua mạng, gọi là thư tín điện tử - electronic
mail. Thư tín điện tử có tốc độ truyền nhanh, có thể gửi cùng một lúc một nội
dung cho nhiều đối tượng vào mọi lúc, ở mọi nơ
i trên thế giới, ngoài ra cước
phí của thư điện tử lại thấp hơn nhiều so với gửi thư qua bưu điện và điện
thoại.
b
. Thanh toán điện tử (electronic payment)
Là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử (electronic message)
thay cho việc trao tay tiền mặt. Với sự phát triển của thương mại điện tử,
thanh toán điện tử đã mở rộng sang lĩnh vực mới đáng đề cập là:
 Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic Data
Interchange, gọi tắt là FEDI) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện
tử giữa các công ty giao d
ịch với nhau bằng điện tử.
 Tiền mặt Internet (Internet cash): Là tiền được mua từ một nơi
phát hành (ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng), sau đó được chuyển đổi
tự do sang các đồng tiền khác thông qua Internet. Tiền mặt Internet
được áp dụng rộng rãi trong phạm vi một nước cũng như giữa các
quốc gia và tất cả đều được thực hiện bằng kỹ thuật số hoá, vì thế tiề
n

mặt này cũng có tên là “tiền mặt số hoá” (digital cash). Tiền mặt
Internet được người mua hàng mua bằng đồng nội tệ, rồi dùng
Internet để chuyển cho người bán hàng. Thanh toán bằng tiền mặt
Internet đang trên đà phát triển nhanh, vì có hàng loạt ưu điểm nổi
bật:
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

9
 Có thể dùng cho thanh toán những món hàng giá trị nhỏ,
thậm chí trả tiền mua báo (vì phí giao dịch mua hàng và
chuyển tiền rất thấp);
 Không đòi hỏi phải có một quy chế được thoả thuận từ
trước, có thể tiến hành giữa hai con người hoặc hai công
ty bất kỳ, các thanh toán là vô danh;
 Tiền mặt nhận được đảm bảo là tiền thật, tránh được
nguy cơ tiền giả.
c.
Túi tiền điện tử (Electronic purse)
Túi tiền điện tử hay còn gọi là ví điện tử nói đơn giản là nơi để tiền mặt
Internet mà chủ yếu là thẻ thông minh, tiền được trả cho bất cứ ai đọc được
thẻ đó; kỹ thuật của túi tiền điện tử tương tự như kỹ thuật áp dụng cho tiền
mặt Internet.
d.
Thẻ thông minh (smart card)
Nhìn bề ngoài thì nó giống thẻ tín dụng, nhưng ở mặt sau của thẻ, thay vì
cho dải từ, lại là một chíp máy tính điện tử có bộ nhớ nhỏ để lưu trữ tiền số
hoá, tiền ấy chỉ được chi trả khi người sử dụng và thông điệp (ví dụ xác nhận
thanh toán hoá đơn) được xác thực là đúng.
e
. Giao dịch ngân hàng số hoá (digital banking) và giao dịch chứng khoán số hoá

(digital securities trading)

Hệ thống thanh toán điện tử của ngân hàng là một đại hệ thống, gồm nhiều
tiểu hệ thống: (1) thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng qua điện thoại,
giao dịch qua Internet, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng ; (2) thanh toán giữa
ngân hàng với các đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu thị, ), (3) thanh toán
trong nội bộ một hệ thống ngân hàng; (4) thanh toán giữa hệ thống ngân hàng
này với hệ thống ngân hàng khác.
f.
Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange)
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

10
Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange, gọi tắt là EDI) là
chuyển giao thông tin từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác,
giữa các công ty hay tổ chức đã thoả thuận buôn bán với nhau theo cách này
một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người (gọi là dữ liệu
có cấu trúc, vì các bên thực hiện giao dịch với nhau đã quy định trước khuôn
dạng cấu trúc của thông tin). Đây là hình thức
được sử dụng phổ biến nhất.
Theo Ủy ban Liên Hiệp quốc về luật thương mại quốc tế thì: “trao đổi dữ liệu
điện tử (EDI) là việc chuyển giao thông tin từ máy tính này sang máy tính
khác bằng phương tiện điện tử, có sử dụng một tiêu chuẩn đã được thoả
thuận về cấu trúc thông tin”. EDI ngày càng được sử dụng rộng rãi trên bình
diện toàn cầu, chủ yế
u phục vụ cho mua và phân phối hàng (gửi đơn hàng,
các xác nhận, các tài liệu gửi hàng, hoá đơn ) người ta cũng dùng cho các
mục đích khác, như thanh toán tiền khám bệnh, trao đổi các kết quả xét
nghiệm v.v EDI chủ yếu được thực hiện thông qua mạng ngoài (extranet) với
nhau và thường được gọi là “mạng thương mại” (net commerce). Trước khi

có Internet đã có EDI, khi ấy người ta dùng “mạng giá trị gia tăng ” (Value
Added Network) gọi tắt là VAN để liên kết các đối tác EDI với nhau, cốt lõi
của VAN là một hệ thống điện tử cho phép các máy tính điện tử liên lạc được
với nhau, và hoạt động như một phương tiện lưu trữ và tìm kiếm; khi nối vào
VAN, một doanh nghiệp có thể liên lạc với nhiều máy tính điện tử nằm ở
nhiều thành phố trên thế giới.
g.
Giao dịch số hoá các dung liệu – Digital Delivery of Content
Dung liệu (content) là các hàng hóa mà người ta cần đến là nội dung của nó
(hay nói cách khác chính nội dung là hàng hoá) mà không phải là bản thân vật
mang nội dung, ví dụ như: tin tức, sách báo, nhạc, phim các chương trình phát
thanh, truyền hình, chương trình phần mềm. Các ý kiến tư vấn, vé máy bay,
vé xem phim, xem hát, hợp đồng bảo hiểm nay cũng được đưa vào danh mục
các dung liệu.
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

11
Trước đây, dung liệu được giao dưới dạng hiện vật (physical form) bằng
cách đưa vào đĩa, vào băng, in thành sách báo, đóng gói bao bì chuyển đến
tay người sử dụng hoặc đến điểm phân phối (như cửa hàng, quầy báo v.v.) để
người mua đến mua và nhận trực tiếp. Ngày nay, dung liệu được số hoá và
truyền gửi theo mạng, được gọi là “giao gửi số hoá”. Vì vậy, hiện nay các loại
thông tin kinh tế và kinh doanh trên Internet đều r
ất phong phú, và một
nhiệm vụ quan trọng của công tác thông tin ngày nay là khai thác Web và
phân tích tổng hợp các thông tin nhận được.
h.
Bán lẻ hàng hoá hữu hình ( Retail of tangible goods)
Tận dụng tính đa phương tiện (multimedia) của môi trường Web và Java,
người bán xây dựng trên mạng các “cửa hàng ảo” (Virtual Shop) để thực hiện

việc bán hàng. Người sử dụng Internet/Web tìm trang Web của cửa hàng, xem
hàng hoá hiển thị trên màn hình xác nhận mua và trả tiền bằng thanh toán điện
tử. Lúc đầu việc mua bán như vậy còn ở dạng sơ khai, người mua chọn hàng
rồi đặt hàng thông qua mẫu đơn (form) được đặt ngay trên trang Web.
3.2 Các hình thức giao d
ịch của thương mại điện tử







Hình 1: Mô hình các giao dịch thương mại điện tử
Các giao dịch TMĐT diễn ra giữa 3 nhóm tham gia chủ yếu: doanh nghiệp,
Chính phủ và người tiêu dùng. Các giao dịch này diễn ra bằng cách sử dụng

INTERNET
Người tiêu dùng,
người dân
Doanh nghiệp
Chính
p
hủ
B2C
B2B
G2C
G2G
B2G
Doanh nghiệp

Chính
p
hủ
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

12
các hình thức hoạt động của thương mại điện tử và được tiến hành ở nhiều
cấp độ khác nhau:
+ Doanh nghiệp với người tiêu dùng (Business to Customer – B2C)
+ Doanh nghiệp với doanh nghiệp (Business to Business – B2B)
+ Doanh nghiệp với cơ quan Chính phủ (Business to Government – B2G)
+ Người tiêu dùng với cơ quan Chính phủ (Government to Customer –
G2C)
+ Các cơ quan Chính phủ với nhau (Government to Government – G2G)
Trong các loại giao dịch nói trên thì giao dịch thương mại B2B và giao dịch
thương mại B2C là các dạng chủ yếu của thương m
ại điện tử.
a.
Giao dịch Business to Business (B2B)
Là hình thức trong đó doanh nghiệp thực hiện giao dịch mua bán trao đổi
hàng hoá với doanh nghiệp khác thông qua các trang Web gọi là B2B.
Thực chất giao dịch điện tử giữa các doanh nghiệp thì không mới, chúng đã
tồn tại nhiều thập kỷ nay. Doanh nghiệp bắt đầu gửi và nhận các đơn đặt
hàng, hoá đơn và thông báo nhận hàng bằng EDI từ cuối những năm 1970.
Nhưng lúc bấy giờ chỉ có các doanh nghiệp lớn tham gia vì chi phí truyền dữ
li
ệu và chi phí đào tạo rất đắt.
Hiện nay thương mại điện tử Business to Business phát triển với tốc độ rất
nhanh, bởi nó đem lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp, ví dụ như doanh
nghiệp có thể rút ngắn chu trình sản xuất nhờ kết hợp với các doanh nghiệp

khác, mỗi bên chuyên môn hoá về một lĩnh vực, hay doanh nghiệp có thể tiết
kiệm được thời gian và chi phí cho việc tìm và mua nguyên vật liệu ph
ục vụ
cho quá trình sản xuất của mình do doanh nghiệp mua nguyên vật liệu của
nhà cung cấp là người bán hàng trực tuyến qua mạng.
b
. Giao dịch Business to Customer (B2C)
Giao dịch giữa doanh nghiệp và khách hàng dưới hình thức người tiêu dùng
thực hiện mua bán hàng hoá qua trang Web gọi là B2C.
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

13
Mặc dù phương thức Business to Business chiếm một tỷ trọng lớn nhưng
Business to Customer ngày nay đang có nhiều triển vọng phát triển vì hiện
nay nhiều gia đình muốn tiết kiệm thời gian đi mua hàng bằng cách chỉ ngồi ở
nhà nhấn chuột vào màn hình thì họ đã có thể yêu cầu người bán giao hàng
đến tận nhà hoặc người tiêu dùng có thể dùng ngay dịch vụ của nhà cung cấp
trên mạng điển hình là các hoạt động vui chơ
i, giải trí như nghe nhạc, đọc
truyện, đọc báo, xem phim v.v
Hàng hóa trao đổi trên Internet giờ đây không chỉ là hàng hoá hữu hình mà
cả hàng hoá vô hình. Giao dịch truyền thống mất dần lợi thế so với giao dịch
điện tử.
+ Hàng hoá vô hình:
Phần lớn các giao dịch điện tử hàng hoá vô hình đều được đưa trực tiếp đến
máy tính cá nhân người tiêu thụ thông qua mạng. Các hàng hóa này gồm 4
lĩnh vực: giải trí, du lịch, báo và tạp chí, dịch vụ
tài chính và Email.
+ Hàng hóa hữu hình:
Hàng hoá được bán chủ yếu bằng phương thức điện tử là sách vở, quần áo,

thực phẩm và nước giải khát. Người ta đang mở rộng các hàng hoá giao dịch
trên mạng kể cả các vật dụng gia đình
c.
Giao dịch giữa doanh nghiệp với các cơ quan Chính phủ (B2G)
Thương mại điện tử giữa công ty và Chính phủ bao gồm toàn bộ các giao
dịch thương mại giữa các công ty và các tổ chức Chính phủ thông qua các
phương tiện điện tử. Hình thức này có thể phát triển nhanh chóng nếu như có
một hệ thống quản lý thống nhất về thuế, thanh toán bằng tài khoản trực tiếp
trên mạng Internet giữa doanh nghiệp và Nhà nước.
Mục đích của các giao dịch này là Chính phủ có th
ể mua sắm trực tiếp từ
các doanh nghiệp thông qua mạng Internet, việc thanh toán cũng được chi trả
thông qua mạng cũng như việc doanh nghiệp nộp thuế cho Nhà nước và các
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

14
khoản thu khác mà Nhà nước thu từ doanh nghiệp đều được thực hiện qua
mạng.
Mô hình giao dịch giữa các công ty và Chính phủ sẽ được phát triển mạnh
mẽ khi có mạng liên kết giữa các cơ quan quản lý từ Trung ương tới địa
phương, bởi việc quản lý thông qua mạng Internet sẽ giúp giảm đáng kể khối
lượng công việc quản lý cũng như chi phí ngân sách của Nhà nước trong việc
này.
d.
Giao dịch giữa người tiêu dùng với các cơ quan Chính phủ (G2C)
Thương mại điện tử giữa người tiêu dùng với các cơ quan Chính phủ nhằm
vào mục đích: các công dân trả tiền cho các dịch vụ công cộng của Nhà nước
như dịch vụ mua vé máy bay, mua vé tàu hoặc nộp thuế thu nhập cho Nhà
nước hay các phí, lệ phí trả cho các dịch vụ khác; còn Chính phủ thực hiện chi
trả các khoản trợ cấp xã hội cho các cá nhân thông qua mạng Internet.

Ở Singapore, Chính phủ điện tử được ra đờ
i vào năm 2001, người tiêu
dùng có thể đặt vé máy bay qua mạng và trả tiền qua mạng. Đối với những
nhà kinh doanh bận rộn thì việc mua bán các dịch vụ hay nộp các khoản phí,
lệ phí cho Nhà nước qua mạng là một điều rất thuận tiện. Thậm chí, Chính
phủ này còn dự định giảm thiểu các thủ tục phiền hà, phức tạp và mất thời
gian hiện nay như đăng ký thành lập doanh nghiệp cũng có thể tiế
n hành qua
mạng.
Ở Việt Nam thì việc đăng ký thành lập doanh nghiệp cũng như việc mua vé
tàu, vé máy bay chưa được thực hiện qua mạng một cách phổ biến, chỉ thực
hiện ở thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, nhưng trong tương lai loại
hình dịch vụ này sẽ được thực hiện do người tiêu dùng muốn giảm thiểu thời
gian đi mua hàng bằng cách chỉ ở nhà nhấp chuột thì đ
ã có thể mua được vé
tàu, vé máy bay, họ không phải chịu cảnh chen lấn xô đẩy để mua vé như hiện
nay.
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

15
Đối với giao dịch giữa Chính phủ với Chính phủ thì có diễn ra nhưng
chiếm tỷ trọng rất ít, không đáng kể.
II/ NHỮNG LỢI ÍCH CƠ BẢN CỦA TMĐT
1. Tác động của TMĐT tới hiệu quả kinh tế, xã hội
1.1 TMĐT làm thay đổi quy mô thị trường - cạnh tranh toàn cầu

Với Internet các quá trình thương mại được thực hiện theo thời gian thực
(24 giờ/ngày, 365 ngày/năm), cạnh tranh trực tuyến mang tính toàn cầu do
người tiêu dùng có thể lựa chọn mua hàng hoặc dịch vụ của nhiều công ty trên
khắp thế giới thông qua mạng. Còn các công ty có cơ hội tiếp cận với một thị

trường rộng lớn đồng thời cũng phải đối mặt với thách thức cạnh tranh rất
quy
ết liệt từ các công ty khác trên khắp thế giới.
Tại các thị trường truyền thống, để cạnh tranh với các công ty lớn, các công
ty mới trước hết phát triển thị trường tại các khu vực thị trường nhỏ hơn về
địa lý để kiểm nghiệm sản phẩm và dịch vụ của mình, tạo thương hiệu và
tiếng tăm. Các rào cản thông thường về mặt địa lý và thời gian đã h
ạn chế
việc mở rộng diện cạnh tranh, hạn chế các doanh nghiệp tận dụng các yếu tố
kinh tế quy mô (Economies of Scale). Với Internet, doanh nghiệp thương mại
điện tử tránh được các rào cản này, song không còn khả năng để nắm giữ các
lợi thế địa lý. Các công ty như Amzon.com và CDNow đang có chiều hướng
giảm doanh thu quốc tế, quay lại thị trường trong nước để cơ cấu hoá lại và
tăng tr
ưởng cạnh tranh trong nước. Nhiều công ty khác lại coi thị trường bên
ngoài là lợi thế do tại thị trường trong nước họ gặp phải cạnh tranh mạnh hơn.
1.2 Thương mại điện tử làm giảm chi phí

Thương mại điện tử qua Internet / Web giúp người tiêu thụ và các doanh
nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch. Thời gian giao dịch qua
Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax; 0,05% thời gian giao dịch
qua bưu điện. Chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng 5% chi phí giao dịch
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

16
qua Fax, qua bưu điện hay qua chuyển phát nhanh, bằng 10%-20% chi phí
thanh toán thông thường. Sau đây là bảng so sánh cho việc chuyển 1 tài liệu
40 trang.
Bảng 1: So sánh chi phí và tốc độ truyền theo một số phương thức
Đường truyền Thời gian Chi phí (USD)

Từ New York đi Tokyo

Qua bưu điện 5 ngày 7,40
Chuyển phát nhanh 24 giờ 26,25
Qua máy Fax 31 phút 28,83
Qua Internet 2 phút 0,10
New York đi Los Angeles

Qua bưu điện 2-3 ngày 3,00
Chuyển phát nhanh 24 giờ 15,50
Qua máy Fax 31 phút 9,36
Qua Internet 2 phút 0,10

Nguồn: Thương mại điện tử của ban TMĐT- Bộ thương mại, 1998
Thương mại điện tử giúp giảm chi phí bán hàng và tiếp thị. Theo số liệu
của hãng máy bay Boeing (Mỹ), đã có tới 50% khách hàng đặt mua 9% phụ
tùng qua Internet ; mỗi ngày hãng giảm được 600 cuộc điện thoại
(2)
.
Chi phí văn phòng cấu thành trong chi phí sản phẩm, việc giảm chi phí văn
phòng theo nghĩa giảm thiểu các khâu in ấn giấy tờ, giảm thiểu số nhân viên
văn phòng cũng có nghĩa là giảm chi phí sản phẩm.
1.3 Thương mại điện tử và cơ cấu nghề nghiệp

Tác động của thương mại điện tử tới cơ cấu nghề nghiệp chưa thể hiện rõ ở
các nước chậm phát triển, song dự đoán sẽ trở nên rõ rệt do tiến trình toàn cầu
hóa đang được đẩy mạnh và xu thế kinh tế tri thức đang mau chóng trở thành
hiện thực ngay tại các nước đang phát triển. Tác động chung của thương mại

2

Theo giáo trình “Thương mại điện tử”/PGS.TS Đinh Văn Mậu; PGS.TS Đinh Văn Tiến; Ths. Nguyễn Xuân
Thái/NXB Lao Động-2003
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

17
điện tử được thể hiện ở thế cân bằng các nghề mới, các nghề gián tiếp được
tạo ra do nhu cầu về kỹ năng và năng suất và việc loại bỏ một số đầu việc do
có thay đổi về cấu trúc trung gian, cấu trúc bán lẻ.
Tại các nước phát triển, khu vực thương mại đang bị tác động trực tiếp và
sớm nhất do thương mại
điện tử tạo ra cách phân phối hàng hóa và sản phẩm
qua Internet một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Bên cạnh đó chính là các doanh
nghiệp cung cấp hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và truyền thông là nơi tạo
nền cho thương mại điện tử. Tiếp đó là các doanh nghiệp cung cấp nội dung
hàng hoá và dịch vụ, nội dung thông tấn, báo chí, giải trí phần mềm, và các
loại sản phẩm số. Các doanh nghiệp liên quan tới các giao d
ịch như tài chính,
bảo hiểm, thanh toán, bưu chính, điện thoại, quảng cáo du lịch và giao thông.
Tác động trực tiếp của thương mại điện tử tới nghề nghiệp, thị trường là:
bổ sung thay thế và làm thay đổi quy mô thị trường. Các công ty ảo mau
chóng tạo ra nhiều việc mới lúc đầu, ít ra thì các hoạt động trực tuyến và phi
trực tuyến cũng đã được tiến hành cùng lúc bổ sung cho nhau. Bổ sung thay
thế
đầu việc lúc đầu sẽ làm giảm số đầu việc truyền thống do công việc
thương mại điện tử thay thế và loại trừ công việc truyền thống. Quy mô thị
trường được thay đổi mau chóng do thương mại điện tử mở ra các kênh
thương mại vượt qua nhiều rào cản về địa lý, biên giới và ngay cả văn hoá.
Thương mại điện tử còn tác động gián ti
ếp tới nghề nghiệp và thị trường.
Do giảm chi phí và tăng tốc độ giao dịch, thương mại điện tử đã bắt đầu làm

tăng nhu cầu của con người đối với nhiều loại hàng hoá như phần mềm, dịch
vụ trực tuyến, dịch vụ tương tác, sản phẩm nghe nhìn, âm nhạc ấn phẩm đang
tăng tương đối nhanh, điều này dẫ
n tới việc tăng lượng công việc, kéo theo
tăng số đầu việc.
Công nghiệp bản quyền (thông tin, ấn phẩm, phim, nghe nhìn, phần
mềm ) có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất về khả năng tạo ra việc làm mới.
Hiện nay, tỷ lệ nhân công của khu vực này (tính trung bình cho Mỹ, Canada,
Tây Âu, Nhật Bản, Singapore, Australia) là 5% toàn bộ nhân công nói chung.
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

18
Theo dự báo của Hội đồng Châu Âu, đến năm 2005, công nghiệp bản quyền
của Mỹ và Châu Âu sẽ tạo ra 5 triệu đầu việc mới.
Thương mại điện tử đã và đang làm thay đổi cơ cấu kỹ năng. Tại các nước
phát triển, mọi nhân viên của các doanh nghiệp đều phải biết sử dụng máy
tính cá nhân, truy cập Internet, tiến hành các giao dịch công tác qua mạng.
Chủ trang trại và nông dân cũng
đã tiếp cận nhanh chóng với Internet, sử
dụng Web để bán sản phẩm của mình như mua giống phân bón, lấy thông tin
thị trường, thời tiết Học sinh các trường chuyên nghiệp sử dụng Internet như
là một thói quen bắt buộc. Sinh viên đại học và các nhà nghiên cứu thì từ lâu
đã sử dụng Internet để phục vụ cho quá trình học tập và nghiên cứu của mình.
Có thể nói hiện nay khoảng cách thông tin giữa các nước phát triển và các
nước kém phát triển
đang ngày càng lớn do Internet đã và đang được sử dụng
ngày càng nhiều và hiệu quả tại các nước phát triển, trong khi đó, các nước
kém phát triển vẫn cố duy trì một số độc quyền thiển cận, ngăn cản quá trình
tiếp cận thông tin của người dân thông qua cung cấp dịch vụ mạng với giá
cao, chất lượng dịch vụ thấp Ở Việt nam, thực trạng này vẫn còn được tồn

tại. Th
ương mại điện tử đang có nhu cầu về nhân lực công nghệ thông tin,
công nhân tri thức, và các mô hình quản lý doanh nghiệp kiểu mới. Để phát
triển thương mại điện tử thì đất nước cần có những con người hiểu biết về
nhiều mặt trên cơ sở đã hiểu sâu lĩnh vực công nghệ thông tin. Con người phù
hợp với thương mại điện tử là con người biế
t kết hợp các khả năng lập trình
và quản lý các mạng máy tính với năng lực áp dụng kinh doanh trên mạng.
1.4 Thương mại điện tử và xã hội

Thương mại điện tử đã góp phần vào quá trình cải tạo xã hội, tác động tới
toàn bộ hoạt động sống của loài người trên cơ sở trí tuệ và thông tin, với
những thay đổi về công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ gien
và công nghệ quản lý đang được áp dụng vào đời sống hàng ngày, mang lại
giá trị lớn cho con người và xã hội.
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

19
Internet là yếu tố cơ bản để triển khai ứng dụng nền kinh tế số và thương
mại điện tử. Mạng máy tính chắc chắn sẽ đóng vai trò quyết định đối với mọi
quá trình phát triển kinh tế, xã hội, thay đổi về hành vi, văn hóa của mọi cộng
đồng con người trong thế kỷ 21. Mạng máy tính tạo thành hạ tầng cơ sở thông
tin và truyền thông cho doanh nghiệp và cá nhân, và nó còn trở thành h
ạ tầng
truyền thông của nền kinh tế tri thức.
Làm quen với Internet đối với người có trình độ công nghệ không phải là
khó, song đối với những người ở khu vực khác, ít biết ngoại ngữ, nhất là tiếng
Anh, làm quen với Internet, để sử dụng Internet là cả một vấn đề không nhỏ.
Với chính sách giáo dục phổ thông đúng đắn ở các nước phát triển, ngay cả
bậc trung học, các học sinh đã trở

nên quen thuộc với Internet và văn hóa sử
dụng Internet.
Công nghệ thông tin và truyền thông còn góp phần quan trọng vào việc
củng cố hạ tầng cơ sở xã hội trong đó có giáo dục, văn hoá, y tế, dịch vụ
công, giao thông liên lạc. Các ứng dụng đặc thù của công nghệ thông tin góp
phần quan trọng cho các quá trình phát triển cộng đồng, phát triển xã hội.
Giáo dục và đào tạo
Công nghệ thông tin truyền thông và thương mại điện tử đ
ã tạo ra cơ hội
phát triển giáo dục và đào tạo như: dạy học từ xa, học với các thiết bị đa
phương tiện, học suốt đời, vừa học vừa làm, tự học nền kinh tế mới cũng tạo
ra những nhu cầu cấp thiết về đào tạo các nghề có liên quan tới công nghệ,
đào tạo các kỹ năng hợp tác trong công việc, các phương pháp làm việ
c và
quản lý mới. Internet, ngoài việc trở thành cơ sở công nghệ cho việc học suốt
đời, còn là cơ sở cho việc đào tạo chuyên nghiệp.
Y tế
Thông qua các trang Web, người dân có thể tìm hiểu các vấn đề về sức
khoẻ, ví dụ như tìm hiểu về cách phòng và chữa một số bệnh thường gặp. Họ
cũng có thể gửi các thắc mắc của mình về sức khoẻ qua mạng để
được giải
đáp, từ đó họ sẽ có được một kiến thức vững chắc về y học. Ngoài ra, họ cũng
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

20
có thể tiếp cận với các khám phá khoa học mới về công nghệ sinh học của các
nước trên thế giới thông qua mạng máy tính.
Hơn nữa, việc áp dụng thương mại điện tử làm cho nền kinh tế phát triển
nhanh hơn, cuộc sống văn minh, hiện đại hơn, điều đó cũng gián tiếp làm cho
y tế phát triển nhanh do có sự đầu tư thích đáng hơn các công nghệ tiên tiến

vào y t
ế.
Mạng máy tính còn là công cụ để trao đổi thông tin của các chuyên gia, bác
sĩ trên khắp thế giới, giúp họ có sự kết hợp hỗ trợ lẫn nhau trong nghiên cứu
các vấn đề liên quan đến y học. Chính điều này sẽ tạo nên những thành công
trong chặng đường nghiên cứu, khám phá về công nghệ sinh học, đem lại sự
ứng dụng cao nhằm cung cấp các dịch vụ y tế tốt hơn cho con người.
Phát triển cộng
đồng
Công nghệ thông tin, truyền thông và TMĐT loại bỏ phần lớn về khoảng
cách và tăng tính cộng đồng-tạo ra các mối quan hệ mới giữa con người với
con người, bất chấp các khoảng cách về địa lý, tạo ra các cộng đồng quốc tế
trực tuyến, sự cạnh tranh hay hợp tác quốc tế về kinh tế, công nghệ và phát
triển.
Công nghệ thông tin, truyền thông và thương mại đi
ện tử rút ngắn thời gian
cho hàng loạt các mối tương tác và hoạt động xã hội, góp phần làm ngắn lại
các chu kỳ kinh doanh, các chu kỳ về sản phẩm, tăng hiệu quả, rút ngắn thời
gian đạt tới các mục tiêu phát triển. Hoạt động kinh tế xảy ra liên tục 24 giờ
mỗi ngày, 7 ngày trong tuần không những tác động tới các doanh nghiệp,
Chính phủ mà còn tác động đến từng cá nhân, tới các cộng đồng và các tổ
chứ
c xã hội. Sự thay đổi chu kỳ sản phẩm và dịch vụ làm thay đổi chiến lược
cạnh tranh toàn cầu của các công ty, mang lại cho người tiêu dùng các tiện
nghi tiêu dùng mới. Rút ngắn được thời gian cũng như làm thay đổi hoạt động
cung cấp dịch vụ công, y tế, giáo dục.
2. Lợi ích của thương mại điện tử đối với các doanh nghiệp
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

21

2.1 Thương mại điện tử làm giảm chi phí

Thương mại điện tử làm ảnh hưởng tới bốn loại chi phí lớn của doanh
nghiệp trong quá trình sản xuất và tiến hành các giao dịch thương mại, bao
gồm:
-
Chi phí tiêu thụ:
Tác động lớn nhất về chi phí khi áp dụng thương mại điện tử là cho phép
doanh nghiệp có thể thay thế hàng loạt các cửa hàng vật lý (cửa hàng thực),
bằng những cửa hàng ảo trên cơ sở các website. Vì các website hoạt động 24
giờ/ 1 ngày, 7 ngày/ tuần với thị trường toàn cầu ở bất kỳ thời điểm nào nên
doanh nghiệp có thể phục vụ một tập hợp khách hàng lớn hơn mà không cầ
n
phải xây dựng, tổ chức hay phân loại các cơ sở vật lý của mình. So với việc
quản lý nhiều cửa hàng, việc quản lý một cửa hàng ảo cho phép doanh nghiệp
cắt giảm được nhiều chi phí trong khâu quản lý, đặc biệt là chi phí kiểm kê
hàng hoá. Việc truy cập 24/24 giờ tới các cửa hàng ảo đem lại sự tiện lợi đối
với khách hàng, chính sự tiện lợi này là một đặc tính ưu việ
t của các hoạt
động kinh doanh ảo.
Với việc cung cấp các sản phẩm hoặc thông tin dịch vụ trực tuyến, khách
hàng có thể hình thành kỹ năng và kiến thức để tự đánh giá giá cả của hàng
hoá cũng như đặc điểm của quá trình thực hiện hàng hoá. Trong tương lai một
môi trường kinh doanh điện tử như vậy sẽ cho phép khách hàng thường xuyên
truy cập website, nắm được ngày càng nhiều thông tin sản phẩ
m cũng như các
thuộc tính về giá cả. Từ đó việc giao tiếp giữa khách hàng với các nhân viên
bán hàng chuyên nghiệp hoặc với những nhân viên hỗ trợ sẽ được thực hiện ở
trình độ cao hơn.
Một tác động khác của thương mại điện tử tới chi phí tiêu thụ là làm tăng

tính hiệu quả trong cấu trúc các đơn đặt hàng. Điển hình là trường hợp của hai
công ty lớn trên thế gi
ới, General Electric (GE) và Cisco Systems. Trước khi
áp dụng hình thức đặt hàng qua website, cả hai công ty này đều có tới gần 1/4
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

22
các đơn đặt hàng của họ phải sửa lại vì các lỗi, cụ thể đối với GE, số lượng
này là trên 1.000.000 đơn hàng. Từ khi cho phép khách hàng đặt hàng trực
tiếp qua website, tỷ lệ các đơn đặt hàng lỗi của hai công ty đều giảm xuống
đáng kể, như của Cisco, tỷ lệ này chỉ còn khoảng 2%.
Tiết kiệm chi phí thông qua việc áp dụng các hình thức thanh toán trực tiếp
qua Web cũng là con số đáng kể đố
i với các doanh nghiệp kinh doanh điện tử.
Mặc dù khoản phí dịch vụ ngân hàng cho việc thanh toán bằng séc giấy giữa
các ngân hàng và người bán là không lớn, trung bình khoảng 1,2 USD cho
một giao dịch thanh toán, thanh toán bằng thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ trung
bình chỉ khoảng 0,40 USD đến 0,60 USD, song, chi phí cho quá trình thanh
toán điện tử qua Internet có thể giảm xuống còn khoảng 0,01 USD hoặc thấp
hơn.
Rõ ràng thương mại điện tử đang làm thay đổi về cơ bản quá trình bán hàng
của các doanh nghiệp. Nó buộc các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị
trường phải xem xét lại cách thức giao tiếp với khách hàng. Ngay cả các
doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động kinh doanh trên thị trường cũng cần
nghiên cứu để áp dụng thương mại điện tử, khai thác các cơ hội mà thương
mại điện tử đem lại nhằm tiếp cận các tập khách hàng mới, những
đối tượng
mà trước đây doanh nghiệp cho là khó có thể tiếp cận.
-
Chi phí liên quan đến việc mua sắm (procurement) của doanh nghiệp

Lĩnh vực chi phí thứ hai mà thương mại điện tử tác động tới là chi phí mua
sắm. Hoạt động mua sắm của các doanh nghiệp chủ yếu bao gồm việc mua
sắm các sản phẩm liên quan tới các lĩnh vực bảo trì, sửa chữa và vận hành
(MRO- Maintenance, Repair, Operation). Ở đây không đề cập đến các chi phí
liên quan đến mua hàng hoá, sản phẩm kinh doanh và những chi phí mua
nguyên liệu, vật liệu thô sử dụng để sản xuấ
t trực tiếp ra các sản phẩm và
cung cấp các dịch vụ.
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

23
Trong thương mại truyền thống, khi cần được cung ứng MRO, nhân viên
mua hàng của một tổ chức sẽ phải viết giấy yêu cầu. Sau đó, nhân viên này sẽ
nghiên cứu các tờ Catalog khác nhau để tìm ra loại sản phẩm phù hợp với
mức giá hợp lý. Quá trình này bao gồm nhiều công đoạn phức tạp nên chi phí
quản lý cho việc mua gián tiếp các yếu tố đầu vào này thường vượt quá giá
trị của chính bản thân các yếu tố
đó. Theo tổ chức phát triển và hợp tác quốc
tế của Liên Hiệp quốc (OECD), trung bình một công ty có doanh thu lớn hơn
500 triệu USD, chi phí cho mỗi đơn đặt hàng cung cấp sản phẩm MRO đơn lẻ
vào khoảng từ 75 USD-150 USD. Vì vậy mục tiêu của nhiều ứng dụng mua
sắm trong thương mại điện tử là kết nối trực tiếp các công ty, các tổ chức với
Catalog của các nhà cung cấp và toàn bộ quá trình mua hàng đều được th
ực
hiện trên Web. Việc kết nối các catalog điện tử làm cho các doanh nghiệp có
thể nhanh chóng tìm được sản phẩm mà mình cần mua và có thể kiểm tra độ
chính xác của các thông tin mà những người bán hàng cung cấp, từ đó làm
giảm chi phí cung ứng đầu vào cho các doanh nghiệp.
Trước đây, ở các công ty lớn, việc cung ứng MRO được thực hiện thông
qua các ứng dụng trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) độc quyền trên các mạng giá

tr
ị gia tăng (VAN-value-added network) riêng. Giờ đây, chi phí cho việc trao
đổi dữ liệu điện tử EDI trên Web chỉ vào khoảng 1/10 chi phí cho hoạt động
này khi thực hiện trên VAN. Vì vậy, nhiều người sử dụng EDI trong các tổ
chức lớn hiện nay đang chuyển việc mua sắm MRO trên VAN sang sử dụng
Web.
-
Chi phí liên quan đến hoạt động hậu cần
Có thể nói, thương mại điện tử đã làm thay đổi các hoạt động thuộc lĩnh
vực hậu cần của doanh nghiệp như việc đóng gói, chuyển dịch hàng hoá và
biến nó thành lĩnh vực kinh doanh thông tin. Tác động của thương mại điện tử
tới chi phí của hoạt động hậu cần doanh nghiệp có ý nghĩa to lớn, đặc biệt đối
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT

24
với các doanh nghiệp chuyên hoạt động trong lĩnh vực này như Federal
Express (FedEx) hay DHL.
FedEx là một ví dụ điển hình, FedEx bắt đầu nhận các đơn đặt hàng trực
tuyến vận chuyển các gói bưu kiện và theo dõi chúng qua mạng riêng của
mình từ năm 1983, phải mất gần 12 năm số lượng khách hàng của hãng mới
đạt tới con số 50.000. Nhưng chỉ sau 3 năm (1995-1998), sau khi FedEx áp
dụng dịch vụ tương tự nhưng thông qua Web, số l
ượng khách hàng của hãng
đã lên tới con số 1 triệu. Hiện nay theo ước tính của hãng, có tới hơn 70%
trong số 3 triệu gói bưu kiện mỗi ngày của hãng được bắt đầu từ việc giao tiếp
trên Internet
(3)
.
Do ứng dụng Internet, khả năng đáp ứng nhanh các đơn đặt hàng có tính
phức tạp cao cũng như khả năng theo dõi, giám sát các đơn đặt hàng chặt chẽ

nên ngày càng có nhiều doanh nghiệp kinh doanh trên cơ sở Web, như DHL,
FedEx, United Parcel Service (UPS) - thực hiện kinh doanh các dịch vụ hậu
cần như vận chuyển, phân phối (bao gói, bốc xếp) các gói bưu kiện và các
dịch vụ hỗ trợ khách hàng khác trên trang Web.
Hiện nay, các doanh nghiệp không còn phải lo lắng về việ
c theo dõi các
kiện hàng của mình gửi đi, dù có phải chuyển nó đi bất cứ đâu trên thế giới.
Với những lợi ích mà Web mang lại, hoạt động giám sát vận chuyển, kiểm tra
giao nhận hàng hoá doanh nghiệp sẽ trở nên rất đơn giản, tạo điều kiện cho
quá trình thanh toán được thực hiện nhanh hơn. Ngoài ra, nó còn giúp các
doanh nghiệp có được sự linh hoạt, mềm dẻo trong việc ra các quyết định về
kế ho
ạch sản xuất, đồng thời giảm được các chi phí không cần thiết trong quá
trình vận tải và bốc xếp hàng hoá.
Tóm lại, bằng việc thay đổi cấu trúc, cắt giảm chi phí bán hàng, chi phí
trong lĩnh vực hậu cần của doanh nghiệp, thương mại điện tử đang làm xuất
hiện những nhân tố thành công mới. Trong quá khứ, nếu những nhân tố như

3
Theo: PriceWaterhouse Coopers: E-Business technology forecast, PriceWaterhouse Coopers Technology
Centre, California, 1999

×