Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Việc vận dụng các quy định pháp lý của Liên minh Châu Âu EU về chất lượng và nhãn hiệu sản phẩm trong xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường này” docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 100 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Việc vận dụng các quy định pháp lý
của Liên minh Châu Âu EU về chất
lượng và nhãn hiệu sản phẩm trong
xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào
thị trường này


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỉ 21 là thế kỉ của kinh tế tri thức, với xu hướng khu vực hố và tồn
cầu hố đang đặt ra cho các hoạt động thương mại quốc tế những cơ hội mới.
Chính vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu là phương hướng chiến lược được Đại hội
Đảng IX xác định và chỉ đạo thực hiện theo tinh thần : “Việt Nam sẵn sàng làm
bạn, làm đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu
vì hồ bình độc lập dân tộc và phát triển”. Để thực hiện chiến lược và định
hướng xuất khẩu là phấn đấu đạt tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm tới đạt
khoảng 114 tỷ USD, tăng 16%/năm, các doanh nghiệp Việt Nam không thể
không đẩy mạnh xuất khẩu. Vấn đề đặt ra là hàng hố của Việt Nam xuất khẩu
đi đâu là có lợi thế nhất.
Thị trường Liên minh Châu Âu EU là một thị trường tiệu thụ rộng lớn, đại
diện cho 6,5% dân số thế giới (382,5 triệu) nhưng chiếm tới 1/5 thương mại toàn
cầu. EU là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới sau Mỹ, nhu cầu nhập khẩu
hàng năm đa dạng và phong phú. EU nhập rất nhiều các mặt hàng nơng sản,
khống sản, thuỷ hải sản và dệt may. Đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam. Hàng giày dép, dệt may, thuỷ hải sản, đồ gốm đồ gia dụng, cà
phê, chè và gia vị của Việt Nam đang là những mặt hàng được ưa chuộng tại thị
trường Châu Âu và triển vọng phát triển các mặt hàng này rất khả quan. Vì vậy,


có thể nói rằng EU là thị trường xuất khẩu quan trọng và tiềm năng của Việt
Nam. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hố sang EU, Việt Nam đã phần nào có được
sự tăng trưởng ổn định và tạo thuận lợi cho Việt Nam gia nhập tổ chức thương
mại thế giới (WTO).
Trong hơn 10 năm kể từ khi Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại
giao với EU, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hố của Việt Nam sang EU khơng
ngừng tăng cả về chiều rộng và chiều sâu. Tuy nhiên tỷ trọng xuất khẩu của Việt

1


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

Nam trong kim ngạch ngoại thương của EU còn khá khiêm tốn và chưa tương
xứng với tiềm năng và lợi ích của hai bên.
Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng hạn chế cơ
hội xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam chính là hành lang pháp lý hết
sức chặt chẽ của EU. Những quy định pháp lý này đã trở thành những rào cản
đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Nó hạn chế khả năng thâm nhập
và chiếm lĩnh thị trường. Việc nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề pháp lý và
thực tiễn vận dụng của Việt Nam khi thâm nhập thị trường này là điều hết sức
quan trọng.
Chính vì những lý do như vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Việc vận dụng các
quy định pháp lý của Liên minh Châu Âu EU về chất lượng và nhãn hiệu
sản phẩm trong xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường này” để
viết Khoá luận tốt nghiệp nhằm đi sâu tìm hiểu về thị trường EU và các yêu cầu
của thị trường EU đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam cũng như việc vận
dụng các quy định pháp lý của EU của các doanh nghiệp Việt Nam. Để hồn

thành Khố luận tốt nghiệp, tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp
trên cơ sở những thơng tin thu thập được cùng các phương pháp thốngkê, so
sánh... để nghiên cứu những yêu cầu mà đề tài đặt ra. Do thời gian nghiên cứu
không dài và việc thu thập tài liệu cịn gặp nhiều hạn chế nên Khố Luận Tốt
Nghiệp này khơng tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được ý kiến
đóng góp của các thầy cơ giáo, các bạn sinh viên để Khố Luận được hồn thiện
hơn
Những nội dung của Khố luận được trình bày trong 3 chương sau:
Chương 1: Tổng quan về Liên Minh Châu Âu và các quy định quy định
về chất lượng - nhãn hiệu sản phẩm xuất khẩu vào thị trường này

2


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

Chương 2: Thực tiễn vận dụng các quy định pháp lý về chất lượng và
nhãn hiệu sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị
trường EU

Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định
pháp lý của EU nhằm thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường này.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban giám hiệu,
Phòng Đào Tạo, Khoa KTNT và các Phòng Ban khác của trương Đại Học Ngoại
Thương đã tạo môi trường thuận lợi cho tôi được học tập và rèn luyện 4 năm
qua. Đặc biệt tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS –TS Lê
Đình Tường, người đã nhiệt tình hướng dẫn tơi và các bạn bè của tơi, đã giúp đỡ
tơi hồn thành tốt Khố luận này. Qua KLTN này tơi cũng tỏ lịng biết ơn sâu

sắc nhất tới cha mẹ, các anh chị và những người thân của tôi, những người đã
ủng hộ tôi cả về vật chất lẫn tinh thần trong suốt 4 năm học vừa qua.
Hà nội tháng 12 năm 2003
Sinh viên
Vũ Thị Nam Phương

3


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

CHƯƠNG 1
LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ
CHẤT LƯỢNG - NHÃN HIỆU SẢN PHẨM XUẤT KHẨU VÀO THỊ
TRƯỜNG NÀY
1.1

KHÁI QUÁT VỀ LIÊN MINH CHÂU ÂU

1.1.1

Tổng quan về liên minh Châu Âu

Liên minh Châu Âu là một tổ chức liên kết kinh tế khu vực lớn nhất, thành
công nhất trên thế giới và được coi là sự mẫu mực của xu thế hợp tác kinh tế
quốc tế. Một tổ chức thực hiện có kết quả quá trình hợp nhất về kinh tế giữa các
quốc gia độc lập về chính trị theo thiết chế thị trường thống nhất và chặt chẽ.
Hiện nay cùng với Mỹ, Nhật Bản Liên minh Châu Âu đang là một trong ba

trung tâm kinh tế hùng mạnh trên thế giới.
Để có được những thành tựu như ngày nay, EU đã phải trải qua một thời
gian dài hình thành và phát triển với những bước thăng trầm của nó, đặc biệt là
cả quá trình nghiên cứu và những nỗ lực to lớn của các nước thành viên trong
liên kết kinh tế.
Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, một mặt, trước yêu cầu cấp thiết
phải khôi phục và phát triển nền kinh tế bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, các
nước Tây Âu nhận thấy cần phải có sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các nước Tây
Âu với nhau để xây dựng và ngăn chặn chiến tranh sau này có thể nổ ra giữa các
nước Châu Âu, đặc biệt là phải đổi mới kinh tế, lấy sự hợp tác về sản xuất thay
cho sự đối địch về kinh tế. Mặt khác, q trình khách quan xuất phát từ địi hỏi
phát triển của lực lượng sản xuất do đời sống kinh tế quốc tế hoá ngày càng rộng
rãi cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã
4


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển của lực lượng sản xuất và đời sống kinh tế
Tây Âu. Sự tiến triển nhanh chóng về cơng nghệ, kỹ thuật trên thế giới đã tác
động mạnh mẽ làm cho Tây Âu cảm thấy cần phải có sự thay đổi gắn liền với
tiến bộ về kinh tế.
Chính trong bối cảnh đó, việc tăng cường quan hệ kinh tế giữa các nước
Tây Âu với nhau và thiết lập một tổ chức siêu quốc gia có sứ mạng điều hành
phối hợp hoạt động kinh tế của từng quốc gia càng trở nên bức xúc.
Để thống nhất Châu Âu, lúc này có hai hướng vận động:
- Hợp tác: Các quốc gia hợp tác với nhau nhưng mỗi quốc gia đều giữ trọn
chủ quyền dân tộc.

- Hồ nhập hay “nhất thể hố”: Các quốc gia đều chấp nhận và tuân thủ
theo một cơ quan quyền lực siêu quốc gia. Cuối cùng nó sẽ dẫn tới việc
hình thành một tổ chức kiểu liên bang.
Lịch sử của sự hình thành và phát triển của Cộng Đồng kinh tế Châu Âu đã
được đánh dấu bởi bản tuyên bố vào ngày 09/05/1950 mà lúc đó ít người đánh
giá được tầm quan trọng của nó. Ngoại Trưởng Pháp Robert Struman theo sáng
kiến của nhà chính trị gia- nhà kinh tế học Pháp Jean Monet, đã đề xuất với Đức
việc thành lập một tổ chức hợp tác Châu Âu trong một tổ chức “mở cửa” để các
nước Châu Âu khác nếu có nguyện vọng cùng tham gia để nhằm thống nhất việc
sản xuất cũng như tiêu thụ các sản phẩm than-thép. Bản tuyên bố nêu rõ đề nghị
trên đây của Pháp nhằm đặt nền móng đầu tiên cho một “Liên bang Châu Âu”
để gìn giữ hồ bình. Sáng kiến này của Pháp có ý nghĩa to lớn đối với các nước
Tây Âu, nó vừa mở ra một kiểu quan hệ hoàn toàn mới đối với lĩnh vực kinh tế
(lấy hợp tác thay cho đối địch kinh tế), vừa bao hàm sự hoà giải giữa Pháp và
Đức, tạo thành khung cho sự thống nhất Châu Âu trong tương lai. Các nước
Italia, Bỉ, Hà Lan cũng lên tiếng ủng hộ cho sáng kiến này. Ngày 18/04/1951, tại
Paris, sáu nước Châu Âu đã ký hiệp ước thành lập Cộng đồng Than và Thép
5


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

Châu Âu (ECSC) mở ra một chương mới trong lịch sử quan hệ giữa các nước
Tây Âu. Những thành tựu về kinh tế và chính trị mà ECSC mang lại đã dẫn đến
việc ngày 25/3/1957, tại Rome sáu nước thành viên đã cùng nhau kí kết hiệp
ước thiết lập Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) và cộng đồng năng lượng
nguyên tử Châu Âu (EURATOM) với nhiệm vụ đẩy mạnh sáng tạo phát triển
công nghiệp nguyên tử, đảm bảo cung cấp nguyên liêu và bảo vệ môi trường,

đảm bảo sự hoà nhập kinh tế, tiến tới một thị trường thống nhất tạo ra sự tự do
lưu thông hàng hố và nguồn nhân lực trong tồn khối. Năm 1967 các tổ chức
trên hợp nhất thành một tổ chức chung có tên là Cộng đồng Châu Âu (EC). Trên
cơ sở những kết quả đã đạt được cả về mặt kinh tế cũng như chính trị, ngày
1/1/1973 EC “mở cửa” đón ba thành viên mới: Anh, Ailen và Đan Mạch. Sau
lần “mở cửa” thứ nhất, với việc gia nhập của các nước Tây Bắc Âu, Cộng đồng
Châu Âu mở cửa lần thứ hai đón thêm ba nước Nam Âu: Hy Lạp (1981), Tây
Ban Nha (1986) và Bồ Đào Nha (1986). Nhờ những thành công đã đạt được trên
phương diện kinh tế và chính trị, Cộng đồng kinh tế Châu Âu tiếp tục mở rộng
các quá trình liên kết rộng rãi giữa các nước và các dân tộc. Đỉnh cao những nỗ
lực của quá trình thống nhất Châu Âu được thể hiện qua cuộc họp thượng đỉnh
các nước thuộc cộng đồng kinh tế Châu Âu tổ chức tại Maastricht (Hà Lan)
tháng 12 năm 1991. Hội nghị đã thông qua hiệp ước Maastricht với những nội
dung sau: xây dựng ngôi nhà chung Châu Âu, thành lập liên minh kinh tế tiền tệ
(EMU) và liên minh chính trị (EPU). Ngày1/1/1993, hiệp ước Maastricht chính
thức có hiệu lực. EC gồm 12 nước trở thành Liên Minh Châu Âu (EU). Cho đến
nay, EU gồm 15 nước thành viên, trong đó có 3 thành viên mới là Áo, Phần Lan
và Thuỵ Điển (gia nhập năm 1995).
Có thể nói q trình ra đời và phát triển của EU gần nửa thế kỷ qua là cả
một quá trình đấu tranh gay gắt, một quá trình tranh chấp và thoả hiệp. Song với
nỗ lực to lớn và cam kết thống nhất về mục tiêu của các nước thành viên, EU đã
phát triển vượt bậc, xúc tiến liên kết trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh
6


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

vực kinh tế, tiền tệ với việc tạo lập thị trường chung và tiến đến thiết lập một

khu vực tiền tệ ổn định nhằm cạnh tranh với đồng đôla Mỹ trên thị trường quốc
tế về lâu về dài để hình thành một liên minh tiền tệ và kinh tế thống nhất tiến tới
tăng cường liên kết về mặt chính trị. Với tiềm năng to lớn về kinh tế, khoa học
cơng nghệ của mình, EU đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc chi phối các
quan hệ kinh tế quốc tế.
Liên minh Châu Âu ngay từ khi mới thành lập đã đặt vấn đề kinh tế lên
hàng đầu, hướng đến xây dựng một thị trường chung. Thị trường chung có thể
được hiểu là một khơng gian rộng lớn bao trùm lãnh thổ của tất cả các quốc gia
thành viên mà ở đó hàng hố, lao động, dịch vụ và tư bản được lưu chuyển hoàn
toàn tự do.
Mở đầu cho việc dẫn đến một thị trường chung là việc hoàn tất xây dựng
Liên Minh thuế quan của 6 nước vào tháng 07/1968. Liên minh thuế quan này
bao hàm việc xố bỏ hồn tồn mọi loại thuế quan và những hạn chế về số
lượng đối với hoạt động thương mại trong cộng đồng, đồng thời xây dựng một
biểu thuế quan chung duy nhất cho toàn cộng đồng, giành cho nhau những ưu
đãi trong quan hệ mậu dịch giữa các nước thành viên. Từ năm 1958 cho đến
năm 1968, tỷ lệ khối lượng xuất khẩu giữa các nước trong cộng đồng đã tăng từ
37% lên 50% tồng xuất khẩu của cộng đồng, còn tỷ lệ nhập khẩu tăng từ 30%
lên 47%. Tuy nhiên trong một thời gian dài tiếp sau đó tiến trình xây dựng thị
trường chung bị chậm lại do các nước trong cộng đồng rơi vào cuộc khủng
hoảng dầu lửa năm 1973 và sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ Bretton Woods. Các
nước quá lo lắng giải quyết vấn đề của riêng mình nên khơng cịn thực sự quan
tâm đến việc xây dựng thị trường chung nữa.
Phải đến giữa những năm 80, trước sự suy yếu của kinh tế thế giới, các
nước trong cộng đồng buộc phải xem xét lại các hoạt động liên kết kinh tế của
mình nhằm tìm cách khai thơng tình trạng trì trệ và đem lại cho tiến trình nhất
7


Khoá luận tốt nghiệp


Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

thể hoá kinh tế một đà phát triển mới. Các nước này lại thấy được sự cần thiết
phải có nỗ lực mới để nhanh chóng hồn tất việc xây dựng thị trường chung EU.
Tháng 07/1987, việc ký kết Định ước Châu Âu thống nhất, tiến trình xây dựng
thị trường chung đã tiến thêm một bước quan trọng. Qua Định ước này các nước
trong cộng đồng đã nhấn mạnh đến việc xoá bỏ các đường biên giới nội bộ, tạo
thị trường chung cho sự lưu thơng hàng hố, lao động dịch vụ và vốn. Ngày
01/01/1993, sau bảy năm tích cực chuẩn bị, tồn thể cộng đồng Châu Âu chính
thức trở thành một thị trường chung được giải phóng khỏi các đường biên giới
nội bộ.
Một bước phát triển tất yếu trong tiến trình dẫn tới thị trường chung là việc
thống nhất các nước trong EU ở lĩnh vực tiền tệ. Nội dung chính ở đây là xây
dựng một liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu (EMU) và đồng tiền chung Châu
Âu (EURO). Các hoạt động đáng kể trên góp phần thúc đẩy nền kinh tế của các
nước phát triển đồng đều, tăng sức cạnh tranh với hàng hoá của các nước khác.
Tuy nhiên để được tham gia vào Liên minh kinh tế tiền tệ, các nước trong khối
EU phải đạt được 5 tiêu chuẩn cơ bản sau:
- Thiếu hụt ngân sách không được cao quá 3% GDP của nước mình;
- Nợ Nhà nước khơng được cao q 60% GDP của nước mình;
- Lạm phát khơng đựợc cao q 1,5% mức bình quân của các chỉ tiêu này
ở 3 nước trong khối có nền kinh tế ổn định nhất;
- Lãi suất tín dụng khơng cao q mức bình qn của các chỉ tiêu này ở
ba nước trong khối có nền kinh tế ổn định nhất;
- Trong hai năm gần đây đồng bản tệ không bị phá giá.
Đối chiếu với các tiêu chuẩn trên thì hiện đã có 12 trong số 15 nước thành
viên EU đạt đủ tiêu chuẩn EMU.

8



Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

Ngày 01/01/1999, đồng tiền chung Châu Âu đã chính thức có mặt trên thị
trường. Đồng EURO ra đời đã biến các nước EU thành một thực thể thương mại
duy nhất, một thị trường rộng lớn, nền kinh tế của các nước thành viên có thể ổn
định hơn và phát triển một cách đồng đều hơn, khả năng cạnh tranh so với Mỹ
và Nhật Bản cũng từ đó mà tăng lên. Có thể nói việc thiết lập thị trường chung
là một thành quả lớn nhất trong quá trình liên kết kinh tế Châu Âu, là nền tảng
quan trọng cho các giai đoạn tiếp theo của tiến trình nhất thể hoá EU.
1.1.2

Đặc điểm chung của thị trường EU

1.1.2.1 Những điểm tương đồng
EU là một thị trường rộng lớn, với dân số 382,5 triệu người tiêu dùng, năm
2002 thu nhập quốc dân khoảng 8.562 tỷ USD (khoảng 20% GDP toàn cầu), thu
nhập bình quân đầu người 32.028 USD/năm, hiện tại gồm 15 quốc gia thành
viên. (Nguồn: Tạp chí Thương mại số 31/2003). Thị trường này còn mở rộng
sang các nước thuộc “Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu” (EFTA) tạo thành
một thị trường rộng lớn khoảng 390 triệu người. EU là thị trường có nhiều thành
viên mặc dầu vậy đây vẫn là thị trường thống nhất trên nhiều khía cạnh.
Ngay từ cuối những năm 60 của thế kỷ 20, EU đã là thị trường có hệ thống
hải quan thống nhất trong cả khối với định mức chung ở các nước thành viên.
Từ khi hiệp định Maastricht có hiệu lực (01/01/1993), EU thành thị trường
chung thống nhất huỷ bỏ đường biên giới nội bộ trong liên minh (biên giới lãnh
thổ quốc gia và biên giới hải quan). Ngoài một thể chế thống nhất, liên minh cịn

có cơ chế thống nhất trong việc ra quyết định và thực hiện trong phạm vi cộng
đồng. Những quyết định của cộng đồng phải được tuân thủ nghiêm túc ở mỗi
quốc gia thành viên. Điều này đựơc thể hiện trong nguyên tắc “Luật cộng đồng
luôn cao hơn luật quốc gia”.

9


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

Gắn liền với sự ra đời của thị trường chung Châu Âu là một chính sách
thương mại chung. Nó điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu và lưu thơng hàng hố
dịch vụ trong nội bộ khối. EU ngày nay được xem như một đại quốc gia ở Châu
Âu. Bởi vậy chính sách thương mại chung của EU cũng giống như chính sách
thương mại của một quốc gia. Nó bao gồm chính sách thương mại nội khối và
chính sách ngoại thương. Chính sách thương mại nội bộ khối tập trung vào việc
xây dựng và vận hành thị trường chung Châu Âu nhằm xoá bỏ việc kiểm soát
biên giới lãnh thổ quốc gia và hải quan (xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi
quan thuế) để tự do lưu thơng hàng hố sức lao động, dịch vụ và vốn đồng thời
điều hồ các chính sách kinh tế và xã hội của các nước thành viên. Tất cả các
nước thành viên EU đều áp dụng một chính sách ngoại thương chung với các
nước ngoài khối. Uỷ ban Châu Âu (EC) là người đại diện duy nhất cho liên
minh trong việc đàm phán ký kết các hiệp định thương mại và dàn xếp tranh
chấp trong lĩnh vực này. Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách
ngoại thương của EU là thuế quan, hạn ngạch hạn chế về chất lượng, hàng rào
kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.
Đối với hàng xuất khẩu theo hạn ngạch vào khối, mức thuế trung bình đánh
vào hàng dệt may là 9%, hàng nơng sản là 18% cịn hàng cơng nghiệp là 2%.

Chính sách ngoại thương của EU từ 1951 đến nay phân thành những nhóm
chủ yếu sau: Nhóm chính sách khuyến khích xuất khẩu, nhóm chính sách thay
thế nhập khẩu, nhóm chính sách tự do hố thương mại và nhóm chính sách hạn
chế xuất khẩu tự nguyện.
Để đảm bảo cạnh tranh công bằng trong thương mại, EU đã thực hiện các
biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp xuất khẩu và chống hàng giả. EU đã
ban hành chính sách chống bán phá giá và áp dụng thuế “chống xuất khẩu bán
phá giá” để đấu tranh với những trở ngại trong bn bán với thế giới. Có thể kể
đến việc đánh thuế 30% đối với những sản phẩm điện tử của Hàn Quốc va
10


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

Singapore, giày dép của Trung Quốc, đánh thuế 50%-100% đối với các xí
nghiệp sản xuất camera truyền hình của Nhật Bản… trong khi đó các biện pháp
chống hàng giả của EU cho phép ngăn chặn không cho nhập khẩu những hàng
hoá đánh cắp bản quyền. Bên cạnh việc áp dụng các biện pháp chống cạnh tranh
không lành mạnh trong thương mại, EU còn sử dụng một biện pháp để đẩy
mạnh thương mại với các nước đang và chậm phát triển. Đó là hệ thống ưu đãi
thuế quan phổ cập (GSP). Bằng cách này, EU có thể làm cho nhóm các nước
đang phát triển (trong đó có Việt Nam) và nhóm nước chậm phát triển dễ dàng
thâm nhập vào thị trường của mình. Sắp tới quốc hội EU sẽ thông qua hệ thống
ưu đãi thuế quan phổ cập mới, hệ thống này sẽ bao gồm 2 nhóm sản phẩm của
các nước đang phát triển được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của EU thay vì 4
nhóm sản phẩm như đang áp dụng hiện nay, đó là sản phẩm nhạy cảm và sản
phẩm không nhạy cảm. Hàng của các nước đang và chậm phát triển muốn được
hưởng GSP khi nhập khẩu vào EU thì phải tuân thủ các quy định của EU về xuất

xứ hàng hoá và phải xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ mẫu A do cơ quan có
thẩm quyền của các nước được hưởng GSP cấp.
Ngồi ra để đảm bảo quyền lợi và an toàn cho người tiêu dùng trong khối,
EU còn ban hành rất nhiều các đạo luật chủ yếu cấm buôn bán các sản phẩm
được sản xuất từ những nước có điều kiện sản xuất chưa đạt mức an toàn ngang
với tiêu chuẩn của EU. Chẳng hạn như đạo luật 91/493/EC của hội đồng EC
“những điều kiện đối với sức khỏe đối với việc nhập khẩu kinh doanh hàng thuỷ
sản trên thị trường EU”. Theo điều 10 của đạo luật này, các tiêu chuẩn áp dụng
ít nhất là tương đương với những tiêu chuẩn chỉ đạo được áp dụng trên thị
trường nội địa EU. Khái niệm tương đương ở đây được hiểu là, tương đương về
tổ chức chức năng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra chất lượng sản
phẩm theo tiêu chuẩn HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point- điểm
giới hạn kiểm tra mức nguy hiểm) đối với hàng thực phẩm. EU cũng thông qua
những quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về độ an toàn chung của các
11


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

sản phẩm được bán ra, các hợp đồng quảng cáo, nhãn hiệu… Các tổ chức
chuyên nghiên cứu đại diện cho người tiêu dùng sẽ đưa ra các quy chế định
chuẩn Quốc Gia hoặc Châu Âu. Hiện nay ở Châu Âu có 3 tổ chức định chuẩn:
Uỷ ban Châu Âu về định chuẩn, Uỷ Ban Châu Âu về Định chuẩn điện tử, Viện
Định chuẩn viễn thông Châu Âu. Đặc biệt EU có quy chế về nhãn mác rất khắt
khe nhất là đối với các hàng thực phẩm đồ uống, thuốc men và vải lụa. Điều này
chi phối rất lớn tới xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Nhờ ứng dụng thành tựu về công nghệ thông tin, EU đã thiết lập hệ thống
chống gian lận về hạn ngạch trong toàn khối. Hải quan EU với những phương

tiện hiện đại nắm rất chắc các số liệu nhập khẩu của từng nước hàng ngày không
cho phép vượt số lượng giao hàng theo quy định dù chỉ là một đơn vị. Để giải
quyết những trường hợp này có khi phải thương lượng rất khó khăn.
EU có 15 thị trường quốc gia. Mỗi thị trường lại có đặc điểm tiêu dùng
riêng, do vậy có thể thấy rằng thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng và phong
phú về hàng hố. Tuy có những khác biệt nhất định về tập quán và thị hiếu tiêu
dùng nhưng 15 nước thành viên đều là những quốc gia nằm trong khu vực Tây
và Bắc Âu nên có những đặc điểm tương đồng về kinh tế, văn hóa. Trình độ
phát triển kinh tế – xã hội của các nước khá đồng đều cho nên người dân thuộc
khối EU có những điểm chung về sở thích và thói quen tiêu dùng.
Người tiêu dùng Châu Âu có sở thích và thói quen sử dụng các sản phẩm
có nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Họ cho rằng, những sản phẩm này gắn liền
với chất lượng sản phẩm và có uy tín lâu đời, cho nên dùng những sản phẩm
mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ an tâm về mặt chất lượng và an tồn cho người sử
dụng. Vì vậy trong nhiều trường hợp mặc dù sản phẩm giá rất đắt nhưng họ vẫn
mua mà khơng thích chuyển sang tiêu dùng những sản phẩm không nổi tiếng
khác cho dù giá rẻ hơn nhiều.

12


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

Người tiêu dùng EU thích sử dụng và có thói quen tiêu dùng một số hàng
hố sau:
- Hàng may mặc và giày dép: Người dân Áo, Đức, Hà Lan chỉ mua hàng
may mặc hoặc giày dép không chứa chất nhuộm có nguồn gốc hữu cơ (azodyes). Khách hàng EU đặc biệt quan tâm tới chất lượng và thời trang của hai
loại sản phẩm này. Đối với hàng giày dép, người EU có xu hướng đi giầy vải.

Xu hướng này càng tăng lên tỷ lệ thuận với xu hướng tiêu dùng giày dép tăng
hàng năm của EU. Đối với mặt hàng này nhu cầu thay đổi nhanh chóng, nhất là
về mẫu mốt.
- Thuỷ hải sản: Người tiêu dùng EU không mua những sản phẩm thuỷ hải
sản bị nhiễm độc do tác động của môi trường hoặc do các chất phụ gia không
được phép sử dụng. Đối với những sản phẩm thuỷ hải sản qua chế biến, người
Châu Âu chỉ dùng những sản phẩm đóng gói có ghi tên sản phẩm, nơi sản xuất,
các điều kiện bảo quản và sử dụng, mã số và mã vạch. Họ tẩy chay các loại thuỷ
sản nhập khẩu có chứa khuẩn Salmonela, độc tố Lustamine, nhiễm
V.Paraheamoliticus, nhiễm V. Cholerea. Người Châu Âu ăn ngày càng nhiều
thuỷ sản vì họ cho rằng sẽ giảm được béo mà vẫn khoẻ mạnh.
EU là một trong những thị trường lớn nhất trên thế giới cũng chỉ như thị
trường Mỹ nhưng khác với thị trường Mỹ ở chỗ EU là một cộng đồng kinh tế
mạnh và là một trung tâm văn minh lâu đời của nhân loại, do đó sở thích tiêu
dùng của người dân rất cao sang. Họ có thu nhập có mức sống khá đồng đều,
yêu cầu khắt khe về chất lượng và độ an toàn sản phẩm nói chung cịn với thực
phẩm thì chất lượng và vệ sinh là hàng đầu. Yếu tố quyết định tiêu dùng của
người Châu Âu là chất lượng hàng hoá chứ không phải là giá cả đối với đại đa
số các mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này. Trong khi đó Mỹ là một xã
hội đa văn hố, đa dân tộc nên sở thích tiêu dùng của người Mỹ rất đa dạng về
chủng loại hàng hố và địi hỏi về chất lượng không khắt khe như thị trường EU.
13


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

Xu hướng tiêu dùng trên thị trường EU đang có những thay đổi như: khơng
thích dùng đồ nhựa mà thích dùng đồ gỗ, thích ăn thuỷ sản hơn ăn thịt, yêu cầu

về mẫu mốt và kiểu dáng thay đổi nhanh đặc biệt đối với những mặt hàng thời
trang (giày dép, quần áo…). Sở thích và thói quen tiêu dùng trên thị trường này
đang thay đổi rất nhanh cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ. Ngày nay người Châu Âu cần nhiều chủng loại hàng hố với số lượng lớn
và những hàng hố có vịng đời ngắn. Khơng như trước kia họ chỉ thích dùng
những hàng hố có chất lượng cao, giá đắt, vịng đời sản phẩm dài, hiện nay sở
thích tiêu dùng lại là những sản phẩm có chu trình sống ngắn hơn giá rẻ hơn và
phương thức dịch vụ tốt hơn. Thói quen này đối với tất cả hàng hoá tiêu dùng,
kể cả hàng cơng nghệ cao. Tuy có sự thay đổi về sở thích và thói quen tiêu dùng
như vậy nhưng chất lượng hàng hoá vẫn là yếu tố quyết định hàng đầu đối với
phần lớn các hàng hoá tiêu thụ trên thị trường này.
Một điểm tương đồng nữa mà chúng ta phải kể đến đó là văn hố trong
kinh doanh của các doanh nhân EU. Với các đối tác trong khu vực này, nhiều
khi đã thoả thuận xong về chất lượng giá cả, nhưng họ vẫn đến tận nơi để xem
xét tình hình sản xuất mơi trường rồi mới ký hợp đồng. Trong giao dịch các
doanh nhân EU rất coi trọng chữ tín. Họ khơng thể chấp nhận việc giao hàng
khơng đúng thời hạn quy định, không thoả mãn các yêu cầu về chất lượng hợp
đồng. Các nhà nhập khẩu Châu Âu rất cẩn trọng trong việc lựa chọn các nhà
cung cấp, các doanh nghiệp thường yêu cầu các nhà cung cấp ký quỹ 5% giá trị
hợp đồng, khoản tiền này sẽ mất nếu không giao hàng.
1.1.2.2

Những điểm khác biệt

EU một thị trường chung thống nhất trong đó, hàng hố dịch vụ, vốn và sức
lao động được tự do lưu thông giữa 15 nước thành viên và đến nay đã lưu hành
đồng tiền chung Euro trong 12 trên 15 nước thành viên. Tuy nhiên dù khơng có
rào cản giữa các quốc gia thành viên, các quốc gia mở cửa cho các quốc gia
14



Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

thành viên khác, các nền kinh tế thống nhất và hệ thống quy định, luật pháp hoà
hợp, tuy nhiên tính chất thị trường của các nước có những điểm khác biệt đáng
kể do sự khác biệt về dân số, diện tích tơn giáo, phong tục tập qn,văn hố-xã
hội, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, hệ thống kinh tế chính trị
khác nhau. Mỗi quốc gia đều có nguồn gốc dân tộc cơ bản có những giá trị
truyền thống và những đặc trưng văn hoá của riêng mình. Điều đó đã tạo nên
những nét riêng biệt trong tính cách và thị hiếu tiêu dùng EU. Vì vậy, chúng ta
phải chú ý đến yếu tố này khi làm ăn buôn bán với từng nước trong khu vực này.
Để thiết lập được mối quan hệ với các thương nhân EU cần lưu ý một số
tính cách cá biệt: với thương nhân Anh mặc dù có sự quen biết lâu nhưng việc
chọn bạn hàng rất chậm chạp theo kiểu “phớt ăng lê”, ngược lại với các thương
nhân Đức, Tây Ban Nha thì ngay ở lần tiếp xúc đầu tiên cũng có thể thiết lập các
mối quan hệ bn bán. Tuy nhiên với thương nhân Đức thì phải cung cấp cho họ
đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp, về sản phẩm mà họ yêu cầu để họ nghiên
cứu động thái phát triển của doanh nghiệp một vài năm, còn đối với thương
nhân Tây Ban Nha chỉ cần đưa mẫu hàng và nội dung giao dịch là có thể bàn
việc buôn bán. Doanh nghiệp Pháp chủ yếu quan tâm đến giá cả và họ thích gán
mác lên hàng hố theo kiểu Pháp. Doanh nghiệp Đức không chấp nhận mua
hàng theo catalô trong khi các doanh nghiệp Anh lại rất quan tâm đến chất lượng
và sịng phẳng, ln tn theo luật lệ một cách chính xác.
Khác với doanh nghiệp Mỹ thường hoạt động một mình, các doanh nghiệp
Đức đi đâu cũng có trợ lý đi cùng. Nếu mời họ đến thăm xí nghiệp sản xuất của
mình, họ thường đọc các tư liệu liên quan và xem xét sản phẩm. Về thời gian
đến thăm xí nghiệp họ cũng rất thận trọng: nếu thảo luận những vấn đề quan
trọng họ thường đến sớm hơn một chút. Kết thúc cuộc trao đổi “chúng tôi sẽ

đến” thì nhất định họ sẽ đến. Nếu hẹn gặp họ thì phải xác định ngày giờ cho
chính xác.
15


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

Khi tranh luận mà đút tay vào túi quần hay túi áo sẽ gây ấn tượng không tốt
đối với người Pháp, Bỉ, Thuỵ Điển và Phần Lan; văn hố ở các nước Phương
Đơng coi việc sờ mó vào người khác là suồng sã, xúc phạm riêng tư trong khi đó
các nước Nam Âu hành động như vậy được coi là chứng tỏ sự nhiệt tình và bạn
hữu. Các nhà nhân chủng học tổng kết rằng: người Đức, Thuỵ Sỹ thường ăn nói
thận trọng chính xác, vừa đủ coi trọng tính lơgic khách quan, dựa vào ngun
văn ngun bản; người Italia thích nói nhiều, tranh luận bàn cãi một cách hiếu
thắng.
Văn hóa mặc cũng cần phải chú ý: nhiều doanh nhân Pháp có quan niệm
phân tầng xã hội khi nhìn cách ăn mặc của người khác, họ có ấn tượng tốt, có
cảm tình đối với người ăn mặc sang trọng hợp mốt. Người Đức mến mộ trang
phục vải lanh mềm, cà vạt trang nhã, đồ trang sức sáng màu với các nhãn mác
nổi tiếng, coi đó là biểu hiện của sự cởi mở, nghiêm túc thông minh. Doanh
nhân Hà Lan lại không chú trọng đến cách ăn mặc cầu kì mà thích tự nhiên, tiện
lợi…Doanh nhân Anh khơng thích khi trị chuyện hoặc nói những lời đàm tiếu
về Hồng Gia Anh, đối với người Pháp và đa số các nước Châu Âu khác không
nên hỏi về đời tư và chuyện gia đình vì coi đây là tọc mạch- trong khi đó ở Việt
Nam lại coi là quan tâm đến người khác. Doanh nhân Thuỵ Sỹ rất chú ý đến
năm tháng ra đời của doanh nghiệp đối tác và mối quan hệ với các doanh nghiệp
khác trên thị trường quốc tế, coi đó là thước đo tài năng, uy tín của chủ doanh
nghiệp và công ty đối tác. Người Bắc Âu rất thích nói đến chức vụ của mình

trong q trình đàm phán, thương thuyết. Doanh nhân Đức, Áo, hơi lạnh ít cười
có thể bỏ qua một số nghi thức xã giao thăm hỏi mà đi thẳng vào vấn đề, cơng
việc.
Trong giao dịch quốc tế quan hệ cá nhân có tác dụng khá quan trọng, xuất
phát từ thiện cảm các bạn hàng EU có thể mời đối tác về nhà dự tiệc. Nhưng nên
nhớ: ở Đan Mạch, một nhà buôn được mời đến nhà đồng nghiệp thì nên nhớ
16


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

mang theo hoa tươi hoặc quà tặng; ở Na Uy nếu muốn được đối xử thật tốt thì
ngay hôm bữa tiệc người được mời nên tặng chủ nhà một món q; ở Pháp trước
hơm nhận lời dự tiệc hay đến thăm cũng phải tặng hoa trước cho người chủ.
Thương nhân Pháp rất thích sau mỗi đợt bn bán kết hợp tổ chức một cuộc vui
đặc biệt, thậm chí ngay cả trước khi đàm phán công việc.
Khi tặng hoa cũng cần chú ý đến ngơn ngữ văn hố của hoa đối với phong
tục từng nước Châu Âu: ở Anh và Pháp, hoa loa kèn trắng chỉ dùng trong tang
lễ; hoa hồng đỏ thắm rất được ưu chuộng đối với phụ nữ Pháp và Italia nhưng ở
Tây Ban Nha thì ngược lại; ở Pháp hoa màu vàng gợi nên sự không chung thuỷ
và không dùng để tặng hoa ai cả; ở Châu Âu nên tặng hoa bông lẻ và nên tránh
con số 13.
Đối với người tiêu dùng Châu Âu khác với Mỹ họ rất miễn cưỡng phải sử
dụng bằng thẻ tín dụng, họ cố gắng trả hết tiền sau một thời gian. Thói quen
người tiêu dùng EU đối với một số sản phẩm lưu thơng trên thị trường cũng có
phân biệt. Chẳng hạn đối với sản phẩm thuỷ hải sản, những người tiêu dùng ở
những quốc gia Bắc Âu (Na Uy, Thuỵ Điển, Đan Mạch ) ưa thích các loại thuỷ
hải sản vùng nước lạnh hơn các loại thuỷ hải sản ở vùng nước ấm, vốn là sở

thích tiêu dùng ở các nước Nam Âu và vùng Địa Trung Hải, những sản phẩm dệt
may đối với người tiêu dùng EU, yếu tố mốt được đặt lên hàng đầu. Họ coi phần
giá trị về mẫu mốt và thời trang là chính.
Về hệ thống phân phối sản phẩm, trên thị trường EU cũng có những nét đặc
thù đối với từng nhóm quốc gia. Ví dụ ở Bắc Âu việc phân phối các sản phẩm
tiêu dùng có xu hướng tập trung cao, giảm bớt trung gian, rút ngắn đường đi của
sản phẩm tới người tiêu dùng, tập trung vào các cửa hàng bán lẻ lớn, các siêu
thị. Ngược lại ở các quốc gia Nam Âu, việc phân phối các sản phẩm tiêu dùng
chủ yếu vẫn do các cửa hàng bán lẻ nhỏ truyền thống thực hiện (Italia, Hy Lạp,
Tây Ban Nha...)
17


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

Để xuất khẩu đựơc hàng hoá vào thị trường EU, các doanh nghiệp Việt
Nam không những cần phải nắm nhu cầu thị trường, thị hiếu tiêu dùng và đảm
bảo sản phẩm có cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả mà còn phải thành
thạo kênh phân phối, hệ thống luật pháp của EU và hệ thống quản lý xuất nhập
khẩu.
1.1.3

Quan hệ kinh tế Việt Nam-EU:

Hiện nay, EU có thể coi là một tổ chức có tiềm năng to lớn để hợp tác về
mọi mặt, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại và đầu tư.
Do hoàn cảnh lịch sử nên đến trước 1975 quan hệ kinh tế-thương mại giữa
Việt Nam và EU còn rất hạn chế. Trong giai đoạn 1975-1979, EU đã giành cho

Việt Nam khoản viện trợ lên tới 109 triệu USD trong đó viện trợ trực tiếp là 68
triệu USD. Song từ tháng 7 năm 1979, do vấn đề Campuchia nên EU đã ngừng
viện trợ cho Việt Nam, kể cả khoản viện trợ 36 triệu USD đã được phê chuẩn.
Từ cuối năm 1984, EU bắt đầu nối lại viện trợ nhân đạo cho Việt Nam.
Quan hệ Việt Nam-EU bắt đầu ngay khi nước ta thống nhất hai miền NamBắc năm 1975, tuy nhiên mãi đến năm 1990 mối quan hệ hợp tác mới mở ra một
trang mới bắt đầu bằng Hội nghị Ngoại trưởng 12 nước thành viên Cộng đồng
EC quyết định lập quan hệ ngoại giao với chính thức với Việt Nam cấp đại sứ
ngày 22 tháng 10 năm 1990. Từ đó đến nay các mối quan hệ song phương đã
từng bước phát triển cả về chất và về lượng. Các nước thành viên EU đã tăng
cường hơn nữa quan hệ hợp tác, đầu tư thương mại và viện trợ cho Việt Nam.
Tháng 12 năm 1990, đại diện Uỷ ban Châu Âu và Chính phủ Việt Nam đã kí
thoả thuận về chương trình giúp đỡ những người Việt Nam ra đi bất hợp pháp
trở về tái hoà nhập trên nguyên tắc hồi hương tự nguyện với khoản cho vay tín
dụng lên tới 47 triệu USD. Ngồi ra, EU cịn giúp đào tạo nghề (mộc, may mặc,
quản lý kinh tế…), cải thiện các vùng nông thôn (làm đường giao thông, cải tạo
môi trường, trồng rừng, lấn biển…) và phát triển y tế (cấp thuốc, cải tạo bệnh
18


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

viện, đào tạo cán bộ). EU cũng quan tâm đến tăng cường quan hệ kinh tế-thương
mại, biểu hiện cụ thể là hiệp định về buôn bán dệt may ngày 15/12/1992 tại
Brucxen và có hiệu lực 5 năm bắt đầu từ 1/1/1993 đến nay đã qua hai lần gia
hạn và điều chỉnh tăng hạn ngạch. Hiệp định đánh dấu một bước chuyển biến
tích cực trong mối quan hệ giữa hai bên. Đây cũng là tiền đề cho việc kí kết các
hiệp định về hợp tác kinh tế- thương mại, khoa học- kỹ thuật sau này.
Cũng cần nhắc lại rằng các nước thành viên EU (Bỉ, Pháp, Hà Lan, Thuỵ

Điển…) cũng tăng cường giúp đỡ Việt Nam trong các lĩnh vực hợp tác khoa
học- kỹ thuật, đào tạo cán bộ chuyên gia cũng như tài trợ cho các sự án phát
triển nông thôn. Đỉnh cao của sự phát triển quan hệ giữa Việt Nam và EU được
đánh dấu bằng sự kiện trọng đại diễn ra vào ngày 17 tháng 7 năm 1995 tại
Brucxen (Bỉ). Hiệp định khung về hợp tác kinh tế có hiệu lực vào 01/01/1996
trong đó có quy định hai bên dành cho nhau chế độ tối huệ quốc (MFN), cam kết
mở cửa thị trường hàng hoá của nhau tới mức tối đa có tính đến điều kiện đặc
thù của mỗi bên, EU cũng cam kết dành cho hàng hoá xuất xứ từ Việt Nam ưu
đãi thuế quan phổ cập (GSP). Trên cơ sở khai thác các điều kiện thuận lợi trong
quan hệ hợp tác giữa hai bên, kết quả hoạt động thương mại giữa Việt Nam và
các nước trong khối đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, chỉ tính riêng trong
giai đoạn 1991-1997, tổng kim ngạch 2 chiều Việt Nam và EU đã tăng gấp 10
lần, trong đó thặng dư mậu dịch của Việt Nam ngày càng lớn. Năm 1998, tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với EU đạt trên 4 tỷ USD; năm 1999
đạt 4,5 tỷ USD; năm 2000 đạt gần 5 tỷ USD và năm 2001 đã vượt trên 5 tỷ
USD. Tuy nhiên xuất nhập khẩu Việt Nam-EU có sự tăng trưởng đều đặn,
nhưng đến nay mới chỉ chiếm khoảng 0,12% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
của EU và chiếm 14 % tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam, trong đó
từ năm 1998 Việt Nam ln xuất siêu cho EU. Năm 2002, nhiều nước mở rộng
nhập khẩu với Việt Nam. Hầu hết các nước trong khối đều có quan hệ xuất nhập
khẩu với Việt Nam (13 trên tổng số 15 nước). Đức là nước dẫn đầu, chiếm 28,5
19


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với EU năm 2002, Pháp
(20,7%), Anh (12,7%), Italia (9,6%). Thực tế nhìn một cách tổng quan thì quan

hệ thương mại Việt Nam-EU chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên. Các
mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang EU là những mặt hàng mà thị
trường này có nhu cầu nhập khẩu hàng năm với khối lượng lớn là giày dép, hàng
may mặc, hàng nông sản, hàng thuỷ hải sản, cao su, than đá. Các mặt hàng này
chiếm từ 72-76% xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang EU tăng trung bình 50%/năm. Có thể nói EU là thị trường xuất
khẩu hàng hoá quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Các mặt hàng nhập khẩu chủ
yếu của Việt Nam từ EU là máy móc thiết bị cơng nghệ cao như linh kiện điện
tử và máy vi tính, máy móc thiết bị phụ liệu dệt may, da, sắt thép các loại,
phương tiện vận tải như ô tô và phụ tùng ô tơ và hố chất, tân dược. Nhìn chung
quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU ngày càng phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu.
Về tài chính, các nước Pháp, Bỉ, Đức… tích cực xố nợ, giảm nợ cho Việt
Nam. Pháp tích cực kêu gọi các nước khác cùng với mình giúp Việt Nam trả nợ
quốc tế trong khn khổ “Câu lạc bộ Paris”; và giúp nối lại mối quan hệ giữa
Việt Nam với các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế. Đồng thời các nước EU
cịn viện trợ phát triển (ODA) với lãi suất ưu đãi đặc biệt cho Việt Nam. Đến hết
năm 1999, EU đã viện trợ cho Việt Nam 2,1 tỉ EURO được tập trung vào 4 lĩnh
vực quan trọng nhất của nền kinh tế: nông nghiệp, phát triển xã hội, y tế và giao
thông. Chương trình viện trợ cho hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam
sang EU rất đa dạng, bao gồm tất cả các lĩnh vực như nghiên cứu thị trường
(nghiên cứu thị hiếu, sản phẩm, hỗ trợ tham gia các hội chợ triển lãm, phổ biến
ngơn ngữ và văn hố Châu Âu…), phát triển thơng tin, cấp tín dụng, cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ chuyên môn như lập kế hoạch, kinh doanh, marketing… Một
số chương trình đặc biệt như đầu tư châu Á, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp

20


Khoá luận tốt nghiệp


Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

vừa và nhỏ (SMEDEF), Trung tâm thông tin thương mại Châu Âu (EBIC) có vai
trị bổ trợ cho các chính sách và hoạt động thương mại giữa hai bên.
Về đầu tư, cho đến nay, EU có tổng dự án là trên 400 dự án với tổng số vốn
đăng kí lên đến 6 tỷ USD. Hiện nay số vốn còn đang hoạt động là 288 dự án
chiếm 9% tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam với số vốn
đăng kí đạt 5,8 tỷ USD chiếm 15,26% tổng số vốn đăng kí vào Việt Nam. Đầu
tư của EU mang một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cơng cuộc hiện đại hố
của Việt Nam, nhiều dự án tập trung vào lĩnh vực then chốt như thăm dị và khai
thác dầu khí, chế tạo ơtơ, sản xuất hàng tiêu dùng, phát triển cơ sở hạ tầng, nơng
nghiệp. Hiện nay đã có 11 trên 15 nước có các nhà đầu tư trực tiếp nước ngồi
tại Việt Nam. Đứng đầu là Pháp (với 104 dự án, tổng số vốn đăng kí là 1,789 tỷ
USD), Anh (29 dự án, tổng số vốn đăng kí 1,047 tỷ USD), Hà Lan (36 dự án,
578 triệu USD), Thuỵ Điển (8 dự án, 37 triệu USD).
Có thể nói rằng quan hệ kinh tế- thương mại giữa Việt Nam và EU tuy
chưa dài nhưng những kết quả đạt được trong hơn 10 năm qua kể từ khi kí hiệp
định khung hợp tác Việt Nam-EU là hết sức quan trọng và có ý nghĩa thiết thực
đối với cả hai bên. Cùng với nỗ lực của cả hai phía và những yếu tố thuận lợi
bên ngồi, chúng ta có thể hồn tồn tin tưởng rằng trong tương lai, quan hệ
kinh tế-thương mại Việt Nam-EU sẽ tiếp tục đẩy mạnh và phát triển lên một tầm
cao mới.
1.2 CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CỦA EU VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ NHÃN
HIỆU SẢN PHẨM XUẤT KHẨU VÀO THỊ TRƯỜNG EU
1.2.1 Các quy định về chất lượng
1.2.1.1 Hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm ISO 9000
Liên minh Châu Âu áp dụng hệ thống quản lý ISO 9000 và hệ thống quản
lý 14000. Đối với tiêu chuẩn chất lượng, hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000
gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu


21


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

sang thị trường EU thuộc các nước đang phát triển. Thực tế cho thấy, ở các nước
đang phát triển Châu Á và Việt Nam, hàng của các doanh nghiệp có giấy chứng
nhận chất lượng ISO 9000 thâm nhập vào thị trường EU dễ dàng hơn nhiều so
với các doanh nghiệp khơng có giấy chứng nhận này. Có thể nói hệ thống quản
lý chất lượng đã trở thành giấy thông hành cho các doanh nghiệp thâm nhập vào
thị trường thế giới nói chung và thị trường khơng mấy “dễ tính” này nói riêng.
ISO 9000 là hệ thống quản lý chất lượng gồm các quy trình kỹ thuật và
kiểm tra, kiểm sốt tồn bộ q trình sản xuất ra sản phẩm chứ không phải là
một tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm như một số doanh nghiệp và cá nhân lầm
tưởng. ISO là tập hợp các có hệ thống các kinh nghiệm quản lý chất lượng tốt
nhất do Tổ Chức tiêu chuẩn quốc tế (International Standard Organization) đặt ra
để giúp các doanh nghiệp cải tiến các hệ thống quản lý nhằm đạt được các mục
tiêu về năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm lãng phí và tỷ lệ phế phẩm để
duy trì một dạng sản phẩm ln có chất lượng đồng nhất phù hợp với giá thành.
Khi doanh nghiệp áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, người tiêu
dùng có thể an tâm với chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra. Nói
cách khác, có thể coi việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng như một “dấu
hiệu” xác định chữ tín giữa doanh nghiệp và khách hàng, là sự khẳng định cam
kết cung ứng sản phẩm có chất lượng tin cậy.
Trong hai thập kỉ qua “vấn đề chất lượng” nổi lên như là một trong những
yếu tố quan trọng nhất của thương mại và cơng nghiệp. Khách hàng EU nói
riêng và thế giới nói chung ngày càng có những yêu cầu khắt khe hơn về chất

lượng hàng hoá và dịch vụ cũng như việc chấp hành đầy đủ và nhanh chóng các
điều kiện khác trong hợp đồng. Thông thường, khách hàng không chỉ muốn có
được sản phẩm thích hợp với khả năng thanh tốn của họ mà còn muốn các yêu
cầu của họ phải được giải quyết nhanh chóng và doanh nghiệp phải tìm ra căn
nguyên của vấn đề để ngăn chặn tái diễn ở các lần tiếp sau. Sự ra đời của Bộ
22


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

Tiêu chuẩn ISO 9000 đã trợ giúp một cách có hiệu quả cho các nhà cung cấp các
loại hàng hoá và dịch vụ xây dựng các hệ thống quản lý chất lượng tồn bộ để
cơng ty kiểm tra được chất lượng sản phẩm ở mọi khâu của quá trình sản xuất và
nhờ đó sẽ tránh được những sai sót đáng kể, tiết kiệm được chi phí sản xuất và
thời gian.
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 của Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO) là hệ thống
đảm bảo chất lượng được áp dụng rộng rãi trong sản xuất kinh doanh hàng hoá
và dịch vụ. ISO đưa ra 20 yêu cầu chính đối với doanh nghiệp áp dụng bao gồm:
Trách nhiệm lãnh đạo, hệ thống chất lượng, xem xét hợp đồng, kiểm soát tài
liệu, mua sản phẩm, kiểm tra sản phẩm do khách hàng cung cấp, nhận biết và
xác định nguồn gốc sản phẩm, kiểm sốt q trình sản xuất, kiểm tra và thử
nghiệm, kiểm soát thiết bị đo lường và thử nghiệm, tình trạng kiểm tra và thử
nghiệm, kiểm sốt sản phẩm không phù hợp, hành động khắc phục và ngăn
ngừa, xếp dỡ lưu kho, bao gói, bảo quản giao hàng, kiểm soát hồ sơ chất lượng,
đào tạo, dịch vụ kỹ thuật, kỹ thuật thống kê.
Cấu trúc của Bộ tiêu chuẩn ISO 9000
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2000 bao gồm nhiều tiêu chuẩn. Trong đó tiêu
chuẩn chính ISO 9001- Hệ thống chất lượng, nêu ra các yêu cầu đối với hệ

thống quản lý chất lượng mà doanh nghiệp cần đáp ứng. Ngồi ra cịn có các
tiêu chuẩn hỗ trợ và hướng dẫn thực hiện như : ISO 9000- thuật ngữ và định
nghĩa; ISO 9004- hướng dẫn cải tiến hiệu quả.
Trong quá trình thực hiện, doanh nghiệp có thể áp dụng một trong ba mơ
hình sau trong bộ tiêu chuẩn này:
- ISO 9001: áp dụng cho doanh nghiệp từ khâu thiết kế, triển khai, sản
xuất, lắp đặt và dịch vụ .
- ISO 9002: áp dụng cho doanh nghiệp sản xuất, lắp đặt dịch vụ (không
bao gồm khâu thiết kế).
23


Khoá luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

- ISO 9003: áp dụng cho doanh nghiệp trong quy trình kiểm tra thử
nghiệm cuối cùng đối với sản phẩm.
Để cho bộ ISO 9000 duy trì tính hiệu lực, những tiêu chuẩn này được xem
xét định kì (khoảng 5 năm một lần) nhằm cập nhập những phát triển mới nhất
trong lĩnh vực quản lý chất lượng, và thông tin phản hồi từ người sử dụng. Ban
kỹ thuật của Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO/TC/176 bao gồm nhiều chuyên gia
từ các doanh nghiệp và tổ chức trên toàn thế giới theo dõi việc áp dụng các tiêu
chuẩn để xác định những cải tiến cần thiết nhằm thoả mãn những đòi hỏi và
mong muốn của người sử dụng và đưa vào phiên bản mới.
1.2.1.2 Bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường ISO 14000
Đối với tiêu chuẩn bảo vệ mơi trường, thị trường EU u cầu hàng hố có
liên quan đến môi trường phải dán nhãn theo quy định (nhãn sinh thái, nhãn tái
sinh) và có chứng chỉ được quốc tế cơng nhận. Ví dụ, tiêu chuẩn GAP (good
agricultural Practice ) và các nhãn hiệu sinh thái (Ecolabels) đang ngày càng

được phổ biến, chứng tỏ các cấp độ khác nhau về mơi trường tốt. Ngồi ra cơng
ty cịn phải tuân thủ hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 và các bộ luật
mang tính đạo đức.
ISO 14000 là Bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường, được xây dựng trên cơ
sở thoả thuận quốc tế bao gồm các yêu cầu đối với các yếu tố cơ bản có thể điều
chỉnh được để thiết lập hệ thống quản lý môi trường có khả năng cải thiện mơi
trường một cách liên tục tại các tổ chức cơ sở. Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 đem
đến cách tiếp cận hệ thống cho việc quản lý môi trường và cung cấp các công cụ
hỗ trợ có liên quan như đánh giá mơi trường, nhãn mơi trường, phân tích mơi
trường sống của sản phẩm… cho các doanh nghiệp và các tổ chức cơ sở khác để
quản lý sự tác động của họ tới môi trường, ngăn ngừa sự ô nhiễm và liên tục cải
thiện môi trường với sự cam kết của lãnh đạo và sự tham gia có ý thức của mọi
thành viên từ người sản xuất trực tiếp đến các cán bộ quản lý.
24


×