Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

THBK6Nguyen Thi Huyen TrangKTGHP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.02 KB, 7 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC- MẦM NON

BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT

Sinh viên: Nguyễn Thị Huyền Trang
Ngày sinh: 14 - 12 -1997
Lớp : ĐH Tiểu học B- Khóa 6
Giáo viên: Trần Dương Quốc Hòa
Năm học 2018 - 2019


Vấn đề 1: Xem xét, đánh giá việc thực hiện 3 nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở
trường tiểu học ( Nguyên tắc phát triển tư duy; Nguyên tắc giao tiếp; Ngun tắc
chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của HSTH).
Trong 1 tháng đi thực tế kiến tập tại trường tiểu học em nhận thấy việc thực hiện 3
nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở trường tiểu học hoàn toàn được đảm bảo thực hiện.

Yêu cầu 1:
1.Nguyên tắc phát triển tư duy
Nguyên tắc phát triển tư duy vẫn được rèn luyện trong hầu hết các tiết học với đầy đủ
các quy trình, cịn các tiết dạy khơng đầy đủ quy trình thì ngun tắc phát triển tư duy
ít được thực hiện.
Trong các tiết dạy đúng quy trình: em được dự các tiết dạy mẫu mơn Tiếng Việt của
các cô trong trường.Các cô đều đã thực hiện tốt nguyên tắc phát triển tư duy. Ví dụ
như:
- Trong tiết dạy Học vần, đa số các hoạt động giáo viên đưa ra đều nhằm để học sinh
tư duy: Hoạt động kiểm tra với cũ với yêu cầu tìm tiếng, từ chứa âm, vần cũ và ghép
tiếng, từ thành câu có nghĩa. Hoạt động học âm vần mới, học sinh phân tích, so sánh
âm,vần mới. Hoạt động viết bảng con, học sinh tự viết bảng rồi mới chỉnh sửa, hướng


dẫn cách viết; việc rút từ ứng dụng học sinh cũng được tư duy khi thực hiện thao tác
ghép các tiếng thành từ có nghĩa..
 Giáo viên đã chú ý cho học sinh rèn luyện các thao tác tư duy thơng qua các
hoạt động tìm vần cần học, hay tự phân tích tiếng, đánh vần tiếng đó, tự cài
vần hay tiếng khóa, qua đó cũng rèn cho các em thao tác tư duy nhanh,
chính xác và hoạt động tích cực thơng qua hoạt động tự ghép tiếng khóa.
Qua đó giáo viên cũng làm cho học sinh thông hiểu được việc ghép vần hay
tiếng như thế nào là đúng.
-Ở tiết tập viết lớp 3 là bài ôn tập chữ hoa nên giáo viên cho các em phân tích cấu tạo
của các chữ hoa cần học. Sau đó giáo viên đi vào từng chữ hoa, cho các em phân tích
cấu tạo từng chữ. Sau đó qua phần viết từ ứng dụng cơ cho từ ứng dụng và cơ giải
nghĩa sau đó cho các em tìm ra chữ hoa vừa mới được học và độ cao của các con chữ.
Qua phần viết câu ứng dụng thì cơ cho câu ứng dụng và giải thích nghĩa của câu ứng


dụng để các em học sinh có thể hiểu rõ. Sau đó cơ cũng cho các em tìm ra các chữ hoa
đã được học.
 Giáo viên đã cho các em phát triển thao tác tư duy thông qua việc phân tích
cấu tạo các chữ hoa, tìm ra các chữ hoa đã được học trong từ ứng dụng, câu
ứng dụng. Giáo viên cũng đã giải thích cho các em nghĩa của từ ứng dụng,
câu ứng dụng.
-Ở tiết tập đọc lớp 4 cô đã gợi mở cho các em học sinh các cách đọc khác nhau và cho
các em tự nhận xét là cách đọc nào hay hơn. Sau đó, cơ cho các em tự tìm ra các câu
trả lời của bài tập đọc để tìm hiểu bài kĩ hơn. Giáo viên giúp các em hiểu thêm về các
thể thơ, hướng dẫn học sinh về cách ngắt nhịp, cũng như hướng dẫn cho các em giọng
đọc trong bài tập đọc đó. Cơ cũng cho các em học sinh tự tìm các từ khó trong bài tập
đọc đồng thời giải thích nghĩa. Sau đó cơ cho các em học thuộc bài bằng cách làm
mất dần các câu thơ trên bảng.
 Giáo viên đã rèn các thao tác tư duy thông qua việc cho các em tự đọc và
tìm hiểu bài tập đọc và trả lời câu hỏi, sau đó cơ hướng dẫn việc ngắt nhịp

để các em hiểu rõ và có thể tự ngắt nhịp trong bài, sau đó các em tự tìm từ
khó và cơ giải thích từ khó,sửa chữa câu trả lời của các em, và cô cũng cho
các em học thuộc bài ngay tại lớp.
-Các hoạt động thi đua giữa các nhóm tạo động lực cho học sinh tư duy nhanh, tích
cực. Lấy học sinh làm trung tâm, yêu cầu học sinh tư duy liên tục đảm bảo tính tích
cực.
2. Nguyên tắc giao tiếp (nguyên tắc phát triển lời nói)
Nguyên tắc giao tiếp là hoạt động luôn được mọi giáo viên chú trọng. Em thấy các
giáo viên đều chú ý nhiều nhất đến hoạt động giao tiếp kể cả trong các tiết dạy bình
thường. Điển hình là trong các tiết tập đọc, chính tả, kể chuyện.
- Trong các tiết học Tiếng Việt sau mỗi thao tác học sinh đều được trao đổi với
bạn bên cạnh, thảo luận nhóm, nhận xét lẫn nhau. Điều này giúp học sinh giao
tiếp nhiều hơn với bạn bè, ngoài việc chỉ giao tiếp với giáo viên trong tiết học,
phát triển khả năng giao tiếp của các em. Cụ thể, trong tiết Học vần, học sinh
viết bảng con, nhận xét, đọc bài, trao đổi với bạn bên cạnh, thảo luận nhóm,
trao đổi ý kiến với giáo viên... rèn luyện được các kĩ năng trong giao tiếp. Qua
đó nguyên tắc giao tiếp được thực hiện một cách triệt để.


- Trong tiết tập đọc các em lắng nghe giáo viên của mình đọc mẫu sau đó các em
đọc bài, ban đầu thì các em có thể đọc khơng đúng giọng đọc, sau đó giáo viên
sẽ hướng dẫn các em đọc cho đúng giọng và các em có thể hình thành nghĩ
năng nghe và đọc của mình. Qua hoạt động trả lời các câu hỏi thì các em có thể
hình thành kĩ năng nói.
- Trong tiết kể chuyện, các em có thể hình thành được các kĩ năng nghe, nói một
cách tích cực. Các em giao tiếp với các bạn, đóng vai các nhân vật trong câu
chuyện mình kể hình thành tích cực kĩ năng nói.
3. Ngun tắc chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của học sinh
Trong một lớp thì trình độ Tiếng Việt của các em mỗi em sẽ khác nhau, giáo viên là
người hiểu rõ nhất trình độ của từng em trong lớp của mình. Với vai trị là giáo viên

hướng dẫn của các em, giáo viên sẽ hiểu rõ khả năng của từng em học sinh.
+Trong các bài tập, cô cũng có thể cho các em làm bài tập nhóm đơi, nhóm bốn để
các em trong nhóm có thể giúp đỡ lẫn nhau, sắp xếp chỗ ngồi theo mơ hình đơi bạn
cùng tiến (một bạn giỏi kèm một bạn yếu) để giúp HS yếu tiến bộ hơn.
+Trong các bài dạy tiếng việt, nếu cô thấy dạy quá khô khan các em học sinh yếu khó
tiếp thu bài học, khi đó cơ sẽ thiết kế ra các trò chơi sinh động, sử dụng các tranh ảnh,
video clip, câu chuyện có liên quan đến kiến thức đang tìm hiểu nằm kích thích sự
chú ý của các em hơn, giúp tất cả các em học sinh từ khơng giỏi đến giỏi đều có thể
tiếp thu được kiến thức một cách dễ dàng, quan trọng giúp các em khắc sâu kiến thức.
+ Những học sinh hay viết sai lỗi chính tả, hoặc thường phát âm sai nhiều trong các
tiết chính tả, tập đọc giáo viên sẽ lưu ý những HS này hơn, cho HS luyện viết hoặc
luyện đọc nhiều hơn.
+Những HS hiếu động, không tập trung, hay gây mất trật tự trong lớp giáo viên sẽ
thường xuyên mời các HS này trả lời câu hỏi, tham gia nhận xét phần đọc, trả lời của
các HS khác với các lời khuyên nhủ nhận xét phê bình của giáo viên giúp trẻ tăng khả
năng tập trung vào bài học.
+GV chọn các em học sinh hiếu động, tinh nghịch giữ các chức vụ trong lớp, ví dụ
lớp phó lao động, tổ trưởng, … để giúp các em các thấy có trách nhiệm và gương mẫu
với các bạn trong lớp. Ngoài ra, theo đặc điểm tâm lý lứa tuổi các em cũng rất thích
được có chức vụ trong lớp.Từ đó, sẽ giúp các em cố gắng trong học tập hơn.
 Đánh giá 1 tiết dạy theo tiêu chí của một tiết dạy tích cực


Các tiết mà em đã được đi dự tất cả các giáo viên đều đã đạt được các tiêu chí của một
tiết dạy tích cực, đổi mới phương pháp dạy học theo thơng tư 22.
Tiêu chí 1: Tất cả các em đều tham gia hoạt động.
-Trong

các tiết dạy học đều lấy học sinh làm trung tâm. Các hoạt động giáo viên đưa
ra đều yêu cầu học sinh thực hiện cá nhân rồi mới trao đổi, thảo luận, trình bày. Vì

vậy tiêu chí này được đảm bảo trong hầu hết các tiết dạy.
Tiêu chí 2: Học sinh tự “sản sinh” ra tri thức.
Đối với tiêu chí này vẫn cịn nhiều hạn chế. Việc để tự học sinh sản sinh ra tri thức là
một điều không dễ thực hiện. Tuy nhiên, trong một số tiết dạy, vẫn có các hoạt động
nhỏ giáo viên yêu cầu học sinh tự hình thành tri thức cho mình.Ví dụ:
- Tiết học vần các em phải tự tìm ra vần cần học, tự nêu cấu tạo vần, ghép vần, tìm ra
tiếng khóa, ghép các từ khóa một cách ngẫu nhiên sau đó giáo viên sửa lại cách ghép,
các em tìm ra từ khóa và biết tiếng nào đã được học tiếng nào chưa được học, các em
phải tự so sánh các vần với nhau.
- Ở tiết tập đọc, giáo viên cũng cho các em học sinh tự tìm ra câu trả lời của các câu
hỏi, phân đoạn, nêu ý các đoạn, sau đó giáo viên hướng dẫn các em tìm hiểu bài, phân
tích, chỉnh sửa ý cho các em. Giáo viên còn giáo dục cho các em về công ơn lớn lao
của ông bà cha mẹ, từ đó các em phải biết u thương kính trọng ơng bà cha mẹ mình
hơn.
Tiêu chí 3: Khơng khí lớp học sơi nổi, hào hứng.
Khi dạy một tiết học, thì khơng khí lớp học góp một phần rất quan trọng vào việc
đánh giá một tiết học có thành cơng hay khơng, các giáo viên đều biết cách tạo một
khơng khí lớp học vui tươi, sôi nổi, các cô biết tạo hứng thú cho các em học sinh
thông qua việc gợi mở một cách khéo léo bài học, thơng qua các trị chơi học tập, các
kiến thức giáo viên đưa vào một cách sinh động, hấp dẫn thông qua việc sử dụng các
tranh ảnh, trình chiếu, hay những câu chuyện mở đầu hấp dẫn, các trò chơi lồng ghép
trong các bài học. Điều này sẽ thúc đẩy các em học sinh đều tích cực giơ tay phát
biểu.
Đó chỉ là những nhận xét cho các tiết dạy hoàn chỉnh. Tuy nhiên, ở các tiết dạy bình
thường trên lớp thì giáo viên đã lược bỏ bớt một số hoạt động. Như trong phân môn
Tập viết, giáo viên viết lên bảng hết tất cả các âm, vần, tiếng, từ và yêu cầu học sinh
nhìn và viết vào vở. Cịn trong phân mơn Học vần thì lược bỏ các hoạt động thảo luận


nhóm, yêu cầu học sinh quan sát từ ứng dụng trong sách giáo khoa và đọc, giải

nghĩa... Vì vậy việc thực hiện các nguyên tắc dạy học Tiếng Việt trong các tiết này
khơng tốt cũng như các tiêu chí trong một tiết dạy tích cực khơng được đảm bảo.

u cầu 2:
-Liệt kê các băn khoăn, thắc mắc của bản thân khi tiếp cận với thực tế các tiết
dạy học Tiếng Việt ở trường tiểu học.
+ Trong các hoạt động làm bài tập, tất cả học sinh đều làm vào sách giáo khoa rồi mới
trao đổi, thống nhất ý kiến trong nhóm rồi mới trình bày, nhận xét. Việc cho tất cả học
sinh làm vào sách giáo khoa là cần thiết để tất cả học sinh đều phải làm bài. Tuy
nhiên, em cảm thấy bài nào cũng như vậy thì sẽ mất nhiều thời gian, và hoạt động như
vậy cứ lặp đi lặp lại sẽ dễ gây nhàm chán. Em nghĩ giáo viên cần thay đổi cách tổ
chức hoạt động làm bài tập như sử dụng phiếu học tập, các trò chơi thi đua tìm từ,...
+ Tiết tập đọc trong phần luyện đọc từ khó trong bài cơ rút ra bằng cách cho các em
tìm từ khó theo hình thức cá nhân hoặc chủ quan theo ý giáo viên => đó chỉ là từ cá
nhân em đó hoặc giáo viên cho là đọc sai hay khó đọc chứ chưa chắc cả lớp mắc
những lỗi sai đó. Theo em,giáo viên nên đứng gần, chú ý kỹ phần đọc để sửa chữa
ngay lập tức các lỗi đọc sai, ngắt nghỉ của các em để các em có thể khắc phục một
cách tốt nhất vì mỗi em sẽ có những từ đọc sai khác nhau chứ không phải chỉ những
từ mà cô hay bạn nêu trên bảng.
+ Đa số các tiết dạy bình thường thường là một tiết dạy truyền thống chứ chưa dạy
một cách sinh động như cho học sinh xem tranh ảnh, chơi trị chơi gây hứng thú, hay
dạy bằng cơng nghệ thơng tin.Theo em, nên sử dụng hình ảnh minh họa hoặc trị chơi,
cơng nghệ thơng tin sẽ giúp học sinh khắc sâu kiến thức hơn.
+ Giáo viên khi chọn bảng của HS trình bày trước lớp vẫn chỉ chọn những bảng đúng,
rất ít khi chọn bảng của những HS làm sai, với lí do sẽ tốn nhiều thời gian để sửa bài
sai, chỉ cần sửa những bài làm đúng, các bài làm sai HS sẽ tự mình sửa. Như vậy, các
bạn sai sẽ khơng thấy rõ lỗi sai của mình hoặc một số bạn nếu giáo viên khơng để ý
có thể tự sửa lại đáp án của mình cho đúng giống bảng mẫu của giáo viên.Theo em,
GV nên chú trọng vào việc sửa các bài sai của HS hơn là sửa bài đúng, để cho các bạn
dù làm đúng cũng chú ý, cẩn thận, không chủ quan để mắc lại những lỗi sai đó. Đồng

thời, các bạn sai biết hướng khắc phục, sửa chữa.


+ Phần tập làm văn không để cho học sinh tự hứng thú kích thích sáng tạo mà lại đọc
bài mẫu, hoặc đọc cho học sinh chép nguyên một bài tập làm văn.Theo em, Trong các
tiết tập làm văn, cho học sinh làm theo nghĩ ý bản thân sau đó giáo viên chỉ giúp các
em chỉnh sửa lại từ ngữ cho phù hợp hoặc hướng dẫn các ý còn thiếu cần bổ sung để
phát triển tối đa tư duy sáng tạo của các em.
+ Phần lớn các tiết tập đọc giáo viên thường bỏ qua bước làm mẫu, 2-3 HS đọc sau đó
tìm hiểu bài. Như vậy, các em sẽ không biết được giọng đọc, cách ngắt nghỉ sao cho
đúng.Theo em, để GV có nhiều thời gian trong phần luyện đọc bài tập đọc, giúp các
em biết điều chỉnh giọng đọc, ngắt nghỉ đúng, GV có thời gian đọc mẫu. Khi đó, GV
yêu cầu các em phải chuẩn bị bài kỹ ở nhà, trong 15 phút đầu giờ cả lớp đọc đồng
thanh để cho những học sinh lười cũng được tiếp xúc với bài mới, điều đó giúp cho
GV có nhiều thời gian luyện đọc cho các em hơn.
+ Thường thì các tiết dạy chỉ có các em học sinh giỏi tương tác với thầy cơ giáo, cịn
các em học sinh yếu hơn thì khơng thấy dơ tay phát biểu bài. Theo em, để khuyến
khích việc tất cả các em tham gia phát biểu, GV nên phát cho tổ trưởng một cuốn sổ
tích điểm cho các bạn phát biểu. Sau đó vào cuối tuần, tổ trưởng báo cáo lại với GV
và GV sẽ tuyên dương, khen thưởng các bạn đó.
+ Tất cả các tiết dự giờ đều có sự sắp xếp, dạy thử trước của GV đối với lớp dự giờ.
Đây là một thực trạng mà hiện giờ em vẫn chưa có phương hướng khắc phục.



×