Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Quách mạnh hào, tản mạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.45 KB, 26 trang )

ĐỌC CÁI NÀY TRƯỚC:
Thân gửi các bạn!
Trước hết cám ơn các bạn đã tham gia vào nhóm. Ban đầu tơi chỉ định lập nhóm này như là một cơng cụ
để tạo mấy cái khảo sát (Poll) vì chỉ có nhóm mới làm được. Tuy nhiên, sự quan tâm của các bạn đã vơ
tình khuyến khích tơi chuyển hướng sang viết về sự vận động của thị trường, như là một cách giúp bạn có
thêm một cách nhìn thị trường một cách đơn giản nhất có thể, đặc biệt là các bạn khơng chun về kinh tế,
tài chính. Nó khơng phải là một khóa đào tạo, nhưng hy vọng sau khi đọc xong các bài viết, các bạn sẽ tự
cân nhắc và hình thành nên một nguyên tắc, chiến lược đầu tư/giao dịch cho riêng mình để thành cơng
trên thị trường chứng khốn.
Với những gì đã diễn ra trong q khứ, cái tên QMV tự thân nó đã hàm ý rằng việc nhận định thị trường
có những lúc rất đúng, nhưng rồi cũng sai, nếu từ bỏ nguyên tắc. Bởi vậy, tơi lấy tên này cho nhóm là để
nhắc mình rằng đóng góp vì cộng đồng thơng qua con đường kiến thức và thông tin sẽ tốt hơn là thông
qua những nhận định có thể làm cho vài người vui nhưng cũng nhiều người buồn. Tôi thực sự rất hy vọng
những chia sẻ ở đây có ích cho bạn.
Với quan điểm như vậy, trong nhóm này chỉ có các bài viết mô tả sự vận động của thị trường và một số
thông tin khảo sát cổ phiếu. Tôi tiếp cận các vấn đề khác với thông thường, không sử dụng kiến thức kinh
tế và tài chính truyền thống, mà sử dụng tâm lý hành vi, bởi tôi tin rằng các vấn đề kinh tế, tài chính, chính
trị có thể thay đổi, nhưng hành vi con người trong việc ứng xử với tiền có thể ít thay đổi hơn. Các bạn vui
lịng tự đánh giá và quyết định theo cách của mình. Tơi khơng có bất kỳ ý gì trong việc nhận định thị
trường lên xuống hay lăng xê cổ phiếu nào. Tôi chủ động lựa chọn các chủ đề gần với thực tại để viết
trước, các chủ đề chưa gần sẽ viết sau. Và thường tôi viết khi rảnh rỗi, chủ yếu cuối tuần. Mục đích duy
nhất là cùng "làm giàu kiến thức để ra quyết định".
Để tiện theo dõi, sau đây là danh mục các bài viết trong nhóm. Tơi sẽ cập nhật mỗi khi có bài mới. Cám
ơn các bạn đã quan tâm và chúc các bạn thành công.
Bài giảng về Chứng khốn
Phần 1: Trị chơi của cáo và thỏ:
Viết về thị trường hứng phấn và triển vọng ra sao lúc này là thừa. Hoặc những câu chuyện thành cơng bây
giờ chắc cũng chẳng phải là điều bổ ích gì. Điều chúng ta thường học được nhiều nhất chính là từ những
thất bại. Vậy hãy xem những trò bịp điển hình của thời kỳ 2009/2010, để xem những con cáo đã dụ những
con thỏ như thế nào.
Phổ biến nhất là chiến dịch thông tin. Trong một thị trường đầy tiền như thế này, điều các nhà đầu tư cần


là “bất kể thơng tin gì có thể có” để giao dịch. Nắm bắt được điều này, những nhà thiết kế game thường
vận hành một chiến dịch thông tin nhằm phục vụ quy trình Hút - Đẩy - Xả. Chúng ta sẽ thấy rất quen
thuộc khi những thông tin với cụm từ “đột biến” được khéo léo rò rỉ trên các diễn đàn, các nhóm chat hay
thậm chí qua các cuộc điện thoại.
Ngày cịn làm ở Việt nam, tơi đã từng nhận điện thoại của CEO một doanh nghiệp (giờ đã chỉ còn là cái
vỏ sau khi lãnh đạo bán sạch cổ phiếu và lập cơng ty mới) nói nhỏ rằng cơng ty anh có lợi nhuận đột biến
nhờ biến động giá ngun liệu, em khơng nên nói với ai. Và tất nhiên tơi khơng nói với ai mà chỉ kiểm
chứng cho riêng mình. Tơi hiểu rằng thơng tin đó được anh ấy gọi cho rất nhiều người, và sự thật là ngay
sau hơm đó giá cổ phiếu cứ thế tăng dần và ngồi thị trường mọi người nói với nhau về thông tin lợi
nhuận “đột biến”. Giá tăng, khối lượng tăng, và sau đó thì doanh nghiệp chỉ cịn là cái vỏ. Nhà đầu tư lặng
lẽ, âm thầm, trở thành những cổ đông dài hạn của một công ty mà thực ra nó chẳng cịn hoạt động gì.
Những thơng tin kiểu như trên cực kỳ phổ biến trên thị trường. Những chiêu trò phổ biến để tạo ra bất kỳ
cái gì gọi là “đột biến” được các doanh nghiệp kết hợp với các đội lái thực hiện một cách hoàn hảo.
Những trò bịp phổ biến bao gồm việc doanh nghiệp sẽ tạo “đột biến” bằng cách bán tài sản thông qua
công ty con, công ty vệ tinh nhằm tạo lợi nhuận và đưa tất cả lợi nhuận vào quý mà họ thấy hợp lý để xả.


Hoặc nhiều doanh nghiệp thực hiện dồn lợi nhuận đáng ra có thể dàn trải qua nhiều quý vào một q phù
hợp để xả.
Đó là những doanh nghiệp ít nhất cịn có gì để làm. Nhiều nhóm hoặc doanh nghiệp khác thậm chí cịn
thực hiện những trị bịp lộ liễu hơn bằng những thông tin tương lai không xảy ra. Bạn sẽ không ngạc nhiên
khi thấy doanh nghiệp thông báo những dự án bỗng nhiên được hình thành, được phê duyệt, được triển
khai, hay doanh nghiệp bỗng nhiên phát hiện ra mỏ đồng, mỏ vàng, mỏ kim cương .v.v. hoặc có nhà đầu
tư chiến lược nước ngồi đã đồng ý mua với giá xyz.
Nói tóm lại, nắm bắt được tâm lý của các nhà đầu tư, những người tham gia chỉ vì thấy chứng khốn tăng
nhanh q - những “con thỏ”, cần thông tin để giao dịch, những “con cáo” sẽ “sản xuất” thông tin mà
những con thỏ cần. Điều rắc rối là các con thỏ chủ yếu thích nghe những thơng tin có lợi chứ khơng thích
nghe các thơng tin bất lợi. Và đó chính là “trị chơi của cáo và thỏ”.
Phần 2: Trò chơi của thỏ và cáo: Thực chiến.
Trong khi chiến dịch thơng tin chỉ là địn tâm lý và những con cáo có thể giấu bản chất của mình một cách

tinh vi qua nhiều vỏ bọc thông tin khác nhau, điều họ không thể che dấu chính là hành động của họ.
Trên chứng trường, điều mà chúng ta nhìn thấy hàng ngày là giá và KLGD. Mặc dù KLGD là kết quả của
cả bên mua và bên bán, nó thực chất có ý nghĩa rất khác nhau khi giá lên và giá xuống. Một chút kiến thức
về cung cầu cho chúng ta biết rằng giá lên là vì có nhiều người (lượng) muốn mua hơn muốn bán và do
vậy, KLGD nhìn thấy là do người bán quyết định. Điều này có nghĩa là nếu KLGD tăng lên khi giá tăng,
mặc dù người mua vẫn lớn, số người bán bắt đầu tăng lên. Người ta bán là vì người ta bắt đầu tin rằng giá
khó có thể còn tăng nữa. Khi KLGD càng tăng lên, số người nắm giữ cổ phiếu bán ra càng nhiều.
Bạn sẽ nhận thấy rằng khi giá tăng và KLGD bắt đầu tăng nhanh, những tin tức tốt được rị rỉ càng nhiều.
Đó chính là lúc những con cáo khéo léo rị rỉ những thông đã sản xuất sẵn để lôi kéo những con thỏ tham
gia cuộc chơi. Những con thỏ khơng có nghi ngờ gì bởi vì giá tăng và KLGD tăng là điều họ nghĩ do tiền
quá nhiều, cuộc chơi còn lâu mới kết thúc, mình sẽ chạy trước. Rồi bỗng một ngày, KLGD tăng một cách
đột biến, giá biến động mạnh trong ngày và các con thỏ lại chặc lưỡi bởi vài ngày sau sau đó giá vẫn tăng.
Nhưng đó là lúc những con cáo bắt đầu ra hàng. KLGD đột biến có nghĩa rằng họ bán khơng chỉ những gì
được giao dịch hàng ngày, mà bán nhiều hơn thế. Nói cách khác, khi KLGD đột biến xảy ra, đó là lúc
nhiều người khơng cịn tin giá có thể tăng tiếp. Sau những ngày KLGD đột biến sẽ là quá trình giảm dần
của KLGD. Trong lúc này, giá có thể vẫn tăng, nhưng việc KLGD giảm dần có nghĩa rằng những con cáo
đã ra hàng và không trở lại. Việc giá tăng chỉ đơn giản là những con thỏ đang tranh đấu với nhau. KLGD
cứ giảm, giảm, giảm dần và rồi đến một ngày nào đó, những con thỏ bỗng nhận ra họ là những nhà đầu tư
dài hạn.
PS: Tôi viết vui, mô tả thực tế dựa trên kiến thức kinh tế hành vi như là một dạng bổ sung kiến thức và
khơng ám chỉ điều gì về thị trường hay bất kỳ ai. Bạn quyết định thể nào là quyền của bạn
Phần 3: Trò chơi của cáo và thỏ: Ai được, ai mất?
Trong trò chơi của cáo và thỏ, lợi ích của cáo là sự mất mát của thỏ và hơn thế là sự suy giảm lòng tin của
xã hội vào thị trường. Trong một vịng xốy của thị trường, có thể lúc này bạn là cáo, nhưng rất có thể
trong một trị chơi khác bạn lại là thỏ.
Tơi đã từng chứng kiến một con cáo trở thành thỏ suy sụp đến thế nào, thậm chí nói chuyện (chat) với tơi
trong tâm lý tìm đến cái chết. Tơi đã dành nhiều thời gian động viên và hỗ trợ tâm lý, người đó mới dần
ngi ngoai và sau này trở lại. (Rất xin lỗi nếu người đó đọc được dịng này, nhưng đó là kỷ niệm và bạn
đã vượt qua nó một cách xứng đáng).
Tơi cũng đã nói chuyện với nhiều con cáo, những người kiếm được rất nhiều tiền từ các trị chơi chứng

khốn. Nhiều trong số họ sau này dùng tiền mình kiếm được để làm từ thiện, như là một cách cho đi và trả
lại cho đời. Giả sử, nếu được làm lại, rất có thể họ đã nghĩ khác - ít nhất tơi tin rằng họ sẽ khơng thiết kế
trị chơi cho những cơng ty bẩn.


Dù biết rằng trò chơi của cáo và thỏ sẽ luôn tồn tại cùng thị trường, ở đâu cũng vậy (ngay như tại Anh thì
điều này – thao túng giá - cũng vẫn cứ xảy ra), nhưng hậu quả của nó chắc chắn sẽ ít nặng nề nếu trị chơi
được thiết kế trên nền những công ty sạch. Tôi tin vào điều này bởi thị trường chứng khoán xét cho cùng
ln tăng điểm và đặc điểm của nó là tăng thì lâu nhưng giảm thì rất nhanh. Bởi vậy, nếu chẳng may bạn
bị mắc kẹt trong một trò chơi và đó là cơng ty sạch, bạn vẫn có thể n tâm với nó. Nhưng nếu bạn sử
dụng địn bẩy thì có thể sẽ rất khác bởi vì bạn có thể vỡ nợ trước khi giá phục hồi. Vậy hãy để ý quá trình
thực chiến để quyết định khi nào dừng dùng địn bẩy.
Nếu bạn lựa chọn một cơng ty sạch, theo tơi có hai thứ bạn cần phải tìm hiểu là mơ hình kinh doanh và
cách cơng ty quản trị mơ hình đó như thế nào. Khi cịn trong nước, tại các cuộc hội thảo tôi hay dùng cụm
từ “công thức tạo tiền” để ám chỉ cách thức mà tiền được tạo ra từ mơ hình kinh doanh. Khi quay trở lại
Anh, khi thiết kế các chương trình học mới và thiết kế hoạt động cho quỹ đầu tư sinh viên, tơi có dịp nói
chuyện với nhiều người làm trong ngành ngân hàng đầu tư tại đây và nhận thấy họ quan tâm nhiều hơn
đến vấn đề quản trị doanh nghiệp để đảm bảo rằng mơ hình kinh doanh hoạt động tốt.
Trong các cuộc họp về đầu tư với quỹ tại Anh mà tôi tham dự, gần như các mô hình định giá khơng được
hỏi, mà chủ yếu là về mơ hình kinh doanh và quản trị. Thậm chí, trong cuộc họp gần nhất chỉ một tuần
trước, một người làm ngân hàng đầu tư đã nói rằng chương trình học mà tôi thiết kế nên đi xa hơn trong
vấn đề quản trị, nó khơng phải chỉ là quan hệ hướng tới giá trị cổ đông, mà là xã hội, bởi đó là xu thế.
Nhưng việc xác định một cơng ty sạch không đơn giản. Vấn đề của thị trường chứng khốn là thơng tin
khơng cân xứng. Nhà đầu tư thường biết q ít về cơng ty (do chi phí để họ tự tìm hiểu q lớn) và bởi
vậy những cơng ty sạch bị đánh đồng với những công ty bẩn. Hệ quả là những thơng tin rị rỉ kiểu như lợi
nhuận “đột biến” được dùng như là thước đo duy nhất. Do những công ty bẩn được hưởng lợi, họ sẽ
khơng làm gì, thậm chí tìm cách tiếp tục rị rỉ tin bẩn. Bởi vậy, những công ty sạch sẽ phải chủ động trình
bày, thơng tin cho nhà đầu tư, để họ biết về mơ hình kinh doanh và mơ hình quản trị. Khi cơng ty sạch
được nhận diện, rủi ro thấp hơn trong khi kỳ vọng lợi nhuận từ trị chơi cáo thỏ là như nhau, cơng ty sạch
chắc chắn sẽ được chọn. Thị trường sẽ tốt hơn nếu có nhiều cơng ty sạch được nhận diện.

Tơi kết thúc chuyện cáo và thỏ ở đây để chuẩn bị quay lại công việc thường nhật sau kỳ nghỉ. Nhắc
chuyện cũ theo cách hài hước thực ra là để muốn khuyến cáo một việc nghiêm túc rằng chúng ta nên
hướng tới các trị chơi sạch. Luật chứng khốn và UBCK cũng đã có nhiều tiến bộ trong việc xây dựng
các cơng ty sạch. Luật về TV HĐQT độc lập thực ra là một bước tiến quan trọng, nếu làm tốt sẽ tạo ra các
công ty sạch, thị trường sạch.
PS: Một phần của những điều trên nằm trong một dự án nghiên cứu của trường mà tôi đang triển khai với
một công ty để tìm hiểu về quá trình tạo ra giá trị doanh nghiệp nên sau này hy vọng có thể chia sẻ chi tiết
thêm. Nếu các bạn (doanh nghiệp) muốn tìm hiểu thêm về hai vấn đề tơi nêu ở trên, cứ inbox, tôi sẵn sàng
chia sẻ vào một thời điểm thích hợp trong năm mới.
Bài 1: Kiểm sốt cảm xúc để thành công
Đây là bài đầu tiên tôi viết để cảm ơn các bạn đã theo dõi tôi trong 1 tuần qua theo đúng tin thần “giúp bạn
làm giàu kiến thức để ra quyết đinh” . Các bài viết của tơi có sử dụng kiến thức hàn lâm nhưng sẽ được
viết theo cách dân dã cho dễ hiểu. Tôi sẽ lựa chọn những chủ đề gần với điều kiện thị trường hiện tại để
viết trước. Và hôm nay là chủ đề về kiểm soát cảm xúc
Chúng ta lâu nay vẫn thường nghĩ rằng mình ra quyết định là dựa trên lý trí - tức là có cân nhắc thiệt hơn.
Nhưng sự thật không phải vậy. Chúng ta thường ra quyết định dựa trên tâm lý và cảm xúc. Điều này đúng
với gần như mọi vấn đề của cuộc sống, từ quan hệ bạn bè, gia đình, tới những vấn đề xã hội và kinh
doanh.
Những kiến thức về tâm lý và cảm xúc có nhiều trên mạng hay có trong giáo trình giảng dạy ở các trường
đại học. Trong đầu tư và giao dịch chứng khốn, có cả một mảng về tài chính hành vi nhằm giải thích tại
sao con người hành động/ra quyết định khơng dựa trên lý trí như các lý thuyết truyền thống.


Tất nhiên là tơi khơng có ý định đưa ra những khái niệm về những vấn đề nêu trên bởi chỉ cần một lệnh
tìm kiếm trên Google là bạn có vơ số kiền thức về nó. Điều tơi muốn chia sẻ nằm ở việc liên hệ nó với
việc ra quyết định như thế nào trong các điều kiện thị trường cụ thể. Nhận diện cảm xúc và kiểm soát cảm
xúc có thể sẽ là chìa khóa để bạn thành cơng trong điều kiện thị trường hiện tại. Nhìn chung trong cuộc
sống, khi chúng ta hưng phấn, chúng ta thường khó kiểm sốt hành vi .
Nhận diện cảm xúc
Tơi có đọc nhiều sách nói về tâm lý và cảm xúc khác nhau, làm việc ở nhiều môi trường, và trải qua các vị

trí cơng việc khác nhau liên quan tới việc ra quyết định, cả trong cuộc sống và trong kinh doanh hay đầu
tư tài chính. Và tất nhiên tơi đã trải qua nhiều cung bậc thị trường, cũng như trải qua thời oanh liệt với biệt
danh “Quất Mạnh Vào” hay thời khốn khó mà thị trường nghĩ rằng tơi là người đã làm chìm con thuyền
chứng khốn Thăng Long ngày trước. Quả thực, nếu chỉ bằng ngòi bút - những phân tích chứng khốn
khơng vụ lợi - mà có thể làm được như vậy thì tơi nên tự hào về điều đó.
Nói như vậy để thấy rằng tơi đã trả qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau trong nghề. Mặc dù sách vở có
thể nói khác, con người học thuật của tơi nhìn thấy từ chính con người thực tiễn của tơi kinh nghiệm rằng
trong đầu tư chứng khốn, tâm lý cảm xúc (tất nhiên là theo nghĩa tiêu cực tới việc ra quyết định) xoay
quanh 4 trạng thái cơ bản: hy vọng, nuối tiếc, tham lam và sợ hãi.
“Hy vọng” thường xảy ra khi bạn giữ cổ phiếu và giá giảm, mặc dù lý trí của bạn nói rằng triển vọng sẽ là
giảm, nhưng bạn vẫn “hy vọng” nó sẽ quay trở lại, bởi vì bạn “nuối tiếc” đã không bán lúc giá tốt. Hoặc
khi bạn đang giữ tiền, và giá cổ phiếu tăng, lý trí nói rằng triển vọng giá tăng, nhưng bạn vẫn “hy vọng”
nó điều chỉnh để bạn vào bởi vì bạn “nuối tiếc” đã không vào.
Dấu hiệu quan trọng nhất của “hy vọng” là bạn thường làm điều này một mình, suy tính một mình mà
khơng dám chia sẻ với người khác, bạn sẽ chỉ đọc những thơng tin có lợi cho hy vọng của mình và bỏ qua
thơng tin bất lợi.
“Tham lam” thường xảy ra khi hứng phấn, khi lý trí nói rằng giá mục tiêu đã đạt nhưng bạn vẫn muốn giữ
nó hoặc đã bán rồi lại lập tức quay lại mua bởi vì bạn “nuối tiếc” một khoản lãi tiềm năng. Ngược lại “sợ
hãi” thường xảy ra mạnh nhất khi bạn đang nắm trong tay một cổ phiếu giảm giá và thường xun nghĩ
đến bán mặc dù lý trí nói rằng nó có thể khơng cịn giảm nữa.
Dấu hiệu quan trọng nhất của tham lam/sợ hãi là bạn sẽ làm điều này theo đám đơng, bạn nói chuyện với
rất nhiều người, và khi đọc tin tức bạn cũng sẽ có xu hướng đề cao thông tin ủng hộ cho quyết định của
bạn. Bạn thường tưởng tượng quá xa khi đọc tin.
Cảm xúc nuối tiếc sẽ thường xuyên xuất hiện trong đầu tư tài chính. Dấu hiệu quan trọng nhất của cảm
xúc nuối tiếc là khi bạn luôn nghĩ về những cái mất nhiều hơn là cái được, kể cả những cái mất do bạn
không bán được giá cao nhất mặc dù thực tế bạn khơng mất tiền.
Kiểm sốt cảm xúc
Khi bạn gặp phải những tình huống nêu trên, nghĩa là bạn đang giao dịch dựa trên cảm xúc. Giới khoa học
đã có nhiều bằng chứng rằng nếu bạn ra quyết định hành động dựa trên cảm xúc, khả năng thất bại thường
cao hơn, mặc dù bạn có thể thành cơng một hai lần.

Nhận ra mình đang trong trạng thái cảm xúc nào đó đã khó, việc kiềm sốt cảm xúc để thành cơng cịn
khó khăn hơn rất nhiều. Nếu chỉ nói “đừng nghĩ như thế nữa” thì quá dễ, nhưng lại quá khó cho người
thực hiện. Kinh nghiệm từ những người giao dịch cá nhân thường là “hãy làm một việc gì đó khác”.
Một cách bài bản hơn, dựa trên việc xem nhiều sách và khóa học về đầu tư và giao dịch chứng khốn, tơi
nhận thấy cách sau đây khá hữu hiệu:
Hãy xây dựng cho mình một cách chọn cổ phiếu và nguyên tắc đầu tư. Bạn nên coi việc đầu tư giống như
một cơng việc kinh doanh thay vì một sở thích. Hãy viết những điều đó ra thay vì nhớ nó ở trong đầu.


Khi bạn gặp các dấu hiệu của cảm xúc lấn át lý trí như ở trên, phải tìm cách trở lại với ngun tắc của
mình. Việc này nói thì dễ, làm thì khó. Nhưng bạn có thể kiềm chế cảm xúc bằng việc đặt ra các câu hỏi
“tại sao lại chờ giá tăng/giảm?”, “tại sao lại mua lại/bán ngay?” .v.v. và mở nguyên tắc của mình ra để tìm
câu trả lời. Hãy luôn nhớ rằng bạn đã chọn cổ phiếu theo nguyên tắc gì thì khi bán cũng theo nguyên tắc
đó.
Một điểm quan trọng trong kiểm sốt cảm xúc là khi bạn đã bán, hãy cố gắng coi đó là một cơng việc đã
hồn thành và bạn nên nghỉ ngơi, dù lãi hay lỗ, nhiều hay ít. Bạn cũng nên nói chuyện với nhiều người
hơn nếu rơi vào cảm xúc “hy vọng” hoặc hạn chế nói chuyện với người khác nếu đó là cảm xúc “tham
lam”/”sợ hãi”.
Và cuối cùng, khi bị cảm xúc chi phối, trước khi làm gì hãy luôn nhớ rằng "mất tiền sẽ làm bạn đau nhiều
và lâu hơn nhiều so với được tiền" và điều này sẽ không tốt cho sức khỏe tinh thần của bạn. Còn tiền còn
sức khỏe là còn cơ hội.
Bài 2: Hiểu chu kỳ kinh tế, thị trường và tâm lý
Trong đời sống xã hội, gần như mọi thứ do con người tạo ra đều có tính chu kỳ. Đối với những người
quan tâm tới thị trường chứng khốn, có ba chu kỳ mà họ không thể không biết: chu kỳ kinh tế, chu kỳ thị
trường và chu kỳ cảm xúc. Chu kỳ thị trường gắn liền với chu kỳ cảm xúc và hai chu kỳ này luôn đi trước
chu kỳ kinh tế. Bởi vậy chúng ta mới nói rằng thị trường chứng khoán phản ánh kỳ vọng về nền kinh tế.
Trong bài viết này, tôi chọn giới thiệu chu kỳ thị trường. Những hiểu biết về khái niệm chu kỳ thị trường
đầy ắp trên mạng nên bạn có thể tự tìm hiểu thêm. Tôi sẽ chỉ tập trung vào những điểm chính yếu mang
tính ứng dụng bình dân cho một cá nhân giao dịch chứng khốn.
Nói một cách dân dã, chu kỳ thị trường gói gọn ở 4 trạng thái cơ bản: “Đáy”, “Tăng”, “Đỉnh”, “Giảm”.

Người có nghề hơn sẽ dùng các cụm từ hoa mỹ hơn như: “Tích lũy”, “Xu hướng Tăng”, “Phân phối”, “Xu
hướng Giảm”. Hoặc nói vui mang tính hài hước là trị chơi của cáo và thỏ: “Gom”, “Đẩy”, “Xả”, “Nghỉ”.
Dù nói theo cách nào thì bản chất của sự vận động thị trường vẫn vậy. Dân chứng khoán cũng hay dùng từ
“điều chỉnh” hay “rung lắc” để ám chỉ xu thế hiện tại chỉ là tạm thời ngược với xu hướng chủ đạo.
Điều thú vị của thị trường chứng khốn là dự đốn. Ai đó có thể nói những từ hoa mỹ như phân tích, dự
báo hay kỳ vọng hay bất cứ cái gì, thì đơn giản vẫn là dự đoán. Nhưng một dự đoán dựa trên thông tin
thường sẽ làm bạn cảm thấy tự tin hơn. Thông tin ở đây bao gồm cả kinh tế và cảm xúc. Tất cả 4 trạng thái
của chu kỳ thị trường đều là cả một giai đoạn dài, nhưng thực tế theo tơi có hai giai đoạn chính yếu cần
quan sát là “Tăng đến Đỉnh” và “Giảm đến Đáy”.
Để bài viết không quá dài và phù hợp với quan tâm hiện tại, tôi chỉ đề cập tới giai đoạn “Tăng đến Đỉnh”
với những đặc trưng cơ bản của nó. Bạn cũng cần lưu ý là trong xu hướng tăng (cũng như giảm) điểm,
mọi định giá khơng có ý nghĩa, chỉ số đạt bao nhiêu điểm cũng chỉ là dự đoán tương đối, nhưng quan
trọng là bạn hiểu chu kỳ vận động để ra quyết định cho riêng mình. Hy vọng bài viết có ích cho những ai
chưa rõ về các lý thuyết chu kỳ.
Kinh tế:
Thị trường thường bắt đầu tăng sau khi nền kinh tế được kỳ vọng (tôi nhấn mạnh là kỳ vọng) rất xấu. Lúc
này, người ta bắt đầu nói đến việc kích thích và hỗ trợ. Đặc điểm quan trong là mặt bằng lãi suất sẽ không
thể tăng thêm được nữa.
Thị trường sẽ tiếp tục tăng điểm cho đến khi nền kinh tế được kỳ vọng rất tốt. Lúc này bắt đầu xuất hiện
các bình luận trái chiều về chính sách. Đặc điểm quan trọng là mặt bằng lãi suất không thể giảm được nữa.
Tâm lý:
Thị trường thường bắt đầu tăng sau khi trải qua sự hoản loạn và chán nản. Lúc này, người ta bắt đầu nói
đến việc đầu tư dài hạn. Tâm lý sợ hãi và hoản loạn khơng cịn mà thay vào đó là chấp nhận, bình thản và
hy vọng.


Thị trường sẽ tiếp tục tăng điểm cho đến khi tâm lý thị trường cực kỳ phấn khích và hưng phấn, ai cũng
nghĩ mua là thắng, bán là thua. Tâm lý khơng sợ rủi ro xuất hiện bằng việc tìm kiếm cổ phiếu rủi ro: bất
kỳ cổ phiếu nào chưa tăng, cổ phiếu nhỏ với kỳ vọng tăng nhanh hay chỉ cần một cái tin nào đó để mua.
Tâm lý thỏa mãn cái tôi tài giỏi xuất hiện. Những tiếng nói trái chiều xuất hiện nhưng bị gạt bỏ.

Thị trường:
Thị trường thường bắt đầu tăng điểm sau khi trải qua một giai đoạn ảm đạm với KLGD giảm dần và bắt
đầu xuất hiện KLGD tăng lên, thể hiện việc gom cổ phiếu, đặc biệt tại các cổ phiếu ít rủi ro (vốn hóa lớn).
Thị trường sẽ tiếp tục tăng với khối lượng giao dịch tăng dần do những người tham gia mới hoặc quay lại
thị trường. Lúc này, thường xuất hiện các phân tích về các ngành nghề/cổ phiếu được hưởng lợi và dòng
tiền sẽ dần dần ra khỏi cổ phiếu lớn (do chốt lời) và cùng dòng tiền mới quay trở lại các ngành nghề/cổ
phiếu có lợi theo phân tích.
Q trình trên tiếp tục đưa thị trường đi lên và các ngành nghề/cổ phiếu chưa được phát hiện sẽ tiếp tục
được tìm kiếm. Các cổ phiếu rủi ro, nhỏ sẽ được mua mạnh cùng lúc với việc các cổ phiếu được mua
trước đó (ít rủi ro hơn) điều chỉnh. Giá trị giao dịch lúc này vẫn ở mức rất cao nhưng không tăng đều nữa
mà chững lại và giảm dần do việc luân chuyển cổ phiếu. Thông tin tốt về thị trường cũng tràn ngập, nhiều
người quan tâm tới thị trường, các doanh nghiệp liên tiếp công bố thông tin, giao dịch của cổ đông liên
quan cũng rất nhiều. Việc tăng điểm của thị trường thường đạt tới đỉnh điểm khi sự luân chuyển dòng tiền
bắt đầu làm ngược lại: chuyển từ cổ phiếu rủi ro sang cổ phiếu an tồn.
Bài 3: Hiểu sự ln chuyển của dịng tiền
Gắn liền với các lý thuyết về chu kỳ kinh tế, chu kỳ tâm lý và chu kỳ thị trường là lý thuyết về sự phản
ứng của các lớp cổ phiếu trong mỗi chu kỳ thị trường. Nói một cách dân dã thì đó chính là sự ln chuyển
của dịng tiền qua các lớp cổ phiếu.
Nguyên lý
Khi dòng tiền vào thị trường mạnh, phần lớn các cổ phiếu đều tăng nhưng độ mạnh yếu khác nhau, thời
điểm cũng khác nhau, dẫn tới thị trường luôn tăng điểm với KLGD tăng dần. Điều này là do dịng tiền liên
tục tìm kiếm các cơ hội mới trong khi vẫn nắm giữ các cơ hội cũ.
Còn khi dòng tiền đã chững lại, các cổ phiếu tăng sớm sẽ được thay thế bởi các cổ phiếu tăng muộn dẫn
tới chỉ số khơng cịn tăng mạnh hoặc giảm cùng với KLGD không tăng. Điều này là do dịng tiền lúc này
vẫn tiếp tục tìm kiếm cơ hội mới nhưng bằng cách bán đi các cơ hội cũ.
Phần lớn các lý thuyết về sự luân chuyển của dịng tiền viết trong sách hoặc trên mạng đều có cách tiếp
cận chuẩn mực truyền thống là dựa vào sự nhạy cảm của ngành nghề và mơ hình kinh doanh của doanh
nghiệp theo chu kỳ kinh tế. Điều này là hợp lý bởi các lý thuyết này được hình thành tại các thị trường
phát triển do nhà đầu tư tổ chức dẫn dắn.
Còn ở thị trường Việt nam, theo quan sát của tơi những lý thuyết đó cần có sự điều chỉnh phù hợp với đặc

điểm thị trường do nhà đầu tư cá nhân dẫn dắt. Sự khác biệt cơ bản giữa một thị trường do nhà đầu tư tổ
chức dẫn dắt và do nhà đầu tư cá nhân dẫn dắt nằm ở mức độ tác động của các yếu tố kinh tế và yếu tố
tâm lý trong việc ra quyết định. Khi yếu tố tâm lý dẫn dắt nhiều hơn, các quyết định chủ yếu dựa trên các
thông tin mang tính cảm nhận tốt xấu.
Ln chuyển dịng tiền
Từ lúc thị trường bắt đầu tăng cho đến đỉnh, theo chu kỳ tâm lý, nhà đầu tư sẽ thường bắt đầu bằng những
lựa chọn an tồn và có cân nhắc cho đến các lựa chọn rủi ro và ít cân nhắc. Còn theo chu kỳ kinh tế, các
lớp cổ phiếu thuộc nhóm nhạy cảm với tăng trưởng, chủ yếu là lãi suất, sẽ được lựa chọn trước cho đến
các lớp cổ phiếu ít nhạy cảm và lớp cổ phiếu thuộc nhóm ngành luôn cần bất kể kinh tế kinh tế thế nào.
Sự kết hợp giữa yếu tố tâm lý và kinh tế tại thị trường Việt nam trong giai đoạn bắt đầu của chu kỳ tăng
trưởng thường sẽ chứng kiến dòng tiền lựa chọn lớp cổ phiếu có đặc điểm quan trọng truyền thống như


danh tiếng quản trị tốt, vốn hóa lớn và nhóm ngành liên quan tới tài chính và bất động sản. Lựa chọn này
dựa trên sự đảm bảo an toàn và sự cảm nhận kỳ vọng (tôi nhấn mạnh là cảm nhận chứ khơng hẳn phân
tích) về việc lớp cổ phiếu này sẽ được hưởng lợi từ môi trường lãi suất thấp và tăng trưởng kinh tế.
Khi thị trường càng tăng, do hiệu ứng của dòng tiền mạnh, phần lớn các lớp cổ phiếu sẽ bắt đầu chuyển
động tăng điểm. Lúc này, cách tiếp cận an toàn sẽ dần thay thế bởi cách tiếp cận rủi ro hơn và việc lựa
chọn các lớp cổ phiếu theo ngành nghề khơng cịn rõ ràng nữa. Dịng tiền sẽ tìm đến các cổ phiếu có vốn
hóa nhỏ hơn, khơng có điều tiếng xấu về quản trị, và các cổ phiếu có thơng tin tốt. Do cổ phiếu ở lớp số 1
được giữ trong khi cổ phiếu lớp thứ 2 được mua, thị trường sẽ tăng điểm rất mạnh trong giai đoạn này.
Chúng ta sẽ khơng thể biết điểm số sẽ tăng đến đâu vì khơng bao giờ đo được dịng tiền vào nhiều như thế
nào. Nhưng khi thị trường càng gần tới đỉnh điểm, các cổ phiếu ở lớp số 1 sẽ dần bị bán trong khi các cổ
phiếu ở lớp số 2 và 3 vấn sẽ được mua. Thị trường lúc này thường chứng kiến sự tăng điểm diện rộng của
lớp cổ phiếu số 3 – những cổ phiếu có điều tiếng hoặc cổ phiếu nhỏ đến rất nhỏ. Sự luân chuyển của dòng
tiền lúc này sẽ dấn tới việc thị trường chững lại và giá trị giao dịch khơng tăng hoặc giảm.
Chính ở lúc này thị trường có sự xáo động tâm lý nhiều nhất. Sự giẳng co giữa lý trí (rời cuộc chơi) và trái
tim (tiếp tục cuộc chơi) cũng gần giống sự giằng co tâm lý trong câu hỏi cuối cùng của “Ai là triệu phú?”.
Cố thêm một lần nữa có thể thành triệu phú, nhưng cũng có thể sẽ về mức thấp hơn nhiều. Nhưng điều thú
vị của thị trường chứng khốn nằm ở chỗ, trong khi trị chơi “Ai là triệu phú” có mức tối đa cố định, thì

thị trường chứng khốn lại khơng có mức này. Trong trò chơi “Ai là triệu phú” người ta cũng thường liều
hơn vì xuất phát điểm của họ khơng có đồng nào.
Trong những lúc như vậy, như là một cách chờ đợi dấu hiệu từ dòng tiền, thị trường thường sẽ một lần nữa
quay lại với sự lựa chọn an toàn với hy vọng trái tim sẽ đúng, đồng thời nếu lý trí có sai thì nó cũng an
tồn hơn bình thường. Chúng ta sẽ chứng kiến sự trở lại của nhóm cổ phiếu an tồn hơn (lớp số 2 và 1) –
sau khi bị bán – nhưng thường thì chỉ là một nhóm và chỉ một phần tiền là quay trở lại. Sự trở lại này đôi
khi làm xảy ra bẫy tăng (bull trap) như dân tình vẫn hay nói. Nếu giá trị giao dịch thị trường khơng tăng,
dịng tiền mới khơng vào nữa, thì dần dần dịng tiền hiện có cũng sẽ rời khỏi thị trường.
Điều quan trọng cần nhận biết là dòng tiền mới bao giờ cũng bao gồm dòng tiền vay do hiệu ứng đầu cơ
tối ưu. Bởi vậy, những người làm tại các CTCK và ngân hàng có thơng tin về hạn mức margin và điều này
thường là quan trọng để cân nhắc triển vọng dòng tiền mới.
Tơi hy vọng bài viết sẽ có ích cho các bạn theo nghĩa cách nhìn của một người nghiên cứu để hiểu thị
trường. Hiểu thị trường và hiểu chính mình là quan trọng để ra quyết định đúng. Chúc cuối tuần vui vẻ,
tuần mới giao dịch thành công và tôi rất muốn tin thị trường vượt qua chướng ngại vật.
Bài 4: Hiểu và dùng phân tích cơ bản
(Bài này viết chủ yếu cho người không chuyên kinh tế, tài chính)
Trong đầu tư chứng khốn, có hai trường phái phân tích truyền thống là cơ bản và kỹ thuật. Phân tích cơ
bản sử dụng kiến thức kinh tế và tài chính doanh nghiệp rồi đưa vào mơ hình định giả đế tìm ra giá trị cổ
phiếu, từ đó so sánh với giá thị trường để ra quyết định. Phân tích kỹ thuật sử dụng đồ thị và các chỉ số để
tìm ra giá mua vào và giá bán ra phù hợp. Trong khi phân tích cơ bản địi hỏi hiểu sâu về doanh nghiệp,
phân tích kỹ thuật có thể áp dụng cho bất cứ tài sàn nào có giao dịch.
Hầu hết các sách dạy về đầu tư đều là phân tích cơ bản. Họ sẽ nói rằng bạn cần phải có cách tiếp cập trên
xuống, hoặc dưới lên, nhưng tựu trung lại, cuối cùng bạn sẽ ngồi mày mị tính tốn cho một cổ phiếu cụ
thể. Nó rất mất thời gian. Và nó cũng khơng phải là việc dễ dàng, ngay cả đối với chính doanh nghiệp đó,
huống hồ bạn là người ngoài. Rút cục, bạn sẽ chẳng bao giờ có một câu trả lời đúng.
Hãy tưởng tượng ngay cả phương pháp đơn giản nhất là so sánh chỉ số PE, bạn cũng sẽ thấy là việc ước
lượng EPS trong tương lai gần là một việc vơ cùng khó. Vậy thì những phương pháp phức tạp như chiết
khấu dịng tiền thì bạn sẽ cịn cảm thấy bế tắc thế nào khi bạn phải ước lượng dòng tiền cho một tương lai
xa 5, 10 năm và sau đó. Những thứ đó lại chỉ có thể làm được khi bạn cần hiểu về kinh tế, về ngành, thị



trường, về lãnh đạo, mơ hình kinh doanh, đạo đức này kia... Nói cách khác, bạn khơng thể làm được.
Doanh nghiệp cũng không thể làm được. Vậy tại sao bạn lại dùng nó?
Tơi đã cho sinh viên làm rất nhiều bài định giá, vừa là bài học, vừa là để dùng cho quỹ đầu tư sinh viên.
Một điều tôi luôn u cầu sinh viên làm là: đối với mơ hình định giá mà các em đang sử dụng, hãy thử cho
từng biến số thay đổi, rồi các biến số cùng thay đổi, xem kết quả định giá thế nào. Kết cục là kết quả thay
đổi rất nhiều đến mức nó chẳng có ý nghĩa gì vì khoảng giá q lớn.
Nói cách khác, khi bạn chỉ là một người thợ số liệu, kết quả mà bạn có được thực ra chỉ là một phỏng
đốn hoang đường, nó phụ thuộc vào tâm trạng của bạn. Khi phấn khích, bạn thường có xu hướng phóng
đại con số, cịn khi lo lắng bạn lại thường bi quan quá mức. Vậy tức là định giá của bạn đã phụ thuộc tâm
lý thị trường rồi. Ngay kể cả khi bạn là người có kinh nghiệm hơn, thậm chí là một người trong ngành,
trong chính doanh nghiệp bạn định giá, thì bạn cũng thường gặp vấn đề tâm lý này, mặc dù khoảng phỏng
đốn của bạn có thể sẽ hẹp hơn.
Nói như vậy để thấy rằng trên thị trường, tất cả chúng ta là người ngoài cuộc và chỉ là thợ số liệu. Nhưng
thật may, vì tất cả chúng ta đều như vậy, nên nó lại có điểm chung. Đó là chúng ta thường tin vào những gì
đơn giản nhất, dễ nhìn nhất. Đó chính là lý do tại sao mà chỉ số PE với EPS trong q khứ được sử dụng
rộng rãi, mặc dù nó khơng nói nhiều về tương lai nhưng nó lại so sánh được ở hiện tại. Đó cũng là lý do
tại sao mà các bản tin ngắn gọn viết về doanh nghiệp lại thu hút hơn là các mơ hình dịng tiền phức tạp.
Nhưng cái gì cũng có tình hai mặt. EPS và PE có thể làm đẹp bằng các thủ thuật kế tốn lợi nhuận trong
kỳ, chẳng hạn thơng qua việc bán tài sản. Các bản tin về doanh nghiệp cũng có thể đưa những thơng tin
khơng đáng tin hoặc khơng thể kiểm chứng. Bởi vậy, bạn cần một chút kiến thức kế tốn để tìm hiểu EPS
đến từ các hoạt động thường xun. Cịn các doanh nghiệp cũng cần có chiến lược quan hệ nhà đầu tư
(IR) bài bản và nghiêm túc để thơng tin được tin dùng.
Nói dơng dài như vậy nhưng cuối cùng tôi trở lại câu hỏi “vậy tại sao bạn dùng phân tích cở bản?”. Theo
quan sát của tôi, sai lầm lớn nhất của các nhà đầu tư giao dịch chứng khoán là dùng kết quả phân tích cơ
bản như một con số đứng im. Nghĩa là, họ chỉ so sánh giá hiện tại của một cổ phiếu với kết quả định giá
để ra quyết định. Những câu khuyến nghị truyền thống kiểu như “chúng tôi khuyến cáo mua cổ phiếu x ở
mức giá y với giá mục tiêu z trong khoảng thời gian t” thực ra là vô nghĩa đối với người giao dịch bởi vì
bạn thường ra vào theo chu kỳ thị trường. Tơi thậm chí khơng mấy khi để ý tới kết quả định giá, nhưng tôi
lại đọc rất kỹ các thông tin và giả định được đưa ra bởi nó cho tơi cảm nhận và thông tin về doanh nghiệp.

Tất nhiên, nếu bạn nói rằng bạn nắm giữ dài hạn thì tơi khơng đề cập.
Nhưng phân tích cơ bản khơng phải là vơ nghĩa, nó phụ thuộc cách bạn dùng. Tơi ln quan tâm tới các
chu kỳ kinh tê, thị trường và tâm lý; quan tâm tới sự luân chuyển của dòng tiền và nhận thấy rằng tại mỗi
giai đoạn của thị trường ln có một lớp cổ phiếu được tìm kiếm, và trong mỗi lớp cổ phiếu, thị trường lại
tìm cổ phiếu an tồn hơn. Điều này có nghĩa là nếu bạn dùng phân tích cơ bản để xếp hạng cổ phiếu trong
cùng một lớp thì có thể sẽ hữu ích hơn.
Giả sử nếu định giá so với giá thị trường (không cần phải cao hơn) của cổ phiếu A là tốt so vơi B, thì A
nên được chọn trước trong cùng lớp cổ phiếu. (Bạn nên đọc lại 3 bài trước bài này để hiểu về nội dung
này). Việc xếp hạng này sẽ tốt hơn nếu do bạn tự định giá (vì nó cùng một kiểu rủi ro) hoặc nếu bạn khơng
có thời gian, bạn nên sử dụng ít nhất là cùng một nguồn (ví dụ cùng 1 cty chứng khoán). So sánh 2 cổ
phiếu từ 2 nguồn khác nhau thường rất ít có ý nghĩa.
Như vậy, nếu bạn là một người khơng có thời gian, khơng chun hoặc khơng phải dân kinh tế, bạn hồn
tồn có thể dùng phân tích cơ bản theo cách của mình. Những điều đơn giản, nhiều người biết, thường có
tác động nhiều hơn là những gì phức tạp. Phân tích cơ bản tưởng chừng là phức tạp, nhưng thực ra nó lại
đơn giản để dùng trong thực chiến hàng ngày. Vì vậy, hãy chuẩn bị cho mình một tâm lý khỏe (Bài 1), một
cách nhận diện chu kỳ thị trường (Bài 2), một danh sách cổ phiếu theo từng lớp được xếp hạng (Bài 3 và
4), bạn sẽ trở nên tự tin hơn với quyết định của mình.
Chúc các bạn làm chủ quyết định của mình và thành cơng trong giao dịch!


Bài 5: Hiểu và sử dụng phân tích kỹ thuật
Phân tích kỹ thuật là nhánh cịn lại trong hai cách tiếp cận phân tích chứng khốn. Thực ra cịn một nhánh
nữa là phân tích định lượng dựa trên thuật tốn tối ưu nhưng vì nó khơng liên quan tới yếu tố tâm lý con
người nên tơi sẽ khơng trình bày. Nếu bạn cịn nhớ thì có lẽ Chứng khốn Thăng Long ngày xưa là một
trong số các công ty đi đầu trong việc phát triển các bản tin thị trường sử dụng phân tích kỹ thuật. Tơi hy
vọng những kiến thức này sẽ giúp ích cho các bạn.
Hiểu khái niệm và giả định
Phân tích kỹ thuật là việc sử dụng đồ thị giá và KLGD để phân tích hành vi thị trường. Hầu hết các trang
tài chính đều cung cấp các thơng tin phục vụ phân tích cơ bản và hệ thống đồ thị phục vụ phân tích kỹ
thuật. Nhiều người cho rằng phân tích kỹ thuật khơng đáng tin và khơng nên dùng vì nó hồn tồn khơng

liên quan gì tới yếu tố nội tại của nền kinh tế và doanh nghiệp.
Tôi không nghĩ vậy. Tôi nhận thấy rằng mặc dù đồ thị giá và lượng không cho thấy các yếu tố nội tại,
nhưng nó lại là tổng hịa của mọi hành vi thị trường. Nói cách khác, dù bạn là ai, nghĩ gì, thì cuối cùng
tổng hợp mọi yếu tố đó được thể hiện hành vi mua bán, tức là giá và khối lượng giao dịch. Như tôi đã
từng đề cập trong một bài về thỏ và cáo về hành vi, điều luôn đúng với bạn sẽ là đừng nghe những gì thị
trường nói mà hãy nhìn những gì thị trường làm.
Để hiểu tại sao phân tích kỹ thuật lại quan trọng, các lý thuyết hàn lâm cho rằng giá và lượng là kết quả
cuối cùng của mọi thơng tin hiện có trên thị trường. Vì lý do này, những người đi theo phân tích kỹ thuật
có xu hướng xem nhẹ phân tích cơ bản bởi họ nghĩ rằng mọi thứ đều đã phản ánh vào giá và lượng.
Nhưng phân tích kỹ thuật khơng có nghĩa là bạn cần phải biết mọi thứ về nó. Quan điểm của tôi là càng
đơn giản, càng dễ dùng càng tốt. Nhưng bạn đừng chỉ nhìn vào các chỉ số và hay mơ hình kỹ thuật như
nhìn một bức tranh, mà hãy cố gắng vận dụng một chút kiến thức về kinh tế học (chu kỳ, cung cầu), một
chút kiến thức về tâm lý, một chút kiến thức về phân tích cơ bản (doanh nghiệp) để thành công.
Chỉ cần hiểu 2 điều
Các sách và khóa đạo tạo phân tích kỹ thuật thường sẽ lần lượt dạy cho bạn các mẫu hình đồ thị và các chỉ
số kỹ thuật khác nhau, nhưng nếu để ý bạn sẽ thấy rằng thực ra chỉ có hai điều quan trọng với bạn. Điều
thứ nhất là hiểu thế nào “hỗ trợ” và “kháng cự”. Điều thứ hai là hiểu thế nào là “quá mua” và “quá bán”.
Mức “hỗ trợ” (mức giá thấp gần nhất) và “kháng cự” (mức giá cao gần nhất) quan trọng bởi vì tâm lý con
người thường dè dặt trước các ngưỡng giá mới. Khi bạn đã xác định một xu thế là tăng hay giảm (dựa vào
kiến thức chu kỳ), hỗ trợ và kháng cự chính là đường xu hướng. Khi sử dụng kháng cự và hỗ trợ, bận cần
sử dụng kiến thức tâm lý (Bài 1) để hiểu nó. Khi mức giá tiệm cận mức giá cũ gần nhất nhưng lại giảm
trước khi đạt được nó, bận cần hiểu rằng đó là vì nhiều người sợ khơng thể đạt được. Ngược lại, khi giá
giảm về mức giá cũ nhưng chưa xuống tới đó đã tăng lại thì cần hiểu rằng nhiều người khơng nghĩ sẽ giảm
q mức đó. Nghĩa là, bạn cần nhìn nhận “hỗ trợ” và “kháng cự” giống như một nỗi ám ảnh trong tâm lý
con người, thay vì là đường thẳng.
Các chỉ số kỹ thuật có rất nhiều, nhưng về cơ bản nó chỉ để phản ánh rằng thị trường đang “quá mua” hay
“quá bán”. Quá mua tức là mua nhiều hơn bình thường. Quá bán tức là bán nhiều hơn bình thường. Khơng
có gì đặc biệt. Q mua thường gắn liền với kháng cự và quá bán bao giờ cũng gắn liền với hỗ trợ và bởi
vậy các chỉ số kỹ thuật gần như dịch chuyển tương tự đồ thị giá và nó giúp để hiểu ám ảnh tâm lý. Do vậy,
theo tôi bạn đừng xa đà vào việc tìm hiểu nhiều chỉ số kỹ thuật, chỉ cần hiểu 1-2 chỉ số dễ hiểu nhất, dần

dần tạo ra nguyên tắc sử dụng cho bạn.
Nhưng cả mẫu hình kỹ thuật cũng như chỉ số kỹ thuật nói chung mới chỉ thể hiện sự ám ảnh tâm lý, bạn
cần nhìn vào khối lượng giao dịch bởi vì khối lượng thể hiện hành vi. Tại những điểm ám ảnh tâm lý quan
trọng, khối lượng giao dịch lớn bao giờ cũng là biểu hiện của việc “tâm lý chuyển thành hành động”.
Không gì có thế giấu được qua khối lượng giao dịch, tất nhiên trừ khi các giao dịch ảo (trao tay) được sử


dụng để giả tạo hành vi. Tuy nhiên, với những cổ phiếu phổ biến và diện rộng cả thị trường, việc giả tạo
hành vi là khó.
Sử dụng
Để minh họa cho quan điểm về việc bạn chỉ nên hiểu những gì đơn giản nhất thay vì xa đà vào học quá
nhiều về phân tích kỹ thuật chuyên sâu, bạn sẽ thấy rằng chu kỳ thị trường (Bài 2) khi kết hợp với luân
chuyển dòng tiền (Bài 3) và tâm lý thị trường (Bài 1) thường sẽ tạo ra những gì giống như lý thuyết sóng
Elliot (5 bước khi tăng, và 3 bước giảm). Nó thực chất chỉ là 3 lớp cổ phiếu thay phiên nhau kéo dòng tiền
trong một chu kỳ tăng và sau đó là sự phản ứng do tâm lý níu kéo tạo ra. Lúc níu kéo này người ta cũng
hay dùng các cụm từ như “tăng giả - bulltrap” là vì tâm lý chưa chấp nhận của nhưng người nghĩ khác
hành vi chung của thị trường. Hay các mẫu hình hai đỉnh, hai đáy … thực tế chỉ là sự cân nhắc tại đỉnh và
đáy dựa trên kháng cự và hỗ trợ. Hoặc các mẫu hình như lá cờ bay hay phễu hay gì gì đó… thực chất chỉ
là phản ánh kháng cự/hỗ trợ và sự ám ảnh tâm lý.
Với quan điểm tổng thể như vậy, tôi tin rằng phân tích kỹ thuật nếu dùng tốt, tạo ra được nguyên tắc, sẽ
giúp bạn nhận diện thời điểm vào ra thị trường. Nhưng tôi không khuyên bạn chỉ dùng phân tích kỹ thuật
mà quên đi cơ bản, bởi phân tích cơ bản giống như một sự bảo hiểm cho nhận định sai của bạn vậy. Và
trên hết, khi bạn đã bán mà giá có tăng, hay khi bạn đã mua mà giá có giảm, đừng tiếc. Bởi nếu bạn thực
sự hiểu sự vận đồng của thị trường, chờ đợi chính là sự đầu tư.
Tơi kết thúc bài này ở đây mặc dù quả thực cịn có rất nhiều thứ có thể viết nhưng cũng khơng muốn bài
q dài bạn ngại đọc. Tơi chúc bạn chuẩn bị cho mình một tâm lý khỏe (Bài 1), một cách nhận diện chu kỳ
thị trường (Bài 2), một danh sách cổ phiếu theo từng lớp (Bài 3) và xếp hạng nó (Bài 4) và sử dụng phân
tích kỹ thuật để vào – ra (Bài 5). Như thế là bạn đã có thể tự tin để bước vào thị trường chứng khoán rồi,
đặc biệt là những người mới. Các bạn có thể chia sẻ các bài của tôi thoải mái – nhưng ghi nguồn “Quất
Mạnh Vào” nhé . Tơi mong rằng nếu có điều kiện thuận lợi tôi sẽ diễn giải trực tiếp cả 5 bài cho các bạn

quan tâm qua một buổi nói chuyện.
Bài 6: Nhận diện và vận dụng thời điểm vào – ra.
Tôi đã viết bài này từ vài ngày trước nhưng đã khơng đăng vội vì e rằng thời điểm q nhạy cảm. Tơi
khơng muốn các bài viết mang tính lý thuyết tìm hiểu tâm lý thị trường nhằm mục đích “làm giàu kiến
thức” được liên hệ với thị trường theo bất kỳ nghĩa nào. Nếu bạn muốn trở thành một người giao dịch
chứng khoán lâu dài, hãy trang bị kiến thức.
Trong giao dịch chứng khốn, đều khó khăn nhất có lẽ là nhận diện được đâu là thời điểm nên ra và nên
vào. Trong đó thời điểm nên ra cịn khó khăn, và quan trọng, hơn gấp nhiều lần thời điểm nên vào bởi nó
là quyết định mang tính chuyển “lãi tiền giấy” thành “lãi tiền thật”. Nhiều người hay mắc lỗi này. Tôi
cũng đã từng mắc lỗi này chỉ bởi vì tơi khơng tn thủ ngun tắc.
Khi nào gấu thắng thế?
Khi một thị trường tăng điểm, do sự luân chuyển 3 lớp cổ phiếu trong quá trình đi lên, thị trường thông
thường sẽ tạo ra 2 điểm nghỉ chân mà chúng ta hay gọi là điều chỉnh. Chính vì lý do này mà trong phân
tích kỹ thuật chúng ta có cái gọi là 5 bước sóng tăng Elliot. Nếu chúng ta quan sát thấy các lớp cổ phiếu
thực sự đã thay đổi mà thị trường gần như không có sự điều chỉnh nào, hoặc rất nhẹ, cần phải hiểu rằng
bên mua (phía bị) đã thể hiện hết mọi sức mạnh của họ một cách khơng ngừng nghỉ. Nói cách khác họ đã
tấn công liên tục và sử dụng hết mọi nguồn lực mà họ có cho đến khi nó khơng thể.
Nguồn lực mà phía bị có chính là thông tin và tiền. Tiền bao giờ cũng bao gồm tiền mới và tiền vay
(margin). Những người nắm giữ cổ phiếu và “mong” thị trường lên khơng bao giị là bò cả - họ thực ra
đang là những con gấu chờ ra địn. Khi các thơng tin khơng cịn mới, hoặc bị lặp đi lặp lại, nó thực chất
khơng cịn là vũ khí nữa. Khi tiền hết, khối lượng giao dịch khơng thể tăng, bởi vì đặc trưng của một giai
đoạn tăng giá luôn là giá tăng cùng với giá trị giao dịch tăng nhẹ dần lên. Việc sử dụng tiền vay làm cho
giá tăng nhanh và mạnh bởi vậy nếu giá bỗng nhiên chững lại một thời gian, nó thường là dấu hiệu rằng


khả năng vay đã hết. Điều này cần đặc biệt chú ý khi các thông tin về việc nới hay cấp thêm margin cho
khách hàng được thơng báo. Nó thường là dấu hiệu của việc hạn mức đã đến giới hạn và rất dễ dàng tạo ra
bẫy tăng (bulltrap) cho những người mới.
Tại những vùng giá cao như vậy với những đặc điểm trên, chúng ta ban đầu thường sẽ chứng kiến giá dao
động lên xuống, giá trị giao dịch vẫn ở mức cao nhưng không tăng dần thêm. Hai phía bị và gấu khá cân

băng. Vùng giá cao khơng nhất thiết phải là một ngưỡng kháng cự, nhưng nếu là ngưỡng kháng cự thì tâm
lý càng mạnh. Dần dần, do phía bị đã cạn kiệt nguồn lực, phía gấu sẽ dần chiếm ưu thế do sức ép chốt lời
và sức ép giảm margin. Đáng chú ý là sức ép margin lại thường tập trung vào các mã vốn hóa lớn, tạo ra
sức ép giảm chỉ số, càng làm cho tâm lý thị trường trở nên tiêu cực hơn. Bởi vậy, bao giờ cũng tồn tại ít
nhất một phiên chạy toán loạn làm mọi người ngơ ngác.
Nhưng cuộc chiến tâm lý không kết thúc đơn giản như vậy. Cả hai phía đều có xu hướng chờ đợi nhưng
kết cục chủ yếu phụ thuộc vào nguồn lực của phía bị đến đâu. Cịn nguồn lực của phía gấu là lượng cố
phiếu đang lãi “trên giấy” đủ để họ có thể chạy bất kỳ lúc nào. Khi các thông tin vĩ mô khơng có gì mới
hơn là những gì đã biết, hai câu hỏi quan trọng mà phía bị muốn có câu trả lời tích cực sẽ là “Dịng tiền
bán ra do chốt lời có quay lại ngay với thị trường khơng hay nghỉ ngơi? Dịng tiền margin có quay trở lại
khơng?” cịn đường nhiên phía gấu sẽ có câu trả lời tiêu cực. Nếu giá trị giao dịch cứ giảm dần, mỗi bên
có thể thắng một vài trận đánh, nhưng cuộc chiến cuối cùng thường sẽ nghiêng về bên gấu.
Vậy, khi nào thì gấu sẽ thua?
Khơng nên lấy điểm số làm mốc mặc dù như đã nói ở trên, giống như các ngưỡng kháng cự, các mức hỗ
trợ có thể có sức mạnh tâm lý khi thị trường giảm. Điều thị trường cần bao giờ cũng là tâm lý và nguồn
lực. Cả hai điều này đều cần thời gian và bởi vậy thời gian quan trọng hơn điểm số. Nếu tâm lý cân bằng
(theo cách nói của tơi là dùng lý trí để suy xét chứ khơng phải tham lam hay sợ hãi – xem Bài 1) thì điểm
số chỉ là hệ quả.
Chúng ta lặp lại cách phân tích tâm lý và hành vi của q trình nêu trên sẽ có câu trả lời cho việc khi nào
bò sẽ lại thắng thế. Tôi muốn để cái này cho các bạn tự suy nghĩ và tìm câu trả lời có lẽ sẽ tốt hơn nếu bạn
có suy nghĩ giống tơi ở những phân tích bên trên. Q trình thị trường đi xuống bao giờ cũng bắt đầu từ
từ, giống như lúc nó đi lên trong nghi ngờ. Quá trình đi xuống bao giờ cũng gắn liền với khối lượng giao
dịch giảm dần do phía gấu bán ra mà phía bị chống chọi yếu hơn, khơng hẳn là vì họ khơng có tiền, mà
cịn bởi vì họ chưa thấy hấp dẫn. Phía gấu sẽ cạn kiện nguồn lực khi khoảng lãi “trên giấy” bé dần, hoặc
những người lỗ quyết định rời cuộc chơi (cũng giống như những người chốt lãi rời cuộc chơi vậy). Cho
đến khi khối lượng giao dịch thấp và dường như khơng giảm nữa, thậm chí tăng lên nhẹ, thì đó rất có thể
là lúc phía bị dần dần chiếm ưu thế trở lại.
Điều cuối cùng của bài viết mà tôi muốn chia sẻ là tất cả các thị trường chứng khoán trên thế giới trong
dài hạn đều đi lên. Tâm lý con người ai cũng muốn kiếm lãi nhanh, giá trị thời gian của tiền, nhưng cũng
sẽ có rất nhiều người chuyển sang đầu tư dài hạn và bỏ đấy và đó cũng là lý do làm thị trường khi xuống

thường chậm rãi chứ không hối hả như khi thị trường đi lên. Nhưng nếu bạn sử dụng tiền vay thì câu nói
của John M Keynes – một nhà kinh tế mà chắc bạn nào học kinh tế đều biết – nên ln là bài học nằm
lịng mà tơi tạm dịch nơm na là: “Thị trường có thể vơ lý lâu hơn bạn có thể chịu đựng được khoản vay”.
Tôi chủ động bỏ phần cuối là “vận dụng để vào – ra” để tránh những hiểu lầm không đáng có về mục tiêu
“làm giàu kiến thức”.
Bài 7: Đón nhận và xử lý thông tin
Là một nhà đầu tư, thực ra chủ yếu là giao dịch, chứng khoán, bạn cần phải quen sống trong một thế giới
thông tin tốt xấu và thật giả lẫn lộn. Các lý thuyết kinh tế về thông tin không cân xứng cho rằng việc thiếu
thông tin là nguyên nhân chủ yếu của việc ra quyết định sai. Việc quá nhiều thông tin tồn tại làm nhiều
người nghi ngờ điều này. Nhưng sự thật là chúng ta thiếu thông tin trọng yếu mà thường bị phân tán bởi
thông tin nhiễu. Tất cả là do bộ vi xử lý – cái đầu của bạn. Việc phân biệt thông tin nhiễu với thông tin


trọng yếu là quan trọng. Nói cách khác, trước khi đến bước ra quyết định, bạn cần phải tỉnh táo để nhận
biết đâu là tin nhiễu, đâu là tin đáng tin cậy.
4 nhóm tin
Có nhiều nguồn tin khác nhau, nhưng 4 nhóm tin sau thường là phổ biến: thơng tin báo chí, bình luận
chun gia kinh tế, bình luận của cơng ty chứng khốn và thơng tin rị rỉ trên các diễn đàn hoặc truyền tai
nhau. Chúng ta thường có một sai lầm phổ biến là lướt qua tiêu đề và chọn đọc thơng tin củng cố suy nghĩ
của mình, hoặc nếu có đọc hết thì thường tin nhiều hơn vào những thơng tin giống mình nghĩ. Đó là một
dạng hành vi mà các lý thuyết về tài chính hành vi đều đã chỉ ra. Vậy, làm thể nào để vượt qua để vượt
qua?
Báo chí
Bạn sẽ để ý rằng thơng tin báo chí thường là mang tính đưa tin. Đó thường là những thông tin đáng đọc
nếu bạn là một người hiểu về các lý thuyết kinh tế tài chính. Bởi vậy, khác với nhiều người nghĩ lý thuyết
sách vở là khơng hữu ích trong đầu tư, tơi cho rằng hiểu một chút về các lý thuyết kinh tế tai chính sẽ giúp
bạn xử lý nó.
Chun gia
Nhóm thơng tin đến từ các chuyên gia kinh tế công khai trên truyền thông thường là những thông tin đã
được xử lý qua bộ não của họ.Tất nhiên bộ não mỗi người khác nhau, nhưng ít nhất nó giúp bạn hình dung

thơng tin báo chí mà bạn đọc được đã được xử lý thế nào. Điều quan trọng lúc này là bạn cần phải đọc và
hiểu các lập luận của họ, thay vì những phát biểu mang tính khẩu hiệu. Lập luận của họ mới là thứ thông
tin trọng yếu bạn cần.
CTCK
Trong khi nhóm thơng tin số 2 thường khách quan, bởi ít nhất họ khơng có lợi ích cụ thể nào được nhìn
thấy – thậm chí họ cịn phải rất cân nhắc sử dụng câu chữ khi xuất hiện, thì nhóm thơng tin thứ 3 – các
cơng ty chứng khốn – lại thường khơng thể khách quan, hoặc nhìn nhận chung của thị trường sẽ là như
vậy, mặc dù họ cố tỏ ra như vậy. Điều này là vì các cơng ty chứng khốn thường có lợi nhất khi thị trường
giao dịch sơi động và họ có thể phát huy dịch vụ tài chính, khơng nhất thiết phải là thị trường tăng, nhưng
thực tế Việt nam thì thường chỉ sơi động khi thị trường tăng. Bởi vậy, thông tin đến từ các cơng ty chứng
khốn thường sẽ có xu hướng tốt hơn điều họ thực sự nghĩ. Các khuyến cáo công khai của họ về cổ phiếu
cụ thể thường mang tính an tồn. Nhưng họ cũng rất có ích nếu bạn sử dụng các báo cáo phân tích cổ
phiếu của họ để lấy thông tin và xếp hạng cổ phiếu (Bài 3) thay vì chỉ nhìn vào định giá.
Xã hội
Điều thú vị nằm ở nhóm thơng tin cuối cùng - diễn đàn, mạng xã hội hoặc rỉ tai nhau – những thông tin
khơng chính thống nhưng lại thường là nhóm thơng tin có tác động mạnh nhất tới suy nghĩ của bạn bởi nó
là tâm lý đám đơng. Cá nhân tơi thích sự tồn tại của nhóm thơng tin này bởi nó tạo ra một thế giới thực ảo
– nghĩa là nếu bạn hiểu rõ về tâm lý và hành vi, bạn sẽ thấy nó trở nên rất thú vị và giúp bạn ra quyết định
rất nhiều.
Khi đọc thông tin hay tham gia vào diễn đàn, nên ghi nhớ rằng mục tiêu là để nạp thơng tin thay vì tin.
Nhưng bạn chỉ nên tham gia hoặc tìm những nhóm tin này nếu bạn đã có một ngun tắc giao dịch cho
riêng mình (khóa học miễn phí tơi đang triển khai là để giúp bạn điều này). Trong mỗi con người, tâm lý
cảm xúc đều đến từ chính mình và đến từ đám đông. Tâm lý đám đông là thứ dễ làm chúng ta rơi vào
trạng thái lo sợ hoặc tham lam nhiều nhất và điều này thường dẫn tới từ bỏ nguyên tắc. Bởi vậy, nếu bạn
chưa có ngun tắc thì rủi ro càng lớn, nguy cơ bạn trở thành thỏ càng cao.
Mọi thơng tin đưa ra đề có mục đích. Nhưng nó khơng vơ nghĩa, thậm chí rất ý nghĩa nếu bạn hiểu tâm lý
hành vi. Có hai loại tin trong nhóm này là nhận định thị trường và phím hàng. Đối với nhận định thị
trường, khi những người phân tích và nhận định rằng thị trường sẽ tăng, thường điều đó đã hàm ý họ đang
giữ cổ phiếu rồi. Đặc biệt, nếu họ chẳng may tiết lộ rằng họ đang full cổ phiếu – đó là lúc tơi thấy lo ngại



bởi thực ra là họ “mong muốn” thị trường tăng điểm. Nói khác đi, nếu là một con gấu thì tơi sợ người có
tiền chứ khơng sợ người có cổ phiếu bởi vì họ thực ra là giống tơi bởi vì họ đang chờ bán. Giữa việc có cổ
phiếu với việc cầm tiền mà đứng ngồi thì thực ra khơng khác gì nhau trong việc giúp thị trường đi lên,
bởi họ đều là gấu cả. Do vậy, nếu tinh ý thì đây chính là nguồn tin cực kỳ quan trọng cho bạn để hiểu thị
trường.
Ngược lại khi mà ai đó nhận định rằng thị trường sẽ xuống và nói rằng họ đang cầm tiền, tơi lại khơng
thấy sợ bởi vì họ thực ra khơng có khả năng làm thị trường giảm thêm nữa. Tơi sợ người có cổ phiếu hơn.
Và tất nhiên, người có cổ phiếu thì muốn giá tăng. Bởi vậy, người có tiền nếu muốn thị trường xuống thực
ra là để lôi kéo người khác bán để họ mua giá rẻ hơn.
Đối với loại tin phím hàng, nói sang hơn là khi có ai đó giới thiệu cho bạn một cơ hội đầu tư, cần hiểu
rằng họ muốn bạn đi theo họ. Những hãy đón nhận nó một cách khách quan, như một thông tin và dùng
kiến thức của mình để phân tích. Nó có thể khơng phải là cơ hội lúc này, nhưng nhất định một lúc nào đó
nó sẽ là cơ hội – đơn giản bởi nó là cổ phiếu có lẽ được dịng tiền quan tâm. Tơi thường đọc và thầm cám
ơn những người đó bởi họ ít nhất giúp tơi có một cổ phiếu để xem thay vì mất cơng tìm kiếm trong cả
nghìn công ty. Nhưng chỉ vậy thôi. Việc quyết định là do chính mình.
Thế giới vốn khơng cơng bằng và bạn cần phải hiểu người khác để tồn tại. Cuộc dạo chơi của dịng tiền
ln thú vị nếu bạn hiểu những nguyên lý cơ bản của tâm lý hành vi. Thị trường luôn thay đổi, nguyên
nhân tăng giảm thay đổi, nhưng tâm lý hành vi là thứ thật khó thay đổi. Bao lâu nay vẫn vậy.
Bài 8: Lựa chọn nguyên tắc đầu tư
Bài này có hơi hướng lý thuyết, phù hợp cho các bạn mới, bắt đầu quan tâm, hoặc chưa hình thành cho
mình một cách đầu tư nào. Nên hiểu bài này như một gợi ý để bạn xây dựng cho mình một cách tiếp cận
riêng và gắn bó với nó lâu dài.
Hai cách tiếp cận
Phần lớn các sách giáo khoa và các em sinh viên khi đi học về đầu tư chứng khốn đều được dạy theo
hướng đi tìm các cơng ty có giá trị cao hơn thị giá hiện tại. Đây là cách tiếp cận cơ bản và đúng một cách
nhân văn, bởi đầu tư có nghĩa là chúng ta phải bỏ cơng sức để tìm kiếm chứ không phải đặt cược vào 3 ký
tự của mã chứng khốn.
Tuy nhiên, có một thực tế là chúng ta sẽ không bao giờ biết được giá trị của một công ty, hoặc giá trị đó bị
thay đổi theo thời điểm tùy vào cảm xúc của chúng ta với thị trường (Bài 3). Điều này dẫn tới một quan

điểm khác cho rằng cổ phiếu có giá trị là cổ phiếu lên giá. Và một lần nữa, điều này lại đúng một cách phũ
phàng bởi không phải cố phiếu lên giá nào cũng có nền tảng tốt.
Nhiều người khác khơng cần quan tâm tới hai cách tiếp cận trên cho rằng giá trị của một cổ phiếu phản
ánh bởi quan hệ cung cầu. Điều này tất nhiên đúng bởi bản thân cung cầu đã bao hàm sự cân nhắc về giá
trị và sự tăng giá rồi. Nhưng cung cầu trong đầu tư chứng khốn khơng hồn tồn giống như cung cầu mà
các em sinh viên được học ở trường là “giá càng rẻ cầu càng cao, cung càng thấp”.
Điều đó chỉ đúng cho hàng hóa có giá trị sử dụng và người tiêu dùng cuối cùng. Cịn với chứng khốn,
cung cầu ở đây là cung cầu của người đi buôn “mua thấp để bán cao”, hoặc “bán cao để mua lại thấp”.
Điều này giải thích cho việc tại sao khi cổ phiếu giảm giá người ta sợ không mua thêm, nhưng khi cổ
phiếu tăng giá thì người ta lại đua để mua.
Nhưng nếu tinh ý, bạn sẽ thấy rằng những người đầu tư giá trị, nắm giữ lâu dài, thì có thể hiểu giá trị sử
dụng của họ là cổ tức. Họ có cách làm rất khác. Khi giá cổ phiếu tăng tới một mức nào đó quá giá trị theo
định giá của họ (việc tìm giá trị là khó, bởi vậy nhiều người dùng khái niệm giá cả xoay quanh giá trị nên
họ cho rằng giá trung bình là giá trị động, ví dụ trung bình 3 hoặc 5 năm của chỉ số có thể coi là vùng giá
trị hợp lý của thị trường như trong bài giảng) họ lặng lẽ bán dần ra, và khi giá giảm (về vùng trung bình
cho đến thấp hơn), họ lại âm thầm mua vào. Hành vi của họ không phải là ngược thị trường, mà đơn giản
mục tiêu của họ là thực hiện việc “trung bình giá” danh mục theo giá có lợi nhất, chứ khơng hồn tồn vì


mục tiêu mua đáy bán đỉnh. Họ thường không mua bán thường xuyên và không quan tâm tới bán đúng
đỉnh và mua đúng đáy.
Cịn với những người bn 3 ký tự chứng khoán, điều quan trọng với họ là giá phải tăng mạnh và mua
được đúng đáy và bán đúng đỉnh bởi mục tiêu của họ là tối đa hóa lãi vốn. Điều này vơ cùng khó. Họ
thường có xu hướng mua bán thường xuyên và bị chi phối cảm xúc khi hành động bởi sự lên xuống hàng
ngày của thị trường. Sự thật là phần lớn chúng ta trong nhóm này.
Sai lầm thường thấy
Trong khi hai cách tiếp cận trên khơng hề sai thì nhiều người lại hay bị lẫn lộn giữa hai cách tiếp cận dẫn
tới hành động sai lầm. Sai lầm thường thấy là họ lựa chọn cổ phiếu theo giá trị nhưng lại muốn nó tăng giá
như một cổ phiếu đầu cơ 3 ký tự và khi giá khơng tăng bằng cổ phiếu đó, người ta vội bán đi để chuyển
sang loại cổ phiếu 3 ký tự với tâm lý kiếm lời tối đa trên vốn. Điều này có nghĩa là họ bỏ qua nguyên tắc

của chính họ - đầu tư giá trị theo cách chọn – để chạy theo cổ phiếu đầu cơ theo sóng 3 ký tự và thường là
họ sẽ nhảy vào đúng lúc nó tăng nhiều nhất – nơm na là đỉnh. Nói cách khác, bạn muốn trở thành những
người như Warren Buffet và đọc sách, chọn cổ phiếu theo cách của ông ấy, nhưng bạn lại không hành
động như vậy.
Sai lầm phổ biến khác là việc nhiều người chủ động chọn cổ phiếu 3 ký tự để đầu cơ nhưng khi cổ phiếu
giảm thì họ lại thực hiện trung bình giá theo cách của người đầu tư giá trị với suy nghĩ rằng nếu nó giảm
q thì khơng bán để đầu tư dài hạn, lâu dài. Điều này thường có kết cục không tốt bởi cổ phiếu 3 ký tự
khác với cổ phiếu giá trị nếu giữ lâu dài. Nói cách khác, bạn là nhà cơ cổ phiếu nhưng bạn lại hy vọng trở
thành giống như Warren Buffet.
Bài học
Sự khác nhau về hành động giữa đầu tư giá trị và đầu cơ là ở chỗ một bên cần sự điềm tĩnh và lâu dài cịn
một bên cần sự dứt khốt và nhanh. Nếu bạn hoán đổi điều này, bạn sẽ sai. Vậy, bài học rút ra là bạn cần
phải có nguyên tắc và kiên định với lựa chọn của mình. Việc nhầm lẫn giữa cách tiếp cận và hành động,
nói cách khác là thay đổi nguyên tắc ban đầu, đôi khi có thể giúp bạn thành cơng về tiền bạc một lúc nào
đó, nhưng nó khơng giúp bạn trở thành một nhà đầu tư hay đầu cơ thực thụ.
· Nếu bạn lựa chọn cổ phiếu giá trị, hãy yên tâm rằng về dài hạn nó sẽ ổn. Nếu chẳng may bạn mua giá
cao, “giá trị” giống như một sự bảo hiểm cho bạn vậy. Bạn cần chọn và lập cho mình một danh sách cổ
phiếu theo “3 nhóm ngành” để tận dụng tốt sự phân lớp của cổ phiếu trong các giai đoạn phát triển của thị
trường.
· Nếu bạn lựa chọn cổ phiếu theo xu hướng dòng tiền đầu cơ, hãy nhớ rằng chỉ nên nghĩ đó là cơ hội. Theo
hướng này, bạn cần chọn và lập cho mình một danh sách cổ phiếu theo “3 nhóm rủi ro” để sẵn sàng cho sự
luân chuyển dòng tiền tùy vào giai đoạn của thị trường.
· Và quan trọng nhất, bạn hoàn toàn có thể làm cả hai, tức là có trong tay hai nhóm cổ phiếu nêu trên
nhưng bạn khơng được nhầm lẫn về cách hành xử giữa hai nhóm này. Hành xử khác nhau cho hai nhóm
cổ phiếu khác nhau là quan trọng. Đây thực chất cũng là một cách “đa dạng hóa” trong nguyên lý quan trị
rủi ro danh mục đầu tư.
Những điều nêu trên tơi đã trình bày trong bài giảng tuần vưa rồi, nhưng hy vọng rằng bài viết này nói
được kỹ hơn những gì tơi muốn truyền tải.
Quất Mạnh Vào- TẢN MẠN
Một trong những vấn đề hóc búa nhất của TTCK là đi giải mã đám đông nghĩ gì thay vì bạn nghĩ gì bởi

"xu hướng tăng hay giảm giá được quyết định bởi đám đông chứ không phải bạn". Và một trong những
câu hỏi đau đầu nhất mà những người ra quyết định gặp phải là "liệu người khác có hành động giống như
họ nói hay không".


Vì lý do nêu trên, phục vụ cho việc lấy dữ liệu giảng dạy, và có thể cũng là giúp chính bạn có thơng tin về
việc thị trường nghĩ gì, tôi dự kiến theo dõi tâm lý đám đông hàng tuần thông qua hai câu hỏi đơn giản: kỳ
vọng cổ phiếu nào tăng/giảm theo link dưới đây. Bên cạnh đó, tôi cũng đưa ra hai câu hỏi về cổ phiếu sạch
(có thể hiểu là cổ phiếu tốt) và tiêu chí lựa chọn. Do chức năng "Poll" chỉ có với Group nên tơi tạo nhanh
một nhóm public với nick name "Quất Mạnh Vào" cho dễ nhớ
Để thuận tiện theo dõi, tại cùng một thời điểm chí có 4 Polls, trong đó có 2 câu hỏi về cổ phiếu
SẠCH/TIÊU CHÍ khơng giới hạn thời gian và 2 câu hỏi về cổ phiếu TĂNG/GIẢM sẽ được làm mới lại
hàng tuần. Theo nguyên lý "trò chơi của cáo và thỏ", SẠCH/BẢN sẽ ảnh hưởng tới việc bạn sẽ ra sao nếu
là con thỏ cuối cùng cịn TĂNG/GIẢM sẽ giúp bạn hiểu về đám đơng cáo và thỏ đang nghĩ gì.
Dù bạn là ai, đầu tư, đầu cơ, cáo hay thỏ, chỉ cần bạn có quan tâm thị trường thì tơi mời bạn tham gia.
Cách để cảm ơn các bạn sẽ là nếu nhận được nhiều tham gia các Poll hàng tuần, tơi sẽ có những bình luận
về các cổ phiếu được đề cập nhiều nhất theo một cách vui nhất của trò chơi cáo và thỏ. Vui lòng giúp chia
sẻ tin này đến với những ai quan tâm nữa
Và tất nhiên nếu khi không có ai quan tâm nữa tơi sẽ dừng
việc này
Cám ơn các bạn.
Bài 9: Hiểu và hành động khi thị trường sideways (không rõ xu hướng)
Bài này tổng kết lại những ý chính đề cập về thị trường sideways đã trình bày trong
4 bài giảng để các bạn tiện theo dõi. Tôi viết để chuẩn bị cho một chu kỳ mới, nhưng
trước hết bạn phải trả lời câu hỏi là chu kỳ cũ đã kết thúc chưa. Các bài viết của tôi
nhằm giúp bạn hiểu các giai đoạn phát triển của thị trường trong chuỗi bài về chủ
đề hiểu thị trường. Do vậy, tôi thường chọn chủ đề phù hợp với bối cảnh thị trường
để viết trước nhưng không nên hiểu rằng tôi nhận xét thị trường tại thời điểm viết.
Đây hồn tồn là các mơ hình lý thuyết về sự vận động của thị trường.
Câu hỏi lớn nhất mà những nhà giao dịch cổ phiếu thường gặp là sau mỗi chu kỳ

tăng giảm, thì thị trường sẽ biến động như thế nào. Câu trả lời là thường là sideways.
Về tâm lý, sideways giống như một quá trình tĩnh tâm và đó là lý do chúng ta hay
nói rằng “cần thời gian”. Chúng ta có thể hay dùng các cụm tự như giai đoạn củng
cố hoặc giai đoạn tích lỹ nhưng về bản chất thì nó đều phản ánh q trình sideways.
Nhưng khi nói sideways, người ta hàm ý một quá trình dài thay vì một đoạn ngắn.
Vậy sideways có thể xảy ra khi nào?
Ôn lại lý thuyết chu kỳ
Để trả lời, chúng ta ơn lại một chút những gì đã biết trong bài phân tích sự vận động
của chu kỳ kinh tế, thị trường và tâm lý (Bài 2) và qua bài giảng 1,2. Chúng ta nhận
thấy rằng chu kỳ thị trường chứng khoán đi trước chu kỳ kinh tế, và bởi vậy, khơng
có gì ngạc nhiên nếu thị trường tăng và giảm sớm hơn so với chu kỳ của nền kinh tế.
Sự luận chuyển của 3 lớp cổ phiếu, chủ yếu là lớp rủi ro trong điều kiện thị trường
Việt nam được đặc trưng bởi trò chơi của dòng tiền, sẽ dẫn tới thị trường khi tăng
thường có 3 đoạn, giống như cách người ta hay nói với mơ hình sóng Elliot. Nhưng
cần lưu ý, nếu dịng tiền là q mạnh thì thường chúng ta khó nhận biết được sự tạm
dừng (hay điều chỉnh) mà cần nhìn vào biến động của 3 lớp cổ phiếu. Khi tất cả các
cổ phiếu đều chạy, kể cả những cổ phiếu trà đá bỗng nhiên tăng trở lại, chúng ta
cần hiểu rằng quá trình tăng điểm (của chu kỳ đó) bước vào giai đoạn kết thúc. Lúc
này 3 hỏi là quan trọng: Tin gì mới khơng? Giá trị giao dịch cịn tăng khơng? Tiền vay
đã ở mức nào.
Khi tất cả các câu trả lời đều là tiêu cực, thị trường sẽ giảm. Khi giảm, ở nhịp cảnh
báo đầu tiên gần như bao giờ cũng xuất hiện một cú bẫy tăng do lúc đó niềm tin vẫn


cịn lớn và tâm lý mua lại ln thường trực (tâm lý đi sau thị trường). Nhưng nhịp
giảm sau đó mới là quan trọng, bởi nó là ngược của nhịp tăng số 2 – nhịp khỏe nhất
bởi nó được kích thích bởi hoạt động vay mua. Tại nhịp này, tất cả các cổ phiếu đều
bị bán (giống như tất cả các cổ phiếu đều được mua lúc tăng vậy) nhưng càng về
cuối nhịp, sự luân chuyển cổ phiếu lại bắt đầu với việc các cổ phiếu an toàn, giá trị
lại bắt đầu được mua dần vào, còn các cổ phiếu rủi rỏ, rủi ro cao thì chưa, thậm chí

vẫn bị bán. Nhịp giảm mạnh này cũng đồng nghĩa với việc chỉ số thị trường được đưa
về mức hợp lý. Nhưng hãy chú ý đừng để điểm số thị trường đánh lừa khi mà chỉ số
thì giảm quá nhanh nhưng thực chất thì từng cổ phiếu chỉ giảm tương đương với một
vài phiên. Chính vì điều này, nên phần lớn lựa chọn mua ở cuối nhịp giảm này tập
trung vào cổ phiếu an toàn – những cổ phiếu thực tế đã bị bán chốt lãi từ trước rồi vì
nó được mua sớm ở q trình đi lên trước đó, và điều này vơ tình tác động mạnh hơn
đến chỉ số. Chính ở lúc này, thị trường sẽ tạo ra nhịp tăng ngắn hạn, tương tự như
điểm dừng trong lúc xuống hoặc lên do luân chuyển cổ phiếu. Khả năng bẫy tăng lúc
này là có, nhưng xét về xác xuất thì nó thấp hơn nhiều so với bẫy tăng trước đó. Khả
năng tốt nhất là sẽ tạo sideways ở quanh khu vực giá trị hợp lý.
Tuy nhiên, thơng thường thì nó cần 3 nhịp giảm giống như lúc nó đi lên. Nhưng vì
nhịp giảm thứ 3 thường khơng tạo ra sụt giảm điểm số mạnh (so với đáy của nhịp 2)
do lúc này quá trình luân chuyển cổ phiếu bắt đầu khởi động lại nhưng yếu với dòng
tiền giảm dần, mà là kéo dài về mặt thời gian nên hầu hết các lý thuyết đều đánh
đồng và gọi quá trình này với quá trình sideways. Điều này là do tâm ly bi quan sẽ
đẩy chỉ số xuống dưới mức giá hợp lý (lưu ý là chúng ta đang nói hợp lý của chỉ số
thị trường chứ không phải từng cổ phiếu), cũng giống như khi lạc quan nó bị đẩy lên
cao quá vậy.
Chu kỳ cũ kết thúc, chu kỳ mới bắt đầu?
Về mặt lý thuyết chu kỳ và luân chuyển cổ phiếu, cả hai tình huống (mà trong bài
giảng 1,2 chúng ta đã nhận diện cơ hội là 50:50) đều hướng tới thị trường
sideyways. Nhưng trước khi hành động như trong thị trường sideways, chúng ta
trước hết cần nhận diện khi nào thì quá trình giảm kế thúc. Trong điều kiện thị
trường đang vận động theo đúng chu kỳ và khơng có gì đột biến, hãy nhớ rằng
một thị trường giảm chỉ dừng lại khi mà nguyên tắc sau bị phá vỡ: đỉnh sau
thấp hơn đỉnh trước, đáy sau thấp hơn đấy trước (bài giảng số 4, hơm qua).
Bất cứ cái gì làm cho ngun tắc này sai, thì q trình đó mới được coi là kết thúc và
khi đó chúng ta cần nhìn nhận đó là một sự chuyển biến sang một chu kỳ mới, tức là
chu kỳ mà việc tăng/giảm khá đều nhau gọi là sideways.
Như vậy, sideways là một chu kỳ mới hồn tồn và nó cũng sẽ biến động tương tự

như bất kỳ chu kỳ thị trường nào. Nó có thể là sideways theo chiều hướng tăng dần
lên nếu kinh tế ở trạng thái tốt, hoặc ngược lại. Nhưng vì đặc trưng của chu kỳ này là
chu kỳ tĩnh tâm và cần thời gian, đặc biệt là khi thị trường vừa trải qua một chu kỳ
tăng mạnh – chiết khấu những gì tốt nhất ở phía trước rồi, nên sự luận chuyển dòng
tiền và các lớp cổ phiếu sẽ khơng lan tỏa. Nếu dịng tiền là nguồn nước, thì nước bao
giờ cũng chảy vào chỗ trũng trước khi dâng lên những chỗ cao hơn. Dòng tiền giai
đoạn tĩnh tâm bao giờ cũng hạn chế do khơng có tin tức hỗ trợ và đặc biệt ít sử dụng
tiền vay. Và đó chính là lúc chúng ta gọi là sự phân hóa cổ phiếu và sự lựa chọn cổ
phiếu quan trọng hơn bao giờ hết, địi hỏi sự phân tích nghiêm túc.
Một khi chúng ta tin rằng đang bước vào chu kỳ thị trường sideways, những người
giao dịch kinh nghiệm đều có một lời khuyên quan trọng nhất: “thời gian”. Điều này
có nghĩa rằng, sự kiên nhẫn là quan trọng thay vì sự tham lam hoặc tiếc nuối dẫn tới


hành động vội vàng. Đây là chu kỳ được cho là khó chơi nhất vì điểm số thị trường
sẽ thay đổi lên xuống luân phiên nhưng sẽ có những cổ phiếu tăng tốt và cổ phiếu
khác thì lại giảm. Hiểu sự luân chuyển cổ phiếu và hiểu phân tích kỹ thuật trong chu
kỳ này sẽ giúp bạn ra quyết định tốt hơn.
Và cuối cùng, quan trọng nhất, như là một cách ôn tập, hãy nhớ rằng trước khi hành
động như là chúng ta đang ở chu kỳ sideways, hãy trả lời câu hỏi bôi đậm nghiêng ở
trên là chu kỳ trước đó đã kết thúc chưa.
Bài 10: Hiểu nguyên lý các mơ hình kỹ thuật
Trong bài nói về hiểu và ứng dụng phân tích kỹ thuật, tơi đã nhấn mạnh rằng hiểu
hành vi giá trong quan hệ với khối lượng là quan trọng. Mặc dù điều đó nghe đơn
giản nhưng không phải ai cũng làm được và phần lớn mọi người đều có xu hướng
“nhớ” một bức tranh thay vì “nhìn thấy” sự chuyển động tâm lý của người mua và
người bán trên một biểu đồ kỹ thuật.
Kiến thức cơ bản về giá và lượng đó thực ra khơng phải là phân tích kỹ thuật cơ bản
mà đó mới chính là phân tích kỹ thuật cao cấp theo đúng nghĩa, tất nhiên nếu bạn
hiểu nó. Tơi đã xem rất nhiều sách về phân tích kỹ thuật, bản thân cũng là một trong

những người khởi xướng các bản tin và thực hiện rất nhiều khóa học về phân tích kỹ
thuật giai đoạn 2007-2008, đủ để kết luận rằng những gì được gọi là nâng cao trong
phân tích kỹ thuật thực ra chỉ là các tình huống đặc biệt của xu thế giá và lượng.
Nếu bạn thực sự hiểu nguyên lý, mọi việc sẽ trở nên đơn giản. Và mục tiêu của tôi
luôn là làm cho mọi thứ trở thành đơn giản.
Trong phân tích kỹ thuật, các mơ hình kỹ thuật là một trong 3 nhóm kiến thức cơ bản
cần biết. Các nhóm khác là quan hệ cung cầu, giá và lượng, trong đó có kháng cự,
hỗ trợ và xu hướng, và nhóm khác là chỉ số kỹ thuật trong đó có các chỉ số trung
bình động và chỉ số thể hiện xu hướng. Các mẫu hình về khoảng trống (gap) hay
kiểu đồ thị nến là kiến thức cơ bản nằm trong nhóm 1.
Khi phân tích các mơ hình kỹ thuật, đừng để bộ não của bạn bị phân tâm bởi những
tên gọi như mơ hình hai đỉnh, hay đáy, vai đầu vai, phếu, cờ bay …những thứ đó có
thể làm cho bạn cảm thấy nó quá phức tạp (và nhiều người vì thế mà gọi là nâng
cao). Nếu bạn tinh ý, bạn sẽ thấy rằng các mơ hình kỹ thuật đều phản ánh một sự
lưỡng lự, bế tắc trong giao dịch, hay nói đúng hơn là sự ngập ngừng của cả bên mua
và bên bán.
Vì lý do đó, khoảng giá bạn nhìn thấy bao giờ cũng có hình dạng nhìn như là một dải
dao động, nó có thể là đều nhau “=” (kỹ thuật gọi là channel), nó có thể là nở hậu
“<” (phễu mở rộng) hoặc nó có thể là khép lại “>” tam giác, phễu), và nó cũng có
thể là hướng lên trên “//”, hướng xuống dưới “\\” hoặc nằm ngang “=”.
Vậy nguyên lý cần nhớ là: bất cứ cái gì cân bằng thì thường có xu hướng tiếp diễn
trừ khi nó ở cuối xu hướng, và bất kỳ cái gì hướng lên hoặc hướng xuống thì hướng đi
tiếp theo sẽ là ngược lại ngược lại. Để giải thích tại sao lại như vậy, bạn lại nên nhớ
một nguyên lý khác mà tơi đã trình bày: một xu hướng tăng là đỉnh cao cao hơn đỉnh
trước và đáy sau cao hơn đáy trước và ngược lại.
Với cách tiếp cận như vậy, bạn sẽ không cần phải nhớ tên của các mơ hình, mà chỉ
cần nhận diện được hình dạng của biến động giá. Và hãy luôn nhớ rằng khối lượng
giao dịch sẽ giúp bạn hiểu hơn những gì đang diễn ra. Mẫu hình kỹ thuật là để bạn
chú ý theo dõi vì nó đặc biệt, chứ khơng có nghĩa là bạn ngay lập tức hành động
theo nó.



Kèm với bài viết là “36 mơ hình kỹ thuật phổ biến” mà tôi tổng hợp để các bạn tham
khảo. Nhưng lời khun của tơi là khơng nên nhớ nó, mà nên nhớ nguyên lý tôi nêu ở
trên.
Chúc mừng năm mới các bạn và hy vọng một năm giao dịch thành công với tất cả!



Bài 11: Hiểu nguyên lý hoạt động các chỉ số kỹ thuật
Các chỉ số kỹ thuật là nhóm kiến thức thứ hai trong số 3 nhóm kiến thức cơ bản mà tơi đã đề cập trong các
bài trước. Có cả nghìn chỉ số kỹ thuật và hàng ngày người ta vẫn tạo ra các chỉ số kỹ thuật khác nhau. Bạn
cũng có thể tạo ra các chỉ số kỹ thuật cho riêng mình. Về cơ bản, nó là các chỉ số được tính tốn dựa trên
biến động giá cả và khối lượng.
Hai nhóm chỉ số
Vì có cả nghìn chỉ số kỹ thuật nên những người mới bắt đầu thường bị chống ngợp và có cảm giác phức
tạp bởi vì thậm chí ngay cả cái tên của nó cũng đã khó mà nhớ hết. Nhưng nếu bạn biết rằng nó thực chất
chỉ có hai nhóm chỉ số và gần như các chỉ số trong cùng nhóm thì vận động giống nhau, nên bạn chỉ cần
nghiên cứu và sử dụng thành thạo 1-2 chỉ số trong mỗi nhóm là đủ.
Hai nhóm chỉ số mà tơi đề cập bao gồm nhóm chỉ số trung bình động và nhóm chỉ số thể hiện sức mạnh
xu hướng. Để đơn giản, khi bạn sử dụng biểu đồ kỹ thuật mà hầu hết các trang tài chính tại Việt nam đều
cung cấp tiện ích này, bạn chỉ cần nhớ rằng bất cứ chỉ số nào khi bạn đưa thêm vào mà nó gắn vào cửa sổ
đồ thị giá thì đó là nhóm chỉ số trung bình động. Ví dụ thuộc nhóm này bao gồm như MA, SMA, EMA,
Bollinger Band …
Cịn các chỉ số thuộc nhóm thể hiện sức mạnh xu hướng, khi bạn thêm vào nó sẽ có một cửa sổ riêng
khơng cùng cửa số giá. Ví dụ thuộc nhóm này bao gồm RSI, CCI, Momentum, Stochastic Oscillator and
Williams %R …Một số chỉ số lưỡng tính, rất ít, như MACD nằm ở cửa số tách riêng nhưng nó có thể coi
như là nhóm chỉ số trung bình động.
Quan niệm chung là các chỉ số trung bình động thường là chậm và mang tính xác nhận diễn biến giá đã
xảy ra, trong khi các chỉ số thuộc nhóm thể hiện sức mạnh xu hướng thường là dẫn dắt và có thể dùng để

cảnh báo diễn biến giá tiếp theo. Điều này, tuy nhiên, theo tôi là không phải như vậy. Bởi vì nếu nó có thể
dẫn dắt và dự báo thì dễ quá. Tất cả các chỉ số kỹ thuật đều chậm bởi nó phản ánh cái đã qua. Nhưng nó
giúp chúng ta có thể phán đốn nếu biết kết hợp với phân tích giá và lượng để nhận diện tâm lý thị trường.
Và tất nhiên bạn nên đặt phân tích kỹ thuật trong một bối cảnh lớn của các yếu tố cơ bản nữa.
Nguyên tắc quan trọng
Một nguyên tắc quan trọng trong phân tích kỹ thuật mà bạn cần nhớ là cho đến khi mọi việc được xác
nhận, mọi hành động phải dựa trên hiện tại tiếp diễn. Ví dụ, nếu bạn nhìn thấy một mơ hình đảo chiều
hoặc một chỉ số kỹ thuật đang cho thẩy khả năng đảo chiểu và bạn đang chờ nó xác nhận thì khơng nên
vội vàng hành động trong lúc chờ mà nên hành động như đang tiếp diễn cho đến khi nó xác nhận. Và khi
nó đã xác nhận, thì cách hành xử của bạn nên là ngay lập tức bỏ qua hình ảnh cũ, khơng cố ép suy nghĩ
hay níu kéo suy nghĩ của mình vào cái cũ. Phần lớn các thay đổi quan trọng, đặc biệt xu hướng, thường có
hiện tượng kiểm tra lại – retest nên bạn cần chuẩn bị tâm lý cho điều này.
Cách dùng
Trở lại vấn đề các chỉ số kỹ thuật thì cách dùng nó như thế nào mới là điều quan trọng. Ngồi việc bạn chỉ
nên chọn 1-2 chỉ số cho mỗi nhóm bạn thực sự tin tưởng hoặc đơn giản là dễ dùng, bạn nên hình thành
cho mình một phương pháp đọc chỉ số kỹ thuật, tùy thuộc vào nhóm chỉ số.
Với nhóm chỉ số trung bình động, bạn nên coi đó giống như là các đường hỗ trợ và kháng cự động.
Phương pháp này thường được sử dụng tốt nhất trong một thị trường có xu hướng. Cịn nếu đó là một thị
trường dao động, thì việc sử dụng nó như là đường cắt lên, cắt xuống – tức là đường giá cắt đường trung
bình động, hay đường trung binh động ngắn cắt đường trung bình dài… thường được sử dụng.
Với nhóm chỉ số thể hiện sức mạnh xu hướng, có ba phương pháp dùng nó. Nhóm chỉ số này thường có
đặc điểm là có 3 đường giới hạn trên, dưới và trung bình hoặc ít nhất là nó xoay quanh một đường trung
tâm. Phương pháp đọc đơn giản nhất là nếu nó hướng lên hoặc hướng xuống thể hiện xu thế giá hiện hữu
là mạnh lên hay yếu đi. Khi nó đi vào vùng giới hạn trên thì gọi là q mua – mua nhiều q cịn khi nó đi
vào vùng giới hạn dưới thì gọi là quá bán – bán nhiều quá. Việc nó là quá mua hay quá bán không nhất


thiết có nghĩa rằng giá nó sẽ giảm hoặc tăng lại ngay, mà có ý nghĩa rằng bạn nên theo dõi chặt chẽ diễn
biến giá và lượng để cân nhắc. Cách dùng này thường là những người mới bắt đầu sử dụng phân tích kỹ
thuật hay dùng.

Phương pháp đọc thứ hai là dùng chính các kiến thức về đường hỗ trợ và kháng cự áp dụng cho chỉ số.
Nghĩa là, bạn phân tích chỉ số giống như bạn phân tích giá. Nếu nó gặp đỉnh cao trước đó, thì nó cũng có
xu hướng giảm và khi xuống ngang bằng đáy cũ trước đó thì nó có thể báo hiệu đảo chiều. Cách sử dụng
này thường được dùng cho những trường hợp tăng giảm mạnh bất ngờ của giá, nôm na gọi là bắt đáy hoặc
đoán đỉnh trong một thị trường biến động nhanh và mạnh.
Phương pháp đọc thứ ba là sử dụng kiến thức về hành vi tâm lý để lý giải. Vì các chỉ số thể hiện sức mạnh
xu hướng hiện tại nên nếu giá tăng mà sức mạnh giảm hoặc giá giảm mà sức mạnh tăng thì đó đều là dấu
hiệu của những trường hợp đảo chiều chuẩn bị xảy ra. Tất nhiên, đó chỉ là cảnh báo và bạn cần nhìn vào
giá và lượng nữa. Lưu ý rằng phương pháp đọc này thường dùng tốt nhất để quan sát diễn biến giá trong
một khoảng thời gian, nói cách khác là phù hợp với giao dịch theo xu hướng. Trong kỹ thuật người ta gọi
là phân tích sự phân kỳ giữa giá và chỉ số.
Hiểu những nguyên lý căn bản nêu trên và thực hành quan sát quá khứ sẽ giúp bạn sử dụng chỉ số kỹ thuật
tự tin hơn. Và một lần nữa tôi nhấn mạnh rằng tôi dùng từ căn bản trong bài viết này hay các bài viết khác
khơng có nghĩa là nó đơn giản, mà thực sự nó chính là những gì mọi người gọi là phân tích kỹ thuật nâng
cao nhưng tơi đã cố gắng trình bày nó theo cách đơn giản nhất có thể để các bạn tự học
Bài 12: Một số rủi ro ra quyết định
Nhiều bạn hỏi tôi về cách quản trị rủi ro trong đầu tư chứng khoán. Một cách thành thực,
ngay cả trong học thuật thì sách viết về quản trị rủi ro đối với giao dịch chứng khốn
gần như khơng có, trừ các lý thuyết về đa dạng hóa đầu tư và quản trị danh mục đầu tư
chỉ thích hợp cho nhà đầu tư tổ chức. Những điều tôi chia sẻ hôm nay dựa trên thực tiễn
kết hợp với một số lý thuyết về tâm lý hành vi hơn là quản trị rủi ro tài chính mà bạn
thường được học ở trường. Tôi viết những điều này dựa trên vô số những lần vấp ngã
bên cạnh những thành công.
Biết rủi ro là đã hạn chế rủi ro
Điều đầu tiên mà chúng ta gặp phải khi quyết định mua một cổ phiếu là chúng ta
thường chỉ nghĩ đến lợi nhuận mà bỏ qua rủi ro. Kể cả khi chúng ta có đặt ra nguyên tắc
cắt lỗ, chúng ta cũng thường bỏ qua do tâm lý mất tiền làm chúng ta đau đớn khi hiện
thực hóa nó. Thậm chí khi chúng ta muốn thực hiện việc cắt lỗ, chúng ta cũng khó thực
hiện được bởi vì chúng ta bị bẫy vào T+3. Có vơ số lý do để dẫn tới những điều này,
nhưng về cơ bản nó sai từ khi bắt đầu, chúng ta thường chỉ nhìn vào lợi nhuận mà khơng

nghĩ đến mất tiền.
Bắt đáy
Nói những điều tưởng chừng đơn giản như vậy nhưng hàm ý của nó lại cực kỳ quan
trọng. Chúng ta chỉ có thể hạn chế rủi ro nếu chúng ta biết rằng nó tồn tại. Tơi lấy ví dụ
nếu bạn nhảy vào bắt giá đang rơi với hy vọng đó là đáy, bạn cần hiểu rằng khả năng
giá giảm tiếp là rất lớn. Nếu bạn biết điều đó, bạn sẽ bình thản khi nó giảm thêm 10%
hay 20%. Bạn sẽ không cuống cuồng hỏi người này người kia xem có nên bán khơng khi
nó đã giảm 20% hoặc hơn. Bởi vì khi bạn cuống, bạn sẽ hành động sai một lần nữa là
bán đúng đáy thật. Như vậy, khi bạn quyết định bắt giá đang rơi, và bạn hiểu rằng có rủi
ro, bạn sẽ khơng tất tay với nó. Mỗi người có một cách khác nhau với việc này, nhưng
cách tiếp cận chung là chia tiền thành các phần và vào dần. Lúc này địn bẩy chưa sử
dụng.
Nhưng tơi khơng khun bạn bắt giá rơi. Tôi đã từng nhận mua cổ phiếu với thỏa thuận
2 phiên giá sàn, tức là với dự tính nó còn giảm thêm khá nhiều so với giá ngày thỏa


thuận, nhưng rồi đến ngày giao dịch, giá vẫn cứ giảm. Điều đó có nghĩa là khi dấu hiệu
chưa rõ, dù chúng ta có bảo hiểm bằng 2 phiên giảm sàn, thì rủi ro vẫn rất lớn. Tơi nhận
ra rằng khi nào các dấu hiệu giá dừng giảm trở nên rõ ràng hơn thì mới nên nghĩ đến
việc bắt đáy. Thậm chí, khi giá có dấu hiệu tăng trở lại, bạn vào chậm vài % so với việc
bắt đúng đáy cũng khơng phải là việc q tồi bởi vì khi đó bạn ít bị đau đầu bởi nỗi sợ
giá giảm hơn. Nếu bạn quy đổi nó ra là sức khỏe, là mối quạn hệ trong gia đình, thì sự
đánh đổi này thực ra là rất đáng giá.
Tất nhiên tôi đang muốn nói rằng khi bạn quyết định bắt đáy hay mua chậm hơn, bạn
đã phải dự kiến rằng việc tăng giá là đủ dài hơn T+3. Cịn nếu bạn khơng nghĩ tới điều
đó, chỉ nghĩ tới bắt đáy vì giá giảm mạnh thì đó lại là một rủi ro khác – rủi ro do yêu
bảng điện quá và bị cuốn theo nó. Bạn sẽ nói rằng nếu rời nó thì mất cơ hội. Đúng vậy.
Nhưng quan điểm của tôi là hãy rời nó khi bạn nhận thấy rằng lý do để bạn bán cổ phiếu
trước đó cịn đúng. Bạn có thể vào muộn.
Bán đỉnh

Ngược với bắt đáy là bán đỉnh. Bạn luôn mong muốn bán được ở đỉnh. Nhưng bạn sẽ
chẳng bao giờ biết đâu là đỉnh cho đến khi nó xảy ra, cũng như đáy. Tơi đã từng làm cả
hai việc là bán sớm khi tôi cảm nhận rằng mọi thứ là q nóng, và bán mn khi mọi
việc trở nên rõ ràng. Kết quả là khi bán sớm giá vẫn còn tăng dẫn tới cảm giác tiếc nuối
và mua lại để rồi lại bị bẫy. Và ở trường hơp sau thì tơi bị rơi vào trạng thái mất thanh
khoản và cổ phiếu giảm mà khơng có ai mua để bán cả.
Những lần sau tôi bán trước rồi quên bảng điện đi một thời gian, khi nhìn lại giá giảm
hơn giá tôi đã bán. Tôi nhận ra rằng nếu tôi kiên định với nguyên tắc là một khi lý do để
mua khơng cịn đúng nữa thì phải nghĩ ngay đến việc bán, tránh mọi suy nghĩ khác hoặc
bị tác động bởi nhiễu động thị trường, thì kết quả thường tốt hơn, mặc dù nếu nhìn bảng
điện sau khi bán xong cảm giác tiếc nuối xuất hiện rất mạnh. Kiềm chế được ham muốn
mua lại là quan trọng. Từ đó, bài học tơi rút ra là khi giao dịch có ngun tắc thì tỷ lệ
thành cơng tốt hơn. Và ngun tắc đó là: khi mua cổ phiếu vì lý do gì thì khi bán cũng sử
dụng lý do đó.
Nhưng khi giao dịch càng nhiều loại cổ phiếu, tôi nhận thấy rằng thực ra mỗi loại cố
phiếu có các cách giao dịch rất khác nhau. Có những cổ phiếu ra sớm là tốt, như loại
hay mất thanh khoản, nhưng cũng có loại ra chậm lại tốt hơn một chút bởi thường có
một nỗ lực đẩy giá cuối cùng. Và sớm hay chậm ở đây có một cột mốc quan trọng là
khối lượng giao dịch đột biến. Khi khối lượng giao dịch đột biến xuất hiện ở mức giá cao
sau một thời gian dài tăng giá, thường có một thời điểm trọng yếu xẩy ra ở ngày thứ 3
để bạn quan sát. Tơi nhắc lại: khơng có nghĩa là bán, mà là quan sát. Khi đó, giá thường
thấp hơn đủ để bạn mắc kẹt ở đỉnh nếu nỗ lức đẩy giá cuối cùng là yếu. Mọi người hay
nói vui gọi là kỹ thuật nhốt T+. Cịn nếu hơm đó giá vẫn tốt, bạn có thể để giá chạy
thêm nhưng lúc này mức độ sẵn sàng bán ln rất cao.
Nói ngắn gọn, một khi lý do bạn mua cổ phiếu đã thay đổi, bạn nên quyết định bán. Còn
việc bạn bán ở mức giá nào phụ thuộc rất nhiều vào khả năng phán đốn và quan sát
diễn biến giá lượng. Cịn nếu bạn không rõ, hãy sử dụng phương pháp đơn giản nhất là
chia làm 3 lần. Ít nhất việc chia làm 3 này cũng giúp giải tỏa được vấn đề tâm lý sợ sai
của bạn.
Bài 13: Một số rủi ro ra quyết định (phần tiếp của Bài 12)

Giao dịch quá nhiều
Giao dịch quá nhiều mang lại lợi nhuận thấp hơn. Nhưng tôi cũng khơng tin rằng ai đó có
thể chỉ giữ mà không mua bán khi giá tăng giảm. Mặc dù thực tế thống kê cho thấy có
nhiều loại cổ phiếu tăng tới vài chục lần trong 10 năm qua, đơn giản là do họ tính tốn


giá hiện tại so với giá trước đây, nhưng thực hành giao dịch có lẽ khơng ai làm được như
vậy. Nếu được có thể do họ qn.
Đó là vì tâm lý con người có xu hướng mua thấp bán cao, ít nhất cũng là để trung bình
giá tốt mặc dù mục tiêu vẫn là dài hạn. Nói cách khác, chúng ta phải chấp nhận một
thực tế là chúng ta có ra có vào, nhưng kiểm sốt được tần suất là quan trọng và chủ
yếu là do cách chúng ta ứng xử với thơng tin. Nếu chúng ta ngồi nhìn bảng điện thường
xuyên, la cà nhiều diễn đàn, chúng ta có xu hướng giao dịch nhiều hơn. Đó là vì khi đó
các thơng tin nhiễu làm chúng ta qn mất lý do để chúng ta mua bán.
Một lý do quạn trọng khác là chúng ta phụ thuộc và có xu hướng sử dụng tín hiệu phân
tích kỹ thuật trong giao dịch mà khơng hiểu bản chất của nó. Nếu bạn hiểu rằng phân
tích kỹ thuật được xây dựng dựa trên giao dịch nhanh, thường xuyên, trong ngày, tại các
thị trường phát triển và cho các loại tài sản không bị giới hạn bởi vấn đề T+3, bạn sẽ
thấy rằng khi ứng dụng nó vào giao dịch cổ phiếu tại Việt nam cần một sự hiểu biết
ngồi những gì sách nói. Mặc dù bạn có thể đúng khi quyết định mua, nhưng bạn cũng
có thể bị bẫy T+. Quyết định bán sai sửa dễ hơn bởi bạn có thể ứng tiền mua lại, nhưng
quyết định mua sai không sửa được.
Một số vấn đề khác
Nhiều người gặp phải vấn đề thích một cổ phiếu nào đó quá, đặc biệt khi bạn đã từng
thành cơng với nó. Bạn thường có xu hướng theo dõi các cổ phiếu này. Khi bạn nắm giữ
nó, mặc dù lý do để bạn tin rằng giá tăng đã thay đổi, bạn vẫn cố tìm cách nghĩ khác để
khơng bán nó. Ngược lại, khi giá giảm, bạn quá sớm để lao vào nó.
Nhiều người khác lại gặp phải vấn đề cổ phiếu khác tốt hơn. Nghĩa là mặc dù bạn đã có
một lý do tốt để mua cổ phiếu của bạn, nhưng khi nhìn sang các cổ phiếu khác, bạn
nhận thấy rằng các cổ phiếu đó tăng tốt hơn và bạn quyết định bán để mua cổ phiếu đó.

Nhưng khi hoán đổi như vậy, bạn thường bị chậm, đặc biệt là khi thị trường sideways.
Bạn tự đánh mất lợi thế T+ của mình, và rủi rỏ hơn, bạn đã bỏ qua nguyên tắc chọn cổ
phiếu của mình. Bạn sẽ thấy rằng rất thường xuyên bán xong thì cổ phiếu của bạn lại
tăng trong khi cổ phiếu mới mua lại giảm không kịp T+3.
Một vấn đề khác là sự nhầm lẫn giữa cổ phiếu và công ty. Bạn hãy luôn nhớ rằng bạn
kiếm được tiền nhờ cổ phiếu tăng giá chứ khơng phải do cơng ty tốt lên. Điều này có
nghĩa là mọi cơng ty đều có cơ hội nếu bạn mua được giá tốt. Một cơng ty tốt khơng có
nghĩa là cổ phiếu của nó nên mua với bất kỳ giá nào, và ngược lại. Bạn có thể thấy là
trong rất nhiều trường hợp, các cổ phiếu trà đá mới là các cổ phiếu mang lại cho bạn lợi
nhuận cao nhất. Hoặc nhiều người nghĩ rằng PE thấp là tốt trong khi thực tế nhiều người
khác lại nghĩ nếu tốt thì giá đã tăng và PE đã phải cao. Như vậy, dòng tiền cuối cùng vẫn
là yếu tố quan trọng. Tất nhiên tôi không cổ vũ các công ty trà đá, nhưng tơi muốn nói
rằng kỳ vọng lợi nhuận cao đồng nghĩa với rủi ro cao.
Một chuyện thường xảy ra ở Việt nam là khả năng dựng chuyện, đặc biệt trên các diễn
đàn hay mạng xã hội. Bạn sẽ nhận thấy rằng có những cổ phiếu được lặp đi lặp lại một
câu chuyện mà bạn nghe thì hợp lý, nhưng chẳng thể nhìn thấy gì trên báo cáo tài
chính. Những câu chuyện dàn dựng đó tận dụng một nguyên lý về bản chất tâm lý con
người là cái gì nghe lặp đi lặp lại sẽ dẫn tới sự tưởng thật. Và khi nhiều người nghĩ rằng
nó thật thì họ mua, giá cổ phiếu sẽ tăng và khi giá tăng thì nó càng làm cho mọi người
tin rằng câu chuyện dàn dựng là đúng. Những cổ phiếu như vậy thường lôi kéo bạn vào
trò chơi của cáo và thỏ. Mặc dù công ty tốt không đảm bảo rằng cổ phiếu tăng giá,
nhưng có một điều chắc chắn là một cơng ty có câu chuyện tốt thì nó phải được thể hiện
trên báo cáo tài chính.
Bài 14 - Phân tích giá lượng


(Tài liệu hỗ trợ giảng dạy, dự án “Đầu tư theo nhóm” QMV cho những người mới F0, ít
kinh nghiệm. Vui lòng ghi nguồn khi sử dụng.)
Trong bài giảng về Chủ đề số 1 của học phần 4 (P4T1) Phân tích kỹ thuật, tơi đã trình
bày về phân tích cung cầu – mọi người có thể gọi là phân tích lượng giá hay hành động

giá … tùy cách tiếp cận. Hôm nay tôi tranh thủ viết lại để bạn kết hợp với phần bài
giảng sẽ vấn đề tốt hơn. Những bạn khơng phải chun ngành kinh tế có lẽ sẽ cần thời
gian nhiều hơn để hiểu những thông tin ẩn đăng sau diễn biến giá.
Cơ bản về cung cầu
Trong kinh tế học, cung cầu là khái niệm cơ bản. Đường cung và đường cầu là khái niệm
dùng để diễn tả mối quan hệ giữa giá và lượng trong điều kiện các yếu tố khác khơng
đổi. Khi đó, giá tăng thì khối lượng hàng hóa muốn mua giảm, nhưng khối lượng hàng
hóa muốn bán tăng, và ngược lại. Nói cách khác, đường cầu thể hiện mối quan hệ tỷ lệ
nghịch giữa giá và lượng còn đường cung thể hiện mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa giá và
lượng. Về hình ảnh, trên đồ thị xy, nếu trục tung
là giá và trục hồnh
là lượng, thì
đường cầu sẽ chạy từ trái trên xuống phải dưới, còn đường cung sẽ chạy từ trái dưới tới
phải trên.
Như vậy, có thể thấy điểm cắt nhau giữa đường cung và đường cầu phản ánh mức giá
và lượng mà thị trường chấp nhận – tức là các yếu tố khác giữ nguyên không đổi. Khi
các yếu tố khác thay đổi (ví dụ: thu nhập, tâm lý …) sẽ dẫn tới cầu hoặc cung thay đổi
mà người ta hay nói chẳng hạn cầu tăng, hay cung tăng. Lúc này, chúng ta phải hiểu
cầu tăng hay cung tăng nghĩa là sự dịch chuyển cả đường cầu hay đường cung sang bên
phải để phản ánh sự thay đổi của các yếu tố khác. Giá cả thị trường và khối lượng quan
sát vì thế cũng sẽ thay đổi.
Phân tích cung cầu
Ứng dụng nguyên lý cung cầu vào phân tích lượng giá trong phân tích chứng khốn là
cần thiết. Nói cách khác, các lý thuyết về hành động giá hay phân tích giá lượng về cơ
bản là những biểu hiện cụ thể của nguyên lý kinh tế học đơn giản nêu trên.
TH1: Bạn hãy bắt đầu bằng sự tưởng tượng rằng đường cung giữ nguyên mà đường cầu
dịch chuyển sang bên phải (cầu tăng) dẫn tới điểm cắt nhau của hai đường này ở mức
cao hơn, khi đó giá tăng và lượng tăng.
TH2: Bạn lại tiếp tục tưởng tượng rằng nếu đường cung cũng dịch chuyển sang bên phải
sau khi TH1 xảy ra, khi đó bạn sẽ thấy giá tăng ít hơn nhưng lượng tăng mạnh hơn.

TH3: Bạn lại tưởng tượng rằng nếu đường cung dịch chuyển sang bên trái sau khi TH1
xảu ra, khí đó bạn sẽ thấy giá tăng nhiều mà lượng tăng ít hoặc giảm.
… Bạn có thể lấy đồ thị ra vẽ và tưởng tượng cho các trường hợp khác ví dụ cầu giảm.
Ứng dụng vào chứng khốn
Trên thị trường chứng khốn, gần như thơng tin mà bạn có là giá và khối lượng giao dịch
cuối ngày nhìn thấy (còn các loại dư mua và dư bán thực ra có ý nghĩa nhưng đơi khi ta
khơng có thời gian theo dõi hoặc đơi khi nó là những cú dọa mua hay dọa bán mà thơi).
Vậy bạn sẽ hiểu nó như thế nào theo nguyên lý trên?
Tương ứng với TH1: Nếu bạn thấy giá tăng và lượng cũng tăng tương ứng, không đột
biến (hãy quan sát các lần tăng trước đó của cổ phiếu theo dõi – hiểu cách đánh của cổ
phiếu rất quan trọng), có thể hiểu rằng đó là sự gia tăng của cầu. Đó thường là một sự
tăng giá lành mạnh.


Tướng ứng với TH2: Nếu bạn thấy giá không tăng mạnh nữa mà KLGD tăng lên nhiều
hơn, đó có thể hiểu là mặc dù cầu tăng nhưng đã có sự gia tăng của cung – tức là người
bán bắt đầu nhiều. Sự tăng giá lúc này cần cẩn trọng hơn.
Tương ứng với TH3: Nếu bạn thấy giá tăng mạnh mà lượng tăng ít, đó rất có thể là cầu
tăng và cung đang hạn chế. Đó thường là dấu hiệu rất tốt để giá tiếp tục tăng.
… Phân tích tương tự với các trường hợp khác…
Nói tóm lại, nếu bạn có chút kiến thức, bạn sẽ nhìn thấy sự logic đằng sau diễn biến giálượng. Bạn cũng nên nhìn theo một xu hướng chứ khơng phải là một ngày. Đó chính là lý
do tại sao trong cách phân tích và tính tốn chu kỳ, tơi hay nhấn mặng rằng khi đà tăng
giá chững lại mà KLGD rất lớn và đột biến, thì đó thường là dấu hiệu đáng lo ngại. Bạn
tự lập luận tiếp cho các trường hợp sau.
Tôi hy vọng bài viết đơn giản này giúp bạn ôn lại bài để có thêm kiến thức để độc lập
suy nghĩ và phân tích giá lượng. Có những trường phải giao dịch chỉ dựa trên phân tích
hành động giá.
Bài 15: Kỹ thuật dùng nến: Đẩy xả (Upthrust) và Mùa xuân (Spring)
(Tài liệu hỗ trợ giảng dạy, dự án “Đầu tư theo nhóm” QMV cho những người mới F0, ít
kinh nghiệm. Vui lịng ghi nguồn khi sử dụng.)

Phân tích cung cầu, giá lượng không thể tách rời với việc quan sát diễn biến thể hiện
qua các cây nến và mẫu hình nến. Trong bài học Chủ đề 2 Học phần 4 (P4T2), chúng ta
đã hiểu cách đọc nến cơ bản. Hôm nay tôi tổng kết lại những điểm chính yếu để mọi
người có thể tự học và nghiên cứu thêm.
Nguyên tắc nến
Một cây nến dài bao giờ cũng thể hiện sự thay đổi về tâm lý (emotional) và thay đổi cơ
bản (rational), còn một cây nến ngắn bao giờ cũng thể hiện sự chắc chắn trong tâm lý.
Một cây nến thân ngắn bao giờ cũng thể hiện sự lưỡng lự tâm lý trong khi một cây nến
thân dài bao giờ cũng thể hiện sự chắc chắn. Thân nến nằm ở 1/3 hoặc1/2 của phía trên
hay dưới bao giờ cũng thể hiện tương đối tâm lý tiêu cực và tích cực.
Kết hợp tất cả những yếu tố này sẽ giúp chúng ta “đọc” diễn biến thị trường qua từng
cây nến một cách khách quan nhất. Dễ dàng nhận thấy chỉ có 3 mẫu nến quan trọng: (i)
thân dài + nến dài; (ii) thân ngắn + nến dài và (iii) thân ngắn + nến ngắn. Mẫu ở giữa
thể hiện sự lưỡng lự, hai mẫu (i) và (iii) thể hiện sự chắc chắn, nhưng mẫu số (i) thể hiện
sự thay đổi chắc chắn còn mẫu số (iii) thể hiện sự chắc chắc tiếp diễn từ trước. Với cách
hiểu này, bạn khơng cần nhớ tên nó là gì, dù là doji, hammer hay maruboju.
Dùng nến
Nến được dùng chủ yếu để xác định thời điểm có thể đảo chiều một xu hướng đã xác
định trước nhờ các công cụ kỹ thuật khác. Các mẫu hình nến ghép có thể được dùng,
nhưng tốt nhất không nên quá 3 cây nến. Kỹ thuật ghép nến và đọc ghép nến chúng ta
đã biết rồi.
Thực tế, nến dùng nhiều nhất là tại các điểm kháng cự và hỗ trợ, hoặc tại các điểm
chạm của các mẫu hình kỹ thuật (cũng là các đường xu hướng ghép lại). Khi đó, việc đọc
diễn biến nến tại các vùng đó là quan trọng.
Tại vùng kháng cự, nếu khả năng tạo một cây nến mẫu hình (ii) và có thân nằm ở phía
dưới ½ hoặc 1/3 của cây nến, đó là dầu hiệu kéo xả - kỹ thuật gọi là lực đẩy do niềm tin
(upthrust). Còn nếu đó là cây nến mẫu hình (i) màu xanh thì đó lại là khả năng đột phá
(breakout) dịch chuyển kháng cự trở thành hỗ trợ kèm theo đó là thay đổi về cơ bản tốt
hơn.



×