Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Tài liệu Báo cáo "Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Đông Sài Gòn" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1014.48 KB, 79 trang )

BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN

LUẬN VĂN TỐT NGIỆP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY
ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN- CHI
NHÁNH ĐÔNG SÀI GÒN
Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Hùng Sơn
Họ tên sinh viên : Hoàng Ngọc Quỳnh


SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 1
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 2
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 3
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
LỜI MỞ ĐẦU
Luật Ngân Hàng Nhà Nước đã định nghĩa: “hoạt động Ngân Hàng là hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân Hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng
số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”. Như chúng ta đã biết, hiện nay
tình hình thị trường tài chính và hoạt động của các Ngân Hàng Thương Mại (NHTM) Việt
Nam đã có một bước phát triển vượt bậc, nhất là kể từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức
Thương Mại Thế Giới (WTO) và ký nhiều hiệp định thương mại với Hoa Kỳ. Tất cả mọi
lĩnh vực, mọi ngành nghề nói chung và ngành ngân hàng nói riêng đều vận động, phát triển
theo xu hướng chung và có nhiều đổi mới đáng kể. Riêng Thành phố Hồ Chí Minh, được
coi là trung tâm kinh tế lớn nhất và là động lực kinh tế của cả nước. Tại đây có mật độ các
Tổ Chức Tín Dụng (TCTD) rất lớn và hoạt động ngân hàng rất sôi động. Trong gần 20 năm
đổi mới vừa qua, TCTD trên địa bàn luôn giữ vai trò chủ đạo về huy động vốn và đã huy
động được khối lượng vốn rất lớn đầu tư cho các thành phần kinh tế. Nhất là hiện nay để


thực hiện chiến lược phát triển kinh tế theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.
Trong 5 năm trở lại đây lĩnh vực chứng khoán luôn là lĩnh vực sôi động và thu hút
đầu tư nhiều nhất. Tuy nhiên dù các trung tâm giao dịch chứng khoán và các công ty niêm
yết đã đi vào hoạt động được một thời gian, song việc huy động vốn qua kênh này mới chỉ
đáp ứng được một khoản nhỏ nhu cầu vốn đầu tư hiện tại. Còn thực tế cho thấy, hệ thống
NHTM vẫn là kênh huy động vốn chủ yếu cho đầu tư phát triển. Tuy trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh lượng vốn huy động được là rất lớn nhưng vẫn không đáp ứng được nhu
cầu cho vay đối với các thành phần kinh tế. Trong đó, tiềm lực vốn trong dân cư còn rất
lớn, tỷ lệ người dân thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán bằng vàng, bằng ngoại tệ… còn
rất nhiều mà NHTM chưa huy động được để cho vay và cung ứng các phương tiện thanh
toán không dùng tiền mặt cho người dân, nhất là cơ cấu nguồn vốn huy động trung và dài
hạn còn chiếm tỷ lệ thấp. Đứng trước nhiệm vụ là đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 4
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
năng động, đòi hỏi các NHTM và các TCTD phải mở rộng và nâng cao hiệu quả huy động
vốn của mình. Chính vì tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn của các NHTM đối
với nền kinh tế, nên trong quá trình thực tập tại đơn vị, để hoàn thành tốt báo cáo thực tập
của mình, em đã quyết định thực hiện đề tài: “ Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân
Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn- chi nhánh Đông Sài Gòn”
Với đề tài nghiên cứu như trên thì phạm vi nghiên cứu của em là:
- Không gian: Trong quá trình thực hiện báo cáo thực tập này, em được thực tập tại
phòng kế toán của Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn – chi nhánh Đông
Sài Gòn.
- Thời gian: Số liệu sử dụng trong đề tài này được tham khảo từ phòng kế toán của
chi nhánh qua 3 năm ( từ năm 2006 đến năm 2008 ). Và thời gian thực hiện đề tài này là 2
tháng (từ 01/03/2009 đến 01/05/2009).
- Đối tượng nghiên cứu: Trong quá trình thực tập, tìm hiểu và phân tích điểm mạnh
yếu của hoạt động huy động vốn tại đơn vị, từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục những tồn
tại và nâng cao hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh.
Bài báo cáo thực tập của em được chia như sau:

- Chương 1: Ngân hàng thương mại và hiệu quả huy động vốn của ngân hàng.
- Chương 2: Giới thiệu về Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt
Nam và Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn chi nhánh Đông Sài Gòn.
- Chương 3: Đánh giá thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng Nông
Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn chi nhánh Đông Sài Gòn hiện nay.
- Chương 4: Những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại Ngân
hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn chi nhánh Đông Sài.
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 5
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
CHƯƠNG 1:
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG
1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại:
1.1.1Sự ra đời của ngân hàng thương mại:
Nghề kinh doanh tiền tệ ra đời gắn liền với quan hệ thương mại. Trong thời kỳ cổ đại
đã xuất hiện việc giao lưu thương mại giữa các lãnh địa với các loại tiền khác nhau thì
nghề kinh doanh tiền tệ xuất hiện để thực hiện nghiệp vụ đổi tiền. Lúc đầu nghề kinh doanh
tiền tệ do Nhà Thờ đứng ra tổ chức vì là nơi tôn nghiêm được dân chúng tin tưởng, là nơi
an toàn để ký gửi tài sản và tiền bạc của mình sau đó nó phát triển ra cả 3 khu vực: các nhà
thờ, tư nhân, Nhà nước với các nghiệp vụ đổi tiền, nhận gửi tiền, bảo quản tiền, cho vay và
chuyển tiền.
Đến thế kỷ XV, đã xuất hiện những tổ chức kinh doanh tiền tệ có những đặc trưng
gần giống ngân hàng, đầu tiên gồm ngân hàng Amstexdam (Hà Lan năm 1660), Hambourg
(Đức năm 1619) và Bank của England (Anh năm 1694).
1.1.2Các giai đoạn phát triển của ngân hàng thương mại:
Từ thế kỷ XV đến nay, ngành ngân hàng đã trải qua những bước tiến dài và góp nhiều
phát minh vĩ đại vào lịch sử phát triển của loài người. Có thể chia ra các giai đoạn phát
triển làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1 (từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII): Hoạt động của giai đoạn này có
những đặc trưng sau:

+ Các ngân hàng hoạt động độc lập chưa tạo một hệ thống chịu sự ràng buộc và
phụ thuộc lẫn nhau.
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 6
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
+ Chức năng hoạt động của mỗi ngân hàng giống nhau, gồm nhận ký thác của
khách hàng, chiết khấu và cho vay, phát hành giấy bạc vào lưu thông, thực hiện các dịch vụ
tiền tệ khác như đổi tiền, chuyển tiền…
- Giai đoạn 2 (từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX):
Mọi ngân hàng đều phát hành giấy bạc ngân hàng làm cản trở quá trình phát triển của
nền kinh tế, vì vậy từ đầu thế kỷ XVIII nghiệp vụ này được giao cho một số ngân hàng lớn
và sau đó tập trung vào một ngân hàng duy nhất gọi là Ngân hàng phát hành, các ngân
hàng còn lại chuyển thành NHTM.
- Giai đoạn 3 (từ đầu thế kỷ XX đến nay):
Ngân hàng phát hành vẫn thuộc sở hữu tư nhân không cho Nhà nước can thiệp thường
xuyên vào các hoạt động kinh tế thông qua các tác động của nền kinh tế, các nước đã quốc
hữu hóa hàng loạt các Ngân hàng phát hành từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929
đến năm 1933. Khái niệm Ngân hàng trung ương (NHTW) đã thay thế cho Ngân hàng phát
hành với chức năng rộng hơn, ngoài nghiệp vụ phát hành và quản lý nhà nước về tiền tệ,
góp phần thúc đẩy quá trình phát triển tăng trưởng kinh tế.
1.1.3Các chức năng của ngân hàng thương mại:
1.1.3.1 Trung gian tín dụng:
NHTM một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội, bao gồm tiền của các
doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan Nhà nước. Mặt khác, NHTM dùng
chính số tiền đã huy động được để cho vay đối với các thành phần kinh tế trong xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM là một trung gian tài chính quan trọng để điều
chuyển vốn từ người thừa sang người thiếu. Thông qua sự điều khiển này, NHTM có vai
trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thêm việc làm, cải thiện mức
sống của dân cư, ổn định thu chi của Chính phủ. Chính với chức năng này, NHTM góp
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 7
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN

phần quan trọng vào việc điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền, kiềm chế
lạm phát.
1.1.3.2 Trung gian thanh toán:
Nếu như mọi khoản chi trả của xã hội được thực hiện bên ngoài ngân hàng thì chi phí
để thực hiện chúng sẽ rất lớn, bao gồm: chi phí in đúc, bảo quản vận chuyển tiền… Với sự
ra đời của NHTM, phần lớn các khoản chi trả về hàng hóa và dịch vụ của xã hội đều được
thực hiện qua ngân hàng với những hình thức thanh toán thích hợp, thủ tục đơn giản và kỹ
thuật ngày càng tiên tiến. Nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội vào ngân hàng,
nên việc giao lưu hàng hóa, dịch vụ trở nên thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm
hơn. Không những vậy, do thực hiện chức năng trung gian thanh toán, NHTM có điều kiện
huy động tiền gửi của xã hội trước hết là của doanh nghiệp tới mức tối đa, tạo nguồn vốn
cho vay và đầu tư, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.1.3.3 Nguồn tạo tiền:
Sự ra đời của các ngân hàng đã tạo ra một bước phát triển về chất trong kinh doanh
tiền tệ. Nếu như trước đây các tổ chức kinh doanh tiền tệ nhận tiền gửi và rồi cho vay cũng
chính bằng các đồng tiền đó, thì nay các ngân hàng đã có thể cho vay bằng tiền giấy của
mình, thay thế tiền bạc và vàng do khách hàng gửi vào ngân hàng.
Hơn nữa, khi đã hoạt động trong một hệ thống ngân hàng, NHTM có khả năng “tạo
tiền” bằng cách chuyển khoản hay bút tệ để thay thế cho tiền mặt. Điều này đã đưa NHTM
lên vị trí là nguồn tạo tiền. Quá trình tạo tiền của hệ thống NHTM dựa trên cơ sở tiền gửi
của xã hội. Xong số tiền gửi được nhân lên gấp bội khi ngân hàng cho vay thông qua cơ
chế thanh toán chuyển khoản giữa các ngân hàng.
1.2 Hoạt động huy động vốn của ngân hàng:
1.2.1Khái niệm vốn huy động:
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 8
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
Vốn huy động là tài sản bằng tiền của các tổ chức và cá nhân mà ngân hàng đang tạm
thời quản lý và sử dụng với trách nhiệm hoàn trả. Vốn huy động còn được gọi là tài sản nợ
ngân hàng. Bộ phận nguồn vốn này chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu nhất trong cơ cấu nguồn
vốn của bất kỳ một NHTM nào.

Chỉ có các NHTM mới được quyền huy động vốn dưới nhiều hình thức khác nhau,
mang tính đặc thù riêng vốn có của NHTM. Đây cũng chính là điểm khác biệt giữa NHTM
và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
1.2.2Đặc điểm của vốn huy động:
- Vốn huy động trong NHTM chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM.
Các NHTM hoạt động được chủ yếu là nhờ vào nguồn vốn này.
- Đây là nguồn vốn không ổn định vì khách hàng có thể rút bất cứ lúc nào, do đó
các NHTM cần phải duy trì một khoản dự trữ thanh khoản để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu rút
tiền của khách hàng, để đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng, tránh sự sụt giảm
đột ngột về nguồn vốn của ngân hàng.
- Đây là nguồn vốn có tính cạnh tranh mạnh. Các ngân hàng để thu hút khách hàng
đến với mình không ngừng “hoàn thiện” khung lãi suất thật hấp dẫn nên nguồn vốn này có
chi phí sử dụng vốn khá cao.
- Vì những đặc điểm trên nên các NHTM không được sử dụng nguồn vốn này để
đầu tư, chỉ được sử dụng trong các hoạt động tín dụng và bảo lãnh.
1.2.3Tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn:
1.2.3.1 Đối với NHTM:
Nghiệp vụ huy động vốn là một nghiệp vụ rất quan trọng, góp phần mang lại nguồn
vốn cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Không có nghiệp vụ huy động vốn
xem như không có hoạt động của NHTM, NHTM sẽ không đủ nguồn vốn tài trợ cho mọi
hoạt động của mình. Hay nói cách khác, thông qua hoạt động huy động vốn NHTM có thể
đo lường được uy tín và sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng. Từ đó, ngân hàng
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 9
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
có những biện pháp không ngừng hoàn thiện mọi hoạt động của mình để giữ vững và mở
rộng quan hệ với khách hàng. Có thể nói, nghiệp vụ huy động vốn góp phần giải quyết
“đầu vào” của ngân hàng.
1.2.3.2 Đối với khách hàng:
Nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho khách hàng một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm
làm cho tiền của họ sinh lợi, tạo cơ hội cho họ có thể gia tăng tiêu dùng trong tương lai.

Nghiệp vụ huy động vốn còn cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để cất trữ và tích
lũy nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi. Mặt khác, nghiệp vụ huy động vốn giúp cho khách hàng
có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ khác của ngân hàng như dịch vụ thanh toán qua ngân
hàng, dịch vụ tín dụng khi khách hàng cần vốn cho sản xuất, kinh doanh hoặc cần tiền cho
tiêu dùng. Vì vậy nghiệp vụ huy động vốn có ý nghĩa rất lớn không chỉ với ngân hàng mà
còn rất quan trọng với khách hàng.
1.2.4Các nguồn vốn của ngân hàng thương mại:
1.2.4.1 Vốn chủ sở hữu:
Về mặt kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu đóng
góp và nó còn được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại. Vốn chủ
sở hữu còn được gọi là “ vốn riêng”.
Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng 1998, vốn chủ sở hữu bao gồm phần giá
trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số tài sản nợ khác của tổ chức tín dụng
theo quy định của ngân hàng nhà nước (NHNN).
Theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005, và quyết định
03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 thì vốn chủ sở hữu của NHTM bao gồm:
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 10
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
- Vốn chủ sở hữu (vốn cấp1): Vốn điều lệ thực có (vốn đã được cấp, vốn đã góp), quỹ
dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi
nhuận không chia. Đây là nguồn vốn tương đối ổn định.
- Vốn chủ sở hữu bổ sung (vốn cấp 2): Đây là nguồn vốn có tính ổn định thấp và phụ
thuộc vào quy mô của nguồn vốn chủ sở hữu cơ bản, bao gồm phần giá trị tăng thêm của
tài sản cố định và của các loại chứng khoán đầu tư được định giá lại, trái phiếu chuyển đổi
hoặc cố phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành có thời hạn dài.
1.2.4.2 Vốn huy động:
NHTM huy động vốn thông qua các hoạt động: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có
giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng và vay vốn ngắn hạn của NHNN.
1.2.4.3 Huy động vốn từ các tổ chức tín dụng và từ NHTW:
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, luôn tồn tại tình trạng tạm

thời thừa hoặc thiếu vốn. Nếu trong tình trạng thừa vốn, các NHTM có thể gửi vào hoặc
cho các TCTD khác vay để hưởng lãi. Ngược lại, nếu sau khi đã sử dụng hết nguồn vốn
chủ sở hữu và vốn đi vay mà vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng hoặc
nhu cầu thanh toán, chi, rút tiền của khách hàng, các NHTM có thể đi vay ở NHTW, các
NHTM và TCTD khác.
Vốn đi vay chỉ nên chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận được trong kết cấu nguồn
vốn, nhưng nó rất cần thiết và có vị trí rất quan trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt động
một cách bình thường.
1.2.4.3.1 Vốn vay của các tổ chức tín dụng khác:
Các NHTM có thể vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị trường liên ngân hàng
(Interbank Market): đây là trường hợp ngân hàng có lượng tiền gửi tại NHNN thấp không
đủ đáp ứng cho nhu cầu chi trả, khi đó dưới sự tổ chức của NHNN, ngân hàng này sẽ được
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 11
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
vay của một ngân hàng khác có lượng tiền gửi dư thừa tại NHNN, vì khoản cho vay là một
bộ phận của tiền gửi thanh toán nên thời gian vay thường chỉ là một ngày (vay qua đêm).
Ngoài ra các ngân hàng có thể cho vay trực tiếp lẫn nhau không thông qua thị trường liên
ngân hàng. Phương thức này rất linh hoạt giúp các NHTM cân đối vốn một cách kịp thời.
Nguyên tắc vay vốn từ các TCTD khác:
- Các ngân hàng phải hoạt động hợp pháp.
- Thực hiện việc cho vay và đi vay theo hợp đồng tín dụng.
- Vốn vay phải được đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của NHTW.
1.2.4.3.2 Vốn vay của NHTW:
Dù các NHTM có thận trọng đến mấy trong việc cho vay thì cũng không thể tránh
khỏi có lúc thiếu khả năng chi trả hoặc kẹt tiền mặt tạm thời, lúc đó NHTW chính là cứu
tinh của các NHTM, là nguồn vay sau cùng.
Ở Việt Nam hiện nay, NHTW cho các NHTM vay vốn dưới các hình thức sau:
- Tái cấp vốn.
- Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
- Cho vay có đảm bảo bằng thế chấp hoặc cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá

ngắn hạn khác.
- Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng.
Ngoài ra, NHTW còn cho NHTM vay bổ sung vốn thanh toán bù trừ. Nhờ loại cho
vay này mà hệ thống thanh toán bù trừ được thực hiện một cách thuận lợi và trôi chảy.
Trong trường hợp đặt biệt, khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, NHTW còn cho vay
đối với các NHTM tạm thời mất khả năng chi trả có nguy cơ gây mất an toàn cho toàn hệ
thống.
1.2.4.4 Nguồn vốn khác:
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 12
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
Bên cạnh các nguồn vốn nêu trên, trong quá trình hoạt động của các NHTM còn có
thể tạo lập vốn cho mình từ nhiều nguồn khác:
- Vốn chiếm dụng: ngân hàng sử dụng các loại tiền gửi nghĩa vụ của khách hàng
trong quá trình tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt (như các khoản tiền khách hàng ký
quỹ để bảo chi séc, mở thư tín dụng, bảo lãnh ngân hàng…)
- Tiền đang chuyển: số vốn đã trích khỏi tài khoản của người trả nhưng chưa
chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng do phải xử lý chứng từ thanh toán.
- Vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ, của các tổ chức tài chính tiền tệ, các tổ
chức đoàn thể - xã hội trong và ngoài nước tài trợ cho các chương trình dự án về phát triển
kinh tế, xã hội, cải tạo môi trường… và được chuyển qua NHTM làm đại lý ủy thác thực
hiện.
- Các khoản phải trả mà chưa đến hạn trả, các khoản tiền tạm gửi theo quyết định
của tòa án… những nghiệp vụ này cũng tạo thêm nguồn vốn cho ngân hàng.
Các nguồn vốn khác này của ngân hàng tuy không nhiều, thời gian sử dụng lại ngắn,
nhưng điều đặt biệt là đối với nguồn vốn này, ngân hàng không những không phải tốn kém
chi phí sử dụng vốn mà đôi khi còn nhận được phí từ việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng,
đồng thời có điều kiện mở rộng nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng, làm cho hoạt động của
ngân hàng càng đa dạng hơn.
1.2.5Các nghiệp vụ huy động vốn của NHTM:
1.2.5.1 Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi:

1.2.5.1.1 Tiền gửi không kỳ hạn (còn gọi là tiền gửi thanh toán):
Với loại tiền này, khách hàng có thể gửi tiền vào và rút ra bất cứ lúc nào có nhu cầu.
Mục đích chính của người gửi tiền nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản
thanh toán qua ngân hàng nên còn được gọi là tiền gửi thanh toán. Tài khoản này mở cho
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 13
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
các đối tượng khách hàng là cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu thực hiện thanh toán qua
ngân hàng.
Để mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại NHTM, khách hàng cần làm thủ tục sau:
- Đối với khách hàng cá nhân chỉ cần điền vào mẫu giấy đề nghị mở tài khoản tiền
gửi cá nhân, đăng ký chữ ký mẫu, xuất trình và nộp bản sao giấy chứng minh nhân dân.
- Đối với khách hàng là tổ chức, chỉ cần điền vào mẫu giấy đề nghị mở tài khoản
tiền gửi thanh toán, đăng ký mẫu chữ ký và con dấu của người đại diện, xuất trình và nộp
bản sao các giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của tổ chức, và các giấy tờ chứng minh
tư cách đại diện hợp pháp của chủ tài khoản.
- Đối với khách hàng là đồng chủ tài khoản cần điền và nộp giấy đề nghị mở tài
khoản đồng sở hữu, các giấy tờ chứng minh tư cách đại diện hợp pháp của người đại diện
cho tổ chức tham gia tài khoản đồng sở hữu, văn bản thỏa thuận quản lý và sử dụng tài
khoản chung của các đồng chủ tài khoản.
Theo thông lệ ở các nước phát triển, ngân hàng không trả lãi cho khách hàng mở tài
khoản tiền gửi không kỳ hạn vì mục đích của khách hàng khi sử dụng tài khoản này là để
thực hiện thanh toán qua ngân hàng chứ không phải vì mục đích hưởng lãi. Hơn nữa ngân
hàng còn yêu cầu khách hàng phải duy trì một số dư tối thiểu để được hưởng các dịch vụ
của ngân hàng, nếu không có đủ số dư này thì khách hàng phải trả phí cho ngân hàng khi
sử dụng các dịch vụ của ngân hàng.
Ở Việt Nam, do thói quen thanh toán bằng tiền mặt và dân chúng chưa quen với việc
sử dụng tài khoản để thanh toán nên để thu hút khách hàng, ngân hàng vẫn trả lãi đối với
loại tiền gửi này, tuy nhiên với mức lãi suất rất thấp (khoảng 0,25% /tháng).
Lãi tiền gửi thanh toán được tính định kỳ hàng tháng theo phương pháp tích số và lãi
được nhập vào số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng.

SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 14
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
Để tăng nguồn tiền không kỳ hạn ngân hàng phải đa dạng hóa và thực hiện tốt các
dịch vụ trung gian, thu hút nhiều khách hàng lớn. Với quy mô lớn, cơ cấu đa dạng, cơ chế
hoán đổi thời gian đáo hạn của các khoản tiền gửi được thực hiện tốt sẽ làm cho mức dư
tiền gửi bình quân tại ngân hàng luôn cao và ổn định, tạo điều kiện cho ngân hàng có thể sử
dụng lượng tiền này để cho vay mà không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của
ngân hàng.
1.2.5.1.2 Tiền gửi có kỳ hạn:
Các khoản tiền gửi có kỳ hạn được đặc trưng bằng chứng chỉ tiền gửi ghi rõ thời gian
đáo hạn và số lượng. Khách hàng chỉ được rút ra sau một thời gian nhất định theo kỳ hạn
đã được thỏa thuận khi gửi tiền. Tuy nhiên ngân hàng có thể giải quyết cho khách hàng rút
trước thời hạn khi có yêu cầu, nhưng phải chuyển từ mức lãi suất tiền gửi có kỳ hạn sang
áp dụng mức lãi suất không kỳ hạn.
Đối với loại tiền gửi có kỳ hạn, mục đích của việc gửi tiền là lợi tức, không quan tâm
tới việc tận dụng những tiện ích thanh toán do ngân hàng cung cấp. Vì vậy để tăng tỷ lệ
huy động vốn có kỳ hạn ngân hàng có thể sử dụng các công cụ lãi suất và các chính sách
khuyến khích lợi ích vật chất khác như xổ số hoặc bốc thăm trúng thưởng… để tạo ra sự
quan tâm thu hút khách hàng, đặt biệt với nhóm khách hàng là cá nhân.
Với đặc tính ổn định của tiền gửi có kỳ hạn, ngân hàng có thể chủ động kế hoạch hóa
việc sử dụng nguồn vốn, tìm kiếm những khoản đầu tư có thời gian hợp lý và thu lợi nhuận
cao.
1.2.5.1.3 Tiền gửi tiết kiệm:
- Tiết kiệm không kỳ hạn:
Sản phẩm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn được thiết kế dành cho đối tượng khách
hàng là cá nhân hoặc tổ chức, có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi ngân hàng vì mục tiêu an
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 15
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
toàn và sinh lợi, nhưng không thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Đối
với khách hàng khi lựa chọn hình thức tiền gửi này, thì mục tiêu an toàn và tiện lợi quan

trọng hơn là mục tiêu sinh lợi. Đối với ngân hàng, vì loại tiền gửi này khách hàng muốn rút
bất cứ lúc nào cũng được nên ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả và không chủ
động được khi lên kế hoạch sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng. Do vậy, ngân hàng thường
trả lãi suất rất thấp cho loại tiền gửi này.
Đối với loại tiền gửi này, khách hàng có thể gửi tiền và rút tiền bất cứ lúc nào trong
giờ giao dịch, mỗi lần giao dịch khách hàng phải xuất trình sổ tiền gửi và chỉ có thể thực
hiện được các giao dịch ngân quỹ như gửi tiền hoặc rút tiền, không thể thực hiện được các
giao dịch thanh toán như trong trường hợp tiền gửi thanh toán.Thủ tục mở sổ tiền gửi tiết
kiệm không kỳ hạn rất đơn giản, khách hàng đến bất kỳ chi nhánh nào của ngân hàng điền
vào mẫu giấy đề nghị gửi tiết kiệm không kỳ hạn có kèm theo giấy chứng minh nhân dân
và chữ ký mẫu. Nhân viên sẽ hoàn tất thủ tục nhận tiền và cấp sổ tiền gửi ngay cho khách
hàng.
- Tiết kiệm định kỳ:
Tiền gửi tiết kiệm định kỳ được thiết kế dành cho khách hàng cá nhân và tổ chức có
nhu cầu gửi tiền vì mục tiêu an toàn, sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong
tương lai. Đối tượng khách hàng chủ yếu của loại tiền gửi này lá các cá nhân muốn có thu
nhập ổn định và thường xuyên, đáp ứng cho việc chi tiêu hàng tháng hoặc hàng quý. Đa số
khách hàng thích lựa chọn hình thức gửi tiền này là công nhân, nhân viên hưu trí. Mục tiêu
quan trọng của họ khi chọn lựa hình thức tiền gửi này là lợi tức có được theo định kỳ. Do
vậy, lãi suất đóng vai trò quan trọng để thu hút được đối tượng khách hàng này. Dĩ nhiên,
lãi suất trả cho loại tiền gửi tiết kiệm định kỳ cao hơn lãi suất trả cho loại tiền gửi không kỳ
hạn. Ngoài ra, mức lãi suất còn thay đổi tùy theo loại kỳ hạn gửi (1, 2, 3, 6, 9 hay 12 tháng)
và tùy theo loại đồng tiền gửi tiết kiệm (VNĐ, USD, EUR hay vàng) và còn tùy theo uy
tín, rủi ro của ngân hàng nhận tiền gửi.
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 16
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
Về thủ tục mở sổ, theo dõi hoạt động và tính lãi cũng tiến hành tương tự như tiền gửi
tiết kiệm không kỳ hạn, chỉ khác ở chỗ khách hàng được rút tiền theo đúng kỳ hạn đã cam
kết, không được phép rút tiền trước hạn. Tuy nhiên, để khuyến khích và thu hút khách hàng
gửi tiền đôi khi ngân hàng cho phép được rút tiền gửi trước hạn nếu có nhu cầu, nhưng khi

đó ngân hàng sẽ trả lãi cho khách hàng theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
1.2.5.2 Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá:
Giấy tờ có giá là chứng nhận của TCTD phát hành để huy động vốn trong đó xác
nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các
điều khoản cam kết khác giữa TCTD và người mua.
Một giấy tờ có giá thường kèm theo các thuộc tính sau đây:
- Mệnh giá:
Là số tiền gốc được in sẵn hoặc ghi trên giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng
chỉ hoặc ghi trên giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với các giấy tờ có giá phát hành theo
hình thức ghi sổ.
- Thời hạn giấy tờ có giá:
Là khoảng thời gian từ ngày tổ chức tín dụng phát hành đến hết ngày thanh toán có
ghi trong giấy tờ có giá
- Lãi suất được hưởng:
Là suất áp dụng để tính lãi cho người mua giấy tờ có giá được hưởng. Giấy tờ có giá
có thể phân thành nhiều loại khác nhau.
Căn cứ vào quyền sở hữu có thể chia giấy tờ có giá thành giấy tờ có giá ghi danh và
giấy tờ có giá vô danh. Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức
chứng chỉ hoặc ghi sổ có tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh là giấy tờ phát hành
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 17
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
theo hình thức chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền
sở hữu của người nắm giữ nó.
Căn cứ vào thời hạn, giấy tờ có giá có thể chia thành hai loại, tương ứng với thời gian
huy động vốn: giấy tờ có giá ngắn hạn và giấy tờ có giá dài hạn.
1.2.5.2.1 Huy động vốn ngắn hạn:
Để huy động vốn ngắn hạn, các TCTD có thể phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn. Giấy
tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới 12 tháng, bao gồm kỳ phiếu, chứng
chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Muốn phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn, TCTD phải lập hồ sơ đề nghị phát hành. Sau

khi được cấp trên xem xét và phê duyệt đề nghị phát hành, TCTD sẽ ra thông báo phát
hành. Nội dung thông báo phát hành gồm có:
- Tên tổ chức phát hành.
- Tên gọi giấy tờ có giá (tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi,…)
- Tổng mệnh giá của đợt phát hành.
- Thời hạn của giấy tờ có giá.
- Ngày phát hành.
- Ngày đến hạn thanh toán.
- Lãi suất, phương thức trả lãi, thời điểm và địa điểm trả lãi.
- Phương thức hoàn trả và địa điểm trả tiền gốc của giấy tờ có giá.
1.2.5.2.2 Huy động vốn trung và dài hạn:
Muốn huy động vốn trung và dài hạn (3, 5, hay 10 năm) các NHTM có thể phát hành
kỳ phiếu, trái phiếu và cổ phiếu. Trái phiếu do ngân hàng phát hành có thể được xem là
một loại trái phiếu công ty. So với trái phiếu Chính phủ thì trái phiếu ngân hàng rủi ro hơn
nên chi phí để huy động vốn cao hơn so với trái phiếu Chính phủ hay trái phiếu Kho bạc.
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 18
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
CHƯƠNG 2:
GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN VIỆT NAM VÀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH ĐÔNG SÀI GÒN
2.1Giới thiệu về ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam (No&PTNT
VN) :
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển:
Năm 1988: Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam được thành lập theo Nghị
định số 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ) về việc
thành lập các ngân hàng chuyên doanh, trong đó có Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp
Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp hình thành trên cơ sở tiếp nhận từ NHNN: tất cả
các chi nhánh NHNN huyện, Phòng Tín dụng Nông nghiệp, quỹ tiết kiệm tại các chi nhánh

NHNN tỉnh, thành phố. Ngân hàng phát triển Nông nghiệp TW được hình thành trên cơ sở
tiếp nhận Vụ Tín dụng Nông nghiệp Ngân hàng Nhà nước và một số cán bộ của Vụ Tín
dụng Thương nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng, Vụ Kế toán và một số đơn vị.
Ngày 14/11/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ký
Quyết định số 400/CT thành lập Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thay thế Ngân hàng
Phát triển Nông nghiệp Việt Nam. Ngân hàng Nông nghiệp là NHTM đa năng, hoạt động
chủ yếu trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, là một pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập,
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật. Ngày 01/03/1991
Thống đốc NHNN có Quyết định số 18/NH-QĐ thành lập Văn phòng đại diện Ngân hàng
Nông nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh và ngày 24/06/1994, Thống đốc có văn bản số
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 19
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
439/CV-TCCB chấp thuận cho Ngân hàng Nông nghiệp được thành lập văn phòng miền
Trung tại Thành phố Quy Nhơn - tỉnh Bình Định.
Ngày 22/12/1992, Thống đốc NHNN có Quyết định số 603/NH-QĐ về việc thành lập
chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp các tỉnh thành phố trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp
gồm có 3 Sở giao dịch (Sở giao dịch I tại Hà Nội và Sở giao dịch II tại Văn phòng đại diện
khu vực miền Nam và Sở giao dịch 3 tại Văn phòng miền Trung) và 43 chi nhánh Ngân
hàng Nông nghiệp tỉnh, thành phố. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp quận, huyện, thị xã
có 475 chi nhánh.
Năm 1993 Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam ban hành quy chế thi đua khen thưởng
tạo ra những chuẩn mực cho các cá nhân và tập thể phấn đấu trên mọi cương vị và nhiệm
vụ công tác. Tổ chức được hội nghị tổng kết toàn quốc có các giám đốc chi nhánh huyện
suất sắc nhất của tỉnh thành phố.
Ngày 30/07/1994 tại Quyết định số 160/QĐ-NHNN, Thống đốc NHNN chấp thuận
mô hình đổi mới hệ thống quản lý của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam cụ thể hoá bằng
văn bản số 927/TCCB/Ngân hàng Nông nghiệp ngày 16/08/1994 xác định: Ngân hàng
Nông nghiệp Việt Nam có 2 cấp: Cấp tham mưu và Cấp trực tiếp kinh doanh. Đây thực sự
là bước ngoặt về tổ chức bộ máy của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam và cũng là nền
tảng cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt

Nam sau này.
Ngày 07/03/1994 tại Quyết định số 90/TTg của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng
Nông nghiệp Việt Nam hoạt động theo mô hình Tổng công ty Nhà nước với cơ cấu tổ chức
bao gồm Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc, bộ máy giúp việc bao gồm bộ máy kiểm soát
nội bộ, các đơn vị thành viên bao gồm các đơn vị hạch toán phụ thuộc, hạch toán độc lập,
đơn vị sự nghiệp, phân biệt rõ chức năng quản lý và chức năng điều hành, Chủ tịch Hội
đồng quản trị không kiêm Tổng Giám đốc.
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 20
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
Trên cơ sở những kết quả tốt đẹp của Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo, Ngân hàng Nông
nghiệp tiếp tục đề xuất kiến nghị lập Ngân hàng phục vụ người nghèo, được Chính phủ,
NHNN ủng hộ, dư luận rất hoan nghênh. Ngày 31/08/1995, Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 252/TTg thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo. Ngân hàng phục vụ
người nghèo là một TCTD của Nhà nước hoạt động trong phạm vi cả nước, có tư cách
pháp nhân, có vốn điều lệ, có tài sản, bảng cân đối, có con dấu, trụ sở chính đặt tại Hà Nội.
Vốn hoạt động ban đầu là 400 tỷ đồng do Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam góp 200 tỷ
đồng, Ngân hàng Ngoại thương 100 tỷ đồng và NHNN 100 tỷ đồng. Hoạt động của Ngân
hàng phục vụ người nghèo vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo, không vì mục đích lợi nhuận,
thực hiện bảo toàn vốn ban đầu, phát triển vốn, bù đắp chi phí. Ngân hàng phục vụ người
nghèo – thực chất là bộ phận tác nghiệp của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam tồn tại và
phát triển mạnh. Tới tháng 09/2002, dư nợ đã lên tới 6.694 tỷ, có uy tín cả trong và ngoài
nước, được các Tổ chức quốc tế đánh giá cao và đặt biệt được mọi tầng lớp nhân dân ủng
hộ, quý trọng. Chính vì những kết quả như vậy, ngày 04/10/2002, Thủ tướng chính phủ đã
ban hành Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội trên cơ
sở Ngân hàng phục vụ người nghèo – Từ 01/01/2003 Ngân hàng phục vụ người nghèo đã
chuyển thành Ngân hàng Chính sách xã hội. Ngân hàng Nông nghiệp chính là người đề
xuất thành lập, thực hiện và bảo trợ Ngân hàng phục vụ người nghèo tiền thân của Ngân
hàng Chính sách xã hội – Đây là niềm tự hào to lớn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo.
Ngày 15/11/1996, được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền, Thống đốc Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam ký Quyết định số 280/QĐ-NHNN đổi tên Ngân hàng Nông nghiệp Việt
Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Ngân hàng No&PTNT VN hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90, là doanh nghiệp
Nhà nước hạng đặt biệt, hoạt động theo Luật các TCTD và chịu sự quản lý trực tiếp của
NHNN Việt Nam. Với tên gọi mới, ngoài chức năng của một NHTM, Ngân hàng
No&PTNT VN được xác định thêm nhiệm vụ đầu tư phát triển đối với khu vực nông thôn
thông qua việc mở rộng đầu tư vốn trung, dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 21
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy hải sản góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Trong năm 1998, Ngân hàng No&PTNT VN đã tập trung nâng cao chất lượng tín
dụng, xử lý nợ tồn đọng cũ và quản lý chặt chẽ hơn công tác thẩm định, xét duyệt các
khoản cho vay mới, tiến hành các biện pháp phù hợp để giảm nợ thấp quá hạn.
Năm 1999, Chính phủ Việt Nam đặt biệt quan tâm và tập trung đầu tư phát triển nông
nghiệp nông thôn. Luật NHNN và Luật các TCTD có hiệu lực thi hành, tạo hành lang pháp
lý cho hoạt động ngân hàng. Đẩy mạnh huy động vốn trong và ngoài nước chú trọng tiếp
nhận thực hiện tốt các dự án nước ngoài ủy thác, cho vay các chương trình dự án lớn có
hiệu quả đồng thời mở rộng cho vay hộ sản xuất hợp tác sản xuất được coi là những biện
pháp chú trọng của Ngân hàng No&PTNT VN thực hiện kế hoạch tăng trưởng.
Tháng 2 năm 1999, Chủ tịch Quản trị ban hành Quyết định số 234/HĐQT-08 về quy
định quản lý điều hành hoạt động kinh doanh ngoại hối trong hệ thống Ngân hàng
No&PTNT VN. Tập trung thanh toán quốc tế về Sở giao dịch Ngân hàng No&PTNT VN
( Sở giao dịch được thành lập thay thế Sở giao dịch kinh doanh ngoại hối, Sở giao dịch là
đầu mối vốn cả nội và ngoại tệ của toàn hệ thống), Sở giao dịch II không làm đầu mối
thanh toán quốc tế. Tài khoản NOSTRO tập trung về Sở giao dịch. Tất cả các chi nhánh
đều nối mạng SWIFT trực tiếp với Sở giao dịch. Các chi nhánh tỉnh thành phố đều được
thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối.
Năm 2000, cùng với việc mở rộng kinh doanh trên thị trường trong nước, Ngân hàng
No&PTNT VN tích cực mở rộng quan hệ quốc tế và kinh doanh đối ngoại, nhận được sự

tài trợ của các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế như WB, ADB, IFAD, ngân hàng tái thiết
Đức… đổi mới công nghệ, đào tạo nhân viên. Tiếp nhận và triển khai có hiệu quả 50 dự án
nước ngoại với tổng số vốn trên 1300 triệu USD chủ yếu đầu tư vào khu vực kinh tế nông
nghiệp, nông thôn. Ngoài hệ thống thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT, Ngân hàng
No&PTNT VN đã thiết lập hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử, máy rút tiền tự động
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 22
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
ATM trong toàn hệ thống. Tiến hành đổi mới toàn diện mô hình tổ chức, mạng lưới kinh
doanh theo hướng tinh giảm trung gian, tăng năng lực cho các đơn vị trực tiếp kinh doanh.
Đổi mới công tác quản trị điều hành, quy trình nghiệp vụ theo hướng đơn giản hóa các thủ
tục tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng. Tập trung mọi nguồn lực đào tạo cán bộ nhân
viên theo hướng chuyên môn hóa, tăng cường cơ sở vật chất kỹ chất, hiện đại hóa công
nghệ.
Năm 2001 là năm đần tiên Ngân hàng No&PTNT VN triển khai thực hiện đề án tái cơ
cấu với các nội dung chính sách là cơ cấu lại nợ, lành mạnh hóa tài chính, nâng cao chất
lượng tài sản có, chuyển đổi hệ thống kế toán hiện hành theo chuẩn mực quốc tế, đổi mới
sắp xếp lại bộ máy tổ chức theo mô hình NHTM hiện đại tăng cường đào tạo và đào tạo lại
cán bộ tập trung đổi mới công nghệ ngân hàng, xây dựng hệ thống thông tin quản lý hiện
đại. Bên cạnh mở rộng kinh doanh trên thị trường trong nước, năm 2002, Ngân hàng
No&PTNT VN tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế. Đến cuối năm 2002 Ngân
hàng No&PTNT VN là thành viên của APRACA, CICA và ABA, trong đó Tổng Giám đốc
Ngân hàng No&PTNT VN là thành viên chính thức Ban điều hành của APRACA và
CICA.
Năm 2003, Ngân hàng No&PTNT VN đã đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án Tái cơ
cấu nhằm đưa hoạt động của Ngân hàng No&PTNT VN phát triển với quy mô lớn chất
lượng hiệu quả cao. Với những thành tích đặt biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, đóng góp
tích cực và rất có hiệu quả vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp – nông thôn, Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam đã ký quyết định số 226/2003/QĐ/CTN ngày 07/05/2003 phong tặng
danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới cho Ngân hàng No&PTNT VN.

Tính đến năm 2004, sau 4 năm triển khai thực hiện Đề án tái cơ cấu giai đoạn 2001-
2010, Ngân hàng No&PTNT VN đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tình hình tài
chính đã được lành mạnh hơn qua việc cơ cấu lại nợ và tăng vốn điều lệ, xử lý trên 90% nợ
tồn đọng. Mô hình tổ chức từng bước được hoàn thiện nhằm tăng cường năng lực quản trị
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 23
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
điều hành. Bộ máy lãnh đạo từ TW đến chi nhánh được củng cố, hoàn thiện, quyền tự chủ
trong kinh doanh được mở rộng hơn.
Đến cuối năm 2005, vốn tự có của Ngân hàng No&PTNT VN đạt 7.720 tỷ VNĐ, tổng
tài sản có trên 190 ngàn tỷ, hơn 2000 chi nhánh trên toàn quốc và 29.492 cán bộ nhân viên
(chiếm 40% tổng số CBCNV toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam), ứng dụng công nghệ
hiện đại, cung cấp những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hoàn hảo.
Từ năm 2006 bằng những giải pháp mang tính đột phá và cách làm mới Ngân hàng
No&PTNT VN thực sự khởi sắc. Đến cuối năm 2007, tổng tài sản đạt 325.802 tỷ đồng
tương đương với 20 tỷ USD gấp gần 220 lần so với ngày đầu thành lập. Tổng dư nợ cho
vay nền kinh tế đạt 242.102 tỷ đồng trong đó cho vay nông nghiệp nông thôn chiếm trên
70% với trên 10 triệu hộ gia đình, cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 36% với
gần 3 vạn doanh nghiệp dư nợ. Tổng nguồn vốn 295.048 tỷ đồng và gần như hoàn toàn là
vốn huy động.
Đến nay, có thể nói Ngân hàng No&PTNT VN là NHTM hàng đầu giữ vai trò chủ
đạo và chủ lực trong đầu tư vốn phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng như đối với
các lĩnh vực khác của nền kinh tế Việt Nam. Là ngân hàng luôn chú trọng đầu tư đổi mới
và ứng dụng công nghệ ngân hàng phục vụ đắc lực cho công tác quản trị kinh doanh và
phát triển mạng lưới dịch vụ ngân hàng tiên tiến. Ngân hàng No&PTNT VN là ngân hàng
đầu tiên hoàn thành giai đoạn 1 dự án hiện đại hóa hệ thống thanh toán và kế toán khách
hàng (IPCAS) do Ngân hàng Thế giới tài trợ và đang tích cực triển khai giai đoạn II của dự
án này. Hiện Ngân hàng No&PTNT VN đã vi tính hóa hoạt động kinh doanh từ Trụ sở
chính đến hấu hết các chi nhánh trong toàn quốc; và một hệ thống các dịch vụ ngân hàng
gồm dịch vụ chuyển tiền điện tử, dịch vụ thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, dịch vụ ATM,
dịch vụ thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT. Ngân hàng No&PTNT VN là thành viên

Hiệp hội Tín dụng Nông nghiệp Nông thôn Châu Á Thái Bình Dương (APRACA), Hiệp
hội Tín dụng Nông nghiệp Quốc tế (CICA) và Hiệp hội Ngân hàng Châu Á (ABA) ; đã
đăng cai tổ chức nhiều hội nghị quốc tế lớn như Hội nghị FAO năm 1991, Hội nghị
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 24
BÁO CÁO THỰC TẬP GVHD: NGUYỄN HÙNG SƠN
APRACA năm 1996 và năm 2004, Hội nghị tín dụng nông nghiệp quốc tế CICA năm
2001, Hội nghị APRACA về thủy sản năm 2002. Tổng số dự án nước ngoài, đặt biệt là dự
án của WB, ADB, AFD, mà Ngân hàng No&PTNT VN tiếp nhận và triển khai là 103 dự
án với tổng số vốn trên 3,6 tỷ USD, trong đó giải ngân qua No&PTNT VN là 2,7 tỷ USD
và đã giải ngân được 1,1 tỷ USD. Hiện nay Ngân hàng No&PTNT VN đã có quan hệ đại lý
với 979 ngân hàng đại lý tại 113 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành viên của nhiều tổ
chức, hiệp hội tín dụng có uy tín lớn. Năm 2008 là năm ghi dấu chặng đường 20 năm xây
dựng và trưởng thành của Ngân hàng No&PTNT VN và cũng là năm có tính quyết định
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế theo chủ trương của Đảng, Chính phủ. Trong đó
Ngân hàng No&PTNT VN sẽ trở thành Tập đoàn tài chính đa ngành, đa sở hữu, hoạt động
đa lĩnh vực.Tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, chủ lực trên thị trường tài chính nông thôn, luôn là
người bạn đồng hành thủy chung tin cậy của 10 triệu hộ gia đình.
2.1.2 Định hướng phát triển:
Với phương châm vì sự thịnh vượng và phát triển bền vững của khách hàng và ngân
hàng, mục tiêu của Ngân hàng No&PTNT VN là tiếp tục giữ vững vị trí NHTM hàng đầu
Việt Nam tiên tiến trong khu vực và có uy tín cao trên trường quốc tế. Ngân hàng
No&PTNT VN kiên trì với định hướng chiến lược phát triển là: tiếp tục triển khai mạnh
mẽ đề án tái cơ cấu, chuẩn bị điều kiện để cổ phần hóa. Đảm bảo đẩy nhanh tiến trình hội
nhập khu vực và quốc tế, tăng cường hợp tác, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ về tài chính, kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến của các nước, các tổ chức tài chính - ngân hàng quốc tế đảm bảo
hoạt động đạt hiệu quả cao, ổn định và phát triển bền vững.
Tập trung sức toàn hệ thống, thực hiện bằng được những nội dung cơ bản theo tiến độ
Đề án tái cơ cấu lại Ngân hàng No&PTNT VN giai đoạn 2001-2010 đã được Chính phủ
phê duyệt và tập trung xây dựng Ngân hàng No&PTNT VN thành tập đoàn tài chính;
chuẩn bị mọi điều kiện để thực hiện cổ phần hóa; tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức

hợp lý, đảm bảo cân đối, an toàn và khả năng sinh lời; đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch
cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân
SVTH: HOÀNG NGỌC QUỲNH TRANG 25

×