Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Đề tài Nghiên cứu về nghệ thuật quân sự trong chiến dịch Điện Biên Phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.8 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG DU LỊCH

NGHIÊN CỨU VỀ NGHỆ THUẬT
QUÂN SỰ TRONG CHIẾN DỊCH
ĐIỆN BIÊN PHỦ
Tên học phần

: Lịch sử Đảng

Giáo viên hướng dẫn: Phan Nguyễn Khánh Long
Nhóm thực hiện

: Nhóm 2 - Đậm Tình Miền Trung

Thừa Thiên Huế

1


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài (tính cấp thiết của đề
tài)............................. Trang 4
2. Tên đề
tài............................................................
Trang 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên
cứu...................................... Trang 5
4. Đối tượng nghiên
cứu.................................................. Trang 5


5. Phương pháp nghiên
cứu................................................ Trang 5
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
Chương I: Hoàn cảnh lịch sử đất nước trong chiến dịch Điện
Biên Phủ
1. Bối cảnh đất
nước......................................................
Trang 5
2. Tại sao Điện Biên Phủ được chọn làm tập đoàn then
chốt?................. Trang 6
2.1 Đặc điểm vị trí địa
hình............................................... Trang 7
2.2. Ý nghĩa chiến lược của căn cứ này đối với
Pháp......................... Trang 7
3. Khó khăn và thuận lợi của quân
ta........................................ Trang 8
3.1 Khó
khăn............................................................
. Trang 8
3.2.
Thuận
lợi............................................................
Trang 10
Chương II. Nghệ thuật quân sự độc đáo được sử dụng trong
chiến dịch.
1. Nghệ thuật phương châm tác
chiến...................................... Trang 11
2. Nghệ thuật xây dựng thế trận chia cắt, cô lập Điện Biên
Phủ................ Trang12
3. Nghệ thuật phát huy sức mạnh tác

chiến.................................. Trang13
4. Nghệ thuật thực hành chiến thuật để đánh hạ
địch......................... Trang14
5. Nghệ thuật tạo lập thế trận chiến tranh nhân
dân.......................... Trang 15

2


6. Nghệ thuật tập trung lực lượng ưu thế, đột phá đánh thẳng vào trung
tâm
tập
đoàn
cứ
điểm............................................................
........ Trang18
III. Kết quả, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm vận dụng vào tình
hình
mới.............................................................
........ Trang 18
1. Kết quả, ý
nghĩa.......................................................
Trang18
1.1. Kết
quả.............................................................
Trang18
1.2. Ý
nghĩa...........................................................
.. Trang19
2. Bài học kinh nghiệm vận dụng vào tình hình

mới.......................... Trang 20
IV. Kết
luận............................................................
.. Trang 22

V. Nguồn tài
liệu ..................................................... Trang
23

TĨM TẮT
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu về nghệ thuật quân sự trong
chiến dịch Điện Biên Phủ.
Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
+ Phương pháp thống kê toán học.
+ Phương pháp thu thập số liệu.
+ Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm.
+ Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết họp phương
pháp lịch sử với lôgic.
Kết quả nghiên cứu:

3


Qua quá trình nghiên cứu về đề tài “ Nghệ thuật quân sự trong chiến
dịch Điện Biên Phủ” nhóm đã nhận thấy rằng : Nghệ thuật quân sự Việt
Nam hình thành và phát triển gắn liền với các yếu tố chính trị, xã hội.
Từ khi có Đảng lãnh đạo Nghệ thuật quân sự Việt Nam phát triển dựa
trên nền tảng lý luận quân sự Mác- Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tinh
hoa truyền thống quân sự dân tộc. Từ khi có Đảng lãnh đạo nghệ thuật

quân sự Việt Nam đã thừa kế nghệ thuật đánh giặc giữ nước của tổ tiên
và đã khơng ngững phát triển, góp phần quyết định thắng lợi trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ.
Kết luận:
Học tập và nghiên cứu về nghệ thuật quân sự của Việt Nam, chúng
ta tự hào về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đặc biệt
là thế hệ trẻ nói chung và sinh viên chúng ta hiện nay cần phải có
trách nhiệm giữ gìn, kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc,
hoàn thành mọi nhiệm, vụ góp phần vào việc xây dựng bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

I. MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài (tính cấp thiết của đề tài).
Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 được mở ra từ ngày 13 tháng 3
và kết thúc thắng lợi vào ngày 7 tháng 5 cùng với thắng lợi từ hội nghị
Giơ-ne-vơ đã đánh dấu sự thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến
chống Pháp của nhân dân ta. Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của chiến
thắng Điện Biên Phủ và chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Pháp
xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “ Lần đầu tiên trong lịch
sử,một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thẳng một nước thực dân hùng
mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời
cũng là một thẳng lợi của các lực lượng hồ bình, dân chủ và xã hội
chủ nghĩa trên thế giới”. “ Chiến thẳng Điện Biên Phủ được ghi vào lịch
sử dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa
trong thế kỉ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách,
báo hiệu sự thắng lợi của nhân dân các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ
của chủ nghĩa thực dân”. Có thể nói thắng lợi của chiến dịch Điện Biên

4



Phủ có vai trị to lớn của đường lối cách mạng trong đó nghệ thuật
quân sự được thể hiện rất đậm nét. Nghệ thuật quân sự là sự tiếp thu
và phát huy truyền thống đánh giặc của tổ tiên, là sự vận dụng lí luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin về quân sự và kinh nghiệm quân sự của các
nước trên thế giới vào thực tiễn ở Việt Nam, đặt cơ sở cho sự hình
thành và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam từ khi có Đảng lãnh
đạo. Việc nghiên cứu về nghệ thuật quân sự trong tình hình hiện nay có
ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Tình hình thế giới đang có những biến
đổi rất phức tạp, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông
Âu sụp đổ ngay khi mà lực lượng vũ trang vẫn còn nguyên vẹn. Việt
Nam đang trên con đường đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Tình hình đó địi hỏi chúng ta phải đi sâu nghiên cứu
vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân, củng cố nền quốc phòng và an ninh
nhân dân một cách nghiêm túc và khoa học để đảm bảo lực lượng vũ
trang nhân dân ta ngày càng vững mạnh, hoàn thành mọi nhiệm vụ
trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Căn cứ
vào ý nghĩa lí luận và thực tiễn trên nhóm chọn đề tài: " Nghệ thuật
quân sự trong chiến dịch Điện Biên Phủ”.
2. Tên đề tài: Nghệ thuật quân sự trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
a. Mục đích: nghiên cứu về nghệ thuật quân sự trong chiến dịch Điện
Biên Phủ.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu: trong phạm vi nghiên cứu đề tài tiểu luận,
đề tài tìm hiểu. Nội dung cơ bản của một số nghệ thuật quân sự đặc
sắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954.
4. Đối tượng nghiên cứu: Nghệ thuật quân sự trong chiến dịch Điện
Biên Phủ.
5. Phương pháp nghiên cứu.

+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
+ Phương pháp thống kê toán học.
+ Phương pháp thu thập số liệu.
+ Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm.

5


+ Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết họp phương
pháp lịch sử với lôgic.
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
Chương I. Hoàn cảnh lịch sử đất nước trong chiến dịch Điện
Biên Phủ.
1. Bối cảnh tình hinh đất nước.
Đến cuối năm 1953, chiến tranh Đông Dương đã kéo dài 8 năm. Về
bối cảnh lúc bấy giờ, sau 8 năm chiến tranh xâm lược Việt Nam, Pháp
ngày càng thiệt hại nặng nề, vùng chiếm đóng bị thu hẹp, quân Pháp
trên chiến trường dần lâm vào thế phòng ngự bị động.
Trong đông xuân 1953 - 1954 quân ta dành được nhiều thắng lợi
trên mọi mặt trận, đưa địch vào tình thế khó khăn khi kế hoạch Nava
từng bước bị thất bại. Trước đó, với thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc
mùa đông năm 1952, chiến dịch cuối xuân đầu hè 1953 và hè thu
1953, cục diện chiến tranh ở Việt Nam nói riêng và ở Đơng Dương nói
chung càng chuyển biến mạnh theo hướng có lợi cho quân và dân ta,
bất lợi cho thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc chúng phải có những
tính tốn mới nếu khơng muốn chấm dứt sự thống trị tại bán đảo Đông
Dương. Để cứu vãn tình thế, bước vào Thu - Đơng năm 1953, thực dân
Pháp và can thiệp Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Nava tăng viện lớn về
binh lực và chi phí chiến tranh, mưu toan trong vịng 18 tháng sẽ tiêu
diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, kiểm sốt lãnh thổ Việt Nam và

bình định cả Nam Đông Dương. Kế hoạch Nava là kế hoạch chung, là
nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ nhằm giành lại thế
chủ động có tính quyết định về quân sự trên chiến trường, làm cơ sở
cho một giải pháp chính trị có lợi cho chúng. Để đạt được mục tiêu đó,
Pháp và Mỹ đã lập kế hoạch đến năm 1954 qn chủ lực Pháp có 7 sư
đồn cơ động chiến lược với 27 binh đoàn làm nắm đấm thép. Khi phát
hiện hướng tiến công chiến lược của ta vào Tây Bắc, Lai Châu và
Thượng Lào, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp đã cho quân nhảy dù
chiếm Điện Biên Phủ.
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là tập đồn cứ điểm phịng ngự
mạnh nhất của Pháp ở Đông Dương lúc bấy giờ. Nava coi Điện Biên Phủ

6


như “một pháo đài không thể công phá”, là nơi thu hút để tiêu diệt bộ
đội chủ lực của ta. Điện Biên Phủ đã trở thành quyết chiến điểm của Kế
hoạch Nava.
Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua
phương án tác chiến, thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch, Đảng uỷ mặt
trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng uỷ
chiến dịch. Chính phủ quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận
do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Với ý nghĩa đặc biệt quan
trọng của chiến dịch, Bộ Chính trị và Tổng Quân uỷ đã quyết định tập
trung 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đồn cơng pháo với tổng qn số trên
40.000. Chấp hành quyết định của Bộ Chính trị, mọi cơng việc chuẩn bị
cho chiến dịch được tiến hành khẩn trương. Cả nước đã tập trung sức
mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến,
tất cả để chiến thắng”.
2. Tại sao Điện Biên Phủ được chọn làm tập đoàn then chốt?

- Tướng Thụy cho biết, sau nhiều thất bại và không thể xây dựng căn
cứ ở đồng bằng, quân đội Pháp quyết định lựa chọn Điện Biên Phủ làm
nơi xây dựng tập đoàn cứ điểm với ý đồ dụ, thu hút tiêu diệt quân chủ
lực của ta.
Ngày 7/5/1953, tướng Navarre được cử làm Tổng chỉ huy quân đội
viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Sau nhiều thiệt hại của quân đội Pháp,
Navarre đề ra kế hoạch quân sự với hy vọng trong 18 tháng sẽ giành
lấy một thắng lợi quyết định để “kết thúc chiến tranh trong danh
dự”.“Tướng Navarre sang với ý đồ rất lớn là sẽ tập trung lực lượng lại
chứ không dàn quân chiếm lĩnh nhiều nơi nữa. Navarre muốn tập trung
lại thành khối lớn, tạo thành sức mạnh lớn và dùng sức mạnh đó để
đánh với chủ lực của ta”, tướng Thụy nói.
Sau khi khảo sát, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông
Dương đã tập trung lực lượng để xây dựng Điện Biên Phủ thành tập
đoàn cứ điểm mạnh nhất tại đây.Tổng số địch ở Điện Biên Phủ lúc cao
nhất có tới 16.200 quân, gồm 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, cùng
với pháo binh, công binh, xe tăng và nhiều máy bay.Sau khi kiểm tra,

7


các tướng lĩnh Pháp và Mỹ đều coi Điện Biên Phủ là “một pháo đài bất
khả xâm phạm”.
2.1 Đặc điểm vị trí, địa hình
Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn thuộc tỉnh Lai
Châu (nay là tỉnh Điện Biên), nằm ở phía tây vùng núi rừng Tây Bắc, có
lịng chảo Mường Thanh (Mường Then – Mường trời) có chiều rộng từ 6
đến 8 km, chiều dài khoảng 18 km, cách thủ đô Hà Nội khoảng 300km
đường chim bay, nằm gần biên giới Việt Lào, trên một ngã ba của
nhiều tuyến đường quan trọng: phía đơng bắc giáp với Lai Châu; phía

đơng nam giáp Tuần Giáo, Sơn La, Nà Sản; phía tây thơng với
LngPhabang; phía nam thơng với Sầm Nưa.
Xung quanh thung lũng là một vùng núi rừng trùng điệp bao bọc.
Núi có độ cao trung bình 500m, có mỏm đột xuất cao tới 1461m.
Thung lũng Điện Biên là cánh đồng bằng phẳng, đồng ruộng khô ráo về
mùa khơ. Nhưng ngay sát thung lũng về phía đơng bắc có một dải địa
hình đặc biệt gồm một số điểm nổi lên cao hơn mặt cánh đồng trên
dưới 30m và hình thành một bức bình phong che chở cho thung lũng
trên hướng Tuần Giáo – Điện Biên Phủ. Trong thung lũng cịn có sơng
Nậm Rốm chảy theo hướng bắc nam đổ xuống sơng Nậm Hu, có sân
bay Mường Thanh được xây dựng từ năm 1889.
2.2. Ý nghĩa chiến lược của căn cứ này đối với Pháp
Đối với đế quốc Pháp - Mỹ, Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược
hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc
Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc, có thể trở thành
một căn cứ lục quân và không quân rất lợi hại trong âm mưu xâm lược
của chúng ở vùng Đông Nam châu Á.
Điện Biên Phủ là cứ điểm có ý nghĩa chiến lược khống chế cả một
vùng rộng lớn của Tây Bắc và Thượng Lào. Tuy nằm ngoài dự kiến ban
đầu của kế hoạch Nava, nhưng các tướng lĩnh Pháp và Mỹ đã tăng

8


cường lực lượng, xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm
mạnh.. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là tập đồn cứ điểm phịng
ngự mạnh nhất của Pháp ở Đông Dương lúc bấy giờ, như “một pháo đài
không thể công phá”, là nơi thu hút để tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta
và là quyết chiến điểm của kế hoạch Nava.
Đế quốc Pháp – Mỹ đánh giá Điện Biên phủ là “một vị trí chiến lược

quan trọng chẳng những đối với chiến trường Đông Dương, mà cịn đối
với miền Đơng Nam Á”, là “ ngã tư chiến lược quan trọng”, “cái bàn
xoay có thể xoay đi bốn phía Việt Nam, Lào, Miến Điện, Trung Quốc”,
như “chìa khóa” bảo vệ Thượng Lào. Đồng thời từ Điện Biên Phủ có thể
đánh chiếm lại các vùng đã mất ở Tây Bắc Trong những năm 1950 –
1953 và tạo điều kiện để tiêu diệt quân chủ lực của ta tại đây. Mặt khác
đây cịn là một căn cứ khơng qn, lục quân lợi hại, phục vụ cho chính
sách xâm lược của Mỹ ở Đông Nam Châu Á.
Nếu khống chế được khu vực này, chúng sẽ mở rộng được địa bàn
hoạt động nhằm uy hiếp, khống chế bên sườn và sau lưng ta, chia cắt
liên lạc và sự chi viện của ta với chiến khu Việt Bắc, Liên khu II và Liên
khu IV. Đồng thời từ đây có thể che chở cho Thượng Lào cùng kinh đô
LuôngPhaBăng.
Với những nhận định như vậy, quân đội Pháp, đứng đầu là H.Nava
đã chọn Điện Biên Phủ để xây dựng tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đơng
Dương.
3. Khó khăn và thuận lợi của qn ta
3.1. Khó khăn
a. Về tương quan lực lượng
Quân pháp có lực lượng quân sự mạnh mẽ, với ưu thế vượt trội về khí
tài quân sự, phương tiện chiến đấu và lực lượng tinh nhuệ có nhiều
kinh nghiệm. Lực lượng Việt Minh cịn thơ sơ, khí tài phương tiện hạn
chế yếu kém.

9


Về phía Qn đội Nhân Dân Việt Nam, tuy có qn sự đơng hơn đối
phương nhưng chưa có kinh nghiêm đánh cơng kiên lớn trên cấp tiểu
đồn. Nếu đánh mạo hiểm sẽ để lại hậu quả vô cùng nghiêm trọng, có

thể thua trên tồn bộ cục diện và “hết vốn” – theo cách nói của Bác.
Trước đây, trong các chiến dịch quy mơ nhỏ hơn, lực lượng sử dụng ít
hơn, chiến trường lại gần hậu phương hơn, thế mà việc hành quân, vận
chuyển đạn dược, lương thực, thực phẩm đã gặp nhiều khó khăn, có lúc
bộ đội phải ăn cháo. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ quy mô lớn hơn,
lực lượng sử dụng nhiều hơn, chiến trường xa hơn, thì khó khăn sẽ lớn
hơn nhường nào?
Diễn ra trên địa bàn rừng núi hiểm trở, đường cơ động cho pháo khó
khăn, thời gian chuẩn bị cho chiến dịch gấp, nhưng có ý nghĩa quân sự,
chính trị và ngoại giao rất quan trọng. Sự chuyển đổi phương châm
“đánh chắc tiến chắc ‘’đã thay đổi tồn bộ đội hình bố trí chiến dịch và
đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ về mọi mặt của ta, nhất là về bảo đảm vật chất,
khơng ít những khó khăn mới phát sinh.
Đối với bộ binh, sự thay đổi này là điều không đơn giản, nhưng đối
với pháo binh lại càng phức tạp hơn nhiều. Pháo vào trận địa bằng sức
đẩy, sức kéo của con người, thế mà đã kéo vào lại kéo ra, rồi lại kéo
vào trên một hướng khác; phải làm đường mới, phải chống pháo địch
đánh phá liên tiếp ngày đêm, nhất là ở các điểm nút di chuyển.
Địa hình hành quân trên đường hiểm trở, lại liên tục bị quân địch
quấy rối lùng sục, tình thế vận tải rất khó khăn, lương thực lên chưa
đến nơi đã hết. Địa hình Điện Biên Phủ tuy ở thế lịng chảo có lợi cho ta
nhưng với hỏa lực và lơ cốt địch dày đặc rất khó để tiến cơng, phục
kích, trái lại ta có thể bị đánh bật ra bất cứ lúc nào.
Về phía quân đội nhân dân Việt Nam, tuy có qn số đơng hơn đối
phương nhưng chưa có kinh nghiệm đánh cơng kiên lớn trên cấp tiểu
đoàn.. Về quân số, quân đội nhân dân Việt Nam chỉ vừa đạt tỉ lệ này,
nhưng về hỏa lực và trang bị thì lại kém hơn hẳn so với Pháp. Như các
cuộc chiến tranh trước đó đã cho thấy, một nhóm nhỏ qn phịng thủ
trong cơng sự kiên cố trên cao, sử dụng hỏa lực mạnh như đại liên có


10


thể chặn đứng và gây thương vong nặng nề cho lực lượng tấn cơng
đơng hơn nhiều lần, đó gọi là lợi thế trên cao
b. Các khó khăn khác.
Trong từng trận đánh cụ thể, việc tiếp cận đồn Pháp cũng không dễ
dàng. Khi Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ ngày 20 tháng 11 năm
1953, một trong những công việc đầu tiên của họ là dồn hàng nghìn
dân sống ở trung tâm Điện Biên Phủ vào khu vực bản Noong Nhai. Sau
đó, quân Pháp dùng súng phun lửa và bom cháy san phẳng mọi lùm
cây và chướng ngại vật trong thung lũng, để tạo điều kiện tối đa cho
tầm nhìn và tầm tác xạ của các loại hỏa lực, tiếp đó là để lấy nguyên
vật liệu nhằm xây dựng tập đoàn cứ điểm. Các loại hỏa lực như xe
tăng, lựu pháo, súng cối, súng phóng lựu, súng khơng giật (DKZ), v.v...
được bố trí để bắn ngay khi phát hiện mục tiêu, nếu cần thì có thể gọi
cả máy bay ném bom. Để có thể xung phong tiếp cận căn cứ địch, bộ
đội Việt Nam sẽ phải chạy khoảng 200m giữa địa hình trống trải dày
đặc dây kẽm gai và bãi mìn, phải hứng chịu đủ loại hỏa lực của Pháp
mà không hề có xe thiết giáp và chướng ngại vật che chắn.
Thêm nữa, tuy quân Pháp bị bao vây vào giữa lòng chảo Điện Biên,
Pháp ở đáy một chiếc mũ lộn ngược còn quân đội nhân dân Việt Nam ở
trên vành mũ, nhưng đó là ở tầm quy mơ chiến dịch. Từ đồn Pháp ra
đến rìa thung lũng trung bình là 2 đến 3 km, vậy nên ở quy mô từng
trận đánh thì Pháp lại ở trên cao, cịn qn đội nhân dân Việt Nam phải
ở dưới thấp tấn công lên. Quân Pháp cũng có dự trữ đạn pháo dồi dào
hơn hẳn cùng với máy bay ném bom yểm trợ, nên áp đảo về hỏa lực:
gấp 6 lần về đạn pháo và hơn tuyệt đối về không quân và xe tăng.
Trung bình cứ 1 bộ đội Việt Nam phải hứng chịu 2 trái pháo, 1 trái bom
và 6 viên đạn cối, trong khi khơng có xe tăng hay pháo tự hành để che

chắn yểm trợ khi tiến công.
Các loại súng bắn tỉa của bộ đội Việt Nam thời đó cũng khá là thô sơ
(chủ yếu là MAS-36 thu được của quân Pháp hoặc là Mosin-Nagant
được Trung Quốc viện trợ), phần lớn chỉ dùng thước ngắm cơ khí thơng

11


thường, nên với những khoảng cách lớn (trên 300m), việc bắn tỉa
khơng có hiệu quả.
Và đặc biệt, khó khăn lớn nhất của quân đội nhân dân Việt Nam là
khâu tiếp tế hậu cần. Phía Pháp cho rằng quân đội nhân dân Việt Nam
không thể đưa pháo lớn (cỡ 105mm trở lên) vào Điện Biên Phủ, các khó
khăn hậu cần của quân đội nhân dân Việt Nam là không thể khắc phục
nổi nhất là khi mùa mưa đến.
3.2. Thuận lợi
Lợi thế của chiến dịch Điện Biên Phủ khơng chỉ ở tính hiệu quả vào
thời điểm đó mà cịn là bài học mà chúng dạy cho các nhà chiến lược
quân sự tương lai.
Tồn dân ta có một lịng chung sức đánh gặc, nhất là lúc pháp đang
sa lầy ở Đông Dương và quân ta vừa có một loạt chiến thắng ở các
chiến dịch 1952 – 1953 đã giải phóng vùng rất rộng ở phía Bắc và Tây
Bắc.
Chỉ thị của Đảng và Bác rất kiên quyết và nhạy bén, tư duy quân sự
của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp hợp lý và am hiểu cục diện sâu sắc.
Nhân dân yêu nước pháp vẫn đấu tranh cho sự hịa bình ở Pháp và:
Raymonde Dien là 1 tấm gương tiêu biểu.
Chương II. Nghệ thuật quân sự độc đáo được sử dụng trong
chiến dịch.
Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nghệ thuật quân sự của toàn dân

đánh giặc là nghệ thuật chỉ đạo tác chiến của lực lượng vũ trang phát
triển ở trình độ cao ngay từ đầu, đồng thời vẫn chỉ đạo hoạt động quân
sự của đơng đảo quần chúng cầm vũ khí đánh giặc. Trong chiến dịch
lịch sử Điện Biên Phủ, nghệ thuật, cách đánh chiến dịch của quân đội
ta đã có bước phát triển vượt bậc, được nâng lên thành nghệ thuật
quân sự độc đáo mà trước đó chưa từng có trong lịch sử chống giặc
ngoại xâm của quân và dân ta.
1. Nghệ thuật phương châm tác chiến.

12


Mặc dù dự kiến mở màn Chiến dịch vào ngày 25/01/1954 (sau quyết
định vào ngày 13/3/1954), nhưng ngay từ ngày 05/12/1953, khi phát
hiện địch ở Lai Châu rút về Điện Biên Phủ, Bộ Tư lệnh đã lệnh cho Đại
đoàn 316 tiếp tục tiến cơng giải phóng Lai Châu; đồng thời, chỉ đạo Đại
đoàn 308 (đang ở Sơn La) sử dụng 01 trung đồn cắt đường rừng
xuống chốt ở Pom Lót, chặn đường địch từ Điện Biên Phủ sang Thượng
Lào. Đối với Đại đồn 316, sau khi truy kích địch trên đường Lai Châu Điện Biên Phủ, đã lập chốt chặn từ Mường Muôn, Mường Pồn đến Pu
San và bám địch ở Him Lam, Bản Tấu. Như vậy, đúng lúc những cứ
điểm đầu tiên của địch vừa mới bắt đầu xây dựng ở Điện Biên Phủ,
cũng là lúc các ngả đường Lai Châu - Điện Biên, Tuần Giáo - Điện Biên,
Điện Biên - Sốp Nao, Thượng Lào và cả hai đầu con đường độc đạo Bắc
– Nằm dọc cánh đồng Mường Thanh, từ Bản Tấu đến Pom Lót đều bị
các lực lượng của ta án ngữ, hình thành thế bao vây địch về chiến dịch
ngay từ ban đầu. Bước vào quá trình chuẩn bị Chiến dịch theo phương
châm “đánh nhanh, thắng nhanh”, chủ trương đánh địch trong 3 đêm 2
ngày nhằm hạn chế những khó khăn về mặt hậu cần. Tuy nhiên, khi mà
quân đội Pháp được tăng cường về đây ngày càng đông, công sự đã trở
nên vững chắc hơn rất nhiều.qn ta đã nhanh chóng hình thành thế

bao vây quân địch quy mô lớn hơn, chặt hơn quanh cánh đồng Mường
Thanh. Đặc biệt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định thay đổi phương
châm chuyển sang “đánh chắc, tiến chắc”, qn ta đã từng bước hình
thành thế trận “trói chặt” địch lại bởi hệ thống chiến hào dài hàng trăm
ki-lô-mét được xen dày và ngày càng siết chặt từng cứ điểm, cụm cứ
điểm, từng phân khu.
Mọi kế hoạch tháo chạy từ Xê-nô-phôn lúc ban đầu, đến “Diều hâu”
của Mỹ và cuối cùng là các kế hoạch “Chim ưng”, “Chim biển” của
Pháp đều khơng thể thực hiện được. Cùng với đó, thế trận bố trí tập
trung binh lực, hỏa lực, nhất là pháo binh hơn hẳn địch đã tạo thế có lợi
để ta giành thắng lợi trong từng trận đánh và kết quả của trận đánh
trước tạo thế, tạo đà cho trận đánh tiếp theo. Ta đã thực hiện tiêu diệt
từng cứ điểm, cụm cứ điểm ngoại vi, trước hết là trên các điểm cao
khống chế phía Bắc, rồi phía Đơng, “bóc vỏ” từ ngồi vào, mở đường

13


tiến xuống cánh đồng Mường Thanh, tiếp cận và uy hiếp ngày càng
sâu, càng mạnh tung thâm phòng ngự, cuối cùng dứt điểm bằng cuộc
tổng cơng kích vào phân khu Trung tâm của Tập đoàn cứ điểm, giành
thắng lợi hoàn toàn.
Việc thay đổi phương châm tác chiến đã thể hiện sự phân tích khoa
học, khách quan tình hình địch,ta và yếu tố địa hình. Điều này giúp
tránh được tổn thất về người và điều quan trọng hơn là đảm bảo sự
thắng lợi của chiến dịch.
2. Nghệ thuật xây dựng thế trận chia cắt, cô lập Điện Biên Phủ.
Không chỉ tôn trọng thực tế khách quan, để thắng lợi trong chiến
dịch này, việc giữ bí mật được ý đồ tác chiến và nghi binh chiến lược,
làm cho địch nhận định sai lầm là sự tài tình trong “điều binh khiển

tướng” của ta. Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch mà cả dân tộc ta
chống lại một đội quân nhà nghề thiện chiến và được trang bị tốt.
Trong cuộc chiến đó, cả nhân dân ta đã huy động mọi nguồn lực cao
nhất dồn về chiến tuyến. Thực hiện chủ chương đánh thu hút lực lượng
Pháp tại khắp các chiến trường Đông Dương, quân đội ta đã tiến hành
một loạt các cuộc hành quân, vây đánh thu hút lực lượng đối phương
chia lửa cho chiến trường Điện Biên Phủ. Trong thời gian này, quân đội
ta đã tiến hành các cuộc hành quân, đánh lớn tại Thượng Lào, Tây
Nguyên, Liên Khu V... làm cho Pháp phải dải đội hình ra khắp các chiến
trường. Tại Điện Biên Phủ, trước khi chiến dịch mở màn, cùng với việc
động viên bộ đội kéo pháo ra, tiếp tục bí mật chuẩn bị lại mọi mặt, ta
đã rút Đại đồn 308 tiến cơng sang hướng Thượng Lào, nhằm cô lập
địch ở Điên Biên Phủ hơn nữa tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giúp
bạn Lào mở rộng vùng giải phóng và khơng cho địch đánh vào sau lưng
ta. Với kế hoạch này, ta đã đạt được cả hai mục đích vừa nghi binh thu
hút sự chú ý của chúng và vừa bảo đảm cho bộ đội ở Điện Biên Phủ rút
ra khu tập kết an toàn. Điều này đã làm cho địch có những nhận định
hết sức sai lầm về ta. Đó là, “Việt Minh có vẻ từ bỏ tiến công”, “Việt
Minh sẽ từ bỏ ý định đánh Điện Biên Phủ”. Đối phương còn cho rằng,
hoạt động của ta trong Đông Xuân 1953-1954 đã lên tới đỉnh cao nhất,
cuộc lui quân của ta chắc chắn sẽ bắt đầu và để giành lại thế chủ động

14


tiến công, ngày 12-3-1954, chúng cho quân đổ bộ lên Quy Nhơn.
Nhưng chúng đã bị bất ngờ, khi chỉ sau đó đúng một ngày, ngày 13-31954, quân ta đã nổ súng tiến cơng Điện Biên Phủ. Việc nghi binh, giữ
bí mật đã tạo được sự bất ngờ cả về chiến lược và chiến dịch.
Với thế trận vững chắc, hiểm hóc, bám sát, đánh gần, quân ta đã
không chỉ “vây chặt, khóa chắc” địch, mà cịn hạn chế đến mức thấp

nhất việc phát huy thế mạnh của địch là quân số đông, hỏa lực mạnh,
công sự vững chắc và khoét sâu chỗ yếu lớn nhất của chúng là ở vào
thế bị cơ lập, gặp nhiều khó khăn về tiếp tế, tăng viện, từ đó dù cho
địch biết trước thất bại mà khơng có biện pháp nào có thể cứu vãn.
Qn ta đã đạt được cả hai mục đích vừa nghi binh thu hút sự chú ý
của chúng và vừa bảo đảm cho bộ đội ở Điện Biên Phủ rút ra khu tập
kết an tồn. Đây có thể được coi đã là một thành công lớn.
3. Nghệ thuật phát huy sức mạnh tác chiến.
Trong những tính tốn chiến lược của ta, bộ đội chính quy ngày càng
lớn mạnh cả về chất lượng và số lượng được điều động tối đa lên Điện
Biên Phủ nhưng vẫn đảm bảo chốt giữ tại những vị trí quan trọng khác.
Bốn sư đồn bộ binh, một sư đoàn pháo binh hành quân ra mặt trận.
Đây là trận công kiên lớn nhất, là lần đầu tiên ta phối hợp đánh hiệp
đồng các binh chủng bộ binh và pháo binh. So sánh lực lượng giữa ta
và địch, ta có nhiều lợi thế về bộ binh nhưng Pháp lại có những đơn vị
vô cùng thiện chiến đã từng tham gia chiến tranh thế giới và chưa từng
thua một trận đánh nào. Về pháo binh, Pháp hơn hẳn ta khi có những
khẩu pháo hạng nặng như 155mm, có thể oanh tạc xa và gây những
thiệt hại nghiêm trọng nếu trúng mục tiêu. Hơn nữa chúng cịn có ưu
thế tuyệt đối về xe tăng, máy bay (máy bay vận chuyển và máy bay
chiến đấu) và nhiều vũ khí quân sự khác. Cùng với đó, trận địa mà địch
xây dựng tại Điện Biên Phủ là “một pháo đài bất khả xâm phạm, với 8
cụm cứ điểm với hỏa lực nhiều tầng rất mạnh, tập trung thành ba phân
khu Trung tâm, Phân khu Bắc và Phân khu Nam.
Nghiên cứu cách bố trí lực lượng địch tại Điện Biên Phủ cũng như
những hạn chế của nó, Quân đội nhân dân ta đã đề ra cách đánh là
thực hiện chia cắt và tập trung hỏa lực vào tiêu diệt từng cứ điểm một,

15



cùng với đó là tiến hành tiến cơng cùng lúc nhiều mục tiêu khác nhau
để địch không thể yểm trở cho nhau.
Trận mở màn tại Trung tâm đề kháng Him Lam ngày 13/3/1954, là lá
chắn đầu tiên phía Đơng Bắc của địch, hướng tiến cơng chính của qn
ta đã khiến cho địch tan tác. Những loạt đạn pháo không thể chính xác
hơn của pháo binh đã dọn đường cho bộ binh xơng lên tiêu diệt từng vị
trí, từng tên địch trong các hầm trú ẩn. 5 giờ sau những tiếng súng đầu
tiên của trận chiến, Him Lam hoàn toàn thất trận và được kiểm soát bởi
Việt Minh. Liên tiếp hai ngày sau đó lần lượt các cứ điểm Độc Lập và
Bản Kéo cũng nhanh chóng bị xóa sổ, mở toang cánh cửa phía Bắc và
Đơng Bắc vào khu trung tâm Mường Thanh, nơi tập trung sức mạnh
chính của Tập đồn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Điều đáng chú ý là ta thực hiện tiến công cả ba quả đồi ở Him Lam
bằng cách tiến hành thọc sâu chia cắt và tiêu diệt riêng rẽ từng ngọn
đồi một vào cùng một thời điểm, do đó chúng khơng thể hỗ trợ cho
nhau, cũng có nghĩa là ta đã phân tán được hỏa lực của đối phương,
vốn được trang bị rất mạnh để hỗ trợ nhau trên ba quả đồi. Điều này
đã tạo điều kiện cho ta tiến công và tiêu diệt thành công từng mục tiêu
một mà tránh được hỏa lực mạnh nhất của chúng.
4. Nghệ thuật thực hành chiến thuật để đánh hạ địch.
Kết thúc giai đoạn I, ta có thời gian xây dựng và hình thành một hệ
thống giao thơng hào bao quanh các tập đoàn cứ điểm của Pháp. Hệ
thống này sẽ dẫn lấn tới các cứ điểm của Pháp, siết chặt vòng vây
quanh phân khu trung tâm, cắt đứt liên lạc giữa các phân khu, đặt các
vị trí của địch vào trong tầm ngắm của súng, pháo và bộ binh ta. Nhờ
đó cấu trúc trận địa của Pháp bị cắt xẻ hoàn toàn theo ý đồ của ta,
địch muốn cơng hay thủ đều khó, chỉ chờ ngày thất bại. Chứng tỏ rằng
ta đã “vây chặt khóa chắc” Pháp tại Điện Biên Phủ. Xuất phát từ điều
kiện thực tế trang bị, phương tiện của ta có hạn, cơng tác vận chuyển

tiếp tế bảo đảm khó khăn. Theo kế hoạch tác chiến mới, chiến dịch chủ
động làm công tác chuẩn bị, chủ yếu xây dựng thế trận vững chắc như:
Làm đường vận chuyển, xây dựng các trận địa pháo binh thật kiên cố,
bí mật, triển khai đội hình bao vây chặt các cứ điểm vịng ngồi, chú

16


trọng chia cắt địch phản kích đường bộ, khống chế đường khơng, tạo
thế cơ lập qn địch trong tập đồn cứ điểm và địch trên chiến trường
khác. Thế trận của Đại đồn 312 triển khai tiến cơng vào trung tâm đề
kháng Him Lam; Trung đoàn 165 của Đại đoàn 312 và Trung đoàn 88
của Đại đoàn 308 triển khai tiến cơng vào đồi Độc Lập; Trung đồn 36
của Đại đồn 308 triển khai tiến công vào trung tâm Bản Kéo; Đại đoàn
316 (thiếu Trung đoàn 176) tổ chức nghi binh và bí mật xây dựng trận
địa tiến cơng ở phía Đơng Phân khu Trung tâm; Trung đồn 57 (Đại
đồn 304) tổ chức hỏa lực kiềm chế pháo binh địch ở phân khu Hồng
Cúm. Thế trận của các đơn vị pháo binh được bố trí phân tán, nhưng
tập trung được hỏa lực ở mức cao. Trung đoàn Pháo binh 45 (pháo
105mm), lấy đội hình đại đội để bố trí trong đội hình cụm pháo từ Đơng
Bắc Hồng Cúm đến Tây Bản Kéo, trên vòng cung hơn 30km, nhưng tập
trung được hỏa lực trong các trận đánh then chốt quyết định ở khu vực
trung tâm, bảo đảm bắn được hầu hết các mục tiêu ở cự li bắn có lợi
nhất (5 đến 7 km). Trung đoàn Pháo binh 675 và các đơn vị cối 120mm
bố trí tập trung ở hướng Đơng và Đông Bắc Điện Biên Phủ. Trận địa sơn
pháo và cối 120mm thọc sâu, kịp thời cơ động bố trí trên Đồi E, Đồi D
khi bộ binh vừa đánh chiếm được. Đặc biệt, trận địa sơn pháo 75 thọc
sâu, bố trí trên Đồi E, tạo nên thế bất ngờ, rất hiểm đối với địch. Trên
cơ sở thế bố trí ban đầu vững chắc, chiến dịch liên tục củng cố, điều
chỉnh lực lượng đánh chiếm, tiêu diệt các cứ điểm đề kháng ngoại vi,

bao vây, thắt chặt, thu hẹp dần phạm vi chiếm đóng của địch. Trước
hết, cần tiêu diệt ba cứ điểm đề kháng Him Lam, Độc Lập và Bản Kéo,
phá vỡ thế trận phòng ngự của địch. Trong 5 ngày với hai trận chiến
đấu hiệp đồng binh chủng, ta đã đập tan hệ thống phòng ngự tiền tiêu
của địch, mở thơng cửa xuống vùng lịng chảo, tạo điều kiện thuận lợi
để các lực lượng áp sát khu trung tâm. Tuy ta đã chiếm được cụm cứ
điểm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo, nhưng địch vẫn còn bốn trung tâm
đề kháng, gồm trên 30 cứ điểm liên kết chặt chẽ với nhau nằm giữa
cánh đồng bằng phẳng trên hai bờ sông Nậm Rốm. Địch ở đây tập
trung khoảng một vạn quân, có sở chỉ huy, các căn cứ hỏa lực, các đơn
vị xe tăng và sân bay.

17


Ta tập trung tấn cơng các vị trí hiểm yếu như sân bay, kho xăng, trại
lính để tiêu diệt sức mạnh của địch nhiều nhất có thể, tích cực du kích
quấy rối. Nhờ đó ta khơng chỉ làm chủ bầu trời mà còn khiến địch tổn
thất về người và của rất lớn. Ta lập nhiều phong trào khuyến khích
quân sĩ tích cực chiến đấu: “săn đầu Tây”, “săn Tây bắn tỉa”, “cướp dù
tiếp tế”, “nghi binh tập kích” và cịn hơn nữa. Trước tình hình đó, ta chủ
trương dùng lực lượng nhỏ, hoạt động rộng rãi dưới các hình thức đánh
lấn, phá hủy từng ụ đề kháng, tiêu diệt thêm một số vị trí địch; bắn tỉa
tiêu hao địch rộng rãi, làm cho binh lính địch ln ở trạng thái căng
thẳng; đánh chiếm sân bay, thắt chặt vòng vây, thu hẹp không phận,
khống chế máy bay, hạn chế tiến tới triệt hẳn nguồn tiếp tế và tăng
viện của địch. Trên thực tế, từ trung tuần tháng 4, quân ta đã từng
bước làm thay đổi cục diện chiến trường. Sân bay địch đã bị chiến hào
ta cắt đơi, hai vị trí sát sân bay là Điểm cao 105 và 206 bị các đơn vị
của ta vây lấn và đánh chiếm. Máy bay địch không thể lên xuống hoặc

thả dù tiếp tế xuống khu vực sân bay. Hai trận địa pháo binh địch ở
Điểm cao 307A và 307B bị pháo lựu của ta loại khỏi vòng chiến đấu.
Các tổ bắn tỉa được tổ chức rộng khắp và hoạt động thường xuyên đã
gây nên nỗi kinh hồng đối với binh lính địch
Ngồi ra khi tham gia chiến đấu, ta đánh chiếm đến đâu, tổ chức
phịng ngự ngay đến đó, biến cứ điểm của địch thành trận địa phòng vệ
và bao vây của ta, hình thành hệ thống trận địa tiến cơng vây hãm
địch ngày càng chặt, cuối cùng dồn quân địch vào thế có thể bị tiêu
diệt nhanh chóng, và vào những ngày cuối cùng của chiến dịch đã có
hàng ngàn binh sĩ Pháp ra đầu hàng do thất bại không thể tránh khỏi
tại tập đồn cứ điểm đã được phịng ngự và bao vây chắc chắn.
5. Nghệ thuật tạo lập thế trận chiến tranh nhân dân.
Chủ động tạo lập thế trận Chiến dịch Điện Biên Phủ trên nền tảng
thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, toàn dân kháng chiến. Nghệ
thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta là đã vận dụng, phát triển sáng
tạo phương thức chiến tranh nhân dân Việt Nam, thực hiện “kháng
chiến toàn dân, toàn diện” để đánh thắng một đế quốc sừng sỏ, có
tiềm lực kinh tế, quân sự vượt trội. Sự kết hợp nhuần nhuyễn loại hình

18


chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy đã trở thành nét đặc sắc
về cách đánh của chiến tranh nhân dân, từ đó tạo ra thế trận tác chiến
rộng khắp, đánh địch với nhiều loại hình, quy mơ: từ đánh nhỏ, lẻ của
lực lượng vũ trang địa phương, du kích trong vùng tạm chiếm, đến
đánh tập trung của các binh đoàn chủ lực ở những địa bàn chiến lược
lựa chọn. Trong thực tế, trước khi Chiến dịch Điện Biên Phủ nổ súng, ta
đã tổ chức một số đơn vị chủ lực “nhỏ” và “tinh” đánh vào các hướng
địch yếu nhưng hiểm, tiêu diệt lực lượng địch tại chỗ và giải phóng một

số địa bàn chiến lược, buộc địch phải phân tán lực lượng cơ động ra các
hướng để đối phó. Đồng thời, bằng sự phối hợp chặt chẽ giữa chiến
tranh du kích rộng khắp trên phạm vi cả nước với các hoạt động tác
chiến của đơn vị chủ lực cấp sư đoàn, trung đoàn trên một số chiến
trường, ta đã thành cơng trong việc kìm giữ, giam chân một số đơn vị
chủ lực địch. Như vậy, thế trận của Chiến dịch Điện Biên Phủ được tạo
lập trong thế trận chiến tranh nhân dân vơ cùng hiểm hóc, lợi hại,
giăng ra khắp nơi, đẩy bộ chỉ huy của tướng Na-va phải hành động
theo ý định của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Khối cơ
động chiến lược của địch - “quả đấm mạnh” đã bị dàn mỏng, giam
chân ở khắp các chiến trường Đông Dương, làm cạn kiệt lực lượng ứng
cứu cho Điện Biên Phủ, làm so sánh lực lượng nghiêng hẳn về phía ta.
Bên cạnh đó, thế trận Chiến dịch Điện Biên Phủ còn được tạo bởi thế
trận chiến tranh nhân dân thông qua việc ta đã xây dựng được “thế
trận lòng dân” vững chắc, huy động tối đa sức mạnh tổng hợp của
nhân dân cả nước tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, nhất là trong
công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho Chiến dịch; tạo sự bất ngờ lớn
cho địch, khi chúng cho rằng với địa hình hiểm trở, xa hậu phương, ta
không thể khắc phục để vận chuyển, tiếp tế đủ lương thực, thực phẩm,
đạn dược,… phục vụ chiến trường Điên Biên Phủ.
Tích cực chuẩn bị chiến trường, đẩy đối phương vào thế hoàn toàn
bất lợi. Trong chiến tranh và chiến đấu, muốn giành thắng lợi, nhất là
trong điều kiện “lấy yếu chống mạnh”, “lấy ít địch nhiều” thì ắt phải
dựa vào mưu kế và thế trận. Trong đó, thế trận hiểm hóc, phức tạp làm
cho địch khơng biết đâu mà đối phó, chia địch ra mà đánh, trói địch lại

19


mà diệt, đánh địch cả phía trước, bên sườn, phía sau, làm cho địch

đơng mà hóa ít, mạnh mà hóa yếu. Từ chủ trương chiến lược của Trung
ương Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh đã đề ra Kế hoạch tác chiến Đơng - Xn
1953 - 1954; trong đó, xác định sử dụng một bộ phận chủ lực mở cuộc
tiến công lên hướng Tây Bắc, tiêu diệt quân địch ở Lai Châu, giải phóng
hồn tồn khu vực Tây Bắc. Đồng thời, tiếp tục củng cố phát triển lực
lượng vũ trang ba thứ quân trên khắp chiến trường, đặc biệt coi trọng
việc đổi mới về tổ chức biên chế, trang bị, huấn luyện các đại đoàn chủ
lực theo phương thức tác chiến của các loại hình chiến dịch hiện đại. Từ
năm 1953, ta đã có bước triển khai chuẩn bị chiến trường, sửa chữa và
xây dựng hệ thống đường vận chuyển cơ giới lên hướng Tây Bắc, nối
liền Tây Bắc với các vùng hậu phương chiến lược Việt Bắc, Khu 3 và
Khu4.
Liên tục điều chỉnh, chuyển hóa thế trận, hình thành thế “vây chặt,
khóa chắc” từng cụm cứ điểm và cả tập đồn cứ điểm, chia cắt thế liên
hoàn của chúng. Mặc dù dự kiến mở màn Chiến dịch vào ngày
25/01/1954 (sau quyết định vào ngày 13/3/1954), nhưng ngay từ ngày
05/12/1953, khi phát hiện địch ở Lai Châu rút về Điện Biên Phủ, Bộ Tư
lệnh đã lệnh cho Đại đoàn 316 tiếp tục tiến cơng giải phóng Lai Châu;
đồng thời, chỉ đạo Đại đoàn 308 (đang ở Sơn La) sử dụng 01 trung
đoàn cắt đường rừng xuống chốt ở Pom Lót, chặn đường địch từ Điện
Biên Phủ sang Thượng Lào. Đối với Đại đồn 316, sau khi truy kích địch
trên đường Lai Châu - Điện Biên Phủ, đã lập chốt chặn từ Mường Muôn,
Mường Pồn đến Pu San và bám địch ở Him Lam, Bản Tấu. Như vậy,
đúng lúc những cứ điểm đầu tiên của địch vừa mới bắt đầu xây dựng ở
Điện Biên Phủ, cũng là lúc các ngả đường Lai Châu - Điện Biên, Tuần
Giáo - Điện Biên, Điện Biên - Sốp Nao, Thượng Lào và cả hai đầu con
đường độc đạo Bắc - Nam dọc cánh đồng Mường Thanh, từ Bản Tấu
đến Pom Lót đều bị các lực lượng của ta án ngữ, hình thành thế bao
vây địch về chiến dịch ngay từ ban đầu. Bước vào quá trình chuẩn bị
Chiến dịch theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh”, qn ta

đã nhanh chóng hình thành thế bao vây qn địch quy mô lớn hơn,
chặt hơn quanh cánh đồng Mường Thanh. Đặc biệt, khi Bộ Tư lệnh

20


quyết định thay đổi phương châm chuyển sang “đánh chắc, tiến chắc”,
quân ta đã từng bước hình thành thế trận “trói chặt” địch lại bởi hệ
thống chiến hào dài hàng trăm ki-lô-mét được ken dày và ngày càng
siết chặt từng cứ điểm, cụm cứ điểm, từng phân khu. Ta đã thực hiện
tiêu diệt từng cứ điểm, cụm cứ điểm ngoại vi, trước hết là trên các
điểm cao khống chế phía Bắc, rồi phía Đơng, “bóc vỏ” từ ngồi vào, mở
đường tiến xuống cánh đồng Mường Thanh, tiếp cận và uy hiếp ngày
càng sâu, càng mạnh tung thâm phòng ngự, cuối cùng dứt điểm bằng
cuộc tổng cơng kích vào phân khu Trung tâm của Tập đoàn cứ điểm,
giành thắng lợi hoàn tồn. Với thế trận vững chắc, hiểm hóc, bám sát,
đánh gần, qn ta đã khơng chỉ “vây chặt, khóa chắc” địch, mà còn
hạn chế đến mức thấp nhất việc phát huy thế mạnh của địch là quân
số đông, hỏa lực mạnh, công sự vững chắc và khoét sâu chỗ yếu lớn
nhất của chúng là ở vào thế bị cô lập, gặp nhiều khó khăn về tiếp tế,
tăng viện, từ đó dù cho địch biết trước thất bại mà khơng có biện pháp
nào có thể cứu vãn.
6. Nghệ thuật tập trung lực lượng ưu thế, đột phá đánh thẳng
vào trung tâm tập đoàn cứ điểm.
Khi quyết định mở chiến dịch, ta đã tập trung lực lượng ưu thế, gồm
3 Đại đoàn (308, 312, 316), Trung đoàn 57 của 304 và Đại đồn Cơng
Pháo 351. Trong khi đó, địch tập trung lúc đơng nhất là 17 tiểu đồn.
Như vậy, lực lượng, phương tiện của ta hơn hẳn địch. Trong đợt tổng
cơng kích tiêu diệt Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, ta cũng tập trung
lực lượng ưu thế vào hướng, khu vực địch phịng ngự then chốt trên các

điểm cao phía Đơng. Khi tiến công vào từng cụm cứ điểm, ta vận dụng
phương pháp đột phá lần lượt từ ngoài vào, vừa tiến hành bao vây
đánh lấn các cứ điểm bên trong. Tổ chức trận địa pháo binh của trung
đoàn pháo cỡ lớn, có tầm bắn xa, khơng chỉ làm nhiệm vụ chiến thuật
chi viện trực tiếp cho các trận đánh, mà còn dùng để đánh phá sân
bay, trận địa pháo binh, sở chỉ huy địch. Lúc này, chiến dịch tập trung
mọi lỗ lực thực hiện nhiệm vụ chủ yếu đánh chiếm các mục tiêu trong
khu trung tâm.
Tập trung ưu thế lực lượng đánh vào mục tiêu chủ yếu, quan trọng,

21


nhanh chóng giành thắng lợi. Ngày 01-05-1954, chiến dịch sử dụng các
loại pháo bắn mãnh liệt khu vực trận địa địch. Cụm pháo địch ở Hồng
Cúm bị tê liệt hoàn tồn, một kho đạn pháo với trên ba nghìn viên đạn
bị nổ tung, một kho lương thực, thực phẩm bị bốc cháy. Sau đợt pháo
kích kéo dài, bộ đội ta đồng loạt tiến đánh nhiều vị trí. Trên dãy đồi
phía Đơng, Trung đồn 98 thuộc Đại đồn 316 diệt gọn lực lượng địch
trên Đồi C1, thừa thắng, các đơn vị đẩy mạnh tốc độ tiến công sang Đồi
C2. Trên bờ phía Đơng sơng Nậm Rốm, Trung đồn 209 thuộc Đại đồn
312 tiến cơng các Cứ điểm 505 và 505A. Đến 4 giờ sáng, trung đoàn
hoàn toàn làm chủ hai cứ điểm này. Ở phía Tây, Trung đồn 88 cũng
diệt gọn Cứ điểm 311A. Trên hướng Hồng Cúm, lúc này địch vẫn chống
cự, nhưng đến tối ngày 7-5, lợi dụng đêm tối địch rút chạy về hướng
Thượng Lào. Bộ Chỉ huy chiến dịch đã lệnh cho Đại đồn 304 phải tích
cực truy lùng, đồng thời lệnh cho Trung đoàn 102 chặn đường rút chạy
của địch ở khu vực Tây Trang. Vào lúc 22 giờ ngày 7-5, Đại đoàn 304 đã
bao vây và bắt gọn toàn bộ quân địch ở Hồng Cúm thốt ra. Đây chính
là nét đặc sắc của chiến dịch trong tập trung ưu thế lực lượng đánh vào

mục tiêu chủ yếu, quan trọng, nhanh chóng giành thắng lợi
III: KẾT QUẢ, Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VẬN DỤNG
VÀO TÌNH HÌNH MỚI.
1. Kết quả, ý nghĩa.
1.1. Kết quả.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu, quân và dân ta đã giành toàn thắng
trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Dù quân Pháp đã phải
gia tăng quân số lên đến 16.000 người, họ đã không thể nào lật ngược
thế cờ. Toàn bộ quân Pháp ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt và bị bắt làm tù
binh. Thiệt hại về phía Pháp là 1.747 tới 2.293 người chết, 5.240 tới
6.650 người bị thương, 1.729 người mất tích và 11.721 bị bắt làm tù
binh. Toàn bộ 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 3 tiểu đồn pháo binh,
10 đại đội qn đội quốc gia Việt Nam bị tiêu diệt . Tổng số sĩ quan và
hạ sĩ quan bị diệt và bị bắt là 1.706, gồm 1 chuẩn tướng, 16 đại tá và
trung tá, 353 sĩ quan từ thiếu úy đến thiếu tá. Thiệt hại về phía Mỹ là 2
phi cơng chết và 1 bị thương.

22


Về không quân, Pháp bị tổn thất 59 phi cơ bị phá hủy ( 38 chiếc đang
bay, 21 trên phi đạo), trong đó có 3 máy bay khác bị phá hủy trước
ngày 13 tháng 3 năm 1954, 2 trực thăng cũng bị phá hủy. Ngồi ra cịn
có 186 phi cơ khác bị trúng đạn và hư hại ở các mức độ khác nhau.
Phía Mỹ có 1 phi cơ bị bắn rơi C-119. Về trang bị nặng, Pháp mất toàn
bộ trang bị vũ khí, xe tăng và pháo binh ở Điện Biên Phủ. Phía Quân đội
nhân dân VIệt Nam thu giữ 3 xe tăng, 28 đại bác, 5.915 súng các loại,
20.000 lít xăng dầu cùng rất nhiều đạn dược, quân trang quân dụng
khác.
Thiệt hại về phía Quân đội nhân dân Việt Nam theo hồ sơ quân y của

Việt Nam là 4.020 người chết, 9691 người bị thương, và 792 mất tích.
1.2. Ý nghĩa.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954 của Quân đội và
Nhân dân Việt Nam cách đây 66 năm đã đập tan những cố gắng, nỗ lực
về quân sự tối cao nhất của thực dân Pháp và có sự can thiệp của Mỹ.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm1954 đã bắt buộc chính phủ
Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (tháng 7 năm 1954). Công nhận độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đơng
Dương trong đó có Việt Nam. Và đây cũng là kết thúc cuộc kháng chiến
trường kỳ gian khổ kéo dài chín (9) năm (1945 – 1954) của Quân đội và
Nhân dân Việt Nam. Đồng thời cũng chấm dứt ách thống trị của thực
dân Pháp kéo dài hàng thế kỷ, chiến thắng lịch sử này đã mở ra một
bước ngoặt phát triển mới cho cách mạng Việt Nam và Đảng cộng sản
Việt Nam.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, làm hậu phương vững chắc cho sự nghiếp đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước.Chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc
hoàn toàn giải phóng và trở thành căc cứ địa cách mạng rộng lớn, hậu
phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đồng
thời, chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 đập tan một mắt xích quan trọng
trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ, mở đầu cho sự
sụp đổ trên phạm vi tồn thế giới; giáng địn nặng nề đầu tiên vào dã
tâm xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ.

23


Cũng từ đây, “tiếng sấm Điện Biên Phủ” có sức cổ vũ mạnh mẽ các
dân tộc thuộc địa đấu tranh giành độc lập, nhất là các nước châu Phi,
châu Mỹ la-tinh; đồng thời góp phần làm sáng ngời chân lý của chủ

nghĩa Mác - Lênin thời đại ngày nay: “Một dân tộc bị áp bức nhưng nếu
quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, có đường lối chính trị, đường lối
quân sự đúng đắn, biết phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân, sức
mạnh thời đại thì hồn tồn có khả năng đánh bại những đội quân xâm
lược hung bạo”. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Điện
Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử.
Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 để lại cho cách mạng Việt Nam
những bài học - kinh nghiệm rất quý báu: Giữ vững và tăng cường phát
huy vai trò lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở chủ trương, đường lối đúng
đắn, kịp thời nắm bắt thời cơ, chớp thời cơ, chỉ đạo chiến lược nhạy
bén, sắc sảo nhằm tập trung sức mạnh cao độ cả nước để giành thắng
lợi quyết định; thực hiện tốt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, biết dựa vào
dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích
chính đáng của nhân dân; phát huy thế trận chiến tranh nhân dân
vững chắc, không ngừng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng lớn
mạnh, đặc biệt là bộ đội chủ lực để sẵn sàng thực hiện tốt nhiệm vụ,
nhất là những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, những trận quyết chiến;
không ngừng chăm lo, củng cố khối đại đồn kết tồn dân, lấy liên
minh giai cấp cơng - nơng làm nền tảng, tích cực đấu tranh vì mục tiêu
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; xây dựng tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng trên cơ sở bình
đẳng, tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ và đều hướng
đến mục tiêu vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội.
Những bài học kinh nghiệm ấy vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục được
Đảng, Nhà nước ta chắt lọc, vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
2. Bài học kinh nghiệm vận dụng vào tình hình mới.
Trước hết, vận dụng, phát triển bài học về sự kiên định đường lối
lãnh đạo của Đảng, thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng trong
điều kiện mới. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,


24


trên cơ sở đánh giá đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch, với tầm
nhìn chiến lược và tư duy khoa học sắc sảo, nắm vững những quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về chiến tranh cách mạng,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối kháng chiến toàn
dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Đó là đường lối hết
sức đúng đắn, sáng tạo. Nhờ đường lối đó, cùng với phương châm chỉ
đạo chiến lược tài tình, Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh của toàn
dân tộc, kết hợp với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa
anh em, bạn bè quốc tế, để vừa đánh, vừa xây dựng và phát triển lực
lượng, từng bước làm biến đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta, đánh bại
từng âm mưu và kế hoạch quân sự của địch, tiến lên giành thắng lợi
hoàn toàn.
Thứ hai, tiếp tục phát huy bài học về nghệ thuật tiến hành chiến
tranh nhân dân vào công cuộc xây dựng nền quốc phịng tồn dân
vững mạnh tồn diện, ngày càng hiện đại. Trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc suốt 30 năm (1954 - 1975), cũng như trong chiến dịch Điện
Biên Phủ, để đánh thắng kẻ thù xâm lược có tiềm lực quân sự hơn hẳn,
Đảng ta đã thực hiện nhất quán đường lối chiến tranh nhân dân; tổ
chức, phát động tồn dân đánh giặc, với nịng cốt là lực lượng vũ trang
ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích).
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo chiến lược tiến công và thực hiện phương
thức tiến hành chiến tranh nhân dân độc đáo: kết hợp chiến tranh du
kích với chiến tranh chính quy; chiến tranh nhân dân địa phương với
chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực, ta đã thực hành đánh địch liên
tục, rộng khắp ở mọi quy mô (đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ), với các
hình thức tác chiến phong phú, linh hoạt; càng đánh càng mạnh, đánh

đổ từng bộ phận đến toàn cục, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành
thắng lợi hoàn toàn.
Ngày nay, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, cần tiếp tục nghiên cứu,
phát triển lý luận về chiến tranh nhân dân, vận dụng sáng tạo, phù hợp
với thực tiễn xây dựng nền quốc phịng tồn dân trong điều kiện mới:
đất nước hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại

25


×