Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Không gian văn hóa cồng chiêng tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.85 MB, 37 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU........................................................................................................3
1. Lời mở đầu.................................................................................................................3
2. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu................................................................................................4
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài........................................................................................4
PHẦN II: NỘI DUNG...................................................................................................4
I - Khát quát về khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun.................................4
1. Khái niệm khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun là gì?.........................4
2. Nguồn gốc...............................................................................................................7
3. Quá trình hình thành và phát triển....................................................................10
3.1 Sự phát triển về chất liệu...............................................................................10
3.2 Sự phát triển về văn hóa- xã hội....................................................................10
4. Q trình đề nghị và được cơng nhận “Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây
Ngun”....................................................................................................................13
II - Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên....................................................16
1. Nét đặc trưng về mơi trường tự nhiên, dân cư và văn hóa...............................16
1.1 Đặc trưng về môi trường tự nhiên.................................................................16
1.2 Đặc trưng về dân cư.......................................................................................17
1.3 Đặc trưng về xã hội.........................................................................................19
2. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên...................................................20
2.1 Đặc trưng về văn hóa......................................................................................20
2.2 Đặc trưng về tiếng cồng, tiếng chiêng............................................................22
2.3 Những giá trị về “Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun”.............27
III - Cồng Chiêng – Kiệt tác văn hóa của nhân loại.................................................30
IV – Bảo tồn và phát huy những giá trị của “Khơng gian văn hóa cồng chiêng
Tây Ngun”................................................................................................................ 30
1. Thực trạng về văn hóa cồng chiêng hiện nay.....................................................30
2. Bảo tồn và phát huy có hiệu quả di sản văn hóa cồng chiêng...........................33
IV. KẾT LUẬN............................................................................................................35
Nguồn tài liệu tham khảo............................................................................................37




PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.

Lời mở đầu

Nhắc đến Tây Nguyên người ta sẽ nghĩ đến ngay mảnh đất cao nguyên
đầy nắng và gió, những bản làng của người Gia Lai, Ê Đê, những câu truyện sử
thi già làng kể mỗi đêm hay chú voi con ở Bản Đôn đã nghe từ ngày cịn nhỏ.
Đặc biệt nhất phải kể đến đó chính là không gian sôi nổi, vui vẻ với những điệu
múa của những cô gái Tây Nguyên, của tiếng nhạc phát ra từ những chiếc cồng,
chiếc chiêng làm nên bản sắc văn hóa của cả một dân tộc. Vâng đó chính là
khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun đã được UNESCO cơng nhận là
kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 25/11/2005.
Sau Nhã nhạc
Cung đình Huế, Cồng chiêng Tây Nguyên là di sản văn hóa phi vật thể thứ hai
của Việt Nam được tơn vinh là di sản của thế giới. Điều đó khẳng định Việt Nam
là một đất nước có bề dày truyền thống văn hóa, có nhiều nghệ thuật truyền
thống cần được bảo tồn, gìn giữ và phát huy. Sau đây là những tìm hiểu của
nhóm về kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại nói chung và
của Việt Nam nói riêng.
2.

Lý do chọn đề tài

Việc UNESCO cơng nhận văn hóa cồng chiêng Tây Ngun là kiệt tác
truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại (2005), được đổi thành di sản văn
hóa phi vật thể đại diện nhân loại (2008), khiến cho văn hóa cồng chiêng của các
tộc người Tây Ngun đã chính thức có vị thế ở tầm thế giới. Kể từ đó, vấn đề

bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa này cũng trở nên quan trọng hơn
với ý nghĩa rộng lớn hơn.
Trong xã hội còn mang đậm tập tính cộng đồng nơi đây, tiếng cồng chiêng
có tác dụng kết nối mọi người lại với nhau. Cuộc đời người Tây Nguyên nào
cũng thắm đượm âm thanh cồng chiêng, từ lúc sơ sinh cho đến khi về thế giới
bên kia. Hơn thế nữa, trong tín ngưỡng âm nhạc cồng chiêng như một phương
tiện đặc biệt, có tính thiêng, để con người giao tiếp được với thần linh, người quá
cố và các bậc tổ tiên. Âm nhạc cồng chiêng phục vụ cho những sinh hoạt cộng
đồng, dịp lễ hội. Không phải ngẫu nhiên mà người ta coi tiếng cồng chiêng là
tiếng nói, tín hiệu hay biểu tượng của người Tây Nguyên. Sự quý giá của cồng
chiêng bao gồm cả hai lĩnh vực: vật thể và phi vật thể. Cồng chiêng đứng đầu
2


trong hệ thống nhạc cụ Tây Nguyên. Văn hóa cồng chiêng là một hợp phần rất
quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc nói riêng và của tồn Tây
Ngun nói chung. Những giá trị to lớn và đặc biệt của di sản này được các cư
dân bản địa Tây Nguyên sở hữu và trao truyền trong cộng đồng, được giới thiệu
nghiên cứu khẳng định, các nhà quản lý quan tâm, được UNESCO tôn vinh.
Việc bảo tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là tất yếu, song
không hề đơn giản.
Trong những năm qua, do sự thay đổi về nền kinh tế, sự tác động của cơ
chế thị trường, sự chi phối mạnh mẽ của các dịng văn hóa tích cực lẫn tiêu cực,
đã làm xói mịn nền văn hóa truyền thống. Nạn mua bán cồng chiêng, đập bỏ
cồng chiêng, xóa bỏ lễ hội dân gian cổ truyền... Ở các buôn làng đã làm gần như
cạn kiệt vốn văn hóa quý báu này.
Xuất phát từ thực tế, là một thế hệ trẻ của đất nước, chúng em không khỏi
băn khoăn, lo lắng về một di sản văn hóa vừa được cơng nhận là niềm tự hào của
một dân tộc lại đang bị mai một dần. Với tất cả những lý do trên, chúng em đã
chọn vấn đề “bảo tồn và phát huy giá trị không gian văn hóa cồng chiêng Tây

Nguyên” làm đề tài nghiên cứu của mình.
3.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của bài tiểu luận này chủ yếu là không gian văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên mà bao gồm trong đó các yếu tố như: loại hình cư trú,
trang phục truyền thống, ẩm thực, phong tục tập quán, lễ hội, âm nhạc... để qua
đó có thể khai thác các yếu tố văn hóa này nhằm phục vụ cho bài nghiên cứu và
hoạt động du lịch của địa phương.
4.

Phạm vi nghiên cứu đề tài

Về mặt nội dung: đề tài chủ yếu nghiên cứu các yếu tố văn hóa đặc biệt là
khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun.
Về khơng gian nghiên cứu: địa điểm nghiên cứu là khu vực Tây Nguyên,
bao gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.
PHẦN II: NỘI DUNG
I - Khát quát về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun
1.

Khái niệm khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun là gì?

Là khu vực đang diễn ra hình thức sinh hoạt văn hóa cồng chiêng độc đáo
này mà chủ thể chính ở đây là các dân tộc thiểu số, tiêu biểu như: Bana, Xêđăng,
3


Mnơng, Cơho, Rơmăm, Êđê, Giarai… Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây

Nguyên là không gian trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk
Nông và Lâm Đồng.

Dân tộc Bana Nguồn Internet

Dân tộc Xê đăng nhánh Xơ Teng Nguồn Internet

4


Dân tộc Mnông
Nguồn Internet

Dân tộc Cơho
Nguồn Internet

Dân tộc Rơmăm Nguồn Internet

Dân tộc Êđê Nguồn Internet

5


Dân tộc Giarai Nguồn Internet
Mỗi dân tôc ở Tây Nguyên sử dụng cồng chiêng theo cách thức riêng để
chơi những bản nhạc của dân tộc mình, nhất là vào dịp lễ hội, chào đón năm
mới, mừng nhà mới và nó thể hiện được tiếng nói tâm linh, tâm hồn con người,
để diễn tả tâm trạng của con người.
Trải qua bao năm tháng cồng chiêng đã trở thành nền văn hóa đặc trưng,
đầy sức quyến rủ và hấp dẫn của vùng đất Tây Ngun. Năm 2005 “khơng gian

văn hóa cồng chiêng Tây Ngun “đã chính thức được UNESCO cơng nhận là
“Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại”

Cồng chiêng Tây Nguyên Nguồn Internet
2. Nguồn gốc
Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là một trong những nét đặc sắc và đặc
trưng của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Dù trải qua bao nhiêu năm thì cồng
chiêng vẫn ln gắn bó với mọi hoạt động của cơng đồng dân cư sinh sống tại
Tây Ngun.
Chính đồng bào các dân tộc ở vùng đất này đã thổi hồn và tiếp thêm sức
sống cho cồng chiêng Tây Nguyên để những âm thanh khi ngân nga sâu lắng,
khi thôi thúc trầm lắng, hịa quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng lòng của
người dân Tây Nguyên sống mãi cùng với đất trời và con người. Đây là một
minh chứng độc đáo và cũng là một nét đặc trưng của truyền thống văn hóa dân
tộc Tây Nguyên.
Rất nhiều ý kiến cho rằng nguồn gốc của cái cồng, cái chiêng có phải là ở
bản địa hay là xuất phát từ nơi khác đến. Theo Giáo sư - nhạc sĩ Tô Vũ - một
trong những chuyên gia ở Việt Nam có thâm niên cao nhất về lĩnh vực này - đã
cho rằng, căn cứ vào nhiều yếu tố, có thể khẳng định rằng chiêng Tây Nguyên là
cái nôi của cồng chiêng Đông Nam Á. Ông đã nghiên cứu cồng chiêng từ năm
1978, nhạc sĩ Tô vũ đã phát hiện ra nhiều điều thú vị. Về cội nguồn, cồng chiêng
6


là "hậu duệ" của đàn đá - trước khi có văn hóa đồng, người xưa đã tìm đến loại
khí cụ đá theo "quy trình tiến hóa" cồng đá, chiêng đá, chiêng..., rồi mới tới cồng
đồng, chiêng đồng.

Đàn đá Nguồn Internet


Cồng chiêng đồng Nguồn Internet
Cồng chiêng Tây Nguyên là cái nôi của cồng chiêng Đông Nam Á, bởi
những yếu tố sau:
Về vết tích hiện vật, những nét chạm khắc biểu hiện người đánh cồng
chiêng (dáng đánh rất giống người Tây Nguyên) có trên trống đồng Đơng Sơn
vốn có lịch sử hơn 4.000 năm. Về lối đánh, "rất nguyên thủy", người Tây
Nguyên vẫn "mỗi người một cái", chưa kết thành dàn do một nghệ sĩ biểu diễn
như các dân tộc ở Thái-lan, Malaysia, Lào, Campuchia (theo nguyên lý phát
triển từ đơn giản đến phức tạp; càng đơn giản càng gần ý nghĩa là "vật tổ"); hình
dáng cồng chiêng cũng thế, chưa phát triển theo dạng trống (tức chiêng có đế,
vng hoặc trịn).
7


Về mục đích, cồng chiêng Tây Nguyên vẫn mang ý nghĩa từ thuở sơ khai
của nó: Dùng để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín ngưỡng - là
phương tiện giao tiếp với siêu nhiên qua các lễ thổi tai, bỏ mả..., nghĩa là vẫn
thuần chức năng phục vụ đời sống con người. Trong khi ở các vùng Đông -Nam
Á khác, cồng chiêng đã "tiến hóa" đến mức thành phương tiện biểu diễn cung
đình, mang chức năng giải trí.
Xét về lịch sử tiến hóa, mỗi sự biến chuyển tính năng nhạc khí (ở thời bấy
giờ) diễn ra trong hàng mấy trăm năm. Và có thể khẳng định, căn cứ trên vết tích
trống đồng (mà những gì q giá mới được khắc lên đó), cồng chiêng Tây
Ngun đã có ít nhất 2.000 năm.
Đồng thời, dựa vào tài liệu khảo cổ về nguồn gốc tộc người và ngữ hệ ở
Việt Nam, vốn từ họ Nam Á và Nam Đảo (thậm chí gần đây cịn có luận điểm
gây bất ngờ rằng trống đồng Việt có nguồn gốc từ Trường Sơn), có thể khẳng
định rằng cộng đồng Việt, Tày, các tộc người Tây Nguyên đã từng ở với nhau rất
lâu đời, vì vậy sự "giao thoa" văn hóa cồng chiêng là hiển nhiên.
Suốt lịch sử văn hóa của mình, người Tây Ngun khơng chế tác mà mua

cồng chiêng từ người Kinh vùng Quảng Nam, rồi về "nắn" lại thanh âm theo
cách của mình - đó là những hoạt động "giao thương" theo lối hàng đổi hàng có
từ hàng nghìn năm nay. Ngay cả "chiêng Lào" mà người Tây Nguyên sở hữu
cũng không phải được chế tác từ Lào mà chỉ là hàng hóa trao đổi, mua bán từ
nơi khác về Tây Nguyên. Từ đó dẫn đến quan điểm nhất quán rằng cồng chiêng
Tây Nguyên là cồng chiêng Việt.
Và còn một số giả thuyết khác lại cho rằng cồng chiêng không xuất phát
từ Tây Nguyên:
Mỗi con người Tây nguyên là một nghệ sĩ, nhạc sĩ thực thụ, có thể vừa hát
vừa múa, sử dụng từng nhạc cụ hay tham gia vào dàn nhạc cồng chiêng một cách
thành thạo. Khả năng âm nhạc của người Tây nguyên được phát triển tự nhiên và
phổ biến trong cộng đồng. Ngày trước, nam nữ đến tuổi trưởng thành mà khơng
biết chơi cồng chiêng cịn khó lập gia đình!
“Cái nơi của cồng chiêng rất có thể là Trường Sơn - Tây nguyên” là giả
định của GS Jose Maceda (Philippines) cách đây hơn 20 năm. Đông Sơn đã trở
thành tên gọi cho cả nền văn hóa thời kỳ đồ đồng cách đây khoảng 3.500 năm
trong khu vực Đông Nam Á. Hiện người Mường ở Thanh Hóa, Hịa Bình vẫn
cịn những dàn cồng chiêng đến 12 chiếc.
Và một giả thiết đã được GS. Tơ Vũ xác nhận: cồng chiêng rất có thể có
nguồn gốc Việt - Mường, nhưng về sau trong q trình dài Hán hóa đã bị mai
8


một đi; chỉ còn lại nhánh “trốn lên núi” (Mường) là lưu giữ được... Một thực tế
củng cố thêm giả thiết này là đồng bào dân tộc Tây nguyên vẫn chưa tự chế tác
được nhạc cụ cồng chiêng mà phải mua của người Kinh, người Lào, Campuchia.
Đó chỉ là một số giả thuyết của một số nhà khoa học nói về nguồn gốc của
cồng chiêng Tây Nguyên. Và các giả thuyết điều cho rằng cồng chiêng Tây
Nguyên có nguồn gốc xuất phát từ Việt Nam.
3.

Quá trình hình thành và phát triển
Cồng chiêng là một nhạc cụ rất phổ biến trong nền âm nhạc của các tộc
người Việt Nam. Nhưng với người Tây Nguyên, cồng chiêng là đại diện, là
nguồn sống, là tín ngưỡng tâm linh. Những âm thanh khi ngân nga sâu lắng, khi
thơi thúc, hịa quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng lịng sẽ sống mãi cùng
với đất trời và con người Tây Nguyên. Để có được những thành tựu như ngày
hôm nay, cồng chiêng Tây Nguyên phải trãi qua một quá trình phát triển lâu dài.
3.1 Sự phát triển về chất liệu
Sự thay đổi về chất liệu làm nên cồng chiêng theo phán đoán của các nhà
nghiên cứu từ vật liệu đá cho đến chất liệu đồng nằm trong thời kì của sự cải tiến
cơng cụ lao động, và sự tiến bộ vượt bậc trong tư duy của lồi người. Như vậy,
đồng thời khi đó tư duy của con người trong việc sử dụng chúng với những ý
nghĩa khác nhau cũng có những sự tiến bộ. Ví như khi được làm bằng đồng
chúng sẽ phát ra âm thanh to hơn, vang xa hơn dễ dàng hơn trong các cuộc đi
săn trong rừng, từ đó mang lại cho họ những chiến lợi phẩm ngày thêm dồi dào.
Về màu sắc của cồng chiêng và sự khác nhau về âm thanh của chúng:
càng về sau, người dân tộc thiểu số càng chú ý hơn về yếu tố thẩm mĩ của cồng
chiêng, đó là yếu tố màu sắc. Người ta có thể tạo ra nhiều cồng chiêng với nhiều
màu sắc khác nhau. Nếu đúc bằng đồng nguyên chất, khi mới ra lị chúng có
màu của đồng như máu đỏ, màu vàng hoặc đen. Tuy nhiên, trong quá trình đúc,
người ta có thể pha chế với một số hợp kim khác để tạo nên những màu sắc khác
nhau. Thường thì người ta có tình chuyển đổi nó thành màu đen hoặc xám để sử
dụng, bởi trên thực tế giá trị của đồng đen là cao nhất trong các loại đồng, làm
như thế để thể hiện sự giàu có. Trong q trình đúc, với các bí quyết pha chế hợp
kim phụ trợ, người ta có thể tạo ra những chiếc cồng chiêng với những âm thanh
to nhỏ, vang rền theo ý muốn. Chính điều đó đã tạo nên những nét độc đáo riêng
trong các dàn cồng chiêng thuộc các dân tộc, buôn làng với nhau.
3.2 Sự phát triển về văn hóa- xã hội
Việc sử dụng cồng chiêng thể hiện tính cộng đồng của người dân tộc thiểu
số. Từ việc dùng nó làm phương tiện để săn thú, cho đến việc dùng nó làm tiếng

9


nói để kết nối với thế giới thần linh, hay một số tập tục khác đã cho thấy sự thay
đổi hàng ngày trong nhận thức về giá trị của cồng chiêng trong cộng đồng người
Tây Nguyên. Nó là phương tiện kết nối họ trong công cuộc sinh tồn đồng thời
cũng là sự tơn kính của họ với các đấng thần linh hay là ý niệm tôn trọng thiên
nhiên của họ.

Lễ đâm trâu diễn ra trong âm thanh của cồng chiêng
Nguồn Internet
Các buổi sinh hoạt cồng chiêng mang tính liên kết rất to lớn, ngồi việc
liên kết cộng đồng thì những mối tơ duyên đôi lứa cũng được se kết từ đây.
Khơng chỉ dừng ở đó, trong các đám cúng gia đình hay của làng bản,
trước khi cúng tế, người ta thường phải xin dùng cồng chiêng trong buổi lễ, qua
đó cho thấy sự nhớ ơn và ý thức tôn trọng ông bà tổ tiên, thế hệ đi trước.
Đặc biệt, cồng chiêng không chỉ song hành cùng con người Tây Nguyên
từ khi sinh ra cho đến khi mất đi. Với người Giarai, khi đứa trẻ mới sinh ra trong
buổi “lễ thổi tai” chúng sẽ được nghe tiếng chuông đầu tiên để biểu trưng rằng
nó đã thuộc vào bộ tộc của họ. Rồi trong cuộc sống của họ, tiếng cồng chiêng đi
theo trong các lễ hội cầu mùa, mừng lúa mới, rồi trong đám cưới của họ, thậm
chí trong các lễ đưa ma hay bỏ mả,…

10


Lễ bỏ mã của người Bana Nguồn Internet

Lễ mừng lúa mới của người Mnông Nguồn
Internet

Trong nền âm nhạc Việt Nam, nghệ thuật đánh cồng chiêng đã góp phần
tạo nên sự phong phú về hình thức chơi nhạc cụ cũng như phong phú thêm về
các loại nhạc cụ. Sự biến đổi và khác biệt trong cách đánh cồng chiêng của
người dân Tây Nguyên tạo nên sự phong phú ngày càng hấp dẫn cho loại hình
nghệ thuật này, đồng thời cũng cho thấy sự tinh tế, tâm hồn lãng mạn của họ
ngày càng đi đến những tầm cao hơn của nghệ thuật. Rõ ràng khi có đam mê, có
nhiệt huyết và có cả tâm hồn đẹp đẽ họ mới có thể làm được những thành cơng
đó. Những sự phát triển đó thể hiện sự thay đổi phong cách và kỹ thuật chơi
nhạc cụ ngày càng có trình độ cao hơn: Cồng chiêng Êđê nhịp điệu phức hợp,
tốc độ nhanh, cường độ lớn; cồng chiêng Mnông cường độ không lớn mặc dù tốc
độ khá nhanh; cồng chiêng Bana - Giarai thiên về tính chất chủ điệu (một bè
trầm của cồng có núm vang lên âm sắc vững chãi, hùng tráng, một bè giai điệu
11


thánh thót của chiêng khơng có núm với âm sắc đanh gọn, lảnh lót). Có khi họ
dùng tay để đánh, có khi dùng dùi gỗ có bịt vải ở đầu…điều đó tạo nên sự phong
phú cho viêc tạo ra các hiệu ứng âm thanh khác nhau. Khi biểu diễn vòng tròn,
các nghệ nhân đánh và di chuyển dàn cồng chiêng từ phải qua trái với ý nghĩa
ngược chiều với thời gian, hướng về nguồn cội.
Bên cạnh âm nhạc thì nét đẹp văn hóa này cịn được thể hiện rõ ràng và
phong phú trong các tác phẩm sử thi, truyền thuyết, thơ ca… của người Tây
Nguyên. Cụ thể trong “Sử thi Đam San” có đoạn viết: "Hãy đánh những cái
chiêng kêu thanh nhất, những chiêng kêu trầm nhất. Đánh nhè nhẹ cho gió đưa
xuống đất. Đánh cho tiếng chiêng vang xa khắp xứ! Đánh cho tiếng chiêng luồn
qua sàn lan đi xa. Đánh cho tiếng chiêng vượt qua mái nhà vọng lên trời. Đánh
cho khỉ trên cây cũng quên bám chặt vào cành đến phải ngã xuống đất! Đánh
cho ma quỷ mê mải nghe đến quên làm hại con người. Đánh cho chuột sóc quên
đào hang, cho rắn nằm ngay đơ, cho thỏ phải giật mình, cho hươu nai đứng nghe
quên ăn cỏ, cho tất cả chỉ còn lắng nghe tiếng chiêng của Đam San”.

Cũng không thua kém, việc sử dụng cồng chiêng âm vang, hùng hồn, tấp
nập trong các trận đánh quân thù thể hiện tinh thần tự chủ của người dân tộc,
tinh thần yêu nước cao cả, yêu chuộng hịa bình của họ. Hoặc sâu sắc hơn,
những âm vang đó trong những tình huống, khơng gian phù hợp cịn gợi cho
người ta hồi tưởng về cội nguồn, về những cuộc săn đuổi mn thú để duy trì sự
sống, đồng thời cũng là thể hiện sức mạnh vô biên của họ khi đối chọi với thiên
nhiên khắc nghiệt.

Nguồn Internet

12


4. Q trình đề nghị và được cơng nhận “Khơng gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên”.
Việc chuẩn bị hồ sơ trình UNESCO là cơng việc rất vất vả, khó khăn. Vì
địa bàn của khơng gian văn hóa cồng chiêng lại trải rộng trên năm tỉnh, với 11
dân tộc. Mà thời gian để chuẩn bị hồ sơ lại không nhiều, chỉ vỏn vẹn có sáu
tháng. Vấn đề quan trọng là phải xây dựng bộ hồ sơ theo đúng mẫu của
UNESCO, gồm các tiêu chuẩn về hình ảnh, băng đĩa, cơ sở để bảo tồn và phát
huy giá trị di sản, tài liệu tham khảo như sơ đồ, các cơng trình nghiên cứu, giới
thiệu về di sản..., tất cả đều phải được dịch và giới thiệu bằng tiếng Anh. Ðể xây
dựng hoàn chỉnh hồ sơ về cồng chiêng, ngoài các tư liệu lưu trữ sẵn có, cán bộ
của Viện đã phải chia thành nhiều bộ phận, phụ trách những phần việc khác nhau
như đi điền dã, biên tập, dịch thuật, lồng tiếng... Với danh nghĩa là nghệ thuật
biểu diễn của từng dân tộc thì cồng chiêng cũng đã có mặt trong một số ngày hội
của quốc gia, đã từng đi trình diễn ở nước ngoài…
Từ xuất phát điểm về giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của vùng văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên, ngày 19-3-2004, Bộ VH-TT gửi công văn
814/VHTTDSVH trình Thủ tướng Chính phủ về việc đề cử di sản văn hóa phi

vật thể để UNESCO cơng nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân
loại đợt III năm 2005. Ngày 24-3-2004, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với đề
nghị của Bộ VH-TT trong cơng văn 2557/VPCP-VX.
Để hồn thiện bộ hồ sơ trình UNESCO, Viện VH-TT, Cục Di sản văn hóa
và các sở VH-TT thuộc 5 tỉnh Tây Nguyên đã khẩn trương thực hiện những công
việc do Bộ VH-TT chỉ đạo. Cụ thể là ngày 12 và 13-10-2004, cuộc tọa đàm khoa
học Giá trị văn hóa của các nhạc cụ gõ bằng đồng của Việt Nam và các nước
trong khu vực Đông Nam Á được tổ chức tại Hà Nội, với sự tham dự của các
nhà khoa học thuộc nhiều cơ quan của Bộ VH-TT, Viện Khoa học xã hội Việt
Nam, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam và 3 nhà khoa học đến từ Nhật Bản,
Philippin và Campuchia. Chính sự kiện này đã mạng lại những kết quả nhất định
cho việc trình đề nghị đến UNESSCO.
Cuối cùng UNESCO đã công nhận không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên là Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại đợt 3 cơng bố
ngày 25-11-2005. Và đó là một niềm vinh dự to lớn không chỉ của người dân
vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ mà còn là cả một niềm kiêu hãnh của tồn dân tộc
Việt Nam.
Các lí do Cồng Chiêng Tây Nguyên của Việt Nam được UNESCO công
nhận là “Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại”
13


1. Danh tiếng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia,
trở thành tài sản của nhân loại. Những giá trị đặc sắc của không gian văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên, một bộ phận của di sản và tinh hoa văn hóa Việt Nam
được cộng đồng quốc tế biết đến và được tôn vinh.
2. Giá trị nổi bật của “Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là nơi đây
chứa đựng những giá trị sáng tạo mang tầm kiệt tác của nhân loại. Chủ nhân của
“Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun” là đồng bào các dân tộc thiểu số
Tây Nguyên. Cư dân Tây Nguyên không tự đúc được cồng chiêng, nhưng với

đôi tai và tâm hồn âm nhạc nhạy cảm họ đã nâng giá trị của một sản phẩm hàng
hóa thành một nhạc cụ trình diễn tuyệt vời. Trong tay các nghệ sĩ dân gian tài
hoa ở cộng đồng, mỗi chiếc chiêng giữ nhiệm vụ một nốt nhạc trong một dàn
nhạc, để biểu diễn các bản nhạc chiêng khác nhau. Ðồng thời, tùy theo từng dân
tộc, họ đã sắp xếp, định biên thành các dàn nhạc khác nhau.
3. Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa và lịch sử rất
lâu đời. Từ xa xưa, cộng đồng cư dân Tây Nguyên đã biết thổi hồn và tiếp thêm
sức sống cho cồng chiêng Tây Nguyên để những âm thanh khi ngân nga sâu
lắng, khi thơi thúc trầm hùng, hịa quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng
lịng người Tây Ngun, sống mãi cùng với đất trời và con người Tây Nguyên.
4. Cồng chiêng Tây Nguyên giữ vai trò là phương tiện để khẳng định cộng đồng và
bản sắc văn hóa chung các dân tộc Tây Nguyên cũng như của từng tộc người
trên mảnh đất muôn màu, muôn sắc Tây Nguyên. Mỗi dân tộc Tây Nguyên có
một cách chơi chiêng khác nhau. Người dân bình thường ở Tây Ngun tuy
khơng phải là những chuyên gia âm nhạc, nhưng chỉ cần nghe tiếng chiêng là họ
phân biệt được đó là dân tộc nào.
5. Âm nhạc của cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện trình độ điêu luyện của người
chơi trong việc áp dụng những kỹ năng đánh chiêng và kỹ năng chế tác. Từ việc
chỉnh chiêng đến biên chế thành dàn nhạc, cách chơi, cách trình diễn, những
người dân trong các p'lei, p'lơi, buôn, bon, v.v. dẫu không qua trường lớp đào tạo
vẫn thể hiện được những cách chơi điêu luyện tuyệt vời.
6. Cồng chiêng Tây Nguyên là bằng chứng độc đáo, là nét đặc trưng của truyền
thống văn hóa các dân tộc Tây Ngun. Nó là một loại hình sinh hoạt gắn liền
với đời sống văn hóa, tinh thần và tín ngưỡng của con người từ lúc được sinh ra
cho đến khi trở về với đất trời, với vũ trụ.
Theo tiến sĩ Đặng Văn Bài _ cục trưởng cục di sản văn hóa “Một vinh dự
lớn cần được bảo tồn và phát huy triệt để”
14



Nguồn Internet

Nguồn Internet

II - Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
1. Nét đặc trưng về môi trường tự nhiên, dân cư và văn hóa
1.1 Đặc trưng về mơi trường tự nhiên
Về phương diện hành chính lãnh thổ, Tây Nguyên có 5 tỉnh: Gia Lai, Kon
Tum, Đắc Lắc, Đắc Nơng, Lâm Đồng. Vùng Tây ngun có địa hình là cao
ngun xếp tầng chủ yếu là sơn nguyên, xen giữa là các dãy núi cao trung bình
và các cao nguyên đất đỏ bazan.
15


Khí hậu phân thành 2 mùa rõ rệt: nóng khơ, từ tháng 11 đến tháng 3 và
mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 tạo nên sự tương phản về thời tiết. Những nét
nổi bật về khí hậu, tạo nên nhịp điệu sản xuất và đời sống văn hóa mang tính chu
kì rất đặc trưng ở Tây Ngun.
Rừng chiếm tỉ lệ lớn và có độ che phủ cao nhất nước ta. Cùng với đó là
thế giới động thực vật phong phú và quý hiếm tạo nên hệ sinh thái rất đặc trưng
của dân tộc nơi đây. Có thể nói rừng là môi trường sống gần gũi và thân thiết của
cư dân các dân tộc, văn hóa của người Tây Nguyên là “văn hóa rừng”. Hoạt
động sản xuất của con người hướng vào canh tác, nương rẫy trồng lúa ngơ là
chính, chăn nuôi gia súc phát triển.

Nguồn: Internet

1.2 Đặc trưng về dân cư
Tây nguyên và vùng phụ cận là địa bàn sinh tụ của gần 20 tộc người bản
địa, thuộc 2 dịng ngơn ngữ chính: Mơn-Khmer và Nam Đảo.

Trên địa bàn 5 tỉnh tây nguyên có các tộc người: Bana, Xơ-đăng, Giẻtriêng, Brâu, Rơmăm, Mnơng, Mạ, Cơho thuộc nhóm Mơn-Khmer, và các tộc
người Giarai, Êđê, Churu, Raglai thuộc nhóm Nam Đảo.
Về phân bố dân cư: có các dân tộc thuộc 3 nhóm rõ rệt:
Các tộc thuộc nhóm Bana – Xơ-đăng (hay gọi là người Bana Bắc) phân bố
ở Bắc tây nguyên, thuộc tỉnh Gia Lai và Kon Tum.

16


Nhóm Mnơng – Mạ (thường gọi là Bana Nam): gồm tộc người Mnoong,
xtieeng, Mạ, Chơro cư trú ở Nam Tây Nguyên, thuộc tỉnh Lâm Đồng và các tỉnh
kế cận.
Các tộc Nam Đảo (Gia Rai, Êđê), cư trú chủ yếu ở trung tâm Tây Nguyên
thuộc địa bàn tỉnh Đắc Lắc, Bắc Đắc Nông và Nam Gia Lai.

Nguồn Internet

Nguồn: Internet
Một đặc trưng lớn nhất, cơ bản nhất, từ đó quy định những sắc thái văn
hóa lớn của vùng Trường Sơn – Tây Nguyên là nếp sống nương rẫy, nếp sống
chủ đạo và bao trùm lên tồn bộ tộc người trong vùng. Có thể nói tồn bộ đời
sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của dân tộc Tây Nguyên từ tín ngưỡng
17


lễ hội, phong tục tập quán, nghi lễ, đời sống tình cảm của con người gắn bó với
nương rẫy, khiến người ta có thể nói văn hóa của đồng bào là “văn hóa rừng”.

Nguồn Internet


Nguồn Internet
1.3 Đặc trưng về xã hội
Mơ hình xã hội cơ bản của tộc người bản địa Tây Nguyên là làng buôn.
Mỗi buôn làng như vậy bao gồm nhiều gia đình lớn hay nhỏ, cư trú trong một số
nóc nhà, thậm chí cả làng chỉ có một (nóc nhà dài của đại gia đình). Ở các dân
tộc Tây Nguyên tồn tại mấy hình thức gia đình mẫu hệ phụ hệ và song hệ, trong
đó gia đình mẫu hệ là tiêu biểu và đặc trưng cho các tộc người ở khu vực này.
Cơ cấu xã hội theo mơ hình làng bn, trong đó nổi bật là quan hệ cộng đồng, là
đặc trưng nổi bật của xã hội các dân tộc Tây Nguyên.
18


Tồn bộ văn hóa tộc người cơ bản vẫn là văn hóa dân gian (sử thi), do con
người sáng tạo và phục vụ mọi người trong cộng đồng.

Nguồn: Internet
2. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
2.1 Đặc trưng về văn hóa
Các dân tộc Tây Nguyên có những nét tương đồng và khá đặc trưng về
quan niệm và ứng xử giữa thế giới người sống và người chết, từ đó hình thành cả
một hệ thống những tập tục, nghi lễ, sinh hoạt văn hóa xung quanh thế giới
người chết, tạo nên một văn hóa dân gian mang tính tổng thể - sinh hoạt văn hóa
nhà mồ.
Lễ hội: Là sinh hoạt tín ngưỡng – văn hóa thường thấy ở tất cả các dân tộc
Tây Nguyên, nó là mốc đánh dấu những hoạt động sản xuất nương rẫy từ chặt
cây gieo hạt tới khi thu hoạch mang lúa về kho; là mốc đánh dấu những sinh
hoạt đời sống con người từ khi đẻ, cưới xin đến lúc chết; là sinh hoạt cộng đồng
từ gia tộc tới cả buôn làng, như lễ cúng bến nước, lễ cầu no đủ…Trong các lễ hội
ở Tây Nguyên, nghi thức hiến sinh trở thành quan trọng và không thể thiếu
được. Ngày nay lễ hiến sinh được thay thế bằng con vật, trong đó quan trọng

nhất là hiến sinh trâu. Bởi vậy lễ hội đâm trâu là lễ hội lớn và đặc trưng cho các
dân tộc Tây Nguyên.

19


Nguồn Internet
Sinh hoạt văn hóa nghệ thuật: Cũng là văn hóa nghệ thuật dân gian mang
tính cộng đồng cao: sử thi, sử thi anh hùng, trường ca, truyền thuyết anh hùng…
Sử thi tây nguyên không chỉ là hiện tượng thuần túy văn học dân gian mà còn là
hiện tượng văn hóa dân gian nữa. Và sinh hoạt kể Khan ra đời – là một hình thức
sinh hoạt văn hóa cộng đồng tiêu biểu của người Êđê nói riêng và của các dân
tộc tây nguyên nói chung.
Âm nhạc: Người ta thường nhắc tới nhạc cụ gõ, trong đó cồng chiêng là
tiêu biểu. Nghệ thuật múa của dân tộc Tây Nguyên khá phong phú và độc đáo.
Múa là nội dung sinh hoạt văn hóa chính của các buổi lễ bỏ mả, các lễ hội đâm
trâu, thậm chí ngay trong ngày vui của gia đình… Có nhiều hình thức mùa như
múa nghi lễ, múa cho từng giới hay múa chung nam nữ, múa tập thể.
Tạo hình kiến trúc: Mang sắc thái riêng và độc đáo. Ở Trường Sơn thấy
các ngôi nhà công cộng với mái trịn khum mu rùa, đầu hồi trang trí con chim
thần mang phong cách Đông Sơn. Ở Bắc Tây Ngun là những ngơi nhà rơng
dáng mái cao vút hình lưỡi rìu, vượt hẳn lên trên mái của các ngơi nhà sàn trong
làng.
Ở Trung và Nam Tây Nguyên thì đặc trưng bởi các ngơi nhà dài, trong đó sinh
sống nhiều gia đình và một phần của ngơi nhà dành cho sinh hoạt cộng đồng.
Nhà mồ, tượng mồ và trang trí nhà mồ là đặc trưng chung của hầu hết các dân
tộc sinh sống ở Tây Nguyên những mỗi tộc người lại mang màu sắc riêng đặc
trưng.
20



2.2 Đặc trưng về tiếng cồng, tiếng chiêng
Các yếu tố bộ phận: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng,
những người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa
mới, Lễ cúng Bến nước...), những địa điểm tổ chức các lễ hội (nhà dài, nhà rông,
nhà gươl, rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây
Nguyên...) Cồng chiêng là những nhạc cụ được xếp vào bộ gõ và nhóm tự thân
vang (autosonore) được làm bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc đồng
đen. Cồng là loại có núm, chiêng khơng núm. Nhạc cụ này có nhiều cỡ, đường
kính từ 20 đến 50 60cm, loại cực đại tới 90 - 120cm. Cồng chiêng có thể được
dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, bộ từ 2 đến 12 hoặc 13 chiếc, thậm chí có nơi
tới 18 - 20 chiếc. Trong một bộ chiêng có chiêng mẹ (chiêng cái) là quan trọng
nhất. Cồng chiêng có thể được gõ theo 2 cách chủ yếu: bằng dùi, đấm bằng tay.
Có tộc cịn áp dụng kỹ thuật chặn tiếng bằng tay trái hoặc tạo giai điệu trên một
chiếc chiêng.

Nguồn Internet
Có truyền thống văn hóa và lịch sử rất lâu đời:
+ Có nguồn gốc ban đầu từ cồng đá, chiêng đá... tre, tới thời đại đồ đồng,
chiêng đồng mới xuất hiện…
21


+ Tiếng chiêng dài hơn đời người, tiếng chiêng nối liền, kết dính những
thế hệ. Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên- là
phương tiện giao tiếp của người Tây Nguyên, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn
con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh
hoạt hàng ngày của họ.
+ Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng,
chiêng đều ẩn chứa một vị thần, họ cũng có đời sống tình cảm và gia đình riêng.

Đó là những vị thần có sức mạnh, và những vị thần linh này có thể mang đến
niềm hạnh phúc, sự thịnh vượng nhưng cũng kéo đến những sự bất hạnh cho
buôn làng khi bị làm cho nổi giận. Vì vậy, cồng chiêng là phương tiện giao tiếp
với thần linh. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Ngồi ra,
cồng chiêng cịn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có (vd:
Đã có thời một chiếc chiêng giá trị bằng hai con voi hoặc 20 con trâu).
+ Là phương tiện giao tiếp của người miền núi giữa họ trong cộng đồng phương tiện để nối kết cộng đồng (các dân tộc ln hồ hợp lẫn nhau trong
khơng có hiện tượng loại trừ hay đồng hoá văn hoá của nhau trong sinh hoạt văn
hoá cồng chiêng. Các dân tộc đều có thể đến với nhau khi sinh hoạt văn hố
cồng chiêng. Tiếng cồng chiêng luôn đem đến một cảm xúc rạo rực khó tả trong
mỗi con người, như sự đồng thanh tương ứng khiến họ tìm đến với nhau).
+ Cồng chiêng Tây Nguyên giữ vai trò là phương tiện để khẳng định cộng
đồng và bản sắc văn hóa chung các dân tộc Tây Nguyên cũng như của từng tộc
người trên mảnh đất muôn mầu, muôn sắc Tây Nguyên. Mỗi dân tộc Tây
Nguyên có một cách chơi chiêng khác nhau. Người dân bình thường ở Tây
Ngun tuy khơng phải là những chuyên gia âm nhạc, nhưng chỉ cần nghe tiếng
chiêng là họ phân biệt được đó là dân tộc nào.
+ Nó là một loại hình sinh hoạt gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần và
tín ngưỡng của con người từ lúc được sinh ra cho đến khi trở về với đất trời, với
vũ trụ.
22


Nguồn Internet
Gắn liền với văn hóa, cồng chiêng là một nhạc cụ nghi lễ
+ Mỗi nghi lễ có ít nhất một bài nhạc chiêng riêng
+ Ngồi ra, cịn có những bài chiêng dùng cho các sinh hoạt cộng đồng
Bản sắc văn hố các dân tộc ít người Tây Ngun thể hiện đậm đà nhất
trong cồng chiêng và sinh hoạt văn hố cồng chiêng.
Có nhiều biên chế dàn cồng chiêng khác nhau:

+ Dàn chiêng có 2 hay 3 chiếc: Biên chế này tuy nhỏ nhưng theo quan
niệm của nhiều tộc người Tây Nguyên, đây là biên chế cổ xưa nhất. Dàn 2
chiêng bằng gọi là chiêng Tha, của người Brâu; dàn 3 cồng núm của người
Churu, Bana, Giarai, Gié-Triêng... cũng thuộc loại này.
+ Dàn chiêng có 6 chiêng phổ biến ở nhiều tộc người: Dàn 6 chiêng bằng
của người Mạ; dàn Stang của người Xơđăng; dàn chiêng của các nhóm Gar,
Noong, Prơng thuộc dân tộc Mnơng; dàn chiêng Diek của nhóm Kpạ người Êđê.
Cũng có dàn gồm 6 cồng núm như nhóm Bih thuộc dân tộc Êđê. Dàn chiêng 6
chiếc có thể đảm trách nhịp điệu như dàn cồng núm của nhóm Bih thuộc dân tộc
Êđê, dàn Diek của nhóm Kpạ dân tộc Êđê, dàn chiêng củanhóm Noong dân tộc
Mnơng.
+ Dàn chiêng 11 hoặc 12 chiếc gồm 3 cồng núm và 8-9 chiếc chiêng bằng
của các tộc người Giarai (ngành Aráp), Bana (ngành TồLồ, Kon K’Đeh), người
Xơđăng (ngành Steng).

23


Không do cư dân Tây Nguyên tự đúc ra mà xuất phát từ một sản phẩm
hàng hoá (mua từ các nơi khác về) được nghệ nhân chỉnh sửa thành một nhạc
cụ.Vì vậy phương pháp chỉnh sửa chiêng cộng với tai âm nhạc nhạy cảm của
nghệ nhân sửa chiêng đã thể hiện trình độ thẩm âm tinh tế và hiểu biết cặn kẽ về
chế độ rung và lan truyền âm thanh trên mặt chiêng và trong khơng gian.
Có hai phương pháp chỉnh sửa mà người nghệ nhân ở Tây Nguyên sử dụng:
+ Gõ, gị theo hình vảy tê tê
+ Gõ, gị theo hình lượn sóng
Mỗi người đánh chỉ một chiêng: dàn chiêng có bao nhiêu cái thì có bấy
nhiêu người đánh. Niều cuộc cồng phối hợp với nhau để tạo thành dàn nhạc. Lối
biểu diễn rất "động", kêu gọi cả người xem cùng vào cuộc "xoang", hát. Kỹ thuật
kích âm, chỉnh âm cồng chiêng của người biểu diễn "biến hóa khơn lường" làm

cho giai điệu lúc trầm, bổng, lúc mơ màng, du dương, lúc bi tráng, hào hùng, lúc
da diết, thắc thỏm... tùy theo hồn cảnh, mơi trường sinh hoạt và tâm trạng. Một
dàn cồng chiêng có cồng chiêng cha mẹ, cồng chiêng con cháu mang hình ảnh
một gia đình gắn bó chặt chẽ với cộng đồng. Đa số các dân tộc ở Tây Nguyên,
chơi chiêng phải là nam giới (kể cả hai tộc người Êđê, Giarai đang duy trì chế độ
mẫu hệ hoặc người Bana, Xơđăng đang duy trì cả chế độ mẫu hệ lẫn chế độ phụ
hệ), thì cũng có một số dân tộc phụ nữ là nghệ nhân trình diễn chiêng; đồng thời
phụ nữ tham gia múa cùng với nghệ nhân trình diễn chiêng. Ðiều ấy khơng chỉ
minh chứng cho truyền thống lâu đời của cồng chiêng Tây Ngun mà cịn cho
thấy tính độc đáo văn hóa của nó.
Ngày nay, đã có dàn chiêng hỗn hợp các nghệ nhân cả nam lẫn nữ. Việc
nữ giới đánh chiêng cho thấy vị trí xã hội và vai trị quan trọng của họ trong tâm
thức các tộc người này.

24


Nguồn Internet
Cư dân các dân tộc ít người ở Tây Nguyên đã đạt đến những hiểu biết sâu
và có các kỹ thuật điêu luyện trong việc sử dụng cồng chiêng trong văn hố và
âm nhạc của mình (Điều này thể hiện ở việc chỉnh âm chiêng mua về với tư cách
là một hàng hố để nó trở thành một nhạc cụ trong dàn cồng chiêng của dân tộc;
thể hiện ở việc lựa chọn các biên chế dàn chiêng, ở việc quy định giới tính, tư
thế và kỹ xảo diễn tấu. Ngồi ra, họ cịn sáng tác nhiều bản nhạc chiêng cho
những công dụng khác nhau).
Dân tộc thường chỉ dùng 1-2 cồng phối hợp với một trống dùng trong nghi
lễ hoặc giữ nhịp cho múa. Người Mường ở các tỉnh miền núi phía Bắc có dàn
cồng sắc bùa, bao gồm một biên chế 8-12 chiếc cồng núm. Biên chế chiêng
thành dàn là đặc trưng trong văn hoá của các tộc người Tây Nguyên.
Văn hoá và âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên là văn hố và âm nhạc dân

gian. Nó là sở hữu cộng đồng, là chuẩn mực văn hoá cho thành viên cộng đồng
thực hiện. Ở những tộc người mà cồng chiêng dành riêng cho nam giới thì mọi
chàng trai tộc người đó phải biết đánh chiêng. Ở những tộc người, nơi cồng
chiêng do nữ giới đảm nhiệm thì mọi cơ gái phải biết thực hiện nhiệm vụ này (ở
nhóm Noong dân tộc Mnơng thì đó là nhiệm vụ của cả nam lẫn nữ). Là sở hữu
của cộng đồng, cồng chiêng Tây Ngun có vai trị như một biểu tượng cho năng
lực sáng tạo văn hoá, âm nhạc của người dân trong khơng gian văn hố Tây
Ngun.Thể hiện trình độ điêu luyện của người chơi trong việc áp dụng những
kỹ năng đánh chiêng và kỹ năng chế tác.Các bài chiêng cũng đạt đến một trình
25


×