Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

QUÁ TRÌNH HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.18 KB, 58 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA


BÀI TẬP LỚN
MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI
Q TRÌNH HỒN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN
ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
LỚP DT01--NHĨM 06--HK 211
NGÀY NỘP 17/10/2021

Giảng viên hướng dẫn: Ts. Đào Thị Bích Hồng
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Phương Ngân

Hoàng Văn Nam
Hồ Hoàng Mẫn
Lê Hồng Nam
Ngơ Thị Thanh Ngân

Mã số sinh viên
1914283
1914218
1911579
1914220
1914280

Thành phố Hồ Chí Minh – 2021


Điểm số


BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 6
Họ và tên

MSSV

Nhiệm vụ

Kết
quả

1.

Nguyễn Thị
Phương Ngân

1914283

100%

2.

Hồng Văn
Nam

1914218


Chương 1
Tổng kết
Tổng hợp
2.1. Luận cương chính trị
Tiểu kết chương 2

3.

Hồ Hồng
Mẫn

1911579

100%

4.

Lê Hồng
Nam

1914220

5.

Ngơ Thị
Thanh Ngân

1914280

Nhiệm vụ

2.2.Sự hồn chỉnh đường
lối cách mạng giải phóng
dân tộc từ năm 1939 đến
năm 1945
Lý do chọn đề tài
3.1. Bối cảnh lịch sử và
nội dung Chính cương
Đảng Lao động Việt Nam
3.2. Sự bổ sung, hoàn
chỉnh đường lối cách
mạng Dân tộc Dân chủ
Nhân dân
Tiểu kết

STT

Chữ ký

100%

100%

100%

NHÓM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)

Nguyễn Thị Phương Ngân


MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………………..

1

PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………………

3

Chương 1: BỐI CẢNH LỊCH SỰ VIỆT NAM DƯỚI CHÍNH SÁCH

3

THỐNG TRỊ, KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP
VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG…………......
1.1. Bối cảnh lịch sử ……………………………………………………….

3

1.1.1. Bối cảnh Việt Nam dưới ách thống trị và khai thác thuộc địa của

3

thực dân Pháp và các phong trào yêu nước trước khi Đảng ra đời
1.1.2. Quá trình phát triển của các phong trào yêu nước theo khuynh

7

hướng vô sản và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam................
1.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng …….....................................


11

Tiểu kết Chương 1………………………………………………………….

14

Chương 2: LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ VÀ SỰ HỒN CHỈNH

16

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC………………...
2.1. Luận cương chính trị ………………………………………….............

16

2.1.1. Bối cảnh ra đời của luận cương chính trị…………………………...

16

2.1.2. Nội dung của Luận cương chính trị……………………………........

16

2.2. Sự hồn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc từ năm 1939

20

đến năm 1945……………………………………………………….............
2.2.1. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng


20

11/1939………………………………………………………………….......
2.2.2. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng
11/1940.....……………………………………………………......................

25


2.2.3. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng
05/1941......…………………………………….....…………………………

27

Tiểu kết Chương 2………………………….................................................

31

Chương 3: CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ SỰ

32

HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ
NHÂN DÂN........…………………………...................................................
3.1. Bối cảnh lịch sử và nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt

32

Nam...........………………………….............................................................

3.1.1. Bối cảnh lịch sử……………………………………………………....

32

3.1.2. Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam………………….

35

3.2. Sự bổ sung, hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân

40

dân ……………….........……………..……………………………………..
3.2.1. Nội dung bổ sung, hoàn chỉnh………………………………………

40

3.2.2. Giá trị thực tiễn……………………………………………………....

46

Tiểu kết Chương 3………………………………………………………....

48

PHẦN KẾT LUẬN ………………………………………………………..

49

TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………….......



PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Cương lĩnh chính trị1 là một văn kiện quan trọng của Đảng. Cương lĩnh chính trị
được coi là văn bản có giá trị cao nhất trong hệ thống các văn bản của Đảng Cộng sản
Việt Nam đề ra mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt lịch
sử trọng đại trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Với Cương lĩnh chính trị đúng đắn,
Đảng đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam vượt qua bao khó khăn, giành từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Cương lĩnh chính trị là lời hiệu triệu là áng văn soi đường cho cách mạng Việt
Nam và cho nhân dân Việt Nam. Với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng đã giải phóng dân tộc ta khỏi ách thống trị của thực dân đế quốc. Cuộc
Cách mạng tháng Tám thắng lợi dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
mở ra thời kỳ độc lập tự chủ của toàn dân tộc sau gần một trăm năm bị đế quốc thực dân
bóc lột. Để có được chiến thắng ấy là nhờ vào sự đấu tranh không ngừng của dân tộc ta
dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đảng đã luôn không ngừng thay đổi để vận dụng
những lý luận cách mạng phù hợp với điều kiện xã hội, chỉ ra những mâu thuẫn cần giải
quyết, xác định đúng kẻ thù, đề ra nhiệm vụ của cách mạng, đề ra chủ trương , chính
sách phù hợp lãnh đạo quần chúng nhân dân giải phóng đất nước. Đưa đất nước chúng
ta bước sang một trang sử mới đó là kỷ nguyên của độc lập tự chủ.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng ta tiếp tục kế thừa và phát huy
đường lối chiến lược trước đó. Đại hội đại biểu lần thứ hai được tổ chức đã đánh dấu
một mốc quan trọng trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng ta. Đường lối
do Đại hội vạch ra đã đáp ứng yêu cầu trước mắt của kháng chiến và yêu cầu lâu dài của
cách mạng và thực sự là những đóng góp quý báu vào kho tàng lý luận cách mạng nước
ta. Từ đây, đường lối cách mạng của dân tộc ta sẽ chuyển thành “Cách mạng dân tộc,

Cương lĩnh chính trị là văn kiện chỉ rõ mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ, phương hướng hoạt động… trong một giai

đoạn lịch sử nhất định của một chính đảng hoặc của một tổ chức chính trị; là tun ngơn chính trị của Đảng; là lời
hiệu triệu; là văn bản có tính chiến lược lâu dài, phản ánh cô đọng nhất nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội
và và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
1

1


dân chủ, nhân dân”. Đại hội đại biểu lần thứ hai là dấu mốc quan trọng trong quá trình
phát triển của Cách mạng Việt Nam và cũng góp phần to lớn trong việc thắng đế quốc
Pháp.
Bên cạnh những thành công của Đảng, thì trong quá trình phát triển của mình có
những lúc Đảng vẫn chưa đánh giá đầy đủ thực tiễn. Vì vậy việc nghiên cứu q trình
Đảng hồn chỉnh đường lối “Cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân” từ Cương lĩnh đầu
tiên đến Chính cương Đảng Lao động Việt Nam là một yêu cầu cần thiết. Qua đó sẽ giúp
ta làm rõ được các bước phát triển nhận thức của Đảng về đường lối cách mạng Việt
Nam.
Nhiệm vụ của đề tài
1. Làm rõ được đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng;
2. Phân tích được nội dung của Luận cương chính trị với những ưu điểm và hạn chế
và quá trình khắc phục hạn chế về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của
Đảng;
3. Làm rõ nội dung của Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và sự hoàn chỉnh
đường lối cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng.
4. Làm rõ giá trị của việc hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân
dân đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam.

2



PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
BỐI CẢNH LỊCH SỰ VIỆT NAM DƯỚI CHÍNH SÁCH THỐNG TRỊ,
KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ
CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Bối cảnh Việt Nam dưới ách thống trị, khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp và các phong trào yêu nước trước khi Đảng ra đời
1.1.1.1. Bối cảnh lịch sử
* Bối cảnh thế giới tác động đến Việt Nam
Những biến động của tình hình thế giới trong giai đoạn này tác động trực tiếp đến
tình hình Việt Nam và phong trào cách mạng trước khi có Đảng. Tác động đầu tiên, từ
nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh sang chủ nghĩa đế quốc
(đồng nghĩa với việc chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền),
nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, yêu cầu về thị trường tăng cao vì vậy chúng đẩy
mạnh quá trình xâm chiếm và nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi, khu vực
Mỹ-Latinh. Tiếp theo, sự áp bức dân tộc càng tăng thì mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc
địa và chủ nghĩa thực dân càng gay gắt, sự phản ứng dân tộc càng quyết liệt. Cách mạng
tháng Mười Nga năm 1917 thành cơng có ý nghĩa to lớn đến cuộc đấu tranh giai cấp và
tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, mở ra trước
mắt các dân tộc bị áp bức, đánh dấu Chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành hiện thực. Quốc tế
Cộng sản được thành lập (3-1919) tổ chức lãnh đạo phong trào vô sản thế giới: vạch ra
đường hướng chiến lược cho cách mạng vô sản mà cả vấn đề dân tộc và thuộc địa, chỉ
đạo, phong trào giải phóng dân tộc. Tại đại hội Quốc tế Cộng sản (1920), Luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố, ảnh hưởng mạnh mẽ, là
tiền đề lý luận cho sự thành lập Đảng ở Việt Nam.
* Bối cảnh Việt Nam dưới ách thống trị, khai thác thuộc địa của thực dân Pháp


3


Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, từ đó từng bước thơn
tính Việt Nam. Đó là thời điểm chế độ phong kiến đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Trước hành động của Pháp, Triều đình nhà Nguyễn từng bước thỏa hiệp (Hiệp ước 1862,
1874, 1883) và đến ngày 6-6-1884 với Hiệp ước Patenôtre đã đầu hàng hoàn toàn thực
dân Pháp, Việt Nam trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị
giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”1. Từ năm 1885-1896, thực dân Pháp tiến hành
công cuộc bình định bằng các chính sách cai trị và dùng vũ lực đàn áp đẫm máu các
phong trào yêu nước, sau đó là cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) và
khai thác thuộc địa lần thứ hai ( 1919-1929).
Về chính trị, thực dân Pháp xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa, vẫn duy trì
chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai, thực hiện chính sách “chia để trị” nhằm phá
vỡ khối đoàn kết cộng đồng dân tộc: chia ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) với các
chế độ chính trị khác nhau.
Về kinh tế, thực dân Pháp không phát triển ngành công nghiệp ở nước ta, mà chỉ
mở mang một số ngành để phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài nguyên nhằm
mục đích cung cấp ngun liệu cho nền cơng nghiệp của nước Pháp. Nhìn chung, nền
kinh tế Việt Nam có sự du nhập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nhưng quan hệ
kinh tế phong kiến lạc hậu vẫn được duy trì, chủ yếu vẫn là nền kinh tế nơng nghiệp.
Về văn hóa-xã hội, chúng thực hiện chính sách “ngu dân”, du nhập những giá trị
phản văn hóa, duy trì tệ nạn xã hội của chế độ phong kiến và tạo thêm nhiều tệ nạn
mới,... nhằm kìm hãm nhân dân trong dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng.
Giai cấp cũ bị phân hóa, giai cấp tầng lớp mới xuất hiện với địa vị kinh tế khác
nhau và thái độ chính trị khác nhau đối với vận mệnh dân tộc.
Giai cấp địa chủ (bị phân hóa): một bộ phận câu kết và làm tay sai thực dân Pháp
(đại địa chủ), một bộ phận nêu cao tinh thần dân tộc (địa chủ vừa và nhỏ), một bộ phận
nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản.
Giai cấp nông dân chiếm số lượng đông đảo nhất ( khoảng 90% dân số), là giai

cấp bị phong kiến và thực dân bóc lột nặng nề nhất. Vì vậy, giai cấp này có mâu thuẫn

1

Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 12, tr. 401

4


với giai cấp địa chủ (mâu thuẫn này đã tồn tại lâu đời, lịch sử đã chứng có thể điều hòa
được khi dân tộc bị xâm lược để cùng nhau đấu tranh) và mâu thuẫn sâu sắc hơn cả là
với thực dân Pháp.
Giai cấp cơng nhân: hình thành gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa, với việc thực
dân Pháp thiết lập các nhà máy, xí nghiệp, cơng xưởng, khu đồn điền,... Giai cấp này
sớm tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời đại, nhanh chóng phát triển, thể hiện là giai
cấp có năng lực lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp tư sản: xuất hiện muộn hơn công nhân, nhưng bị phân hóa thành tư sản
mại bản và tư sản dân tộc.
Tầng lớp tiểu tư sản: bị đế quốc, tư bản chèn ép, khinh miệt, có tinh thần dân tộc,
rất nhạy về chính trị thời cuộc, tuy nhiên do thái độ thiếu kiên định nên không thể lãnh
đạo cách mạng.
Các sĩ phu phong kiến (có sự phân hóa lớn): một bộ phân theo khuynh hướng dân
chủ tư sản hoặc tư tưởng vô sản.
Cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, chính sách của thực dân Pháp đã tác động
mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, kéo theo sự
phân hóa giai cấp cũ và sự ra đời của các giai cấp mới. Các giai cấp, tầng lớp phải mang
mang thân phận mất nước và bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột ở các mức độ khác nhau.
Đồng thời tính chất xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội Phong kiến sang xã hội thuộc địa
nửa phong kiến. Bên cạnh mâu thuẫn xã hội cũ (giữa địa chủ phong kiến và nơng dân)
thì mâu thuẫn mới xuất hiện giữa tồn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong

kiến phản động trở thành mâu thuẫn gay gắt nhất. Từ những mâu thuẫn trên, thực tiễn
lịch sử Việt Nam đặt ra 2 yêu cầu: thứ nhất, đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, tự
do cho dân tộc; thứ hai xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân,
chủ yếu là về vấn đề ruộng đất.
1.1.1.2. Các phong trào yêu nước trước khi Đảng ra đời
* Các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp theo khuynh hướng chính trị
phong kiến:

5


Phong trào Cần Vương (1885-1896) do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi
xướng với các cuộc khởi nghĩa Ba Đình, Bãi Sậy, Hương Khê,... Cuộc khởi nghĩa Phan
Đình Phùng thất bại (1896) cũng là mốc chấm đứt vai trò lãnh đạo của giai cấp phong
kiến đối với phong trào chống thực dân Pháp.
Phong trào nông dân Yên Thế (1884-1913) do thủ lĩnh nơng dân Hồng Hoa Thám
lãnh đạo, nhưng do mang nặng “cốt cách phong kiến”, khơng có khả năng mở rộng, hợp
tác và thống nhất tạo thành một cuộc giải phóng dân tộc, cuối cùng bị Pháp đàn áp.
Từ sự thất bại của các phong trào trên, chúng ta có thể nhận định rằng các giai cấp
phong kiến khơng cịn phù hợp để lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Từ đây
đặt ra nhiều yêu cầu cho cuộc cách mạng dân tộc và là bài học kinh nghiệm quý báu, cổ
vũ tinh thần yêu nước cho những phong trào tiếp theo.
* Các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp theo khuynh hướng chính trị
tư sản
Đầu thế kỷ XX: khi đó giai cấp tư sản và tiểu tư sản chưa ra đời, hệ tư tưởng tư sản
đã ảnh hưởng vào Việt Nam, các trí thức phong kiến tiếp thu tư tưởng tư sản
Khuynh hướng bạo động (Phan Bội Châu): chủ trương tập hợp lực lượng với
phương thức bạo động chống Pháp, xây dựng chế độ chính trị như ở Nhật Bản. Sau khi
Phong trào Đông Du thất bại, năm 1912 Phan Bội Châu lập tổ chức Việt Nam Quang
phục hội và cũng tan rã khi ông bị bắt.

Khuynh hướng cải cách (Phan Châu Trinh): Phan Châu Trinh đề nghị Nhà nước
“bảo hộ” Pháp tiến hành cải cách. Đây là sự hạn chế trong xu hướng này vì Phan Châu
Trinh đã “đặt vào lịng độ lượng của Pháp cái hy vọng cải tử hoàn sinh cho nước Nam,...
Cụ không rõ bản chất của đế quốc thực dân”1. Các đề nghị cải cách của phong trào Duy
Tân còn tản mạn, xa rời thực tế, không phù hợp với hồn cảnh đất nước lúc bấy giờ và
khơng đáp ứng được nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, do đó khơng được nhân
dân ủng hộ.

Trần Văn Giàu (1975), Sự phát triển tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỉ XIX đến Cách mạng tháng Tám- hệ ý thức
tư sản và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.442.
1

6


Sau chiến tranh thế giới lần I: Hệ tư tưởng tư sản tiếp tục tác động vào Việt Nam,
giai cấp tư sản và tiểu tư sản ra đời với tinh thần dân tộc, dân chủ họ đã bắt đầu vươn
lên vũ đài đấu tranh, các phong trào theo khuynh hướng chính trị tư sản:
Phong trào quốc gia cải lương tư sản (1919-1923): do giai cấp tư sản và địa chủ
vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại hoá; thực hiện chống độc quyền thương cảng
Sài Gòn; chống độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ.
Phong trào yêu nước dân chủ công khai (1925-1926): tiểu tư sản thành thị và tư
sản lớp dưới, phong trào đấu tranh chính trị gây tiếng vang khá lớn như đấu tranh đòi
thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để tang Phan Châu Trinh tiến, hành một cuộc
vận động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do dân chủ.
Phong trào cách mạng quốc gia tư sản (1937-1930): gắn liền với sự ra đời và hoạt
động của Việt Nam Quốc dân Đảng, chủ trương đánh đuổi đế quốc, xóa bỏ chế độ vua
quan, thành lập dân quyền xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở.
Nguyên nhân thất bại: giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ yếu về kinh tế và chính trị vì
vậy khơng đủ sức giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tuy nhiên các phong trào này

góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước chọn lựa con đường mới, giải phóng dân tộc
theo xu thế của thời đại và nhu cầu mới của nhân dân Việt Nam
Phong trào yêu nước ở Việt Nam cho đến những năm 20 của thế kỷ XX đều thất
bại, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là bước tiếp nối truyền thống yêu nước chống giặc
ngoại xâm của dân tộc, chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và
tư sản đã bế tắc, tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin,
quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh, và nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho những
người yêu nước Việt Nam là phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối
cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.
1.1.2. Q trình phát triển của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô
sản và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1.2.1. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản và xây dựng lý luận giải
phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc
7


* Những yếu tố tác động đến quyết định đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái
Quốc
Thứ nhất, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trên thế giới, đặc
biệt là phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á. Cũng chính những sự kiện này đã tác
động đến tư tưởng của Bác và nuôi nấng quyết tâm đấu tranh, tìm đường giải phóng dân
tộc.
Thứ hai, phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra sôi nổi nhưng đều thất bại từ đó
nhận thấy khơng thể cứu nước trên lập trường phong kiến hay lập trường của giai cấp tư
sản, tiểu tư sản đặt ra yêu cầu cấp thiết là tìm một con đường mới.
Thứ ba, trí tuệ và quyết tâm của Nguyễn Tất Thành. Chứng kiến chứng kiến cảnh
lao khổ của người dân mất nước, tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh, từ đó hun
đúc những hồi bão lớn lao, bị lơi cuốn bởi khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” mà
chính nước sinh ra khẩu hiệu đó lại đem lại đau khổ cho dân ta.

* Quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản
Từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Tất Thành đã tận dụng mọi cơ hội để được
đến nhiều nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Tìm hiểu về CMTS Anh, CMTS Pháp,
CMTS Mỹ… nhận thấy rằng họ khơng đáp ứng được nhu cầu giải phóng các tầng lớp
nhân dân lao động mà chỉ đem lại quyền lợi cho giai cấp tư sản.
Đến cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp. Người tích cực tham
gia hoạt động trong các tổ chức chính trị tại Pháp như: Hội những người Việt Nam yêu
nước, phong trào công nhân Pháp. Người đã gửi tới hội nghị Versailles bản yêu sách
của nhân dân An Nam và bị bác bỏ, từ đây Người nhận ra rằng muốn được giải phóng,
các dân tộc chỉ có thể trơng cậy vào mình, trơng cậy vào lực lượng của bản thân mình.
Tháng 7 năm 1920 Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân
tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong sự phát triển
nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị Người: từ chủ nghĩa yêu nước đến Chủ nghĩa
Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành
người cộng sản.

8


1.1.2.2. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng
sản ở Việt Nam (1921-1929)
* Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị
Về chính trị: Nguyễn Ái Quốc từng bước phác thảo một chiến lược đấu tranh dân
tộc ở thuộc địa, không sao chép nguyên văn lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà có
sự vận dụng phương pháp biện chứng duy vật để phân tích xã hội thuộc địa, đồng thời
chỉ ra mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu ở thuộc địa. Nội dung lý luận đó được trình bày qua
cho các báo ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc…, những tham luận tại các hội nghị và đại
hội quốc tế, nhất là Đại hội V của Quốc tế Cộng sản; đặc biệt là hai tác phẩm: Bản án
chế độ thực dân Pháp và Đường kách mệnh.
Về tư tưởng: tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nhằm làm

thay đổi nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng
Mác - Lênin từng bước đi vào trong đời sống xã hội. Đồng thời, vạch trần bản chất xấu
xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa, nhân dân Việt Nam.
* Sự chuẩn bị về tổ chức
Nguyễn ái Quốc chuẩn bị điều kiện về tổ chức để tiến tới thành lập Đảng. Khi tới
Trung Quốc (cuối năm 1924), Người tiếp xúc với Tâm tâm xã, lựa chọn một số thanh
niên yếu nước, lập ra nhóm Cộng sản đồn (2-1925), trên cơ sở đó, sáng lập Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên (6-1925).
Bên cạnh việc, mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu để đào tạo một
đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ngày
càng phát triển mạnh trong cả nước và đến năm 1929, Hội có có khoảng 1700 hội viên.
Báo Thanh niên trở thành cơ quan ngôn luận, phương tiện tuyên truyền về chủ
nghĩa Mác - Lênin và là hình thức tun truyền, cơng cụ đấu tranh cách mạng.
1.1.2.3. Phát triển phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng vô sản
* Sự phát triển của phong trào công nhân
Ngay từ khi ra đời Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã xác định phải xây
dựng khối liên minh công nông làm động lực cách mạng: “công nhân là gốc của cách
9


mệnh, cịn học trị nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông”1.
Đồng thời, chủ trương vơ sản hóa trở thành định hướng chiến lược cho yêu cầu xây dựng
và phát triển đội ngũ cán bộ cách mạng trong thời kỳ vận động thành lập Đảng.
Từ cuối năm 1928, vơ sản hóa phát triển rộng khắp, nhiều hội viên đã đi vào các
nhà máy, hầm mỏ, đồn điền,... Khoảng cách giữa những người lao khổ và tri thức tiểu
tư sản được xóa bỏ, tạo điều kiện thuận lợi để gieo mầm cách mạng, trực tiếp truyền bá
chủ nghĩa Mác- Lênin và lý luận giải phóng dân tộc một cách phổ cập trong quần chúng.
Giai đoạn tự phát (trước năm 1925)
Vào thời kỳ đầu, do số lượng cịn ít, trình độ giác ngộ thấp nên những cuộc đấu
tranh của công nhân diễn ra lẻ tẻ, rời rạc ở từng xí nghiệp, từng kíp thợ, xưởng mộc,…

Mục đích đấu tranh là địi quyền lợi kinh tế như tăng lương, giảm giờ làm. “Trong thời
gian những năm 1919-1925, số lượng công nhân bỏ trốn, phá giao kèo với chủ đã lên
tới 4877 người. Càng ngày, công nhân đã biết sử dụng hình thức đấu tranh đặc thù của
mình là bãi cơng, mặc dù hình thức này bị ghép vào tội “phá rối trị an” và bị kết án tù”2.
Một sự kiện ảnh hưởng tới sự phát triển của phong trào cơng nhân Việt Nam, đó là “Liên
đồn cơng nhân tàu biển ở Viễn Đông” đã được thành lập năm 1921.
Từ năm 1922, phong trào công nhân bắt đầu khởi sắc. Đáng chú ý nhất là cuộc
bãi công của 600 cơng nhân thợ nhuộm Sài Gịn-Chợ Lớn.
Năm 1924, có các cuộc bãi công của công nhân nhà máy dệt, rượu, xay gạo ở
Nam Định, Hà Nội, Hải Dương,.. Năm 1925, phong trào công nhân tiến bộ hơn với các
cuộc bãi cơng có quy mơ lớn và có tổ chức lãnh đạo ở một mức độ nhất định. Tiêu biểu
là cuộc bãi cơng của cơng nhân Ba Son (Sài Gịn) vào tháng 8-1925.
Phong trào công nhân Việt Nam thời kỳ này cịn ở mức độ thấp, mang tính chất
tự phát, chưa chứng tỏ được sức mạnh của một lực lượng chính trị độc lập, chưa có ý
thức rõ ràng về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình.
Giai đoạn tự giác (sau 1925)

1
2

Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 2, tr. 288
Các tác giả (2007), Đại cương Lịch sử Việt Nam tập II, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.262

10


Vào những năm 1926 – 1929 phong trào công nhân dưới sự lãnh đạo của các tổ
chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, Công hội đỏ,...
Năm 1926, hàng loạt cuộc đấu tranh đã nổ ra như cuộc bãi công của công nhân ở
nhà máy sợi Nam Định, xi măng Hải Phòng, các đồn điền Cam Tiêm,...

Năm 1927, phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản bùng nổ trên khắp cả
nước. Từ 1926-1927, đã có 27 cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân.
Năm 1928-1929 là thời kỳ đỉnh cao của các phong trào yêu nước theo khuynh
hướng vô sản. Với hơn 40 cuộc đấu tranh có quy mơ và chất lượng.
Các cuộc đấu tranh trong thời gian từ 1926- 1929 mang tính chất chính trị rõ rệt,
có sự liên kết giữa các nhà máy các ngành địa phương, quy mơ rộng khắp cả nước, có
sự lãnh đạo và đoàn kết của quần chúng nhân dân.
* Sự ra đời của các tổ chức Cộng sản
Phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ,
dẫn đến cuộc đấu tranh nội bộ và sự phân hố tích cực trong các tổ chức này, hình thành
nên các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Ngày 17-6-1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp Đại hội,
quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ, xuất
bản báo Búa liềm và cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng.
Tháng 11-1929, trên cơ sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng
ra đời tại Khánh Hội, Sài Gịn, cơng bố điều lệ, quyết định xuất bản Tạp chí Bơnsơvích.
Tại Trung Kỳ, Tân Việt cách mạng Đảng chịu tác động mạnh mẽ của Hội Việt
Nam Cách mạng thanh niên đã đi theo khuynh hướng cách mạng vơ sản. Tháng 121929, hồn tất q trình thành lập Đơng Dương Cộng sản liên đồn.
Sự tồn tại và hoạt động riêng rẽ của ba tổ chức cộng sản làm cho lực lượng và sức
mạnh của phong trào cách mạng bị phân tán, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của một đảng
cộng sản thống nhất.
1.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
* Hội nghị thành lập Đảng
11


Hội nghị thành lập Đảng từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, thành phần tham dự gồm 2 đại
biểu Đông Dương Cộng sản Đảng, 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng và đại biểu của
Quốc tế Cộng sản- Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị thông qua các văn kiện quan trọng: Chánh
cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng,

điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời xác định tôn chỉ mục đích của
Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai
cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”1.
Đến ngày 24-2-1930, chấp nhận Đơng Dương Cộng sản liên đồn gia nhập.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước,
đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại: cách mạng Việt Nam trở
thành một bộ phận khắng khít của cách mạng vô sản thế giới, là nhân tố hàng đầu đưa
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
* Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Phương hướng chiến lược cách mạng
Cương lĩnh chính trị đầu tiêu xác định mục tiêu chiến lược của Cách mạng Việt
Nam: Từ việc phân tích hiện thực trong xã hội Việt Nam- một xã hội thuộc địa nửa
phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có cơng nhân, nông dân với đế
quốc ngày càng sâu sắc cần được giải quyết, từ đó xác định đường lối chiến lược của
cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạnh
để đi tới xã hội cộng sản”, làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm
trù của cách mạng vơ sản. Đó là con đường cách mạng giành độc lập dân tộc, thực hiện
khẩu hiệu “người cày có ruộng” và các quyền dân chủ chính trị, kinh tế, văn hóa… cho
các tầng lớp nhân dân, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi tới xã hội cộng sản mà chủ
nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của nó. Luận điểm trên đã đánh dấu sự phát triển vượt bậc
về tư duy lý luận chính trị của cách mạng Việt Nam và đã chứng tỏ rằng, Đảng ta nắm
vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách
mạng thế giới, nhìn rõ con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Nhiệm vụ cách mạng

1

Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 2, tr. 7-8

12



Về chính trị: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho
nước Nam được hoàn toàn độc lập”, cương lĩnh xác định: Chống đế quốc và chống
phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày,
trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí đầu tiên; lập chính
phủ cơng nơng binh, tổ chính qn đội cơng nơng. Đảng ta đã xác định đúng kẻ thù chủ
yếu và nhiệm vụ chủ yếu để tập hợp lực lượng, phát huy cao độ sức mạnh dân tộc nhưng
không coi nhẹ những nhiệm vụ giải phóng giai cấp, từ đó có thể thấy đây là một những
tư tưởng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta bắt nguồn từ việc kết hợp khéo léo yếu tố dân
tộc với yếu tố giai cấp để xem xét vấn đề xã hội.
Về kinh tế: tịch thu sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp giao cho
Chính phủ cơng nơng binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công
và chia cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp, nông nghiệp, miễn thuế cho dân
nghèo...
Về văn hóa- xã hội: dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền,.. ; phổ
thơng giáo dục theo cơng nơng hóa.
Nhiệm vụ về mặt kinh tế và mặt xã hội vừa phản ánh đúng tình hình kinh tế, xã
hội cần được giải quyết ở Việt Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, tồn diện, triệt để.
Lực lượng cách mạng
Phải đồn kết cơng nhân- nơng dân đây là lực lượng nịng cốt, trong đó giai cấp
công nhân là lãnh đạo và phải dựa vào dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng
ruộng đất; đồng thời đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước. Hết
sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ vào
phe vô sản giai cấp. Đối với, phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư bản An Nam mà chưa rõ
mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập,... Đây là cơ sở
của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết dân tộc. Các nhà kinh điển như Mác, Ăngghen
quan niệm lực lượng cách mạng chủ yếu là liên minh công nơng. Lênin quan niệm đó là
liên minh Cơng-Nơng-Binh. Cịn sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ quan niệm lực
lượng cách mạng ở nước ta là toàn thể nhân dân.


13


Nhận thức và đánh giá đúng của Đảng ta đối với mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp trong
xã hội, mỗi dân tộc trong cộng đồng, thừa nhận tính tích cực và đóng góp của họ trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước. Đánh giá đúng đắn nhân tố
dân tộc trong cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc; chỉ rõ tính
chất cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa và phụ thuộc.
Lãnh đạo cách mạng
Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. “Đảng là đội tiên
phong của giai cấp vô sản phải thu phục được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho
giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”1, “Đảng là đội quân tiên phong của đạo quân
vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo
quần chúng”2, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng
Quan hệ với cách mạng thế giới
Xác định tinh thần vô sản quốc tế, Cương lĩnh đã chỉ rõ trong khi thực hiện nhiệm
vụ giải phóng dân tộc, đồng thời phải thực hành liên lạc, đoàn kết với các dân tộc bị áp
bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Trong tư tưởng của Nguyễn
Ái Quốc, đúng như Ăngghen đã nói rằng: “Những tư tưởng dân tộc chân chính đồng
thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính”3. Như vậy, ngay từ khi thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai cấp
công nhân.
Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc khơng những phải trở thành bộ phận khắng
khít của cuộc cách mạng vơ sản mang tính tồn cầu mà cịn có vai trị là một trào lưu
lớn của cách mạng trong thế kỷ này. Tư tưởng này là sự sáng tạo, là cơ sở cho sự phát
triển chính sách đồn kết quốc tế của Đảng ta.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 2, trang 4.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb .Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 2, trang 6.
3
Nguyễn Duy Quý (2015), Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, truy cập ngày 29/09/2021
1
2

14


Thực dân Pháp tiến hành cơng cuộc bình định bằng các chính sách cai trị , hai cuộc
khai thác thuộc địa mưu đồ biến Việt Nam nói riêng và tồn Đơng Dương nói chung
thành thị trường tiêu thụ hàng hóa, vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt,...
chính sách của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên mọi lĩnh
vực dẫn đến sự phân hóa giai cấp. Bên cạnh mâu thuẫn xã hội cũ, mâu thuẫn mới xuất
hiện giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt
ra 2 yêu cầu: đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, tự do cho dân tộc; xóa bỏ chế độ
phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX diễn ra sôi nổi theo
nhiều khuynh hướng khác nhau: hệ tư tưởng phong kiến và tư sản ,nhưng đều thất bại,
chứng tỏ con đường cứu nước này đã bế tắc, tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp
nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh.
Sau nhiều năm bơn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đọc được “Sơ thảo
lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin. Từ đây bắt
đầu chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Tiền đề thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã phát
triển mạnh mẽ, nhưng lại dẫn đến cuộc đấu tranh nội bộ và sự phân hố tích cực trong
các tổ chức này, hình thành nên các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, đặt ra yêu cầu phải
có sự lãnh đạo của một đảng cộng sản thống nhất.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 với các văn kiện quan trọng: Chánh

cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng,
điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên này đề ra
những nội dung quan trọng: Phương hướng chiến lược cách mạng, Nhiệm vụ cách mạng,
Lực lượng cách mạng, Lãnh đạo cách mạng, Quan hệ với cách mạng thế giới. Những
nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng đắn,
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta - một nước thuộc địa
nửa phong kiến để giải quyết các vấn đề. Bên cạnh sự kết hợp đầy sáng tạo, đặc điểm
thực tiễn của cách mạng Việt Nam với tư tưởng tiên tiến cách mạng của thời đại.

15


Chương 2
LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ VÀ SỰ HỒN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI
CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (1930 - 1945)
2.1. Luận cương chính trị
2.1.1. Bối cảnh ra đời Luận cương chính trị
Sau thời gian học tập ở Liên Xô, tháng 4-1930 đồng chí Trần Phú được Quốc tế
Cộng sản cử về nước hoạt động và được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm
thời, sau đó ít lâu vào Ban Thường vụ Trung ương, đồng chí đã chủ trì dự thảo Luận
cương chính trị của Đảng
Trong khi chuẩn bị bản Luận cương (tại nhà số 7 phố Jean Soler, nay là số nhà 90
phố Thợ Nhuộm, Hà Nội), đồng chí Trần Phú đã vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác
- Lênin, kinh nghiệm phong trào cộng sản quốc tế và Đề cương cách mạng thuộc địa của
Quốc tế Cộng sản; kết hợp với việc đi khảo sát thực tế phong trào cơng nhân và nơng
dân ở Hải Phịng, Nam Định, Thái Bình, đồng thời dựa trên ý kiến của Ban Thường vụ
Trung ương lâm thời. Sau một quá trình làm việc miệt mài, nghiêm túc, đồng chí Trần
Phú viết ra Dự thảo Luận cương chính trị của Đảng.
Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930, Ban chấp hành Trung Ương họp Hội nghị lần
thứ nhất tại Hương Cảng tức Hồng Kông (Trung Quốc), quyết định đổi tên Đảng Cộng

Sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đơng Dương. Đồng chí Trần Phú được bầu làm
tổng Bí thư của Đảng. Từ đây cương lĩnh chính trị tháng 10-1930 ra đời.
2.1.2. Nội dung của Luận cương chính trị
Luận cương chính trị đã phân tích đặc điểm, tình hình xã hội thuộc địa nửa phong
kiến và nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương
do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Xác định mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao
Miên là “một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ,
phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”1
1

Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 2, tr.90.

16


Về phương hướng chiến lược cách mạng, Luận cương nêu rõ tính chất của cách
mạng Đơng Dương lúc đầu là một cách mạng “cách mạng tư sản dân quyền”, “có tính
chất thổ địa và phản đế”. Sau đó sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh
đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”1.
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là tranh đấu đánh đổ di tích
phong kiến, đánh đổ sự bóc lột tiền tiền tư bản và thực hành thổ địa cách mạng triệt để
và “đánh đổ đế quốc Pháp, làm cho Đơng Dương hồn tồn độc lập”. Hai nhiệm vụ có
quan hệ khăng khít với nhau: “... có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai
cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan chế độ phong kiến
thì mới đánh đổ được đế quốc”. Luận cương nhấn mạnh vấn đề thổ địa là cái cốt của
cách mạng tư sản dân quyền, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
Về lực lượng cách mạng, giai cấp vô sản và nơng dân là hai động chính của cách
mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vơ sản là động lực chính và mạnh. Tư sản
thương nghiệp đứng về phe đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng. Tư sản thương

nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng, còn tư sản cơng nghiệp
thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế
quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ cơng nghiệp có thái độ do dự; tiểu tư sản
thương gia thì khơng tán thành cách mạng, tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia
chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời kỳ đầu. Chỉ có các
phần tử lao khổ ở đô thị như những người bán hàng rong, thợ thủ công nhỏ và tri thức
thất nghiệp mới đi theo cách mạng mà thôi.
Về phương pháp cách mạng, Luận cương nêu rõ phải ra sức chuẩn bị cho quần
chúng về con đường “võ trang bạo động”. Đến lúc có tình thế cách mạng, “Đảng phải
lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh phủ của địch nhân và giành lấy chánh
quyền cho công nông.” Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, “phải
tn theo khn phép nhà binh”.
Đồn kết quốc tế: Cách mạng Đơng Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới vì vậy phải đồn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô

1

Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 2, tr.98.

17


sản Pháp, mật thiết liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc
địa để mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách mạng ở Đơng Dương.
Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã xác định nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược
cách mạng. Về cơ bản thống nhất với nội dung của Chính cương, sách lược vắn tắt của
Hội nghị thành lập Đảng tháng 2-1930. Tuy nhiên luận cương đã không nêu rõ mâu
thuẫn chủ yếu xã hội Việt Nam thuộc địa, khơng nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân
tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất; không đè ra được một chiến
lược liên minh dân tộc và giai cấp. Nguyên nhân của những hạn chế đó là do nhận thức

chưa đúng đắn về thực tiễn cách mạng ở Việt Nam của Quốc tế Cộng Sản và một số
Đảng cộng sản trong thời gian đó. Quốc tế cộng sản Những hạn chế của Đảng trong
việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp cũng như trong việc tập hợp lực lượng
cách mạng còn tiếp tục kéo dài trong nhiều năm sau
* So với Cương lĩnh chính trị (2-1930)
Một là, xác định kẻ thù và nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng: Trong cương lĩnh
chính trị xác định kẻ thù, nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ giặc Pháp sau đó mới đánh
đổ phong kiến và tay sai phản cách mạng( nhiệm vụ dân tộc và dân chủ). Nhiệm vụ dân
tộc được coi là nhiệm vụ trọng đại của cách mạng, nhiệm vụ dân chủ cũng dựa vào vấn
đề dân tộc để giải quyết. Như vậy mục tiêu của cương lĩnh xác định: làm cho Việt Nam
hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, dân chủ, bình đẳng, tịch thu ruộng đất của bọn
đế quốc Việt gian chia cho dân cày nghèo,... Trong Luận cương chính trị thì xác định
phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền
tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”.
Hai nhiệm vụ chiến lược dân chủ và dân tộc được tiến hành cùng một lúc có quan
hệ khăng khít với nhau. Việc xác định nhiệm vụ như vậy của Luận cương đã đáp ứng
những yêu cầu khách quan của Việt Nam lúc. Tuy nhiên, ở bối cảnh bấy giờ thì sự mâu
thuẫn ấy mặc dù tồn tại nhưng không gay gắt. Luận cương chưa xác định được kẻ thù,
nhiệm vụ hàng đầu ở một nước thuộc địa nửa phong kiến nên không nêu cao vấn đề dân
tộc lên hàng đầu đó là nêu cao vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn đề cách mạng ruộng đất.

18


Hai là, về lực lượng cách mạng: Trong Cương lĩnh chính trị xác định lực lượng
cách mạng là giai cấp cơng nhân và nơng dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh
đoàn kết với tiểu tư sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và
tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng. Cịn luận cương chính trị xác định tư sản
là kẻ thù cần phải bị loại bỏ theo tư tưởng của Quốc tế Cộng Sản. Tuy nhiên tư tưởng

ấy lại không phù hợp với tình hình thực tế tại cái nước Đông Dương khi mà mâu thuẫn
về giai cấp không gay gắt.
Như vậy, Cương lĩnh xác định lực lượng nòng cốt của cách mạng là giai cấp công
nhân, phát huy được sức mạnh của cả khối đoàn kết dân tộc, hướng vào nhiệm vụ hàng
đầu là giải phóng dân tộc. Với Luận cương thì xác định giai cấp vơ sản và nơng dân là
hai động lực chính của cách mạng mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vơ sản là
động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nơng dân có số lượng đơng
đảo nhất, là một động lực mạnh của cách mạng, còn những giai cấp và tầng lớp khác
ngồi cơng nơng như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng,
cịn tư sản cơng nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển
cao thì họ sẽ theo đế quốc. Điều đó cho thấy ta chưa phát huy được khối đoàn kết dân
tộc, chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng chống
đế quốc và phong kiến ở mức độ nhất định của tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo một bộ
phận trung, tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc và tay sai.
Tóm lại, Luận cương đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những quan điểm
chủ yếu của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, xác định được
nhiệm vụ nịng cốt của cách mạng. Tuy nhiên, Luận cương cũng có những mặt hạn chế
nhất định: Sử dụng một cách dập khuôn máy móc chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng
Việt Nam, cịn q nhấn mạnh đấu tranh giai cấp. Cịn Cương lĩnh chính trị tuy cịn sơ
lược vắn tắt nhưng nó đã vạch ra phương hướng cơ bản của cách mạng nước ta, phát
triển từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh
thể hiện sự vận dụng đúng đắn sáng tạo, nhạy bén chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh
cụ thể của Việt Nam kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô
sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn cách mạng Việt Nam, nó phù
hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử .
19


Những điểm khác biệt giữa cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị là do sự
khác biệt về cách nhìn, tầm nhìn, tầm nhận thức của Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú; đặc

điểm, tình hình xã hội ở Việt Nam và Đơng Dương nói chung cũng như mâu thuẫn gay
gắt trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Về Trần Phú do thời gian dài hoạt động, học tập
ở Liên Xô nên chịu ảnh hưởng khuynh hướng của Quốc tế Cộng Sản; do sự hiểu biết
không đầy đủ về xã hội Việt Nam nên không nhận thức được mâu thuẫn gay gắt nhất là
mâu thuẫn dân tộc. Trần Phú đã áp dụng một cách rập khn máy móc chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam. Chính vì vậy, Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã đặt nhiệm
vụ và lợi ích giai cấp lên trên nhiệm vụ và lợi ích dân tộc, khơng đề ra chiến lược đại
đồn kết dân tộc để có thể thu hút các tầng lớp và giai cấp khác vào nhiệm vụ chống đế
quốc. Về Nguyễn Ái Quốc, Người hiểu rõ tình hình, đặc điểm xã hội Việt Nam lúc bấy
giờ, nhận thức được mâu thuẫn gay gắt nhất của xã hội Việt Nam, đó là mâu thuẫn dân
tộc. Cương lĩnh tháng 2-1930 đặt nhiệm vụ, lợi ích dân tộc lên trên lợi ích giai cấp; đề
ra chiến lược đại đoàn kết dân tộc rộng rãi để có thể đồn kết các tầng lớp, giai cấp trong
xã hội tham gia thực hiện bằng được nhiệm vụ chống đế quốc
Hai cương lĩnh trên cùng với sự thống nhất về tổ chức có ý nghĩa to lớn với sự ra
đời của Đảng ta, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước
phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta. Chúng là nền tảng cho những
văn kiện nhằm xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận, tư tưởng.
2.2. Sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc từ năm 1939 đến
năm 1945
2.2.1. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939
2.2.1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam và thế giới giai đoạn 1939
* Tình hình thế giới:
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn cơng Ba Lan, hai ngày sau Anh và Pháp tuyên
chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ. Phe Đồng Minh và phe phát xít lao
vào xâu xé nhau. Tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực
lượng dân chủ với lực lượng phát xít. Tháng 6-1940, Đức tấn cơng Pháp. Chính phủ
Pháp đầu hàng Đức.

20



Chính phủ Đalađiê thi hành nhiều biện Pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong
nước và phong trào Cách Mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ
*Tình hình trong nước:
Chiến tranh thế giới lần hai đã ảnh hưởng trực tiếp, tác động mạnh mẽ đến Đông
Dương nói chung và Việt Nam nói riêng.
Bộ máy đàn áp được tăng cường, lệnh thiết quân luật được ban bố.
Ngày 28-9-1939, Tồn quyền Đơng Dương ra nghị định cấm tun truyền cộng
sản, đặt Đảng Cộng Sản Đơng Dương ra ngồi vịng pháp luật, giải tán các hội, đồn,
đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đơng người, giải tán các tổ
chức địi tự do dân chủ.
Mọi hoạt động dân chủ ở Việt Nam trước đây đều bị Pháp xóa bỏ. Hơn 7 vạn thanh
niên Việt Nam bị đưa sang các chiến trường làm bia đỡ đạn.
Tất cả những chính sách, hành vi thẳng tay đàn áp phong trào Cách Mạng của nhân
dân, bóc lột tàn bạo ấy đã làm cho lòng căm thù của tất cả các giai cấp Việt Nam càng
lúc càng sục sôi, và dâng cao hơn bao giờ hết.
2.2.1.2. Nội dung của Nghị quyết Hội Nghị 11-1939.
Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp trong ba ngày
6, 7, 8-11-1939, nhằm giải quyết vấn đề chuyển hướng đường lối và phương pháp cách
mạng trong tình hình mới.
Hội nghị được tổ chức tại Bà Điểm (Hóc Mơn, Gia Định). Dự hội nghị có các đồng
chí Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn..., đồng chí Nguyễn Văn Cừ - Tổng Bí thư
của Đảng, chủ trì Hội nghị.
* Nhiệm vụ Cách mạng:
Hội nghị phân tích sâu sắc tính chất, hậu quả của cuộc chiến tranh thế giới; vai trị,
vị trí của Đơng Dương trong cuộc chiến tranh đó; bản chất sâu xa trong các chính sách
phản động của thực dân Pháp; thái độ chính trị của các giai cấp trong xã hội Việt Nam
trước biến động của thời cuộc và vạch ra đường lối chính trị, phương hướng, nhiệm vụ
cách mạng Việt Nam trong tình hình mới.
21



×