Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Cách mạng xã hội chủ nghĩa và những thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc (1954-1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 97 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI: CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NHỮNG THÀNH
QUẢ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC (1954-1975). SINH
VIÊN CẦN LÀM GÌ ĐỂ ĐĨNG GĨP CHO CƠNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ
BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.

Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên:
Mã sinh viên:
Lớp:

Hà Nội, tháng 11 năm 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
NỘI DUNG ........................................................................................................ 3
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về chủ trương tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc (1954-1975) ....................................................................... 3
1.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................ 4
1.2. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................... 5
2. Nội dung xây dựng cách mạng xã hội chủ nghĩa và những thành quả xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954-1975) ........................................... 6
2.1. Bối cảnh lịch sử ................................................................................... 6
2.2. Miền Bắc hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn
vết thương chiến tranh (1954 -1957) .......................................................... 8


2.3. Cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hóa - xã
hội ở miền Bắc (1958-1960) ..................................................................... 20
2.4. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng – miền Bắc thực hiện
kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) ............................................... 30
2.5. Chuyển hướng xây dựng kinh tế, xây dựng hậu phương, đánh thắng
chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, tăng cường chi viện
cho miền Nam (1965-1968) ...................................................................... 46
2.6. Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế, chống chiến tranh phá hoại
lần thứ hai, làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền
Nam (1969 -1973) ..................................................................................... 51
2.7. Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, dồn
sức chi viện cho miền Nam (1973 -1975) ................................................. 57


3. Thành quả, hạn chế, nguyên nhân hạn chế, ý nghĩa lịch sử và bài học
kinh nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954-1975)...62
3.1. Thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc .......................... 62
3.2. Một số tồn tại và hạn chế trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc. ............................................................................................... 66
3.3. Nguyên nhân của những hạn chế ..................................................... 67
3.4. Ý nghĩa lịch sử ................................................................................... 68
3.5. Bài học kinh nghiệm.......................................................................... 69
4. Liên hệ: Trách nhiệm của sinh viên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc giai đoạn hiện nay ......................................................................... 75
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 88
PHỤ LỤC......................................................................................................... 91


MỞ ĐẦU

Thắng lợi của Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất
của sự nghiệp giải phóng dân tộc, là trang sử hào hùng, chói lọi trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta; kết thúc vẻ vang 30 năm kháng chiến gian khổ,
bắt đầu từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là thắng lợi tiêu biểu của lực
lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy, cổ vũ các dân tộc đang tiến hành
cuộc đấu tranh giải phóng, mở đầu cho sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên
toàn thế giới, làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến
quan trọng của chúng ở khu vực Đơng Nam Á, góp phần tăng cường lực lượng
của các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hịa bình
thế giới.
Làm nên thắng lợi đó có đóng góp khơng nhỏ của kết quả của sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, của đồng bào và chiến sĩ miền Bắc vừa chiến
đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn, hết lòng hết
sức chi viện cho tiền tuyến lớn ở miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Hậu
phương lớn miền Bắc đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, đúng như sự
khẳng định của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng: “Khơng thể nào
có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu khơng có miền
Bắc xã hội chủ nghĩa, suốt 16 năm qua luôn luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm
vụ chiến lược. Miền Bắc đã dốc vào chiến tranh giữ nước và cứu nước toàn bộ sức
mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn
cứ địa cách mạng của cả nước”.
Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn nữa về cuộc cách mạng xã hội của
nghĩa ở miền Bắc nước ta giai đoạn 1954 -1975, đồng thời tìm hiểu về những thành
quả trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa ở miền Bắc trong giai đoạn này, tôi xin
1


lựa chọn đề tài: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa và những thành quả xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954-1975). Sinh viên cần làm gì để đóng góp
cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay” cho tiểu

luận hết học phần của mình, từ đó rút ra những bài học về trách nhiệm của sinh
viên, thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn hiện nay.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
tiểu luận bao gồm 4 phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chủ trương tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc (1954-1975).
Phần 2: Nội dung xây dựng cách mạng xã hội chủ nghĩa và những thành quả
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954-1975).
Phần 3: Thành quả, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế, ý nghĩa lịch sử
và bài học kinh nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954-1975).
Phần 4: Liên hệ: Trách nhiệm của sinh viên trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc hiện nay.

2


NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về chủ trương tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc (1954-1975)
Sau hiệp định Giơnevơ tháng 7/1954, miền Bắc Việt Nam đã được giải phóng.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng là xác định con đường xây dựng
đất nước ở miền Bắc. Miền Bắc lúc này đang đứng trước ba khả năng phát triển:
Một là, hướng theo con đường tư bản chủ nghĩa, đây là con đường khơng hiện
thực vì đi ngược lại mục tiêu của Đảng và nguyện vọng của đông đảo nhân dân
miền Bắc. Giai cấp tư sản dân tộc đã mất khả năng lãnh đạo cách mạng, bộ phận
tư sản còn lại ở miền Bắc yếu ớt cả về chính trị và kinh tế, không đủ sức hướng
đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Hai là, dừng lại ở sản xuất nhỏ một thời gian. Đây chỉ là một giải pháp trung
gian, tạm thời, vì nền sản xuất nhỏ phân hóa theo hai hướng: Nếu tự phát sẽ hướng
theo con đường tư bản chủ nghĩa, nếu có hướng dẫn sẽ theo con đường xã hội

chủ nghĩa.
Ba là, Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng (8/1955) đã chủ
trương: “Củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước lên
chủ nghĩa xã hội”.
Công cuộc xây dựng cách mạng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện
hai miền thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết
với nhau, trong điều kiện từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đòi hỏi Đảng ta phải vận dụng
sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm
các nước xã hội chủ nghĩa.
3


Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tập trung giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản:
giữa tiến hành chiến tranh cách mạng với xây dựng chủ nghĩa xã hội; giữa hậu
phương lớn với tiền tuyến lớn; giữa thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; giữa quy luật chiến tranh và quy luật xây dựng phát triển kinh tế;
giữa đẩy mạnh chiến tranh cách mạng ở nước ta với bảo vệ hịa bình thế giới; giữa
lợi ích dân tộc với thực hiện nghĩa vụ quốc tế…
Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là con đường tất yếu dựa
trên những cơ sở lý luận và thực tiễn của cách mạng nước ta trong giai đoạn này:
1.1. Cơ sở lý luận
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, lịch sử loài người phát triển tuần tự, lần lượt trải
qua các hình thái kinh tế - xã hội, để chuyển lên chế độ xã hội cao hơn. Nhưng
trong những hoàn cảnh đặc biệt, mỗi dân tộc có thể phát triển nhảy vọt, bỏ qua
một vài phương thức sản xuất. Bước nhảy vọt này có điều kiện: Hình thái kinh
tế - xã hội cũ đã lạc hậu, hình thái kinh tế xã hội tiên tiên hơn đã xuất hiện. Từ sau
thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, loài người đã bước vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Giữa cách mạng dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ biện

chứng trong tiến trình cách mạng khơng ngừng. Cuộc cách mạng trước tạo tiền đề,
điều kiện cho cuộc cách mạng sau, cuộc cách mạng sau kế thừa và củng cố thành
quả của cuộc cách mạng trước. Giữa hai cuộc cách mạng khơng có bức tường
thành nào ngăn cách. Đảng cho rằng sự kết thúc thắng lợi của cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ là sự mở đầu tất yếu cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có nền kinh tế lạc hậu đã được
chủ nghĩa Mác – Lênin giải quyết triệt để cả về lý luận và thực tiễn. Theo Lênin,
4


các dân tộc lạc hậu có thể tiến lên chế độ Xô viết, bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa, nếu có hai điều kiện:
Một là, bên trong, Đảng Cộng sản đã lãnh đạo chính quyền nhà nước và khối
liên minh công - nông vững chắc; giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động phải
giành được chính quyền, sử dụng chính quyền cách mạng đó để tạo ra những tiền
đề, điều kiện cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Hai là, bên ngồi, có sự giúp đỡ về mặt nhà nước của giai cấp vơ sản ở các
nước tiên tiến.
Thực tế đã có nhiều dân tộc trong nước Nga Sa hoàng cũ đã phát triển theo
hướng này.
Ở miền Bắc Việt Nam, sau năm 1954 những điều kiện bên trong và bên ngồi
đã có đủ: Đảng đã lãnh đạo chính quyền nhà nước và Mặt trận Dân tộc thống nhất
rộng rãi mà liên minh công – nơng làm nịng cốt. Miền Bắc lại có sự ủng hộ, giúp
đỡ to lớn của chính phủ và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đặc biệt
là sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện mục đích của Đảng, đã được vạch ra
trong Cương lĩnh chính trị năm 1930: “Sau khi hồn thành cách mạng dân tộc dân
chủ, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Trong kháng chiến, khi tập trung giải quyết các nhiệm vụ dân tộc, dân chủ,

Đảng vẫn thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên giác ngộ lý tưởng xã hội chủ
nghĩa và tích cực chuẩn bị chuyển sang thực hiện chủ nghĩa xã hội. Nay chế độ
thực dân, phong kiến đã bị loại bỏ, mọi trở lực bị đập tan, tiến lên chủ nghĩa xã
5


hội là con đường hiện thực duy nhất xóa bỏ áp bức, bóc lột, đem lại cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng tha thiết của nhân dân miền Bắc.
Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu thế phát triển của miền
Bắc sau ngày được giải phóng. Đồng thời nó cũng phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội – với tư tưởng cách
mạng tiến công, miền Bắc không thể dừng lại để chờ cách mạng miền Nam và
cũng không thể phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa – vì như thế là đi ngược
lại với quy luật lịch sử.
Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội còn là yêu cầu của cách mạng miền Nam.
Để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, một điều kiện tất yếu là miền Bắc
cần phải xây dựng, củng cố chế độ mới xã hội chủ nghĩa, đủ sức làm hậu phương,
làm căn cứ địa vững chắc cho cách mạng miền Nam. Thực tế từ cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước đã chứng minh điều đó là hồn toàn đúng đắn.
Việc xác định kịp thời và đúng đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc là một thành công lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ này. Xây
dựng, củng cố vững chắc miền Bắc theo con đường chủ nghĩa xã hội là nhân tố cơ
bản đảm bảo thắng lợi cho cách mạng hai miền Nam - Bắc từ sau tháng 7
năm 1954.
2. Nội dung xây dựng cách mạng xã hội chủ nghĩa và những thành quả xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954-1975)
2.1. Bối cảnh lịch sử
2.1.1. Tình hình trong nước

6



Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (7/1954), đất nước ta tạm thời chia cắt
làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau:
Miền Bắc được hồn tồn giải phóng và bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội,
từ một nền nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Ở miền Nam, đế quốc Mỹ nhảy vào thay chân thực dân Pháp, phá hoại Hiệp
định Giơnevơ, tiến hành chủ nghĩa thực dân mới âm mưu biến miền Nam thành
thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Sau khi dựng lên chính quyền tay
sai Ngơ Đình Diệm, chúng tiến hành khủng bố, đàn áp phong trào yêu nước
miền Nam.
Ở trong nước, thuận lợi lúc này là đã có miền Bắc được hồn tồn giải phóng,
làm căn cứ địa hậu phương cho cả nước. Thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh
hơn trước sau 9 năm kháng chiến. Có ý chí độc lập thống nhất của nhân dân cả
nước. Khó khăn là: đất nước chia làm hai miền, có chế độ chính trị khác nhau,
miền Nam do đế quốc, tay sai kiểm sốt, khơng chịu thực hiện hịa bình thống nhất
đất nước. Kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu. Đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực
tiếp của nhân dân Việt Nam.
1.1.2. Tình hình quốc tế
Tình hình quốc tế vừa có thuận lợi, vừa có khó khăn cho cách mạng Việt Nam.
Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu đã phát triển vượt bậc,
ngày càng được củng cố thêm, nối liền từ Âu sang Á, là thành trì của hịa bình, an
ninh của các dân tộc. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và đấu tranh địi hịa
bình trên thế giới có những bước phát triển nhanh chóng. Đây là thuận lợi cơ bản
cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam sau 1954. Tuy nhiên, việc xuất hiện đế quốc
7


Mỹ hùng mạnh có âm mưu làm bá chủ thế giới, với các chiến lược toàn cầu phản

cách mạng được các đời tổng thống nối tiếp nhau xây dựng và thực hiện, thế giới
đi vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang cùng những diễn biến phức tạp
trong quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa, trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, đặc biệt là sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc có những ảnh
hưởng khó khăn đối với cách mạng Việt Nam.
Tình hình phức tạp nêu trên đã đặt Đảng ta trước một yêu cầu bức thiết là phải
vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù
hợp với tình hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của
thời đại. Trải qua nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị,
chủ trương chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng từng
bước hình thành.
2.2. Miền Bắc hồn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn
vết thương chiến tranh (1954 -1957)
Về chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sau khi miền Bắc
được giải phóng, Trung ương Đảng đã chủ trương chuyển miền Bắc sang giai đoạn
mới với nhận thức: sự kết thúc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự
mở đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa như các cương lĩnh của Đảng đã xác định.
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là
hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi
và phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định xã hội, ổn định, đời sống nhân dân,
tăng cường và mở rộng hoạt động quan hệ quốc tế... để sớm đưa miền Bắc trở lại
bình thường sau 9 năm chiến tranh.

8


Hội nghị lần thứ bảy (3-1955) và lần thứ tám (8-1955) của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa II) đã nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền
Nam, công khai lập nhà nước riêng chống phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp phong
trào cách mạng. Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hịa bình, thực hiện

thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền
Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Thực hiện Hiệp định Giơnevơ, ngay sau khi hồ bình được lập lại, Đảng đã
lãnh đạo nhân dân miền Bắc đấu tranh đòi đối phương phải rút quân khỏi miền
Bắc theo đúng lịch trình quy định. Cuộc đấu tranh này đã diễn ra hết sức khó khăn,
phức tạp bởi Pháp và tay sai đã dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để chống phá, làm rối
loạn xã hội và mất trật tự an ninh trước khi chúng rút quân như kích động, thúc ép
đồng bào theo đạo Thiên chúa di cư vào Nam, phá hoại, di chuyển máy móc
nguyên vật liệu trái phép...
Để chống lại âm mưu, thủ đoạn của địch và ổn định tình hình, Đảng và Nhà
nước đã ban hành kịp thời nhiều chính sách chỉ đạo các địa phương thực hiện như:
chính sách đối với tơn giáo; chính sách đối với cơng chức, trí thức trước đây làm
việc cho địch; chính sách đối với ngụy qn. Ngồi ra, Đảng và Nhà nước cịn huy
động hàng vạn cán bộ, bộ đội đến giúp đỡ các địa phương, tuyên truyền, vận động
quần chúng đấu tranh chống địch cưỡng ép di cư nhằm ổn định tình hình.
Trước tinh thần đấu tranh của nhân dân ta, địch đã phải rút quân theo đúng
Hiệp định. Ngày 10-10-1954, tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội, ngày 165-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp và tay sai đã phải rút khỏi miền Bắc.
Hịa bình được lập lại, nhân dân miền Bắc phải xây dựng đất nước trong điều
kiện vơ cùng khó khăn. Nền kinh tế đã lạc hậu lại phải chịu hậu quả của 15 năm
chiến tranh. Trong nông nghiệp, ruộng đất bỏ hoang lên tới 143.000 ha. Hầu hết
9


các cơng trình thủy lợi bị địch phá hoại, đê đập hư hỏng, khiến 200.000 héc ta
ruộng đồng không nước tưới tiêu, hàng ngàn làng mạc bị tàn phá, hàng chục vạn
trâu bị cày kéo bị giết hại. Trong cơng nghiệp, nhiều hầm mỏ, xí nghiệp bị phá
hoại nặng nề, đầu năm 1955 chỉ có 9 xí nghiệp ở vùng tự do cũ và 10 xí nghiệp ở
vùng mới giải phóng hoạt động, cơng nhân phải ngừng sản xuất hoặc sản xuất ở
mức độ thấp, cả miền Bắc lúc này chỉ có 30 kỹ sư và cán bộ kỹ thuật. Thủ cơng
nghiệp, thương nghiệp bị đình đốn, các hoạt động đầu cơ tích trữ, nâng giá lũng

đoạn thị trường diễn ra phổ biến. Tiền tệ chưa thống nhất, nền kinh tế quốc dân
mất cân đối gay gắt. Giao thông vận tải bị trì trệ do chiến tranh phá hoại. Nạn thất
nghiệp diễn ra nghiêm trọng với trên 100.000 người không có cơng ăn việc làm.
Thiên tai mất mùa dẫn đến nạn đói xảy ra gay gắt ở một số địa phương.
Ở các vùng tự do cũ trong kháng chiến, tuy cơng nghiệp và nơng nghiệp có
phát triển, nhưng quy mơ nhỏ bé, kĩ thuật lạc hậu nên năng suất rất thấp, không
thể đáp ứng được yêu cầu sản xuất và đời sống ngày càng cao của nhân dân.
Trong khi đó, các phần tử tề ngụy rã đám chưa qua cải tạo, lực lượng thổ phỉ
và bọn gián điệp, đặc vụ nước ngoài được cài lại vẫn ngấm ngầm hoạt động... càng
làm cho tình hình chính trị xã hội thêm phức tạp.
Tình hình trên đặt ra cho Đảng và nhân dân miền Bắc một nhiệm vụ hết sức
nặng nề là khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Muốn
vậy, nhiệm vụ trước mắt là phải tiếp tục hoàn thành cải cách ruộng đất.
Sau khi miền Bắc được giải phóng, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục tiến hành cải
cách ruộng đất ở những vùng địch tạm chiếm và những nơi chưa có điều kiện thực
hiện, để hồn thành những nhiệm vụ còn lại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ,
đáp ứng u cầu giải phóng nơng dân và thực hiện ước mơ ngàn đời của người
nông dân là “người cày có ruộng”.
10


Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954 và Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3-1955 chỉ rõ: “Để củng cố miền Bắc, trước
hết cần hoàn thành cải cách ruộng đất ở miền Bắc”, “chia ruộng đất cho nơng dân,
xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phải là chính sách bất di bất
dịch của ta”.
Để đảm bảo thực hiện thắng lợi chính sách cải cách ruộng đất, Đảng đã đề ra
chủ trương: “Dựa hẳn vào bần cố nông, đồn kết chặt chẽ với trung nơng, liên hiệp
với phú nông, đánh đổ giai cấp địa chủ, tiêu diệt chế độ phong kiến từng bước và
có phân biệt. Cần phân hóa giai cấp địa chủ, phân biệt đối xử với các địa chủ,

chiếu cố địa chủ kháng chiến một cách thích đáng”.
Cải cách ruộng đất trực tiếp tiến hành khẩn trương đến tháng 7-1956 căn bản
hoàn thành ở đồng bằng, trung du và miền núi. Trong quá trình cải cách ruộng đất
chúng ta đã thực hiện giảm tô 8 đợt ở 1.875 xã với 1.106.995 ha ruộng đất và tiến
hành cải cách ruộng đất 5 đợt ở 3.536 xã.
Kết thúc cuộc cải cách, đã chia 334.100 ha ruộng đất cho nơng dân, hồn thành
xóa bỏ giai cấp địa chủ, xóa bỏ tàn dư phong kiến ở miền Bắc nước ta, nâng cao
quyền làm chủ của nơng dân trong nơng thơn.
Tính chung, từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến cuối năm 1956, ở miền
Bắc đã chia 810 nghìn ha ruộng đất, 74 nghìn con trâu, bị cho 2,1 triệu hộ nông
dân (với hơn 10 triệu dân).
Nhờ thực hiện cải cách ruộng đất, miền Bắc đã giải phóng năng lực sản xuất
trong nông nghiệp, đưa người nông dân trở thành chủ thể trong quá trình kết hợp
sức lao động với ruộng đất, tạo ra động lực trực tiếp phát triển sản xuất, góp phần
quan trọng trong việc khơi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh.
11


Trong quá trình tiến hành cải cách ruộng đất, bên cạnh những thành công, Đảng
ta đã phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài trong chỉ đạo
thực hiện, mà sau một thời gian mới phát hiện được. Do chủ quan giáo điều, không
xuất phát đầy đủ từ thực tiễn, Đảng đã không thấy rõ được những thay đổi quan
trọng về quan hệ giai cấp, xã hội ở nông thôn Việt Nam sau Cách mạng Tháng
Tám và nhất là những thay đổi trong kháng chiến. Do đó, trong chỉ đạo thực hiện
cải cách ruộng đất, đã cường điệu hóa đấu tranh giai cấp ở nơng thơn, dẫn đến mở
rộng quá mức đối tượng đấu tranh. Sử dụng hình thức, phương pháp đấu tranh
khơng phù hợp với đối tượng là địa chủ ở nông thôn Việt Nam.
Trong chỉ đạo tổ chức, đã nhận định sai về tình hình tổ chức cơ sở Đảng ở nơng
thơn, cho rằng về cơ bản đã bị địch lũng đoạn, từ đó dẫn đến xử lý oan những cán
bộ đảng viên tốt, sai lầm này gây ra một số tổn thất đối với Đảng và quan hệ giữa

Đảng và nhân dân.
Do vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng, trong Đảng đã
có những hiện tượng chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ. Đã tổ chức ra một hệ
thống chỉ đạo cải cách ruộng đất từ Trung ương đến cơ sở, tách rời sự chỉ đạo và
kiểm soát của các cấp ủy Đảng và chính quyền, của khu, tỉnh, huyện. Các cơ quan
này được giao quyền hạn quá rộng dẫn đến mệnh lệnh độc đoán, coi thường sự
lãnh đạo của Đảng.
Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II), tháng 9-1956,
đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn
tổ chức, cơng khai tự phê bình trước nhân dân, thi hành kỷ luật đối với một số Ủy
viên Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương Đảng. Cơng tác sửa sai trong năm 1956
-1957 đã được Đảng chỉ đạo, tiến hành một cách thành khẩn, kiên quyết, khẩn

12


trương, thận trọng và có kế hoạch chặt chẽ, nên từng bước đã khắc phục được
những sai lầm đã xảy ra.
Sau một năm sửa sai, công cuộc cải cách ruộng đất đã hoàn thành thắng lợi.
Chúng ta đã tịch thu, trưng thu và trưng mua 810.000 ha ruộng đất, trên 100.000
trâu bị, 1.800.000 nơng cụ từ trong tay giai cấp địa chủ chia cho 2.200.000 hộ
nông dân lao động (chiếm 72,8% số hộ ở nông thôn được chia ruộng đất).
Chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến vĩnh viễn bị thủ
tiêu. Chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân được xác lập. Nông dân thực sự trở
thành người chủ ở nông thôn không chỉ về chính trị, mà cả về kinh tế. Khối liên
minh cơng nơng - nền tảng của chun chính vơ sản được củng cố một bước.
Thắng lợi của cải cách ruộng đất là thắng lợi to lớn và căn bản, làm thay đổi bộ
mặt nơng thơn miền Bắc. Nó đem lại niềm phấn khởi trong nơng dân, có tác dụng
rất lớn trong việc đẩy mạnh sản xuất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh.

Đán giá cuộc vận động cải cách ruộng đất, Kết luận của Bộ Chính trị về một số
vấn đề lịch sử Đảng thời kỳ 1954-1975, ngày 25/5/1994, đã nêu lên hai bài
học lớn:
Một là, Đảng phải luôn giữ vững độc lập tự chủ trong việc xác định đường lối
cách mạng; phải căn cứ vào thực tế xã hội Việt Nam để đặt đường lối cho cách
mạng nước ta. Trong vấn đề ruộng đất sau hịa bình lập lại, đáng lẽ Đảng phải căn
cứ vào tình hình chung của cách mạng và thực tiễn tình hình nơng thôn nước ta
sau kháng chiến chống Pháp để xác định chủ trương tiếp tục giải quyết vấn đề
ruộng đất ở miền Bắc nước ta một cách hợp lý.

13


Hai là, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi Đảng phát hiện mình có sai
lầm, thì phải kiên quyết sửa chữa sai lầm vì lợi ích của nhân dân, nhưng tuyệt đối
không được phủ định thành quả cách mạng đã đạt được.
Trong công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, ngay sau
hịa bình được lập lại, Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “Chúng ta sẽ đứng trước một nhiệm
vụ to lớn trong công tác kinh tế là hàn gắn những vết thương chiến tranh, phục hồi
kinh tế quốc dân, giảm bớt những khó khăn về đời sống của nhân dân phát triển
kinh tế một cách có kế hoạch và làm từng bước, mở rộng việc giao lưu kinh tế
giữa thành thị và thôn quê”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (3-1955)
cũng đã xác định: “Khôi phục kinh tế, nâng cao sản xuất là để hàn gắn vết thương
chiến tranh, đảm bảo cung cấp trong thời bình, dần dần nâng cao mức sống của
quần chúng, tạo thêm điều kiện tăng cường lực lượng và chuẩn bị xây dựng
nước nhà”.
Tinh thần trên của Nghị quyết được biểu hiện rõ trong phương châm khôi phục
kinh tế: chủ yếu khôi phục nông nghiệp, đồng thời coi trọng giao thông vận tải,
chăm lo khôi phục xây dựng một số ngành công nghiệp cần thiết; phát triển sản

xuất, làm cho kinh tế dồi dào, công và tư đều được chiếu cố, lao động và tư bản
đều có lợi, thành thị và thơn q giúp đỡ lẫn nhau, mở rộng trao đổi giữa trong và
ngoài nước; khôi phục phải đi đôi với cải tạo nền kinh tế cũ cịn nặng tính chất
phong kiến, thực dân và di tích chiến tranh thành nền kinh tế độc lập, dân chủ,
phục vụ dân sinh; tăng cường một cách vững chắc bộ phận kinh tế quốc doanh và
chăm lo xây dựng dần dần bộ phận kinh tế hợp tác xã... hướng dẫn, khuyến khích
giúp đỡ cơng việc làm ăn, bn bán của các tầng lớp tiểu tư sản và công cuộc kinh
doanh của tư sản dân tộc.
14


Để từng bước khôi phục kinh tế, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954 đã đề
ra những nhiệm vụ của kế hoạch 3 năm (1955-1957) nhằm khôi phục kinh tế, hàn
gắn vết thương chiến tranh, trên cơ sở đó để phát triển sản xuất, ổn định và cải
thiện đời sống nhân dân.
Trong công cuộc khôi phục kinh tế, Đảng đặt trọng tâm là phục hồi và phát
triển sản xuất nông nghiệp, đưa sản lượng lương thực vượt mức trước chiến tranh
(1939). Do đó, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách để khuyến khích phát triển
sản xuất nơng nghiệp, đảm bảo quyền sở hữu ruộng đất của nông dân, những diện
tích khai hoang, phục hóa, tăng vụ được giảm và miễn thuế, tự do th mướn nhân
cơng, trâu bị, khuyến khích phát triển ngành nghề phụ. Nhân dân miền Bắc đã tập
trung nhanh chóng khắc phục hậu quả của cuộc chiến tranh 9 năm, giải quyết nạn
đói cục bộ ở một số địa phương, khơi phục hàng trăm nghìn héc ta ruộng đất bỏ
hoang, nhất là trên các “vành đai trắng”, khôi phục các hệ thống thủy nông bị phá
hủy, cố gắng đến mức tối đa thực thi các biện pháp “nước, phân, cần, giống” để
phát triển sản xuất nông nghiệp.
Với việc khôi phục kinh tế nông nghiệp được kết hợp với cải cách ruộng đất và
vận động đổi công, giúp nhau sản xuất, đồng thời Đảng và Nhà nước đã hết sức
chăm lo cơ sở vật chất cho nông nghiệp. Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất phong kiến
sau cải cách ruộng đất, biến đại đa số nông dân lao động thành người tiểu sản xuất

hàng hóa đã đi song song với việc khơi phục diện tích canh tác và sản lượng
nơng nghiệp.
Đầu năm 1957, về ruộng đất, có trên 125 ha trong tổng số 144.300 ha ruộng
đất bỏ hoang được khai phá, hàng vạn ha ruộng đất của những người bị dụ dỗ
cưỡng ép di cư cũng được cày cấy. Về thủy lợi, nếu trước đây 8 công trình thủy
lợi lớn đảm bảo tưới tiêu cho 320.000 ha ruộng đất bị phá hủy, nhiều đê đập bị hư
15


hỏng thì nay tất cả 12 hệ thống nơng giang, đập cổng đã được sửa chữa và xây
dựng lại hoàn tồn khiến diện tích tưới nước vượt xa mức trước chiến tranh. Số
cán bộ kỹ thuật nông nghiệp được đào tạo ở bậc đại học và trung học chuyên
nghiệp được bổ sung đáng kể. Tình hình nơng thơn có chuyển biển lớn. Năm 1957
các chi tiêu sản xuất nông nghiệp đều vượt mức năm 1939. Đến năm 1957, sản
lượng thóc đạt trên 4 triệu tấn, đạt mức bình quân 304kg/người/năm.
Về nông nghiệp, sản lượng lương thực và hoa màu tăng nhanh. Tính đến năm
1957, miền Bắc sản xuất được khoảng 4 triệu tấn lương thực (vượt xa so với năm
1939: 2,4 triệu tấn). Tổng sản lượng hoa màu quy ra thóc đạt bình qn hằng năm
là 680.000 tấn (gấp 3 lần mức năm 1939: 220.000 tấn). Sản xuất nông nghiệp được
khơi phục và phát triển, nạn đói bị đẩy lùi, tạo điều kiện giải quyết những vấn đề
cơ bản trong nền kinh tế quốc dân, kết quả này góp phần ổn định chính trị, trật tự
an tồn xã hội.
Về cơng nghiệp, Đảng ta chủ trương trước tiên phải chú trọng khôi phục và
phát triển công nghiệp nhẹ; đồng thời củng cố và phát triển các cơ sở công nghiệp
nặng trong phạm vi cần thiết và có khả năng. Trong các năm 1955 đến năm 1957,
hầu hết các cơ sở công nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp quan trọng như: Mỏ than
Hồng Gai, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy điện Hà
Nội đã đi vào hoạt động có hiệu quả, cơng nhân phấn khởi trở thành người làm
chủ cơ sở sản xuất của mình. Đồng thời, Đảng và Nhà nước chỉ đạo xây dựng thêm
một số nhà máy mới. Đến cuối 1957, miền Bắc có tất cả 97 nhà máy, xí nghiệp do

Nhà nước quản lý.
Cùng với công nghiệp, thủ công nghiệp gần như bị phá sản trong thời gian
chiến tranh đã được phục hồi rất nhanh chóng. Đến năm 1957, miền Bắc đã có gần
460.000 người tham gia sản xuất thủ công nghiệp (gấp hai lần số thợ thủ công năm
16


1941, là năm phát triển cao nhất); cung cấp 58,8% sản phẩm tiêu dùng trong nước.
Đến cuối năm 1957, nước ta đã có 15 vạn cơ sở sản xuất với 43 vạn lao động,
nhiều ngành nghề mới được phát triển, thu hút khá nhiều lao động, thủ công nghiệp
chiếm khoảng 63,7% tổng giá trị sản lượng công nghiệp. Tỷ trọng hàng tiêu dùng,
sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nâng từ 8,4% năm 1955 lên 48,5%
năm 1956 và 68,8% năm 1957.
Về thương nghiệp, Nhà nước ta chủ trương chuyển hoạt động sang hướng phục
vụ sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân; tăng cường mậu dịch quốc doanh, làm
cho mậu dịch quốc doanh phát huy tác dụng tốt đối với đời sống nhân dân và sản
xuất. Theo phương hướng đó, chỉ trong thời gian ngắn, chúng ta đã đạt được nhiều
kết quả: giá cả thống nhất và ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện. Hệ thống
mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán không ngừng mở rộng và cung cấp
nhiều mặt hàng cho nhân dân. Năm 1957, thương nghiệp miền Bắc đã tăng tổng
mức bán lẻ lên 70,6%, doanh số gấp 2 lần so với năm 1955.
Việc giao lưu kinh tế giữa các địa phương trong nước được tăng cường. Hoạt
động ngoại thương dần dần tập trung trong tay Nhà nước. Quan hệ buôn bán với
nước ngồi ngày càng được mở rộng. Tính đến năm 1957, miền Bắc đã đặt quan
hệ thương mại với 27 nước.
Về giao thông vận tải, chỉ sau một thời gian, bốn tuyến đường sắt nối liền thủ
đô Hà Nội với các tỉnh đã mau chóng được khơi phục. Đến cuối năm 1957, chúng
ta đã khôi phục được 681 km đường sắt, khôi phục và xây dựng thêm 10.607 km
đường ô tô. Ngày 28/2/1955, khánh thành đường sắt liên vận quốc tế Hà Nội Đồng Đăng (Lạng Sơn). Ngày 1/1/1956 xe lửa chạy đến Lào Cai. Cùng với các
tuyến đường sắt, các tuyến đường bộ, đường thủy, đường không đều được khơi

phục. Đảng và Nhà nước chỉ đạo nhanh chóng khôi phục các tuyến đường ôtô,
17


đường thủy, bưu điện, nạo vét và mở rộng các bến cảng: Long Biên, Hải Phòng,
Hòn Gai, Cẩm Phả, Bến Thủy, góp phần rất quan trọng trong giao lưu hàng hoá,
phục hồi kinh tế.
Cùng với thắng lợi trong nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, cơ cấu kinh
tế cũng như quan hệ sản xuất miền Bắc cũng bước đầu có sự thay đổi. Đến cuối
năm 1957, đã có 1/4 số hộ nông dân vào tổ đổi công, hơn 50% số thợ thủ công vào
các tổ sản xuất và các hợp tác xã. Thành phần kinh tế quốc doanh chiếm 58% giá
trị sản lượng công nghiệp, 100% trong các lĩnh vực ngân hàng, xây dựng cơ bản,
bưu điện, đường sắt, 97% trong ngoại thương. Như vậy, kinh tế quốc doanh đã
nắm được toàn bộ hoặc phần lớn những ngành then chốt và giữ vai trị chủ đạo đối
với tồn bộ nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế quốc dân đến cuối năm 1957 căn
bản được phục hồi. Tổng sản lượng công nghiệp và nông nghiệp đã đạt xấp xỉ mức
năm 1939. Sản lượng lương thực đạt trên 4,5 triệu tấn, vượt xa mức trước chiến
tranh. Thành phần kinh tế quốc doanh được củng cố. Mọi hoạt động kinh tế trong
nước đã trở lại bình thường.
Cuối năm 1957, cơng tác khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh đã
đưa lại kết quả tốt. Nông thôn miền Bắc dần dần ổn định. Nội bộ Đảng đồn kết
nhất trí. Lịng tin của quần chúng đối với Đảng và Chính phủ được khôi phục. Sản
xuất nông nghiệp được đẩy mạnh. Năm 1957 là năm được mùa lớn, khối liên minh
công nông được củng cố. Chính quyền nhân dân được ổn định. Sự lãnh đạo của
Đảng được tăng cường. Kết quả sửa chữa sai lầm làm cho cuộc cách mạng ruộng
đất hoàn thành thắng lợi.
Những kết quả đạt được qua khôi phục kinh tế đã chứng tỏ chính sách kinh tế
của Đảng và Nhà nước lúc bấy giờ là thừa nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh
tế, do đó sản xuất về cơ bản vẫn theo cơ chế thị trường. Nhờ đó đã giải phóng năng
18



lực sản xuất cả trong công nghiệp và nông nghiệp, khơi phục và phát triển sản xuất
nhanh chóng, tạo ra động lực trực tiếp cho sự phục hồi và phát triển kinh tế sau
chiến tranh, làm sống động nền kinh tế miền Bắc ở cả nông thôn và thành thị.
Trong thời kì khơi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, sự nghiệp văn
hoá, giáo dục, y tế ở giai đoạn này cũng có những bước chuyển biến quan trọng.
Tháng 3-1955, Hội nghị lần thứ bảy ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II
(mở rộng) đã nêu rõ: “chấn chỉnh và củng cố giáo dục phổ thông. Thống nhất hai
chế độ giáo dục (chế độ giáo dục dân chủ mới và chế độ giáo dục cũ còn tồn tại ở
vùng mới giải phóng) ... Tiếp tục phát triển bình dân học vụ..., tiếp tục chấn chỉnh
ngành y tế, thiết thực gây phong trào vệ sinh yêu nước”.
Thực hiện chủ trương của Đảng, miền Bắc bắt tay vào công cuộc xây dựng và
phát triển văn hóa - xã hội. Miền Bắc tập trung phát triển giáo dục đào tạo, y tế,
phát triển nghệ thuật và văn hóa quần chúng, đấu tranh chống lại những luận điệu
xuyên tạc trên mặt trận văn hóa.
Sau khi giải phóng, miền Bắc tiến hành thống nhất hệ thống giáo dục phổ thông
9 năm ở vùng tự do với hệ thống các trường trung học và tiểu học tách riêng ở
vùng tạm chiếm cũ thành hệ thống phổ thông 10 năm, với nội dung bồi dưỡng thế
hệ trẻ một cách tồn diện về: trí lực, đức dục, thể dục và mỹ dục. Đến niên khóa
1957-1958, đã có 5.007 trường phổ thơng, với tổng số 23.340 giáo viên, 1.008.800
học sinh phổ thông. Đồng thời, giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp cũng
được chú trọng phát triển. Mặc dù kinh tế cịn hết sức khó khăn, Nhà nước đã mở
6 trường đại học, 16 trường trung học chuyên nghiệp; tổng số sinh viên đại học
tăng nhanh: niên khóa 1955-1956 ở miền Bắc có 1.122 sinh viên; niên khóa 19561957 tăng lên 2.984 sinh viên và niên khóa 1957-1958 số sinh viên theo học là
3.664 người. Số lượng học sinh trung học chuyên nghiệp cũng không ngừng gia
19


tăng: niên khóa 1955-1956 là 2.780 người, đến niên khóa 1957-1958 đã là 7.783

người. Hơn một triệu người đã thoát nạn mù chữ.
Cùng với phát triển giáo dục, Đảng và Nhà nước đã sớm quan tâm đến việc
phát triển y tế, chăm lo đến sức khỏe của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo đội ngũ cán
bộ y tế, đặc biệt là hệ thống y tế cơ sở. Nếp sống lành mạnh, vệ sinh được vận
động thực hiện khắp mọi nơi. Đến năm 1957, miền Bắc có 153 cơ sở điều trị, 108
đội y tế lưu động, khoảng 8000 cán bộ y tế từ bác sĩ đến y tá. Những nạn dịch rất
phổ biến ở miền Bắc như đau mắt hột, sốt rét… khơng cịn xuất hiện nhiều như
trước nữa. Do vậy, chủ trương, đường lối và biện pháp phát triển y tế đã đem lại
bước khởi đầu tốt đẹp cho ngành y tế của đất nước trong xây dựng hòa bình.
Những thắng lợi giành được trong thời kì khơi phục kinh tế có tác dụng tăng
cường sức mạnh Nhà nước dân chủ nhân dân. Khối đoàn kết toàn dân được mở
rộng, đánh dấu bằng sự ra đời của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (9-1955). Đó là
những nhân tố rất quan trọng đảm bảo cho quân và dân ta đập tan mọi âm mưu,
hành động chống phá của các thế lực phản cách mạng, giữ vững an ninh chính trị
và trật tự xã hội. Nhờ đó, miền Bắc đã giảm bớt được khó khăn và bước đầu cải
thiện đời sống nhân dân, chuẩn bị bước sang thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.3. Cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hóa - xã
hội ở miền Bắc (1958-1960).
Sau ba năm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh (1954 - 1957), nhân dân miền Bắc sôi nổi bước vào thời kì cải tạo xã
hội chủ nghĩa.

20


Xuất phát từ đặc điểm của nước ta, từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Hội nghị lần thứ 14 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (11/1958) quyết định: “phải đẩy mạnh cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm trước mắt là đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ

nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cuộc cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh và lực lượng lãnh đạo
toàn bộ nền kinh tế quốc dân”.
Hội nghị cũng đề ra nhiệm vụ cho kế hoạch phát triển kinh tế 3 năm (1958 1960) ở miền Bắc nước ta là:
1- Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản xuất
nơng nghiệp làm khâu chính, chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề lương thực,
đồng thời rất chú trọng sản xuất công nghiệp, hết sức tăng thêm các tư liệu
sản xuất và hàng tiêu dùng.
2- Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư
bản tư doanh theo hướng xã hội chủ nghĩa, khâu chính là hợp tác hố nơng
nghiệp, đồng thời tích cực phát triển và củng cố thành phần kinh tế quốc
doanh.
3- Nâng cao một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, đồng thời
tăng cường củng cố quốc phòng.
Tháng 4-1959, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông
qua Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa nơng nghiệp, xác định hình thức và bước đi
của hợp tác xã là: hợp tác hóa đi trước cơ giới hóa, do vậy hợp tác hóa phải đi đơi
với thủy lợi hóa và tổ chức lại lao động, để phát huy tính ưu việt và sức mạnh của

21


tập thể. Hội nghị chỉ rõ ba nguyên tắc cần được quán triệt trong suốt quá trình xây
dựng hợp tác xã là: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Về vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, Hội nghị chủ trương
cải tạo hịa bình đối với giai cấp tư sản.
Về chính trị, vẫn coi giai cấp tư sản là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, về kinh
tế không tịch thu tư liệu sản xuất của họ, mà dùng chính sách chuộc lại, thơng qua
hình thức cơng tư hợp doanh, sắp xếp cơng việc cho người tư sản trong xí nghiệp,
dần dần cải tạo họ thành người lao động.

Cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp là thực hiện cải tạo quan hệ sản
xuất kết hợp với cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động và giáo dục tư tưởng xã
hội chủ nghĩa cho nông dân, nhằm đưa giai cấp nông dân từ chỗ làm ăn riêng lẻ đi
dần vào con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp là một cuộc cách mạng sâu
sắc, lớn lao và phức tạp. Nó thay đổi tận gốc chế độ tư hữu và cả thói quen canh
tác phân tán bao đời nay của hàng triệu nông dân.
Để bảo đảm cho cuộc vận động hợp tác hóa nơng nghiệp thắng lợi, một mặt
phải qn triệt đường lối giai cấp của Đảng là dựa hẳn vào bần nơng và trung nơng
lớp dưới, đồn kết chặt chẽ với trung nơng, hạn chế đi đến xố bỏ sự bóc lột của
kinh tế phú nơng, cải tạo tư tưởng phú nơng, ngăn ngừa địa chủ ngóc đầu dậy, tiếp
tục mở đường cho địa chủ lao động cải tạo thành con người mới, kiên quyết đưa
nông dân đi vào con đường hợp tác hóa nơng nghiệp, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, phải thực hiện đúng ba nguyên tắc: Tự nguyện, cùng có lợi và quản lí
dân chủ; trong đó cơ bản nhất là nguyên tắc tự nguyện.

22


×