Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

SO SÁNH CHƯƠNG TRÌNH GIÁO dục PHỔ THÔNG HIỆN HÀNH và CHƯƠNG TRÌNH GIÁO dục PHỔ THÔNG TỔNG THỂ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.82 KB, 13 trang )

SO SÁNH CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THƠNG HIỆN HÀNH VÀ
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THƠNG TỔNG THỂ MỚI
Chuẩn kiến thức kĩ năng, thái độ
Chương trình giáo dục hiện
hành

Chương trình giáo dục phổ
thông tổng thể
( D ự th ảo )

-Chuẩn kiến thức, kĩ năng , thái độ
đối với học sinh tiểu học
Có yêu cầu cụ thể đối với từng lớp
học ,sau đó yêu cầu chung cho hs
sau khi kết thúc chương trình tiểu
học
- Chuẩn kiến thức kĩ năng, thái độ
đối với học sinh thcs
1. Chuẩn kiến thức kĩ năng của các
lĩnh vực:
Ngơn ngữ và văn học
Tốn
Khoa học tự nhiên
Khoa học xã hội
Giao dục công dân
Công nghệ
Nghệ thuật
Giáo dục thể chất
2. Thái độ chung

-Có xác định rõ yêu cầu chung về


phẩm chất và năng lực.
-Xác định về chuẩn kiến thức, kĩ
năng, thái độ rõ ràng hơn, xúc tích,
ngắn gọn.
Về phẩm chất
* Yêu nước
* Nhân ái
+ Yêu mọi người
+ Tôn trọng sự khác biệt giữa mọi
người
*Chăm học
+Ham học
+Chăm làm
*Trung thực
* Trách nhiệm
+Có trách nhiệm với bản thân
+ Có trách nhiệm với gia đình
+ Có trách nhiệm với nhà trường và
xã hội
+Có trách nhiệm với môi trường
sống
Về năng lực (10 năng lực)
* Năng lực tự chủ và tự học
+ Tự lực
+ Tự khẳng định và bảo vệ quyền ,
nhu cầu chính đáng
+ Tự kiểm sốt nhận thức thái độ ,
tình cảm , hành vi của mình
+ Tự định hướng nghề nghiệp



+Tự học , tự hoàn thiện
*Năng lựcgiao tiếp và hợp tác
* Năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo
* Các năng lực chun mơn
* Năng lực tính tốn
* Năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã
hội
* Năng lực cơng nghệ
* Năng lực tin học
* Năng lực thẩm mĩ
* Năng lực thể chất
=> Xác định mục tiêu về năng lực
và phẩm chất thiết thực , đo lường
được ,

Mục tiêu chung, mục tiêu của các cấp
Thứ nhất: CT GDPT hiện hành được xây dựng theo mơ hình định hướng nội
dung, nặng về truyền thụ kiến thức, chưa chú trọng giúp học sinh vận dụng kiến
thức học được vào thực tiễn. Theo mô hình này, kiến thức vừa là “chất liệu”, “đầu
vào” vừa là “kết quả”, “đầu ra” của quá trình giáo dục. Vì vậy, học sinh phải học
và ghi nhớ rất nhiều nhưng khả năng vận dụng vào đời sống rất hạn chế.
CT GDPT mới được xây dựng theo mơ hình phát triển năng lực, thông qua
những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại và các phương pháp tích cực hóa hoạt
động của người học, giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất và
năng lực mà nhà trường và xã hội kỳ vọng.
Xuất phát điểm của quá trình xây dựng CT theo mơ hình này là mục tiêu của
giáo dục, được cụ thể hóa thành những phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi cần
thiết cho tất cả mọi người.

Các môn học và hoạt động giáo dục (gọi chung là mơn học) nhằm giúp học
sinh có được những phẩm chất và năng lực được mô tả trong CT. Theo cách này,
kiến thức được dạy học không nhằm mục đích tự thân.


Nói cách khác, giáo dục khơng phải để truyền thụ kiến thức mà nhằm giúp
học sinh hồn thành các cơng việc, giải quyết các vấn đề trong học tập và đời sống
nhờ vận dụng hiệu quả và sáng tạo những kiến thức đã học.
Quan điểm này được thể hiện nhất quán ở nội dung giáo dục, phương pháp
giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục.
Thứ 2: CT GDPT hiện hành có nội dung giáo dục gần như đồng nhất cho tất
cả học sinh; việc định hướng nghề nghiệp cho học sinh, ngay cả ở cấp THPT chưa
được xác định rõ ràng.
CT GDPT mới phân biệt rõ hai giai đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản (từ lớp
1 đến lớp 9) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (từ lớp 10 đến lớp 12).
Trong giai đoạn giáo dục cơ bản, CT thực hiện lồng ghép những nội dung
liên quan với nhau của một số môn học trong CT hiện hành để tạo thành mơn học
tích hợp, thực hiện tinh giản, tránh chồng chéo nội dung giáo dục, giảm hợp lý số
môn học; đồng thời thiết kế một số môn học theo các học phần, tạo điều kiện cho
học sinh lựa chọn những học phần/chủ đề phù hợp với sở thích và năng lực của học
sinh.
Trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, bên cạnh một số môn học
và hoạt động giáo dục bắt buộc, học sinh được lựa chọn những môn học, học phần
và chuyên đề phù hợp với sở thích, năng lực và định hướng nghề nghiệp của mình.
Thứ 3: Trong CT GDPT hiện hành, sự kết nối giữa CT các cấp học trong
một môn học và giữa CT các môn học chưa chặt chẽ; một số nội dung giáo dục bị
trùng lặp, chồng chéo hoặc chưa thật sự cần thiết đối với học sinh phổ thơng.
CT GDPT mới chú ý hơn đến tính kết nối giữa CT của các lớp học, cấp học
trong từng môn học và giữa CT của các môn học trong từng lớp học, cấp học. Việc
xây dựng CT GDPT tổng thể, lần đầu tiên được thực hiện tại Việt Nam, đặt cơ sở

cho sự kết nối này.
Thứ 4: CT GDPT hiện hành thiếu tính mở nên hạn chế khả năng chủ động
và sáng tạo của địa phương và nhà trường cũng như của tác giả SGK và giáo viên.
CT GDPT mới bảo đảm định hướng thống nhất và những nội dung giáo dục
cốt lõi, bắt buộc đối với học sinh toàn quốc, đồng thời trao quyền chủ động và
trách nhiệm cho địa phương và nhà trường trong việc lựa chọn, bổ sung một số nội
dung giáo dục và triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp với đối tượng giáo dục và


điều kiện của địa phương, của cơ sở giáo dục, góp phần bảo đảm kết nối hoạt động
của nhà trường với gia đình, chính quyền và xã hội.
CT chỉ quy định những nguyên tắc, định hướng chung về yêu cầu cần đạt về
phẩm chất và năng lực của học sinh, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và
phương pháp đánh giá kết quả giáo dục, không quy định quá chi tiết để tạo điều
kiện cho tác giả SGK, cơ sở giáo dục và giáo viên phát huy tính chủ động, sáng tạo
trong thực hiện CT.
6 kế thừa từ chương trình hiện hành
GS Nguyễn Minh Thuyết cho biết, tính kế thừa của CT mới với CT hiện
hành thể hiện rõ ở những điểm sau:
Thứ nhất: Về mục tiêu giáo dục, CT mới vẫn tiếp tục được xây dựng trên
quan điểm coi mục tiêu giáo dục phổ thông là giáo dục con người toàn diện, giúp
học sinh phát triển về “Đức, Trí, Thể, Mỹ”.
Thứ 2: Về phương châm giáo dục, CT mới vẫn kế thừa các phương châm
giáo dục nền tảng như “Học đi đôi với hành”, “Lý luận gắn liền với thực tiễn”,
“Giáo dục nhà trường gắn liền với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.
Thứ 3: Về nội dung giáo dục, CT mới vẫn tiếp tục tập trung vào những giá
trị cơ bản của văn hóa dân tộc, bảo đảm phù hợp với đặc điểm con người và văn
hóa Việt Nam.
Bên cạnh một số kiến thức được cập nhật để phù hợp với những thành tựu mới của
khoa học - công nghệ và định hướng mới của CT, kiến thức nền tảng của các môn

học trong CT GDPT mới chủ yếu là những kiến thức cốt lõi, tương đối ổn định
trong các lĩnh vực tri thức của nhân loại, được kế thừa từ CT GDPT hiện hành,
nhưng được tổ chức lại để giúp học sinh phát triển phẩm chất và năng lực một cách
hiệu quả hơn. Những kiến thức nặng tính hàn lâm, khơng thích hợp với học sinh
phổ thông sẽ được cắt bỏ để “giảm tải”.
Thứ 4: Về hệ thống môn học, hầu hết tên các môn học được giữ nguyên như CT
hiện hành. Hoạt động trải nghiệm ở cả ba cấp học cũng là một nội dung quen thuộc
vì được xây dựng trên cơ sở các hoạt động giáo dục tập thể như chào cờ, sinh hoạt
lớp, sinh hoạt Sao Nhi đồng Tháng Tám, Đội TNTP Hồ Chí Minh, Đồn TNCS Hồ
Chí Minh, Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp (tham quan, lao động, hướng nghiệp, thiện nguyện, phục vụ cộng đồng,…)
trong CT hiện hành.


Thứ 5: Về thời lượng dạy học, tuy CT mới có thực hiện giảm tải so với CT hiện
hành nhưng những tương quan về thời lượng dạy học giữa các mơn học khơng có
sự xáo trộn.
Thứ 6: Về phương pháp giáo dục, phương pháp giáo dục mới phát huy tính tích
cực của học sinh, khắc phục nhược điểm của phương pháp truyền thụ một chiều.
Từ nhiều năm nay, Bộ GD&ĐT đã phổ biến và chỉ đạo áp dụng nhiều phương pháp
giáo dục mới (như mơ hình trường học mới, phương pháp bàn tay nặn bột, giáo
dục STEM,…); do đó, hầu hết giáo viên các cấp học đã được làm quen, nhiều giáo
viên đã vận dụng thành thạo các phương pháp giáo dục mới.
" Những điểm cần khắc phục từ CT GDPT hiện hành cũng chính là khác biệt chủ
yếu của CT GDPT mới so với CT GDPT hiện hành." GS Nguyễn Minh Thuyết
Phạm vi và cấu trúc chương trình
1.

Một chương trình nhiều bộ sách giáo khoa


Thay vì trước đây một chương trình, một bộ sách giáo khoa, chương trình
mới sẽ có nhiều bộ sách giáo khoa. Bộ GD&ĐT khuyến khích các nhà xuất bản,
tổ chức, cá nhân biên soạn sách giáo khoa. Sách giáo khoa mới phải quán triệt
đường lối, quan điểm của Đảng và tuân thủ Hiến pháp, phù hợp chương trình
giáo dục phổ thơng.
2.

THPT có 5 mơn bắt buộc

Bậc THPT chỉ cịn 5 mơn thay vì bắt buộc học tất cả 13 môn như hiện nay. Các
môn học bắt buộc gồm Toán, Ngữ văn, Ngoại ngữ, Giáo dục thể chất, Giáo dục
Quốc phịng và An ninh. Các mơn lựa chọn là Khoa học Xã hội, Khoa học Tự
nhiên, Công nghệ và Nghệ thuật.
3.

Xuất hiện môn học mới

Lần đầu tiên ở chương trình phổ thơng, bậc tiểu học xuất hiện mơn Hoạt động
Trải nghiệm. Đó là trải nghiệm ở tiểu học và hoạt động trải nghiệm hướng
nghiệp ở bậc THCS, THPT. Nội dung cơ bản của chương tình này xoay quanh
các mối quan hệ giữa cá nhân học sinh với bản thân, giữa học sinh với người


khác, cộng đồng và xã hội; giữa học sinh với môi trường; học sinh với nghề
nghiệp.
4.

Bậc tiểu học học 2 buổi/ngày

Theo GS Nguyễn Minh Thuyết - Tổng chủ biên chương trình giáo dục phổ

thơng mới - cấp tiểu học được thiết kế để dạy học 2 buổi/ngày. Trước câu hỏi vì
sao chủ trương giảm tải nhưng học sinh học cả ngày, GS Thuyết cho rằng đây
cũng là cách thức để giảm tải chương trình. Hiện tại, 80% học sinh tiểu học học
2 buổi/ngày.
Hai giai đoạn giáo dục
Chương trình giáo dục phổ thông được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn giáo dục
cơ bản (từ lớp 1 đến lớp 9) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (từ lớp
10 đến lớp 12).
Hệ thống môn học và hoạt động giáo dục của chương trình giáo dục phổ thơng
gồm các mơn học và hoạt động giáo dục bắt buộc, các môn học tự chọn.
Thời gian thực học trong một năm học tương đương 35 tuần. Các cơ sở giáo dục có
thể tổ chức dạy học 1 buổi/ngày hoặc 2 buổi/ngày.
Cơ sở giáo dục tổ chức dạy học 1 buổi/ngày và 2 buổi/ngày đều phải thực hiện nội
dung giáo dục bắt buộc chung thống nhất đối với tất cả cơ sở giáo dục trong cả
nước.
Về kế hoạch giáo dục, về cơ bản, chương trình vừa được thơng qua khơng có nhiều
thay đổi so với dự thảo gần đây nhất.
Lựa chọn ngoại ngữ từ lớp 1
Ở cấp tiểu học, các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc bao gồm: Tiếng Việt;
Toán; Đạo đức; Ngoại ngữ 1 (ở lớp 3, lớp 4, lớp 5); Tự nhiên và xã hội (ở lớp 1,
lớp 2, lớp 3); Lịch sử và Địa lý (ở lớp 4, lớp 5); Khoa học (ở lớp 4, lớp 5); Tin học
và Công nghệ (ở lớp 3, lớp 4, lớp 5); Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Hoạt động trải
nghiệm (trong đó có nội dung giáo dục của địa phương).


Nội dung môn học Giáo dục thể chất được thiết kế thành các học phần (mô-đun),
nội dung Hoạt động trải nghiệm được thiết kế thành các chủ đề. Học sinh được lựa
chọn học phần, chủ đề phù hợp với nguyện vọng của bản thân và khả năng tổ chức
của nhà trường.


Kế hoạch và thời lượng giáo dục cấp tiểu học theo chương trình GDPT vừa được thơng qua.


Như vậy, so với dự thảo hồi tháng 4, một số môn học đã được đổi tên, một số môn
gộp lại thành môn mới, một số nội dung bị bỏ khỏi chương trình (hoạt động tự học
có hướng dẫn) một số nội dung được lồng vào hoạt động khác chứ không đứng
riêng thành nội dung động lập (nội dung giáo dục địa phương).
Về thời lượng, so với dự thảo hồi tháng 4, tổng số tiết trong năm học ở các lớp tiểu
học giảm đi so với dự thảo trước từ 62-132 tiết/năm, tùy từng lớp.
Số tiết học trung bình tuần cũng giảm 2 tiết ở lớp 1, 2 (29 so với 31 tiết/tuần), giữ
nguyên ở lớp 3 (31 tiết/tuần) nhưng tăng 1 tiết ở lớp 4, 5 so với dự thảo cũ (32 so
với 31 tiết/tuần).
Nội dung đáng chú ý nhất ở cấp tiểu học là môn Ngoại ngữ 1 được đưa vào thành
mơn học tự chọn từ lớp 1.
Ngồi ra, chương trình cũng quy định rõ, cấp tiểu học sẽ thực hiện dạy học 2
buổi/ngày, mỗi ngày bố trí không quá 7 tiết học. Mỗi tiết học từ 35 phút đến 40
phút, giữa các tiết học có thời gian nghỉ.
Cơ sở giáo dục chưa đủ điều kiện tổ chức dạy học 2 buổi/ngày thực hiện kế hoạch
giáo dục theo hướng dẫn của Bộ GD-ĐT.
Hướng nghiệp từ cấp THCS
Ở cấp THCS, các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc bao gồm: Ngữ văn;
Toán; Ngoại ngữ 1; Giáo dục công dân; Lịch sử và Địa lý; Khoa học tự nhiên;
Công nghệ; Tin học; Giáo dục thể chất; Nghệ thuật; Hoạt động trải nghiệm, hướng
nghiệp; Nội dung giáo dục của địa phương.
Mỗi môn học Công nghệ, Tin học, Giáo dục thể chất được thiết kế thành các học
phần. Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp được thiết kế thành các chủ đề. Học
sinh được lựa chọn học phần, chủ đề phù hợp với nguyện vọng của bản thân và khả
năng tổ chức của nhà trường.
So với dự thảo hồi tháng 4, chương trình vừa được thơng qua khơng có nhiều thay
đổi về tên mơn học (chỉ có mơn Cơng nghệ được rút gọn từ môn Công nghệ và

Hướng nghiệp).


Các môn học và thời lượng giáo dục cấp THCS của chương trình vừa được thơng qua.
Về thời lượng, tổng số tiết học trong năm của cấp THCS giảm từ 58-78 tiết/năm,
tùy từng lớp. Số tiết học trung bình tuần giữ nguyên ở lớp 6, 7 nhưng giảm nửa tiết
ở lớp 8, 9.


Điểm mới nhất của kế hoạch giáo dục cấp THCS chính là nội dung hướng nghiệp
được yêu cầu tích hợp vào các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc.
Ở lớp 8 và lớp 9, các môn học Công nghệ, Tin học, Khoa học tự nhiên, Nghệ thuật,
Giáo dục công dân, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp và Nội dung giáo dục
của địa phương có học phần hoặc chủ đề về nội dung giáo dục hướng nghiệp.
Thay đổi mạnh ở cấp THPT
Giống như dự thảo hơm 21/7, chương trình vừa được thơng qua có sự thay đổi rất
lớn ở cấp THPT.
Theo đó, chương trình khơng tách cấp học này thành 2 giai đoạn với 2 tính chất
(dự hướng và định hướng nghề nghiệp) như dự thảo công bố hồi tháng 4 mà dồn
chung thành một giai đoạn chung, thông suốt từ lớp 10 đến lớp 12.
Cụ thể, giai đoạn này bao gồm các môn học bắt buộc là Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ
1, Giáo dục thể chất, Giáo dục quốc phòng và an ninh, Hoạt động trải nghiệm, Nội
dung giáo dục địa phương.
Trong đó, mơn Giáo dục thể chất được thiết kế thành các học phần. Hoạt động trải
nghiệm được thiết kế thành các chủ đề. Học sinh được lựa chọn học phần, chủ đề
phù hợp với nguyện vọng của bản thân và khả năng tổ chức của nhà trường.


Nội dung và thời lượng giáo dục cấp THPT theo chương trình vừa đuọc thơng qua.
Học sinh sẽ được lựa chọn môn học định hướng nghề nghiệp từ lớp 10. Các mơn

học được lựa chọn chia thành 3 nhóm mơn, học sinh chọn 5 mơn học từ 3 nhóm
mơn học trên, mỗi nhóm chọn ít nhất 1 mơn.
- Nhóm mơn Khoa học xã hội: Lịch sử, Địa lý, Giáo dục kinh tế và pháp luật.


- Nhóm mơn Khoa học tự nhiên: Vật lý, Hóa học, Sinh học.
- Nhóm mơn Cơng nghệ và Nghệ thuật: Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật.
Điểm thay đổi quan trọng là thời lượng các chuyên đề học tập được đưa vào từ lớp
10 và có thời lượng tăng lên đáng kể.
Theo đó, mỗi mơn học Ngữ văn, Tốn, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục kinh tế và pháp
luật, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Cơng nghệ, Tin học, Nghệ thuật có một số chuyên
đề học tập tạo thành cụm chuyên đề học tập của môn học giúp học sinh tăng cường
kiến thức và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức giải quyết những vấn đề của
thực tiễn, đáp ứng yêu cầu định hướng nghề nghiệp.
Thời lượng dành cho mỗi chuyên đề học tập từ 10 đến 15 tiết. Tổng thời lượng
dành cho cụm chuyên đề học tập của một môn là 35 tiết.
Ở mỗi lớp 10, 11, 12, học sinh chọn 3 cụm chuyên đề học tập của 3 môn học phù
hợp với nguyện vọng của bản thân và điều kiện tổ chức của nhà trường.
Chương trình vừa được thơng qua cũng quy định, các trường có thể xây dựng các
tổ hợp mơn học từ 3 nhóm mơn học và chuyên đề học tập nói trên để vừa đáp ứng
nhu cầu của người học vừa bảo đảm phù hợp với điều kiện về đội ngũ giáo viên, cơ
sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường.
Học sinh có thể đăng ký học ở một cơ sở giáo dục khác những môn học và chuyên
đề học tập mà trường học sinh đang theo học khơng có điều kiện tổ chức dạy.
Về thời lượng giáo dục, chương trình quy định, cấp THPT mỗi ngày học 1 buổi,
mỗi buổi khơng bố trí quá 5 tiết học. Mỗi tiết học 45 phút, giữa các tiết học có thời
gian nghỉ.
Đồng thời, khuyến khích các trường trung học phổ thông đủ điều kiện thực hiện
dạy học 2 buổi/ngày theo hướng dẫn của Bộ GD-ĐT.
Đổi mới đánh giá trở thành điều kiện thực hiện chương trình

Chương trình vừa được thơng qua nêu rõ:


Việc đánh giá thường xuyên do giáo viên phụ trách môn học tổ chức, dựa trên kết
quả đánh giá của giáo viên, của phụ huynh học sinh, của bản thân học
sinh được đánh giá và của các học sinh khác trong tổ, trong lớp.
Việc đánh giá định kỳ do cơ sở giáo dục tổ chức để phục vụ công tác quản lý các
hoạt động dạy học, bảo đảm chất lượng ở cơ sở giáo dục và phục vụ công tác phát
triển chương trình.
Việc đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương do tổ chức khảo thí
cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức để phục vụ
công tác quản lý các hoạt động dạy học, bảo đảm chất lượng đánh giá kết quả giáo
dục ở cơ sở giáo dục, phục vụ cơng tác phát triển chương trình và nâng cao chất
lượng giáo dục.
Như vậy, nội dung việc đánh giá định kỳ khơng cịn quy định việc giao xét tốt
nghiệp THPT cho các cơ sở giáo dục như trong dự thảo hồi tháng 4.
Bên cạnh đó, nội dung việc đánh giá trên diện rộng sẽ do "tổ chức khảo thí" cấp
quốc gia hoặc cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức chứ không phải là
"tổ chức kiểm định chất lượng" như trước.
Ngoài ra, trong phần "Điều kiện thực hiện chương trình", Chương trình vừa thơng
qua có bổ sung thêm nội dung về đánh giá kết quả giáo dục, với nội dung:
"Phương pháp đánh giá chất lượng giáo dục phải phản ánh mức độ đáp ứng các
yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực quy định trong chương trình; hỗ trợ phát
triển phẩm chất và năng lực học sinh; cung cấp thơng tin chính xác, khách quan,
kịp thời cho việc điều chỉnh hoạt động dạy, hướng dẫn hoạt động học nhằm nâng
cao dần năng lực của học sinh.
Việc đánh giá kết quả giáo dục để công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông bảo
đảm độ tin cậy, trung thực, phản ánh đúng năng lực của học sinh, cung cấp dữ liệu
cho việc tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học; đồng thời bảo đảm
phù hợp với quyền tự chủ của cơ sở giáo dục, giảm áp lực và tốn kém cho xã hội"




×