Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

7 UY tín NGƯỜI cán bộ và VIỆC NÂNG CAO PHẨM CHẤT đạo đức CÁCH MẠNG NGƯỜI QUẢN lý GIÁO dục HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.19 KB, 19 trang )

UY TÍN NGƯỜI CÁN BỘ VÀ VIỆC NÂNG CAO PHẨM CHẤT
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG NGƯỜI QUẢN LÝ GIÁO DỤC HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Uy tín là tiền đề và điều kiện đảm bảo chắc chắn cho sự thành công trong
công tác quản lý của người lãnh đạo. V.I. Lênin nói rằng: điều quyết định thành
công trong việc lãnh đạo quần chúng không phải bởi sức mạnh của quyền hành
mà là sức mạnh của uy tín, sức mạnh của nghị lực, của sự hiểu biết phong phú,
của tài năng xuất sắc. Nhờ có uy tín mà người lãnh đạo bằng những yêu cầu,
bằng những gợi ý, bằng những lời thuyết phục, bằng những quyết định quản lý
của mình, ln ln có khả năng ám thị từng cá nhân và tập thể. Điều đó có
nghĩa là họ thực hiện nhiệm vụ được giao một cách tự giác, nhờ đó mà người
lãnh đạo thực hiện có kết quả những mục tiêu quản lý đã đề ra.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục
luôn giữ vai trò hết sức quan trọng. Họ là những người được Đảng, Nhà nước và
nhân dân tin tưởng, trao cho chức vụ, quyền hạn, với trọng trách thay mặt nhân
dân điẽu hành việc thực hiện các chủ trương, chính sách, các nhiệm vụ xây dựng
đất nước. Bởi vậy. đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là những người có tâm
huyết, có năng lực nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị cao. Đặc biệt phải có uy
tín, cỏ phẩm chất đạo đức cách mạng để xứng đáng là người cầm lái, đứng mũi
chịu sào.


2

NỘI DUNG
1. Vai trị của uy tín người lãnh đạo quản lý giáo dục
Uy tín là vấn đề xã hội được nhiều ngành khoa học nghiên cứu. Tâm lý
học nghiên cứu uy tín người lãnh đạo, quản lý với tư cách là một hiện tượng tâm
lý xã hội, một loại quan hệ xã hội đặc thù của con người.
Vậy uy tín người lãnh đạo, quản lý là: quyền uy, sự ảnh hưởng, túc động


cùa chủ thê’ lãnh dạo, quản lý đối với khách thể bị lãnh đạo, quàn ìỷ và dược sự
thừa nhận, tín nhiệm cùa họ.
Sự ảnh hưởng, thừa nhận ở đây được thể hiện thòng qua sự tiếp nhận, tín
nhiệm bằng nhận thức, trí tuệ, tạo thành niềm tin và sức mạnh của ý chí. Đó
được gọi là uy tín đích thực, thuần khiết, uy tín thực chất không phải sự miễn
cưỡng và giả tạo của chủ thể có uy tín.
Uy tín là một vấn đề phức tạp, cịn nhiều bàn luận. Thơng qua các quan
điểm cơ bản có tính chất phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh vể những vấn đề thuộc về uy tín, càng thấy rõ hơn vai trị to
lớn của uy tín trong việc xây dựng và quản lý xã hội.
Ph.Ăngghen viết: "Chúng ta vừa thấy được rằng một mặt, một quyền uy
nhất định, không kể quyền uv đó được tạo dựng ra bằng cách nào, và mặt khác,
một sự phục tùng nhất định đều là những điều kiện trong bất cứ tổ chức xã hội
nào". . Mặc dù C.Mác và Ph.Ăngghen không bàn nhiểu về uy tín mà chỉ nói
nhiều đến quvền uy. Nhưng các ơng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực
hiện quyền uy: “Quyền uy nói ở đây có nghĩa là ý chí của người khác mà người
ta buộc chúng ta phải tiếp thu".
Hổ Chí Minh cũng đã nhiều lần đề cập tới vấn đề này, Người cho rằng
cán bộ đảng viên mà có uy tín cao thì sẽ được nhân dân yêu mến, quý trọng,
giúp đỡ và việc gì cũng thành cơng. Uy tín là phải dành được lịng tin của quần
chúng, muốn xác lập được chữ "tin" thì phải: "Nói cái gì phái cho tin - nói và
làm cho nhài trí - làm thế nào cho dân tin...”.
Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ đáng viên muốn tạo dựng được lòng tin, sự


3

tín nhiệm của quần chúng nhân dân thì phải ln gương mẫu về mọi mặt:
"Muốn hướng dẫn nhân dân mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước"
* Vai trò của phẩm chất đạo đức cách mạng trong việc hình thành uy

tín ngườỉ lãnh đạo, quản lý
Để hoạt động lãnh đạo, quản lý có hiệu quả, người cán bộ lãnh đạo, quản
lý cần phải có cả đức lẫn tài trong đó đức là gốc.
Đạo đức cách mạng, đó là sự kế thừa có tính liên tục các tư tưởng đạo
đức tiến bộ từ xưa đến nay, nó mang tính truyền thống, tính cách mạng, tính
khoa học và sự đổi mới sâu sắc về đạo đức của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động. Nó khẳng định sự cao quý của con người trong sự nghiệp giải
phóng, trong đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bất cơng để xây dựng một xã hội
mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là nền đạo đức dựa trên cơ sở lập trường của
chủ nghĩa Mác - Lênin, là đạo đức đúng đắn nhất phù họp với sự phát triển của
lịch sử lồi người, phục vụ cho mục đích cải tạo thế giới, cải tạo con người
trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta.
Đạo đức cách mạng được xây dựng từ những mối quan hệ xã hội hiện
thực của những người xung quanh mình, của sự gắn bó giữa cá nhân và tập thể,
trên cơ sở của tình cảm sâu sắc của mỗi cá nhân đối với mọi người, đối với giai
cấp, với dân tộc và với nhân dân lao động trên thế giới.
Đạo đức cách mạng đã góp phần to lớn trong việc xây dựng và hình thành
lý tưởng. Đó cũng chính là cơ sở, là lẽ sống, hướng người lãnh đạo, quản lý
sống vì một mục đích cao đẹp, vì hạnh phúc của con người, để cống hiến nhiều
hơn cho xã hội, vì lợi ích cua nhân dân lao động.
Tinh thần đạo đức cách mạng còn được thể hiện ở tính tiên phonq trong
cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng. Tinh thần chống chủ nghĩa cá
nhân, xây dựng ý thức làm chủ tập thể gắn liền với sự tôn trọng cá nhân, tạo
điều kiện thuận lợi đúng hướng cho sự phát triển tiến bộ của cá nhân, cho sự tự
do sáng tạo cũng như phát triển cá tính, nhân cách phong phú của mỗi con
người. Như vậy, đạo đức cách mạng khỏng thể thiếu đối với mỗi người dân yêu


4


nước và càng không thế thiếu đối với mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nó giúp cho
người cán bộ nhìn đúng, làm đúng. Đạo đức cách mạng là động lực thôi thúc
nội tâm của người cán bộ vượt lên mọi khó khăn để nâng cao trình độ, trí tuệ.
Bước sang thế kỷ XXI, với xu thế phát triển khoa học công nghệ thông
tin, nền kinh tế tri thức, sự liên kết, hội nhập quốc tế, v.v... với những thời cơ và
thuạn lợi, thách thức và nguy cơ không nhỏ, địi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý ngang tầm là yêu cầu cấp thiết cần đáp ứng. Nhưng những
biểu hiện suy thoái về đạo đức đang có xu hướng phát triển, làm xói mịn bản
chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, làm giảm uy tín của Đảng, niềm tin của
nhân dân đối với chế độ. Bởi vậy, điều cần quan tâm hiện nay là phải nâng cao
hơn nữa phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
nước ta. Đây cũng chính ỉà yếu tố quan trọng để củng cố nâng cao hơn nữa uy
tín người ỉãnh đạo, quản lý, để có thể vững bước trên con đường phát triển kinh
tế - xã hội đất nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Người lãnh đạo có uy tín sẽ giúp tăng cường tinh thần và hiệu quả làm
việc của cán bộ, nhân viên; tăng cường nhịp điệu hoạt động tích cực của tập thể
của cơ quan, đơn vị.
Nhờ có uy tín mà người lãnh đạo mới tạo ra sự tin phục của tập thể và xã
hội đối với lời nói và việc làm của mình, nhờ đó mà:
Giáo dục được tập thể, giáo dục được từng thành viên của tập thể, góp
phần cực kỳ to lớn trong việc ngăn chặn các nhóm và các cá nhân lệch chuẩn
trong tập thể, ngăn chặn được xung đột trong tập thể, tạo ra bầu khơng khí tâm
lý lành mạnh trong tập thể.
Giúp cho người lãnh đạo tập hợp, động viên được các lực lượng trong xã
hội tham gia thực hiện có hiệu quả các mục tiêu mà đơn vị đã đề ra.
Uy tín là động lực bên trong giúp cho tinh thần người lãnh đạo ln sảng
khối, bình tỉnh, tự tin, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm bởi họ biết
rằng tập thể coi mọi quyết định của họ là vì tập thể, cho tập thể chứ khơng mảy
may xen lẫn chút quyền lợi cá nhân nào chi phối quyết định của mình. Ngược



5

lại, người lãnh đạo khơng có uy tín hoặc uy tín thấp ln ln gặp phải sự chống
đối, tâm trạng ln ln u ám, nặng nề.
Uy tín là gì?
Uy tín là khả năng tác động của người đó đến người khác, là sự ảnh
hưởng đến người khác, cảm hoá người khác, làm cho người khác tin tưởng,
phục tùng và tuân theo mình một cách tự giác.
Uy tín của người lãnh đạo, theo khái niệm đã trình bày trên thì đó là sự
thừa nhận của xã hội về nhân cách của người lãnh đạo; sự đánh giá của tập thể
về sự phù hợp giữa những phẩm chất và năng lực của người lãnh đạo đó đáp ứng
được những yêu cầu khách quan của công tác lãnh đạo mà cơ quan, đơn vị đó
đặt ra, do đó mà được mọi người tin tưởng, mến phục và phục tùng một cách tự
giác.
Uy tín bao gồm hai mặt: Uy và tín. Theo từ điển Hán Việt của tác giả Đào
Duy Anh (NXB Khoa học xã hội, 1992) thì: Uy tín là có uy quyền mà được
người ta tín nhiệm.
Uy quyền: là quyền lực của người lãnh đạo do nhà nước cấp để cho anh ta
thực hiện nhiệm vụ được giao; nó là vốn liếng ban đầu mà nhà nước cấp và là
cơ sở để tạo ra cái tín của người lãnh đạo.
Tín nhiệm: là ảnh hưởng đến mọi người xung quanh; được mọi người tin
tưởng, tôn trọng và tuân phục. Đây là cái vốn mà người lãnh đạo tự tạo ra cho
mình trong hoạt động quản lý, lãnh đạo. Rõ ràng có uy mà khơng có tín thì
khơng thể lãnh đạo được, sớm muộn thì người lãnh đạo đó cũng sẽ bị đào thải.
Bởi thế, trong việc đề bạt cán bộ quản lý, ta phải chú ý phát hiện những cán bộ
có tín rồi mới giao uy quyền thích hợp cho họ.
Nói chung, uy tín của người lãnh đạo là sự kết hợp hài hịa giữa hai yếu tố
uy quyền và sự tín nhiệm, thiếu một trong hai yếu tố đó sẽ khơng có uy tín.
Phân loại và biểu hiện uy tín thật – giả của người lãnh đạo

Thông thường người ta chia uy tín ra thành 2 loại: uy tín đích thực và uy
tín giả danh. Uy tín đích thực thì chỉ có một, cịn uy tín giả tạo (giả danh) thì có


6

rất nhiều loại, trong bài viết này tôi chỉ bàn tới bảy loại uy tín giả danh mà
trong thực tiễn quản lý, lãnh đạo, dư luận và cách nhận xét của quần chúng
thường thấy:
Uy tín đích thực là sự kết hợp một cách đặc biệt khách quan giữa những
phẩm chất tư tưởng, chính trị, tâm lý đạo đức của người lãnh đạo, uy tín đích
thực hình thành và phát triển thông qua hoạt động giao lưu của chủ thể và khách
thể trong quản lý, lãnh đạo nhằm tích cực hố q trình đó.
Uy tín đích thực được biểu hiện qua cơ sở sau đây:
Người lãnh đạo luôn luôn đứng vững trên cương vị của mình. Trong hoạt
động, trong cuộc sống cấp trên tín nhiệm cấp dưới kính phục, tin tưởng phục
tùng tự nguyện, đồng nghiệp ngưỡng mộ, ca ngợi.
Những thông tin có liên quan đến việc quản lý lãnh đạo đều được chuyển
đến đấy đủ, chính xác kịp thời cho người lãnh đạo.
Những quyết định quản lý đưa ra được cấp dưới thực hiện tự giác, nghiêm
túc dù bất cứ dưới hình thức nào,
Dù người lãnh đạo vắng mặt ở cơ quan, đơn vị nhưng cơng việc vẫn tiến
hành bình thường và mọi người vẫn mong đợi sự có mặt của người lãnh đạo.
Dư luận quần chúng luôn đánh giá tốt người lãnh đạo.
Kẻ thù, những người đối lập, những đối thủ có tầm cỡ tỏ ra kính nể, run
sợ thậm chí khâm phục
Người lãnh đạo ln ln có tâm trạng nhiệt tình, thối mái trong cơng
việc, có hiệu quả hoạt động rõ rệt. Hiệu quả này không chỉ ở mặt kinh tế - xã hội
mà còn thể hiện trong sự phát triển của tổ chức, của mỗi thành viên trong đơn vị.
Những việc riêng của người lãnh đạo được mọi người quan tâm với thái

độ thiện chí và đúng mức. Khi người lãnh đạo chuyển sang công tác khác hoặc
nghỉ hưu mọi người luyến tiếc, ngưỡng mộ, ca ngợi. Hình ảnh người lãnh đạo
cịn lưu lại trong mỗi thành viên.
Thế nào là uy giả tạo (giả danh)?
Như phần trên đã nói uy tín đích thực thì chỉ có một, cịn uy tín giả tạo


7

(giả danh) thì có rất nhiều loại, sau đây là bảy loại uy tín giả danh mang tính
chất điển hình nhất:
Uy tín giả tạo kiểu cơng thần
Người lãnh đạo quen sống và làm việc với những thành tích trong quá
khứ, tự coi mình là lý tưởng, bất khả xâm phạm. Thường chủ quan, phiến diện, ít
chịu khó học tập nghiên cứu để nâng cao trình độ, đem kinh nghiệm và hiểu biết
cũ áp dụng trong điều kiện mới. Hay bảo thủ, trì trệ, xem thường lớp trẻ, khó
tiếp nhận cái mới. Hậu quả thường dẫn đến là quan liêu, tham quyền cố vị.
Uy tín kiểu dân chủ giả hiệu
Đây là kiểu người lãnh đạo bề ngoài tỏ ra dân chủ song thực chất là mị
dân. Họ gây uy tín bằng cách tỏ vẻ hoà nhập với mọi người, mọi việc họ đều
đưa ra bàn bạc, xin ý kiến song thực chất vẫn quyết theo ý mình. Kiểu tạo dựng
uy tín này sẽ mất đi ý nghĩa của nguyên tắc dân chủ, mất đi tính sáng tạo của
quần chúng.
Uy tín giả danh kiểu dạy khơn
Loại uy tín này thường có ở người lãnh đạo ln muốn tỏ ra mình là một
người thầy, người am hiểu nhất. Trong quan hệ với mọi người họ luôn nhồi nhét,
ra vẻ dạy khôn mọi người. Đây là kiểu uy tín giả danh theo kiểu thơng thái
“dởm”, tự tơ vẻ đề cao mình.
Uy tín giả danh do mượn ơ dù cấp trên
Loại uy tín này ở những người luôn luôn mượn lợi cấp trên để trấn áp

hoặc tạo ra mọi người tưởng mình là người gần gũi, được cấp trên tin tưởng.
Trong bất kỳ trường hợp nào họ cũng khoe đã được gặp gỡ cấp trên hay được
cấp trên tiết lộ cho biết một bí mật quan trọng nào đó. Thơng thường họ là
những người theo sát cấp trên để được cấp trên bổ nhiệm, lấy uy thế của cấp trên
và quan hệ cấp trên đối với mình để xây dựng uy tín.
Uy tín giả danh dựa trên sự trấn áp bằng quyền lực
Đây là trường hợp mà một số người lãnh đạo dùng cách chứng tỏ cho cấp
dưới thấy rõ uy thế quyền hạn của mình và giữ cho cấp dưới ln ở tình trạng


8

căng thẳng vì lo sợ thi hành kỷ luật.
Loại uy tín này rất tai hại vì nó khơng chỉ làm giảm hiệu quả lao động mà
cịn làm cho bầu khơng khí tâm lý trong cơ quan căng thẳng. Đố kỵ thiếu tin
tưởng lẫn nhau. Mặt khác nó cũng làm mất đi tính độc lập sáng tạo của mọi
người, tạo điều kiện cho một số kẻ xu nịnh xuất hiện.
Uy tín giả danh dựa trên khoảng cách
Loại uy tín này biểu hiện ở chỗ người lãnh đạo luôn tạo ra một sự cách
biệt rõ ràng trong quan hệ với mọi người; đứng từ xa để chỉ đạo tránh tiếp xúc
với nhân viên, muốn tỏ ra khó gần gũi và có chút ít gì bí ẩn. Họ sợ gần mọi
người sẽ lộ tẩy những nhược điểm, non kém của bản thân. Loại người lãnh đạo
này họ tự tách mình ra khỏi tập thể; khơng đi sâu sát thực tiễn nên dễ có quyết
định sai lầm.
Uy tín kiểu gia trưởng
Người lãnh đạo theo kiểu gia đình chủ nghĩa, ban phát cho cấp dưới như
cha mẹ, xây dựng ê-kip theo kiểu bè cánh, thái độ cửa quyền, khen thưởng hoặc
thù lao theo kiểu ban phát, bất chấp chính sách. Gây ra hiện tượng bè phái, cục
bộ địa phương, phục tùng cá nhân mù quáng, ninh bợ cấp trên. Là kiểu người
lãnh đạo chỉ cho mình là giỏi giang thơng minh nhất, bằng vẻ mặt, tư thế, cách

làm ra vẻ quan trọng để đề cao mình, hạ thấp cấp dưới.
Kiểu người lãnh đạo này thường dẫn đến phong cách lãnh đạo độc đốn,
họ ln tìm cách đẩy người mà họ không ưa kể cả những người có tài ra khỏi cơ
quan. Họ muốn cấp dưới phục tùng một cách tuyệt đối. Đây là kiểu người lãnh
đạo rất khó tiếp nhận sự phê bình.
2. Con đường hình thành uy tín (đích thực) của người lãnh đạo, quản
lý giáo dục
Việc hình thành uy tín của người lãnh đạo tức là hình thành nhân cách phù
hợp của người lãnh đạo, cũng hoàn toàn tuân theo quy luật chung của sự hình
thành nhân cách.
Tự phấn đấu rèn luyện


9

Đây là con đường cơ bản nhất để tự nâng cao uy tín của mình. Tự phấn
đấu rèn luyện có thể được thực hiện bằng các biện pháp sau đây:
Duy trì hứng thú khát vọng và ý chí lãnh đạo để phục vụ tổ chức, phục vụ
con người và xã hội. Khơng được lấy uy tín làm mục đích mà phải coi đó
phương tiện, là điều kiện để thực hiện mục đích lãnh đạo, quản lý.
Thường xuyên kiểm tra, tự phê bình.
Giữ vững và nâng cao uy tín qua các mối quan hệ
Người lãnh đạo không chỉ tổ chức và vận hành các quan hệ trong tổ chức
của mình mà cịn tham gia các mối quan hệ đó. Uy tín gắn liền với những giá trị
của họ. Những giá trị này được đánh giá thông qua người khác. Như vậy, thông
qua mối quan hệ đây cũng là con đường để nâng cao uy tín người lãnh đạo. Các
biện pháp thực hiện con đường này bao gồm:
Quan hệ với mọi người khiêm tốn và có nguyên tắc.
Chân thành và gần gũi với quần chúng.
Quan hệ đúng mực với cấp trên và đồng nghiệp.

Thực hiện dân chủ và công khai
Dân chủ công khai trong việc đề bạt, kỷ luật cán bộ, có ý kiến độc lập
trong quyết định của cá nhân và dám chịu trách nhiệm, không né tránh và đổ
trách nhiệm cho người khác.
Tóm lại:
Trong q trình xây dựng và nâng cao uy tín của mình, người lãnh đạo
cần quan tâm một số vấn đề sau đây:
Người lãnh đạo nên coi việc tạo dựng uy tín cho mình chỉ là phương tiện
cần thiết để đạt mục đích lãnh đạo quản lý mà thôi.
Lấy chuẩn mực trong phong cách công tác Hồ Chí Minh làm định hướng
cho q trình rèn luyện, phấn đấu của người lãnh đạo.
Khi phân tích uy tín của người lãnh đạo, cần chú ý tới các nhân tố tâm lý
- xã hội khác có liên quan, như: tâm thế của mọi người đối với người lãnh đạo,
dư luận tập thể, bầu khơng khí đạo đức ở tập thể cơ quan, xí nghiệp; các quá


10

trình thích nghi giao tiếp, cảm hố, thuyết phục và bắt chước lẫn nhau trong
từng đơn vị và tổ chức khác nhau.
Ngồi những yếu tố trên, người lãnh đạo cịn phải chú ý đến kỹ năng,
nghệ thuật giao tiếp của bản thân vì đó là phương tiện rất quan trọng để người
lãnh đạo thiết lập, điều khiển các quan hệ của mình và thực hiện những tác động
giáo dục tư tưởng, chính trị trong tổ chức./.
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ có uy tín sẽ được nhân dân u mến,
q trọng và hết lịng giúp đỡ, do đó làm việc gì cũng thuận lợi, thành cơng. Uy
tín của người cán bộ còn là lòng tin của quần chúng đối với phẩm chất, năng lực
và các giá trị xã hội của nhân cách người cán bộ đó. Người cán bộ có uy tín là
người nói phải đi đơi với làm, biết giữ lời hứa, nói tốt phải làm tốt. Bởi vì lời
nói, việc làm phản ánh cơ đọng nhất tồn bộ những phẩm chất nhân cách người

cán bộ. Chính những phẩm chất này mới có khả năng thu hút, lơi cuốn mọi
người và mới tạo được lòng tin với quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng,
uy tín của người cán bộ khơng phải tự nhiên có được, nó được hình thành và
phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết phụ thuộc vào quá trình tu
dưỡng, rèn luyện về đạo đức, năng lực và khả năng thu phục nhân tâm, xây dựng
lòng tin với quần chúng nhân dân của người cán bộ lãnh đạo.
Trong mọi hoạt động, người cán bộ phải có đủ đức, đủ tài, phải vừa hồng,
vừa chuyên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, được quần chúng tin
yêu. Chính những mặt đó đã tạo nên uy tín của người cán bộ đối với quần chúng
nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng là cái gốc của người
cán bộ. Theo quan niệm của Người, đạo đức cách mạng được biểu hiện ở những
nội dung sau:
Thấm nhuần tư tưởng, quan điểm Mác-xít, đứng vững trên lập trường của
giai cấp công nhân. Yêu nước nồng nàn, trung thành với sự nghiệp của Đảng,
hết lòng phục vụ nhân dân, tận trung với nước, tận hiếu với dân và quyết tâm
suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, phải biết đặt lợi ích của Đảng ra
trước, lợi ích cá nhân lại sau, đó là biểu hiện cao nhất của đạo đức cách mạng ở


11

người cán bộ. Đạo đức cách mạng thể hiện ở tinh thần đoàn kết, kỷ luật nghiêm.
Đây là các yếu tố quan trọng giúp người cán bộ có thể tập hợp được năng lực
quần chúng tạo thành sức mạnh to lớn. Người luôn phê phán chủ nghĩa cá nhân,
tư duy vô kỷ luật. Chủ nghĩa cá nhân dễ đưa người cán bộ đến chỗ tự cao, tự đại,
cho mình những đặc quyền, đặc lợi,…làm cho người cán bộ dễ tha hoá về đạo
đức, lối sống. Người yêu cầu người cán bộ phải hết sức, hết lịng phục vụ nhân
dân, kính trọng quyền làm chủ của nhân dân, người cán bộ phải thật thà, ngay
thẳng, không dấu dốt, dấu khuyết điểm, phải: Ln chăm lo đến đời sống quần
chúng, phải chí cơng vơ tư và có tinh thần lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Đó

là đạo đức của người cộng sản.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ cách mạng chỉ có “Đức” thì
chưa đủ, muốn hồn thành nhiệm vụ, có uy tín cao với quần chúng ngồi phẩm
chất đạo đức người cán bộ cần phải có cả “Tài” nữa. Tài của người cán bộ được
biểu hiện ở trình độ lí luận, năng lực hoạt động thực tiễn, gắn với chuyên môn
nghề nghiệp mà người cán bộ đang đảm nhiệm.
Trình độ lí luận ở người cán bộ cách mạng thể hiện ở trình độ nhận thức
và hiểu biết sâu sắc những tri thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân
văn, những kinh nghiệm đã được đúc rút, khái quát trong hoạt động thực tiễn.
Trình độ lí luận ở người cách mạng quan trọng nhất là sự hiểu biết sâu sắc lí
luận Chủ nghĩa Mác- Lênin.
Chính chủ nghĩa Mác - Lê nin đã trang bị cho người cán bộ thế giới quan
Mác xít, phương pháp luận khoa học. Lí luận phải đi đơi với thực tiễn, nói phải
đi đơi với làm. Nếu coi thường lí luận người cán bộ sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh
nghiệm, còn nếu coi thường thực tiễn thì lại là lí luận sng.
“Tài”của người cán bộ khơng những biểu hiện ở trình độ lí luận, mà cịn
biểu hiện ở năng lực hoạt động thực tiễn gắn với chuyên môn nghiệp vụ mà họ
đang đảm nhiệm. Thể hiện ở trình độ kiến thức, kinh nghiệm, kỹ xảo chuyên
môn nghiệp vụ, kỹ năng suy nghĩ độc lập, sáng tạo trong các quá trình xử lý,
giải quyết các tình huống thực tế. Đây là yếu tố quyết định trực tiếp đến chất


12

lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của người cán bộ.
Tài trí, năng lực của người cán bộ cịn thể hiện ở trình độ chỉ huy, lãnh
đạo, quản lý, giáo dục đơn vị, ở khả năng thực hiện nhiệm vụ được giao, ở trình
độ hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực hoạt động nhưng phải sâu sắc về
chuyên môn nghề nghiệp, ở khả năng tổ chức quản lí cũng như nghệ thuật giáo
dục, hướng dẫn hoạt động, thuyết phục cảm hố quần chúng.

Uy tín của người cán bộ, dù ở cương vị nào, cao hay thấp cũng đều được
xây dựng trên cơ sở hai yếu tố cơ bản, quan trọng đó là “ Đức” và “Tài”(đạo đức
cách mạng và năng lực chun mơn nghề nghiệp). Tuy nhiên, để có được uy tín
cao với quần chúng xung quanh theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ cần
phải có một số phẩm chất tâm lý nhân cách cần thiết khác. Đó là phương pháp
làm việc, phong cách lãnh đạo, giao tiếp chân thực, tế nhị....Các phẩm chất của
người cán bộ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra là những nhân tố chủ quan
thuộc về chủ thể người cán bộ, nó giữ vai trị hết sức quan trọng, quyết định đến
quá trình hình thành, củng cố, nâng cao uy tín của người cán bộ.
Tóm lại, thời đại nào, chế độ nào vấn đề uy tín người cán bộ cũng có vai
trị hết sức quan trọng. Trong cơng cuộc đổi mới hơm nay thì vấn đề đó lại càng
có ý nghĩa hơn. Dưới ánh sáng tư tưởng và tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, mỗi chúng ta phải khơng ngừng học tập, rèn luyện nâng cao uy tín của
mình trước tập thể, trước nhân dân.
3. Biện pháp nâng cao uy tín của người lãnh đạo, quản lý giáo dục
* Thường xuyên rèn luyện phẩm chất, năng lực trong quá trình quản
lý học sinh
Quản lý giáo dục thực chất là sự điều khiển, chỉ huy, tổ chức, hướng dẫn
quá trình hoạt động của học sinh hay tập thể học sinh nhằm thực hiện mục đích,
nhiệm vụ đề ra thơng qua các quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định.
Chất lượng quản lý phụ thuộc vào người cán bộ lãnh đạo – quản lý giáo dục vận
dụng được kiến thức, phát huy vai trò, phẩm chất và năng lực trong tồn bộ chu
trình và q trình quản lý học sinh.


13

Nếu tiếp cận quản lý giáo dục như một quá trình, ta có thể thấy người
quản lý điều khiển học sinh thông qua các quyết định và hành động trong lãnh
đạo – quản lý. Đây là quá trình mà người quản lý thể hiện những phẩm chất

nhân cách, những công cụ, phương pháp, phương tiện quản lý; rèn luyện, điều
chỉnh, bổ sung những phẩm chất nhân cách cần thiết để cơng tác quản lý đạt
hiệu quả, chất lượng. Vì vậy, người cán bộ quản lý giáo dục cần:
Thứ nhất, huy động sự thông minh, linh hoạt, sáng tạo, mềm dẻo; tính độc
lập, tự chủ, quyết đốn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Cân nhắc kỹ
lưỡng các điều kiện, tình huống, hồn cảnh, đặc điểm và khả năng thực hiện
nhiệm vụ; đặc điểm tâm lý của đối tượng quản lý để xác định và đề ra các chủ
trương lãnh đạo, kế hoạch quản lý phù hợp, có tính hiệu quả giáo dục cao. Đồng
thời, nắm chắc được các yếu tố ảnh hưởng đến tính chất của các chủ trương,
quyết định để điều chỉnh hoạt động và vận dụng những tri thức của khoa học
quản lý, những phẩm chất cần có của người lãnh đạo – quản lý cho phù hợp với
tình hình nhiệm vụ.
Thứ hai, việc đề ra các chủ trương, quyết định lãnh đạo – quản lý là bước
đầu, việc tổ chức thực hiện là quan trọng, diễn ra rất đa dạng và phức tạp theo
tính chất của hồn cảnh và tình huống lãnh đạo. Do vậy, cần tích cực động viên,
cổ vũ cán bộ, học viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Áp dụng hệ thống
các biện pháp giáo dục và tổ chức nhằm xây dựng bầu khơng khí tâm lý tích cực
trong tập thể. Tác động vào hệ thống động cơ, nhu cầu, tình cảm của mỗi quân
nhân và tập thể quân nhân. Kết hợp chặt chẽ với kiểm tra bảo đảm cho việc thực
hiện các nhiệm vụ. Năng lực đề ra các quyết định cũng như khả năng chỉ đạo
việc thực hiện quyết định được hình thành, phát triển trong quá trình hoạt độnggiao tiếp của nhà lãnh đạo – quản lý. Vì vậy, rèn luyện thường xuyên các phẩm
chất nhân cách của người lãnh đạo là một điều kiện, phương tiện tâm lý quan
trọng quy định một cách trực tiếp chất lượng lãnh đạo – quản lý.
Thứ ba, thực hiện tốt chức năng kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện các
nhiệm vụ trong quá trình lãnh đạo – quản lý. Người cán bộ quản lý giáo dục


14

phải biết tập trung ý thức vào việc phân tích thông tin ngược, những ý kiến, dư

luận, tâm trạng của tập thể để bổ sung, điều chỉnh và xa hơn là triển khai thực
hiện các quyết định sau này. Người lãnh đạo – quản lý phải có sự phát triển cao
về tư duy lãnh đạo – quản lý nhằm đảm bảo được tính trí tuệ trong q trình chỉ
đạo. Có ý thức, trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp trong sáng; hết sức thận
trọng, huy động các phẩm chất tâm lý của cá nhân để suy nghĩ, cân nhắc đảm
bảo tính chính xác của những thay đổi cần bổ sung điều chỉnh.
* Hiểu biết đầy đủ, sâu sắc đối tượng quản lý và lựa chọn nội dung,
phương pháp tác động phù hợp trong quá trình quản lý giáo dục
Hoạt động quản lý giáo dục dù đa dạng, phức tạp đến đâu suy cho cùng
vẫn là việc giải quyết các mối quan hệ giữa chủ thể lãnh đạo – quản lý với khách
thể chịu sự lãnh đạo – quản lý. Muốn lãnh đạo toàn diện và sâu sắc các hoạt
động giáo dục đòi hỏi người lãnh đạo – quản lý phải có hiểu biết đầy đủ về cán
bộ, giáo viên: nắm chắc các đặc điểm tâm – sinh lý, nhu cầu, động cơ, kỹ năng
nghiệp vụ giáo dục …, trên cơ sở đó lựa chọn nội dung, phương pháp tác động
một cách khoa học nhằm điều khiển họ thực hiện các nhiệm vụ theo đúng mục
tiêu, yêu cầu giáo dục đào tạo của nhà trường.
Chính vì vậy, hoạt động lãnh đạo – quản lý phải cụ thể, toàn diện, sâu sắc
và có kế hoạch đối với từng con người trong đơn vị. Phải nắm chắc tình hình
chính trị, tư tưởng, trình độ, năng lực hành động, lý lịch, q trình cơng tác,
trình độ chính trị chun mơn nghiệp vụ, văn hóa, chỗ mạnh chỗ yếu của từng
học sinh. Đưa ra được các đánh giá tổng quát mức độ phát triển phát triển nhân
cách học sinh, giao nhiệm vụ đúng người, đúng việc nhằm phát huy tối đa khả
năng của từng học sinh trong thực hiện nhiệm vụ chung và nhiệm vụ riêng. Phát
hiện đúng, kịp thời tài năng quân sự. Có chính sách bồi dưỡng về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, bồi dưỡng toàn diện và chuyên sâu trên cơ sở bồi dưỡng vốn tri
thức cơ bản làm nền tảng. Có cách dạy cá biệt hóa, bồi dưỡng phải đi đơi với
quản lý, sử dụng phù hợp.


15


Biết tiến hành tốt các hoạt động cổ vũ, động viên giáo viên, học sinh
thuộc quyền. Thực hiện tốt phương châm lấy khích lệ, biểu dương những mặt
tốt, ưu điểm là chính, trên cơ sở đó khắc phục, đẩy lùi những yếu kém, hạn chế.
Kết hợp hài hòa giữa khen thưởng với phê bình, nhắc nhở và xử phạt để điều
chỉnh thái độ, hành vi của học sinh. Mức độ và liều lượng khen, chê phải hợp lý,
đúng mức mới có tác động giáo dục tích cực. Cán bộ lãnh đạo – quản lý cần coi
trọng và tiến hành nề nếp các hoạt động thi đua, văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể
thao,… có nề nếp nhằm xây dựng cho học viên có cuộc sống lạc quan, sơi nổi,
giải tỏa những bức xúc về tâm lý, thúc đẩy họ tích cực thực hiện nhiệm vụ học
tâp, rèn luyện.
* Quan tâm xây dựng mối quan hệ tốt đẹp và bầu không khí tích cực,
lành mạnh trong tập thể giáo dục
Lãnh đạo – quản lý thuộc lĩnh vực của khoa học quản lý nhưng lại liên
quan chặt chẽ với những vấn đề tâm lý, đặc biệt là các vấn đề tâm lý trong tập
thể giáo dục. Người lãnh đạo – quản lý không chỉ là người được giao quyền lãnh
đạo, quản lý, mà còn phải chịu trách nhiệm trước Đảng và nhân dân về việc tổ
chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của nhà trường. Đồng thời, người cán bộ
còn là “cái gốc” của mọi công việc, là “hạt nhân” và trung tâm của sự đồn kết
về ý chí và hành động, là tấm gương soi của mọi thành viên trong tập thể về
phẩm chất, năng lực, về lối sống và tác phong sinh hoạt.
Chính vì vậy, trong q trình quản lý, người cán bộ quản lý giáo dục phải
quan tâm xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp với tổ chức đảng cấp mình, với tập
thể lãnh đạo cấp dưới, với tổ chức quần chúng trong đơn vị… Người cán bộ
quản lý giáo dục phải xác định rõ ranh giới trách nhiệm và tính chất quan hệ với
từng thành viên và các tổ chức trong đơn vị; tăng cường khả năng và hiệu quả
điều khiển đối với họ. Tránh thái độ định kiến ở cả hình thức định kiến tốt và
định kiến xấu. Mối quan hệ của người cán bộ quản lý với học sinh bị quy định
bởi uy tín của họ. Ý nghĩa tâm lý của uy tín là ở chỗ, mọi mệnh lệnh, chỉ thị của
người cán bộ quản lý giáo dục có uy tín đều được tập thể thực hiện với một niềm



16

tin tích cực, với sự tin tưởng vào tính chất hợp lý, tất yếu của những mệnh lệnh,
chỉ thị đó. Người cán bộ quản lý giáo dục được giao chức trách và quyền hạn đã
tạo ra những điều kiện khách quan cho uy tín của họ. Song, chúng ta cịn thấy
mặt chủ quan của uy tín, đó là những phẩm chất nhân cách, sự hiểu biết công
việc và sự gần gũi với cấp dưới.
Xây dựng bầu khơng khí tâm lý tích cực, lành mạnh trong tập thể vừa là
trách nhiệm, vừa là nội dung, biện pháp trong xây dựng đơn vị vững mạnh tồn
diện, có tác dụng giáo dục uốn nắn học sinh, xây dựng tinh thần đoàn kết, giúp
đỡ lẫn nhau trong tập thể. Chính vì vậy, người cán bộ quản lý giáo dục phải tổ
chức tốt các hoạt động giáo dục và các hoạt động khác ở nhà trường. Chăm lo
xây dựng bộ phận tích cực trong tập thể, trước hết là đội ngũ cán bộ dưới quyền,
đảng viên, đồn viên tích cực trong tập thể, điều chỉnh và định hướng các hiện
tượng tâm lý – xã hội. Làm cơ sở để xây dựng mối quan hệ qua lại tốt đẹp, bầu
khơng khí tích cự, lành mạnh trong tập thể, góp phần nâng cao chất lượng học
tập rèn luyện của học sinh
* Thường xuyên rèn luyện phong cách lãnh đạo – quản lý, củng cố và
nâng cao uy tín trong quản lý giáo dục
Lãnh đạo – quản lý vừa là một khoa học nhưng đồng thời cũng là một
nghệ thuật. Người lãnh đạo – quản lý trên cơ sở các nguyên tắc, quy định,
phương pháp, phương tiện, công cụ thực hiện quản lý theo chức năng, nhiệm vụ
nghĩa là phải có một phong cách lãnh đạo phù hợp để đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ, tạo nên nét khác biệt ở từng người cán bộ quản lý giáo dục. Phong cách lãnh
đạo của cán bộ quản lý giáo dục chịu sự tác động của kết quả đào tạo chuyên
môn nghề nghiệp, đặc điểm tâm lý cá nhân, đặc điểm của tập thể và phong cách
lãnh đạo – quản lý của hệ thống tổ chức trong từng nhà trường. Việc rèn luyện
một phong cách lãnh đạo phù hợp có vị trí quan trọng đối với cán bộ quản lý

giáo dục, góp phần nâng cao uy tín của họ, làm cho hoạt động lãnh đạo – quản
lý hiệu quả hơn. Chính vì vậy, người cán bộ quản lý giáo dục cần phải:


17

Khơng ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, quản lý
nhằm đổi mới tư duy lãnh đạo, cách thức lãnh đạo. Thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, lời nói đi đơi với việc làm. Làm việc luôn đảm bảo nguyên tắc tập
trung dân chủ; làm việc tập thể, dám quyết, dám làm.
Thường xuyên nắm vững tình hình thực tiễn. Mềm dẻo, sáng tạo hoạt đổi
mới trong cơng tác. Khi xem xét, suy nghĩ phải có lý, song khi hành động phải
có tình cảm.
Tăng cường cơng tác tự phê bình và phê bình, làm việc cởi mở, tránh yêu
nên tốt, ghét nên xấu, chống chủ nghĩa cá nhân. Giữ gìn và nâng cao phẩm chất
cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Rèn luyện, tự rèn luyện phong cách lãnh
đạo – quản lý của cán bộ quản lý giáo dục ở nhà trường cần được tiến hành kiên
trì, nhẫn nại.
Trong điều kiện hiện nay, một phong cách lãnh đạo – quản lý có sức mạnh
động viên, huy động tối đa trí tuệ của cán bộ giáo dục dưới quyền là phong cách
dân chủ quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, có khả năng đồn kết mọi người trong
tập thể hướng vào hoàn thành các nhiệm vụ được giao phó.
Đê lãnh đạo – quản lý được giáo viên, học sinh địi hỏi người cán bộ giáo dục
phải có uy tín. Uy tín đó được hình thành trên cơ sở những phẩm chất, năng lực và
các giá trị xã hội của người cán bộ, có sức cảm hóa lớn, thu hút, lôi cuốn cán bộ, học
viên thuộc quyền; được mọi người trong đơn vị tin tưởng, tuân theo. Uy tín của cán
bộ quản lý giáo dục là yếu tố quan trọng trong việc lãnh đạo tập thể có hiệu quả. Do
đó, trong mọi mặt hoạt động của mình, người lãnh đạo – quản lý giáo dục phải biết
chăm lo xây dựng uy tín chân chính thực sự của bản thân, dựa trên khả năng, trình độ
chun mơn vững chắc của mình, mức độ trưởng thành về chính trị, tư tưởng, đạo

đức và tác phong, phong cách lãnh đạo có hiệu quả.
Rèn luyện, củng cố, nâng cao uy tín là con đường gian nan, đầy khó khăn
và thách thức. Đó là con đường tự rèn luyện, bồi dưỡng, tích lũy những phẩm
chất, năng lực và kinh nghiệm cần thiết để thừa nhận là người lãnh đạo - quản lý
và trở thành người lãnh đạo, quản lý, để được trao nhiệm vụ lãnh đạo - quản lý


18

và trở thành người lãnh đạo – quản lý. Đó là sự nghiêm khắc với bản thân, độ
lượng với người khác, phấn đấu rèn luyện thường xuyên. Giữ mối quan hệ giữa
uy tín cá nhân người lãnh đạo – quản lý với uy tín của tổ chức và tập thể đơn vị.
Nêu cao tính tự chủ, tự kiềm chế, tự kiểm tra, tự điều chỉnh và tự phê bình.
Khi có hiện tượng giảm sút hoặc mất uy tín cần tự phê bình nghiêm túc, tìm ra
ngun nhân, có những u cầu sửa chữa cụ thể, được mọi người thừa nhận.
Thực hiện triệt để quy chế dân chủ ở cơ sở, có ý kiến độc lập trong quyết
định của cá nhân và dám chịu trách nhiệm, không né tránh hoặc đổ trách nhiệm
cho người khác khi vi phạm sai lầm, thất bại. Thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, cố gắng rèn luyện điều chỉnh những phẩm chất thuộc tâm lý cá
nhân để trở thành người cán bộ quan lý có uy tín thực chất.
KẾT LUẬN
Uy tín có vai trị to lớn trong mọi hoạt động của đời sống - kinh tế xã hội,
uy lín là sức mạnh là điều kiện quan trọng trong quản lý. Thực tế, uy tín được
hình thành trên cơ sở những nhân cách đã có những phẩm chất và năng lực phù
hợp với chuẩn giá trị cứa xã hội, với những quy tắc, nguyên tắc chuẩn của một
cộng đồng, một tổ chức xã hội đã được mọi người thừa nhận và tuân theo. Đồng
thời, uy tín cịn là sự thừa nhận chung có ý nghĩa xã hội quyền uy và ảnh hưởng
của một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức xã hội nào đó. Đó là điều kiện, là
nhân tố bảo đảm cho tổ chức hoạt động chung của nhiểu người trong nhiều lĩnh
vực, hoặc trong từng lĩnh vực. Uy tín góp phần thực hiện sự truyền đạt kinh

nghiệm xã hội từ thế hệ này tới thế hệ khác, từ nhóm tới cá nhân, từ người này
sang người khác. Một người lãnh đạo, quản lý khơng có uy tín, hoặc mất uy tín
thì khơng thể tiến hành cơng tác quản lý có kết quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Chỉnh – Phạm Ngọc Uyển (1998), Tâm lý học quản lý,
Nxb Giáo dục, Hà Nội
2. Vũ Dũng (2009), Tâm lý học quản lý, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.


19

3. Đảng ủy quân sự trung ương (2007), Nghị quyết số 86/NQ - ĐUQSTƯ,
Nghị quyết về công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới, Nxb QĐND, Hà
Nội.
4. Học viện Chính trị quốc gia (2004), Tâm lý học lãnh đạo – quản lý,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
5. Mai Hữu Khuê (1985), Những khía cạnh tâm lý của quản lý, Nxb Lao động, Hà
Nội.
6. Tổng cục Chính trị (2005), Tâm lý học quân sự, Nxb QĐND, Hà Nội.
7. Tổng cục Chính trị (2002), Tâm lý học lãnh đạo – quản lý bộ đội, Nxb
QĐND, Hà Nội.
8. V.G. Afanaxev (1979), Thông tin xã hội và quản lý xã hội, Nxb KHXH, Hà
Nội.



×