Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học PHÉP BIỆN CHỨNG về mối LIÊN hệ PHỔ BIẾN và vận DỤNG PHÂN TÍCH mối LIÊN hệ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH tế với CÔNG BẰNG xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.96 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA: LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
.......................................000............

TIỄU LUẬN TRIẾT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ
VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Tuấn Anh

:2111210602
Mã sinh viên
Hà Nội, 2021
Số thứ tự

: 07

Lớp tín chỉ

: TRI114.4

Giáo viên hướng dẫn

: TS. Đào Thị Trang


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................3


1. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến.....................................................3
1. Phép biện chứng..........................................................................................3
2. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến................................................................4
a. Khái niệm...............................................................................................4
b. Các tính chất của mối liên hệ phổ biến...................................................4
3. Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến.....................................5
a. Quan điểm toàn diện..............................................................................6
b. Quan điểm lịch sử - cụ thể......................................................................6
II. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.............................7
1. Khái quát......................................................................................................7
a. Tăng trưởng kinh tế.................................................................................7
b. Công bằng xã hội..................................................................................7
c. Mối liên hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hội.......................7
2. Hiện trạng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội............................8
3. Hậu quả......................................................................................................10
4. Giải pháp....................................................................................................11
KẾT LUẬN......................................................................................................13
THAM KHẢO.................................................................................................14


LỜI MỞ ĐẦU
Trong thế giới này, mọi vật đều có mn hình vạn trạng khác nhau; những
sư vật, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống đều mang tính đa dạng, phong phú; thế
nhưng, chúng có điểm chung nhất định: đều là dạng tồn tại cụ thể của thế giới vật
chất. Chúng tồn tại song hành với nhau trong cuộc sống, khơng độc lập, tách rời;
mà có mối liên hệ, tương tác chặt chẽ với nhau. Chính vì vậy, ta có thể nói tăng
trưởng kinh tế và sự cơng bằng xã hội cũng có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phát triển là một điều không thể thiếu đối với bất kì xã hội nào, và việc
phát triển kinh tế, về mặt tích cực, nó khiến cho cuộc sống của nhân dân được cải
thiện, nâng cao rất nhiều; tuy nhiên, khi xét đến mặt tiêu cực, sụ phát triển kinh tế

vô hình trung đã tạo nên một sự mất cân bằng giữa người với người trên xã hội
khi mà khoảng cách giữa tầng lớp giàu nghèo đang trở nên quá lớn; và cách
người ta đối xử với người giàu và người nghèo là vơ cùng khác biệt. Trong khi
đó, dù giàu hay nghèo, đều là con người, và con người là yếu tố mật thiết tạo nên
sự phát triển kinh tế và đều cần được đối xử, được hưởng lợi ích từ sự phát triển
đó như nhau. Do vậy, sự cơng bằng trong xã hội là một điều vô cùng cần thiết và
đúng đắn.
Để giải quyết vấn đề xuất phát từ thực tế nêu trên, việc sử dụng triết học
Mác - Lênin với phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến sẽ là cơ sở lí luận
đúng đắn và chính xác nhất. Do đó, tơi quyết đinh lựa chọn đề tài: “Phép biện
chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mơi liên hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội” để nghiên cứu. Khi nghiên cứu đề tài này,
tơi hi vọng sẽ tìm được cái nhìn khái quát hơn về mối liên hệ giữa sự bình đẳng
trong xã hội với cuộc cách mạng xây dựng kinh tế; nhờ đó, góp một phần cơng
sức nhỏ để tìm ra phương hướng, giải pháp thiết thực nhất có thể nhằm phát triển
nền kinh tế một cách hiệu quả đồng thời duy trì được sự cơng bằng trong xã hội
này.


NỘI DUNG
I.
Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến
1. Phép biện chứng
Biện chứng là khái niệm dung để chỉ phương pháp xem xét những sự vật,
hiện tượng và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối quan hệ qua
lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, vận động, phát triển và suy vong của
chúng.
Biện chứng gồm hai loại: biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
Nếu biện chứng khách quan là biện chứng của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới vật chất khách quan thì biện chứng chủ quan lại là những phản ảnh hiện thực

khách quan vào ý thức, đầu óc con người.
Phép biện chứng là phương thức khái quát những mối liên hệ phổ biến và
những qui luật chung nhất của mọi q trình vận động, chuyển hóa, tương tác,
phát triển của sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội và tư duy, qua đó trở
thành cơng cụ hữu hiệu giúp ích cho quá trình nhận thức và thực tiễn.
Trong quá trình phát triển của mình, phép biện chứng có đã trải qua ba
giai đoạn: phép biện chứng tự phát cổ đại, phép biện chứng duy tâm và phép biện
chứng duy vật.
Phương pháp biện chứng duy vật là kết quả của việc kế thừa có chọn lọc
những tinh hoa của các nhà biện chứng đi trước, cụ thể nhất là Hêghen của Mác
và Ăngghen. Họ đã gạt bỏ tính duy tâm, tính thần bí trong những cái tinh túy ấy.
Đồng thời, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa duy vật
Phoiơbắc, thế nhưng họ đã khắc phục được tính siêu hình cứng nhắc của nó và
dựa trên những thành quả khoa học đương thời. Ở phương pháp biện chứng duy
vật, ta có thể nhận ra sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp
biện chứng. Chưa hết, phương pháp biện chứng duy vật vì được kế thừa từ thành
quả của nhiều nhà biện chứng đi trước nên nó được trình bày trên cơ sở của duy
vật, trên nền tảng vững chắc của khoa học tự nhiên; do đó, nó phản ánh chính xác
sự liện hệ, sự vận động, sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Và cũng qua


đó, nó đã khắc phục được hạn chế của phép biện chứng tự phát
thời
cổ
đại

những thiếu sót của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận
đại.
Phép
biện

chứng duy vật đã trở thành một học thuyết thực sự khoa học, một
phương
pháp
luận đỉnh cao, hữu ích giúp nhận thức và cải tạo thế giới.

2. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm
Mối liên hệ là thuật ngữ chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, qui định và ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong cùng 1 đối tượng hoặc giữa các
đối tượng với nhau.
Mối liên hệ phổ biến là thuật ngữ dùng để chỉ tính phổ biến của các mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trên thế giới (bao gồm cả tự nhiên, xã hội và
tư duy), khơng chừa ra bất kì sự vật, hiện tượng hay lĩnh vực nào. Không những
vậy, phạm vi của mối liên hệ phổ biến còn được mở rộng sang cả liên hệ giữa các
đối tượng tinh thần và giữa chúng với đối tượng vật chất sinh ra chúng.
Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới.
Mối liên hệ phổ biến có vơ số mức độ và phạm vi, trong đó phép biện
chứng duy vật với tư cách là khoa học triết học sẽ nghiên cứu các mối liên hệ phổ
biến nhất, lấy đó làm tiền đề cho việc nghiên cứu các mối quan hệ cụ thể có thể
kể đến như: cái chung - cái riêng, bản chất - hiện tượng hay nguyên nhân - kết
quả.... Lấy ví dụ, mối liên hệ giữa cung và cầu chính là mối liên hệ phổ biến, tức
cũng là mối liên hệ chung, nhưng mối liên hệ đó khi được thể hiện cụ thể thì lại
rất khác nhau, có tính chất đặc thù tùy theo từng loại thị trường hàng hóa hay thời
điểm cụ thể nào đó. Khi nghiên cứu sâu vào một loại thị trường hàng hóa, khơng
thể bỏ qua những chất riêng, chất đặc thù đó. Nhưng cho dù khác nhau như thế
nào, chúng vẫn tuân theo nguyên tắc chung của mối quan hệ cung - cầu.
b. Các tính chất của mối liên hệ phổ biến
Theo quan điểm của các nhà duy vật biện chứng, mối liên hệ gồm ba tính
chất cơ bản đó chính là: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong
phú.



Thế giới này chính là một thể thống nhất mà trong đó các sự vật, hiện tượng
có sự liên hệ, sự tác động, tương tác qua lại lẫn nhau. Các mối liên hệ, tác động
đó chính là yếu tố biểu hiện cho tính khách quan. Sự quy định, tương tác với
nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau đó chính là cái vốn có, cái bản chất của sự vật,
hiện tượng và nó tồn tại một cách độc lập khơng phụ thuộc vào ý chí con người,
con người chỉ có thể cảm nhận được sự vật thông qua các mối liên hộ vốn có của
nó và vận dụng các mối liên hệ đó vào trong các hoạt động thực tiễn của mình.
Tính phổ biến trong các mối liên hệ được phản ảnh ở chỗ: trong tự nhiên, xã
hội và tư duy, các sự vật, hiện tượng không tồn tại một cách độc lập mà rang
buộc lẫn nhau, luôn tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình vận
động, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Mọi sự vật, hiện
tượng đều nằm trong một hệ thống, chúng đều có mối liên hệ với nhau, khơng sự
vật, hiện tượng nào nằm ngồi hệ thống đó. Ví dụ, cùng trong mơi trường Trái
Đất, con người sinh sống, tồn tại và phát triển là nhờ việc khai thác, tác động vào
giới tự nhiên; mặt khác, giới tự nhiên với vai trò là nơi sống của con người, cũng
tác động lên cọn người: con người khai thác thiên nhiên q đà thì thiên nhiên sẽ
trả lại bằng giơng tố, lũ lụt... đe dọa trực tiếp đến tuổi thọ của con người.
Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra tính đa dạng, phong
phú của mối liên hệ được thể hiện qua: giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau đều
tồn tại các mối liên hệ cụ thể khác nhau, mang vai trò khác nhau đối với sự phát
triền của nó. Chưa hết, tuy cùng một mối liên hệ nhất định nhưng trong những
điều kiện cụ thể khác nhau, ở những thời điểm khác nhau trong quá trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng thì mối liên hệ đó sẽ có vai trị và tính
chất khác biệt nhau. Theo nghiên cứu, mối liên hệ có các loại sau: mối liên hệ
bên trong, mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ chủ yếu - thứ yếu, mối liên hệ trực
tiếp - gián tiếp, mối liên hệ bản chất - không bản chất, mối liên hệ tất yếu - ngẫu
nhiên.
3. Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến

Từ việc nghiên cứu nguyên lí về mối liên hệ phổ biến, chúng ta có thể rút
ra ý nghĩa phương pháp luận như sau:


a. Quan điểm toàn diện
Đối với quan điểm biện chứng, mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trên thế
giới này không tồn tại riêng lẻ, độc lập mà giữa chúng có sự tác động qua lại, có
sự qui định, chuyển hóa lẫn nhau. Đây chính là đặc điểm cơ bản vốn có của thế
giới khách quan, đa dạng và mang tính phổ biến. Do đó, để nhận thức được bản
chất của sự vật, hiện tượng con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, chống
cách xem xét phiến diện, chiết trung và ngụy biện.
Quan điểm tồn diện địi hỏi con người phải có sự nhận thức về sự vật
trong mối liên hệ giữa các yếu tố, các mặt và các bộ phận của chính sự vật và
trong sự tương tác qua lại của sự vật đó đối với các sự vật khác. Khơng những
vậy, chúng ta cịn cần phải biết phân loại từng mối quan hệ, xem xét có trọng
tâm, trọng điểm và làm nổi bật đặc tính cơ bản nhất của sự vật, hiện tượng. Chưa
hết, quan điểm toàn diện còn đòi hỏi ta sau khi rút ra được mối liên hệ bản chất
của sự vật, ta lại cần đặt mối liên hệ đó trong tổng thế các mối liên hệ của sự vật
được xem xét cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, rõ ràng.
b. Quan điểm lịch sử - cụ thể
Bởi một trong các tính chất của mối liên hệ phổ biến đó chính là tính đa
dạng, phong phú nên sự vật, hiện tượng được đặt ở trong từng khơng gian, thời
gian khác nhau thì các mối liên hệ sẽ được biểu hiện một cách khác nhau. Chính
vì vậy, trong các hoạt động thực tiễn của mình, con người phải tơn trọng quan
điểm lịch sử - cụ thể. Đối với quan điểm này, nó địi hỏi chúng ta khi đánh giá,
xử lí các sự vật, hiện tượng trong thực tiễn không được bỏ qua điều kiện, hồn
cảnh lịch sử - cụ thể trong đó sự vật, hiện tượng đó sinh ra, tồn tại, và phát triển
như thế nào? Với mỗi sự vật, hiện tượng khi đặt trong hồn cảnh khác nhau sẽ có
đặc điểm khác nhau, vì vậy, cần phải dùng các biện pháp khác nhau để xử lí hiệu
quả và đúng đắn.



II. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
1. Khái quát
a. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc qui mơ sản lượng quốc gia tính bình
qn trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
Tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở sự thay đồi về lượng của nền kinh tế.
Thế nhưng, sự bất bình đẳng kinh tế vẫn đang tồn tại ở một số nơi trên thế giới:
người dân vẫn phải sống trong điều kiện túng quẫn, khó khăn, nghèo khổ dù thu
nhập bình qn đầu người là cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính theo đơn
vị %, tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế hiện tại so với qui mô
kinh tế kỳ trước chia cho qui mô kinh tế kì trước.
b. Cơng bằng xã h ội
Khác với khái niệm tăng trưởng kinh tế được thừa nhận khá thống nhất,
đối với khái niệm cơng bằng xã hội vẫn cịn nhiều ý kiến tranh luận cách họ diễn
giải về khái niệm này cũng khác nhau. Có nơi cho rằng cơng bằng xã hội là
"công bằng trong các cơ hội cho mọi người”. Có chỗ thì lại nói cơng bằng xã hội
là công bằng trong các quan hệ “giữa cá nhân và xã hội, và giữa các cá nhân về
cống hiến, hưởng thụ; về quyền lợi, nghĩa vụ”. Lại có người khác thì nhấn mạnh
cơng bằng xã hội: “là các giá trị định hướng cho quan hệ giữa các thành viên
trong cộng đồng về cả vật chất và tinh thần”.
Thế nhưng, chung qui lại, điều mà công bằng xã hội luôn hướng đến các
thành viên đều có và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của bản thân phù hợp với các giá
trị xã hội để khuyến khích tối đa khả năng đóng góp và hạn chế tối thiểu khả
năng gây hại của mỗi cá nhân cho xã hội trong dài hạn.
c. Mối liên hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hội
Có một điều rõ ràng là: Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai
yếu tố cần thiết của một quá trình phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế tạo điều

kiện vật chất để thực hiện công bằng xã hội. Ngược lại, công bằng xã hội tạo
động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Công bằng xã hội tồn tại khách quan, độc


lập, thế nhứng việc thi hành, thực hiện công bằng xã hội lại do
con
người
điều
khiển, chi phối. Tăng trưởng kinh tế cũng vậy, nó sỉnh ra, tồn tại và
phát
triển
đều phụ thuộc vào con người, chính vì ngun do này nên nó tồn tại
một
cách
chủ quan.

Mối quan hệ giữa tăng trường kinh tế và công bằng xã hội được thể hiện
rất rõ ràng rằng: Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện vật chất để con người thực
hiện cơng bằng xã hội. Khơng có tăng trưởng kinh tế thì cũng khơng có của cải
để thực hiện công bằng xã hội về phân phối, tăng thêm thu nhập, cải thiện phúc
lợi và giảm nghèo. Ngược lại, công bằng xã hội sẽ thúc đẩy con người, cho con
người động lực để tạo ra tăng trưởng trong nền kinh tế. Ví dụ, khi việc phân chia
tiền cơng, khối lượng làm việc là công bằng giữa các nguồn lực lao động, cụ thể
là con người thì nó sẽ tự tạo ra động lực để thu hút và thúc đẩy công nhân làm
việc hiệu quả, từng bước tạo ra tăng trưởng trong kinh tế.
2. Hiện trạng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
Để một quốc gia có thể thể vươn lên trong một thế giới phát triển sơi động
như hiện nay thì việc phát triển nhanh và bền vững là một điều tất yếu. Công
bằng xã hội có quan hệ mật thiết với sự phát triển bền vững được xác định trên
cơ sở đóng góp tối đa và gây hại tối thiểu của mỗi thành viên trong xã hội đó.

Sau hơn hai thập kỷ đổi mới, kinh tế Việt Nam với tốc độ tăng trưởng khá
ấn tượng đã đưa đời sống xã hội của nhân dân lên một vị trí mới. So với 177
quốc gia và vùng kinh tế trên thế giới, GDP/đầu người của Việt Nam chỉ đạt thứ
hạng 122, thế nhưng các chỉ số xã hội quan trọng đều ở vị trí khá cao: HDI ở thứ
105; tuổi thọ đạt hạng 56 và trình độ học vấn đứng thứ 57...
Số liệu của Tổng cục Thống kê (GSO) cho thấy trong hơn hai thập kỷ vừa
qua, khoảng cách giàu - nghèo của Việt Nam đã có sự giãn rộng ra. Nguyên cớ
của việc này là do xuất phát điểm từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, việc
phân phối hiện vật mang tính bình quân, để rồi khi chuyển sang cơ chế thị
trường, chênh lệch giàu - nghèo tăng là tất yếu. Chênh lệch giàu - nghèo hiện ở
mức trên 8 lần. Đây được coi là khoảng chênh lệch là khá thấp trên thế giới và
cịn trong khoảng có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng


Bên cạnh một số dấu hiệu khá khả quan nên trên, các dấu hiệu của ảnh
hưởng tiêu cực bắt đầu xuất hiện. Điểm nổi bật là trong hơn hai thập kỷ phát triển
vừa qua, có tình trạng một số người nghèo lại trở nên nghèo hơn. Cụ thể là, theo
UNDP nhận định, người nghèo ở Việt Nam hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế chỉ
bằng 76,6% so với mức bình quân của xã hội, trong khi người giàu hưởng lợi tới
115%, hay theo một bảng khảo sát thu nhập của dân chúng từ 1995-2004, nhóm
dân giàu nhất tăng gấp 2,28 lần trong quãng thời gian 10 năm trong khi đó cùng
thời gian thì nhóm nghèo nhất tăng 1,91 lần. Hay theo số liệu về nghèo đói và bất
bình đẳng qua nghiên cứu do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công bố
cũng cho thấy nơi mà sự chênh lệch giàu - nghèo hiện hữu rõ nhất tập trung chủ
yếu tại ba khu vực Tây Bắc, Đông Bắc và Tây Nguyên. Theo UNDP nhận định,
người nghèo ở Việt Nam hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế chỉ bằng 76,6% so với
mức bình qn của xã hội, trong khi lợi ích người giàu được hưởng lại lên tới con
số 115%. Sự đầu tư và sự hưởng thụ về giáo dục, sức khỏe và các dịch vụ khác
ngày càng nghiêng về phía người có nhiều tiền sống ở thành thị, trong khi những
gì tiêu cực lại đổ dồn về phía người ngheo, những nơng dân nghèo.

Bên cạnh đó, thu nhập bình qn đầu người ở nước ta còn thấp, đến năm
năm 2018 mới đạt 2.600 USD (bằng 1/3 Trung Quốc và 1/4 Malaysia). Thu ngân
sách nhà nước không đủ chi: tỷ trọng bình quân trong GDP giai đoạn 2011-2015
thu 22,3%/năm, chi 29,4%/năm; đến năm 2018 thu 25,7% nhưng chi tới 27,4%,
quy mô thu ngân sách lại có xu hướng giảm. Nguồn ngân sách chủ yếu phải dành
cho chi thường xuyên và trả nợ, chi đầu tư phát triển thấp, chỉ trong khoảng 20%
trong tổng dự toán chi ngân sách nhà nước hằng năm.
Chưa hết, việc phát triển kinh tế yêu cầu vô vàn những yếu tố và môi
trường cũng là một trong số đó. Việc tác đơng đến mơi trường một cách tiêu cực
vơ hình trung ảnh hưởng trực tiếp đến nhóm những người nghèo. Lấy ví dụ đó
chính là hiện tượng ô nhiễm do các nhà máy; ô nhiễm là một thủ phạm góp phần
tăng tỷ lệ đói nghèo khi tiêu hao khả năng lao động của nhiều lao động chính
trong gia đình hoặc là nguyên nhân trực tiếp làm chết đi cây trồng, vật nuôi của
bà con nông dân, những thứ làm mang lại cơm áo gạo tiền cho họ và gia đình.


3. Hậu quả
Hậu quả để lại của những con số, thông tin trên thực sự rất đáng quan
ngại, và đây cũng là dấu hiệu của việc đã đến lúc chấn chỉnh, khắc phục vấn đề
thiếu công bằng xã hội này. Một đất nước, quốc gia muốn phát triển nhanh và
bền vững thì việc tăng trưởng kinh tế phải đi đơi với công bằng xã hội. Thiếu
công bằng sẽ phát sinh những hệ quả tiêu cực từ phía các đối tượng được lợi quá
nhiều, từ đó cũng ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển, tăng trưởng của kinh tế
đất nước nói riêng và cả đất nước nói chung.
Đối với đất nước ta, việc công bằng xã hội chưa thể đi đôi được cùng với
sự tăng trưởng kinh tế đem lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Thứ đáng lo
ngại đó chính là những yếu tố ảnh hưởng tới nhóm nghèo, khiến cho họ đã nghèo
nay còn nghèo hơn vẫn chưa được để ý đến và ngăn ngừa thỏa một cách thỏa
đáng. Nổi bật trong những yếu tố ấy là ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường và
gánh nặng của người dân trong chi trả dịch vụ y tế, giáo dục. Người nghèo ngày

càng trở nên khốn khó khi nền kinh tế phát triển không bền vững, môi trường
không được chú trọng. Điều đáng nói nữa là những người gây ô nhiễm môi
trường đó không bắt buộc phải chi trả trong việc bảo vệ mơi trường trong khi đó
tác hại nó gây ra thì những người nghèo, những tầng lớp thấp cổ bé họng chắc
chắn không thể nào tránh được. Những ảnh hưởng về sức khỏe, những căn bệnh
nguy hiểm và chi phí khám chữa bệnh tăng làm cho người nghèo trở nên nghèo
hơn và những hộ cận nghèo tái nghèo trở lại.
Khơng những vậy, các chính sách xã hội chưa đem lại kết quả như mong
đợi khiến các hộ nghèo thậm chí cịn phải chịu thiệt nhiều hơn. Hệ quả này phản
ánh khá rõ qua số lượng học sinh phổ thông ở các vùng sâu, vùng xa bỏ học
trong thời gian qua. Theo Báo Tuổi trẻ ngày 7/3/2008 cho biết: từ tháng 9 đến
tháng 12/2007 có tới 114.000 học sinh trên cả nước bỏ học. Đây là dấu hiệu bất
thường và hiện tượng này chưa có dấu hiệu dừng lại. Năm học 2004 - 2005, tồn
quốc có tỉ lệ học sinh lưu ban là 0,89%; bỏ học là 2,25%. Tại vùng Đồng Bằng
Sông Cửu Long, tỉ lệ học sinh lưu ban là 0,84% và bỏ học là 5,86%. Năm học
2005 - 2006, ở các vùng Tây Bắc, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, tỉ lệ học sinh bỏ
học cũng rất cao, lên đến 11%. Theo nhận định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tình


trạng học sinh bỏ học nhiều là do trường, lớp ở xa nhà, đi lại khó
khăn,
thời
tiết
khắc nghiệt, hồn cảnh gia đình nghèo túng, tiền lương do bố mẹ đi
làm
khơng
đủ để trang trải nên trẻ em phải nghỉ học giúp đỡ gia đình kiếm sống
từ khá sớm.

Ngồi những hậu quả đang diễn ra, thì nếu như khơng cân bằng được sự

cơng bằng xã hội sớm thì, cịn rất nhiều hậu quả đáng gờm khác cũng sẽ xảy đến,
chẳng hạn: nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội, nhóm nghèo đứng lên đấu tranh...; gây ô
nhiễm môi trường và cạn kiệt các nguồn tài nguyên, nhóm giàu được ưu ái sẽ có
thể dẫn đến tham nhũng, làm giàu bất chính và hơn cả là dẫn đến khủng hoảng xã
hội.
4. Giải pháp
Công bằng xã hội có quan hệ mật thiết với sự phát triển nhanh và bền
vững. Cơng bằng thực sự sẽ khuyến khích được khả năng đóng góp đến mức tối
đa và hạn chế đến mức tối thiểu khả năng gây hại của mọi cá nhân đối với xã hội.
Chính vì vậy, những hiện trạng, hậu quả nêu trên cần được nghĩ ra giải pháp một
cách kịp thời.
Một số giải pháp có thể đưa ra đối với vấn đề trên:

>

Bộ phận người nghèo khổ, thất học phải được chăm sóc, bảo vệ với
ý nghĩa ni dưỡng và duy trì thỏa đáng phần nhân lực hữu dụng
của xã hội, đồng thời ngăn ngừa sớm các tệ nạn và gánh nặng của
xã hội trong tương lai.

>

Tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển một cách
bình đẳng, có điều kiện phát triển như nhau, được pháp luật thừa
nhận, bảo vệ.

>

Xây dựng một hệ thống chính sách thực sự hiệu quả, là địn bẩy
cho sự phát triển, đủ sức để tạo điều kiện cho mọi cơng dân đóng

góp, cống hiến sức mạnh, năng lực, trí tuệ cho sự phát triển đất
nước.


>

Kiên trì thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng
cách giàu nghèo đi đôi với việc đấu tranh chống lại làm giàu phi
pháp.

>

Thực hiện chính sách nhất quán phát triển kinh tế nhiều thành phần
gắn với chế độ phân phối đa dạng, đa hình thức, phù hợp với năng
lực đóng góp; mức đóng góp về vốn, tài sản, trí tuệ và mức hiệu
quả lao động.

>

Trợ cấp cho an sinh xã hội được tăng cường, trong đó ngân sách
của nhà nước giữ vai trò thiết yếu và phát huy sự tham gia đóng
góp của doanh nghiệp, người dân và cộng đồng xã hội như thực
hiện chính sách ưu đãi người có cơng với cách mạng.

>

Thực hiện an sinh xã hội; chương trình tín dụng ưu dãi... góp phần
hiện thực hóa quan điểm lấy con người là trung tâm và khơng ai bị
bỏ lại phía sau trong q trình phát triển.


>

Hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu được chú trọng đầu
tư, phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và thụ
hưởng, được thể hiện trong việc phổ cập giáo dục; chương trình
đào tạo nghề cho lao động nơng thơn.


KẾT LUẬN
Từ những vấn đề được nghiên cứu ở trên, chúng ta đã phần nào hiểu ra
được sự nguy cấp, khẩn thiết của vấn đề cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế nhưng
vẫn giữ được sự công bằng trong xã hội, qua đó có những cái nhìn đúng đắn và
tìm ra được những hành động chính xác, phù hợp để điều chỉnh nền kinh tế đi
đúng hướng nhằm hướng tới sự phát triển bền vững sau này. Đồng thời, hướng đi
đó phải xuất phát từ chính mối liên hệ thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và
đảm bảo công bằng xã hội. Gìn giữ, duy trì sự cơng bằng xã hội khơng chỉ để
đảm bảo lợi ích, quyền lợi cho mọi người, cho bản thân mình vì những cái đã
cống hiến, đã bỏ ra cho xã hội này, mà còn để tạo nên ra một sự tăng trưởng lành
mạnh, hiệu quả của nền kinh tế, qua đó gây dựng nên một tương lai tương sáng,
tốt đẹp hơn cho đất nước, cho thế hệ con em chúng ta sau này.
Đất nước Việt Nam chúng ta đang đi trên con đường đổi mới, hiện đại hóa
đất nước với nền kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải
bắt đầu từ những mục tiêu cơ bản, thiết yếu nhất của mọi sự phát triển xã hội đó
chính là phát triển để cải thiện nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, phát
triển vì dân, vì cuộc sống ấm no, phồn vinh. Đây là vấn đề đóng vai trị vơ cùng
quan trọng trong cơng cuộc hiện đại hóa, đổi mới đất nước đó, dù là bây giờ hay
sau này. Đồng thời, việc phát triển xã hội muốn thành công, muốn đáp ứng được
với mục đích đề ra là vì người, vì dân thì cần phải đi kèm với sự công bằng xã
hội. Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện vật chất để thực hiện công bằng xã hội, và
công bằng xã hội là động lực để phát triển ổn định và lâu dài.



THAM KHAO
1.

Giáo trình Triết học Mác - Leenin (Dành cho bậc đại học hệ khơng
chun lý luận chính trị).

2.

TS. Bùi Đại Dũng, ThS Phạm Thu Hương, Tăng trưởng kinh tế và cơng
bằng xã hội, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 25
(2009) 82-91.

3.

TS. Nguyễn Thắng, TS Lê Kim Sa, Đầu tư và công bằng xã hội.

4.

Công bằng xã hội (Social equality) là gì? Ý nghĩa (vietnambiz.vn)

5.

Lý luận của C.Mác về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã
hội và vấn đề đặt ra ở nước ta hiện nay (lyluanchinhtri.vn)

6.

Phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội

(lyluanchinhtrivatruyenthong.vn)

7.

Phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội - Tạp chí Cộng sản
(tapchicongsan.org.vn)



×