Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

SO SÁNH ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU ĐỔI MỚI, Ý NGHĨA TRONG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC Ở CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN SỰ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.79 KB, 37 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ QUỐC PHỊNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN

SO SÁNH ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA VIỆT
NAM TRƯỚC VÀ SAU ĐỔI MỚI, Ý NGHĨA TRONG PHÁT
TRIỂN GIÁO DỤC Ở CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN SỰ HIỆN NAY

Số phách

Người chấm

(Do Phòng SĐH ghi)

(Ký, ghi rõ họ tên)

Điểm
Bằng số

Bằng chữ

.......................................................................................................................................................


2


Số phách
(Do Phòng SĐH ghi)

Họ và tên:
Ngày sinh:
Lớp:
Chuyên ngành:
Ngày thực hiện:

GIÁO DỤC HỌC

24/10/ 2021

PHẦN MỞ ĐẦU
Trong suốt chiều dài phát triển của lịch sử, cùng với các lĩnh vực của đời
sống xã hội, nền giáo dục của dân tộc Việt Nam đã có những bước phát triển
quan trọng, đạt được nhiều thành tựu rực rỡ góp phần xứng đáng vào quá trình
hình thành phát triển bản chất, đặc trưng nhân cách của con người Việt Nam.
Một nền giáo dục mang đậm tính nhân văn, nhân đạo, dân tộc và bản sắc văn
hóa của dân tộc ta là niềm tự hào của lớp lớp các thế hệ người Việt Nam, là kết
quả của quá trình hội tụ, chắt lọc và giao thoa giữa các nền văn minh Á – Âu,
mà đặc biệt là tinh hoa của giáo dục thế giới; quan niệm về giáo dục đạo làm
người của Khổng Tử; triết học xã hội từ thời cổ đại; giáo dục nhân văn - từ thời
Phục hưng, thời phương Tây bắt đầu tiến hành cơng nghiệp hố (từ thế kỷ
XVIII); giáo dục tự nhiên, giáo dục kỹ thuật tổng hợp, giáo dục thực hành mà
đỉnh cao là các quan điểm giáo dục cách mạng, tiến bộ của chủ nghĩa Mác –
Lênin; triết lý, tư tưởng giáo dục, đào tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sang thế kỷ XX, nhìn một cách tổng quát, giáo dục và khoa học giáo dục
Việt Nam đã có sự thay đổi đặc biệt quan trọng gắn liền với hai giai đoạn phát
triển của lịch sử dân tộc. Đó là sau khi cách mạng Tháng Tám thành cơng rực

rỡ lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trước đây, Cộng hòa xã hội chủ


3

nghĩa Việt Nam hiện nay và sau khi Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc
đổi mới từ sau năm 1986, giáo dục của đất nước đã trải qua những bước ngoặt
căn bản, có ảnh hưởng sâu đậm đến sự phát triển của nền giáo dục nước ta
giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu so sánh, luận giải các vấn đề giáo dục trong
hai thời kì này để rút ra những mối quan hệ, sự giống và khác nhau, bản chất,
quy luật, xu hướng của giáo dục Việt Nam trong lịch sử, hiện tại là vấn đề có
ý nghĩa quan trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh đất nước ta đang bước vào thời kì
đổi mới tồn diện và mạnh mẽ, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ trong hội nhập quốc tế
trên các lĩnh vực thì việc làm trên sẽ cung cấp cơ sở khoa học để Đảng, Nhà
nước ta đổi mới tư duy về chiến lược phát triển giáo dục, hoạch định đường
lối và các vấn đề vĩ mơ, vi mơ, xác định vị trí, mục tiêu, nội dung, phương
pháp, nguyên tắc, tổ chức phát triển giáo dục của đất nước trong tương lai.
Bằng các phương pháp tiếp cận dưới góc độ của khoa học giáo dục so
sánh, để xem xét, luận giải, nhận thức quy luật, quan hệ, xu hướng phát triển
giáo dục đất nước qua hai giai đoạn từ 1945 – 1986 và giai đoạn từ 1986 –
nay, tác giả muốn luận giải, so sánh tư duy về đường lối phát triển giáo dục
của nước ta trước và sau đổi mới nhằm tìm hiểu, nhận thức, làm quen với kỹ
năng so sánh, vận dụng vào thực tiễn công tác nghiên cứu khoa học giáo dục
và rút ra những bài học kinh nghiệp cho quá trình xây dựng và phát triển giáo
dục trong các nhà trường quân sự hiện nay.

NỘI DUNG



4

I. Những vấn đề cơ bản về Giáo dục học so sánh
Giáo dục học so sánh là một bộ môn của khoa học giáo dục, với đặc
trưng cơ bản là sử dụng phương pháp so sánh vào quá trình nghiên cứu. Thuật
ngữ chính thức xuất hiện năm 1816-1817 với tác giả M.A. Julien de Paris Comparative E. Hiện nay ở Việt Nam, Giáo dục học so sánh được hiểu theo
nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, theo các quan niệm chung nhất
thì Giáo dục học so sánh là một phân ngành của Khoa học giáo dục với đối
tượng nghiên cứu là hệ thống lý luận và hiện thực giáo dục của thời đại, chủ
yếu của thế giới đương đại và các tổ chức quốc tế. Giáo dục học so sánh có
nhiệm vụ cơ bản là: so sánh sự phát triển của giáo dục qua các thời kỳ, tìm ra
được những qui luật chi phối sự phát triển của giáo dục (Cả quy luật chung và
quy luật đặc thù); xây dựng những luận cứ xác đáng, tư vấn và tham mưu cho
việc chỉ đạo xây dựng và phát triển nền giáo dục ở Việt Nam đảm bảo bền
vững, có hiệu quả, chất lượng cao đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay và đặt ra những yêu cầu khoa học; đồng
thời cung cấp những luận cứ xác đáng cho việc xây dựng và phát triển lý luận
của giáo dục Việt Nam. Nội dung nghiên cứu của Giáo dục học so sánh tập
trung vào các tư tưởng, đường lối, triết lý, chính sách và chiến lược giáo dục
của các nước, nhóm nước và của thế giới nói chung; xác định các xu thế phát
triển giáo dục của thế giới; nghiên cứu và mô tả so sánh các hệ thống giáo
dục; phân tích các lý thuyết giáo dục về giá trị khoa học và hiệu quả kinh tếxã hội của chúng trên các dữ liệu đánh giá so sánh hiện thực giáo dục, đặc
biệt là thành tựu giáo dục và trình độ phát triển kinh tế - xã hội nói chung;
khái quát các bài học kinh nghiệm của giáo dục thế giới đương đại có sự đối
chiếu với hồn cảnh lịch sử của nước ta. Do đặc thù về đối tượng, nhiệm vụ
và nội dung nghiên cứu, Giáo dục học so sánh sử dụng các phương pháp chủ


5


yếu gồm: Phương pháp mô tả khoa học; phương pháp phân tích giáo dục
(gồm cả giải thích, phát hiện); phương pháp so sánh (đối chiếu); phương pháp
tổng quát hoá; phương pháp phát triển (mơ hình hố và thực nghiệm); các
phương pháp bổ trợ khác từ khoa học lịch sử, xã hội học, tâm lý học, kinh tế
học, khoa học quản lý giáo dục… Ngoài ra, Giáo dục học so sánh còn được
tiến hành nghiên cứu theo theo phương pháp hệ thống, phương pháp đối chiếu
tư tưởng, lý luận giáo dục với hiện thực giáo dục và hiện thực xã hội của khu
vực và nước cụ thể được nghiên cứu; phương pháp tiếp cận logic biện chứng,
phương pháp tiếp cận thực chứng và kinh nghiệm trong nhận định, lập luận và
khái quát và một số phương pháp tiếp cận khác. Những vấn đề nổi bật hiện
nay trong nghiên cứu giáo dục học so sánh bao gồm: Chất lượng và hiệu quả
giáo dục; Những ưu tiên trong cải cách giáo dục và phát triển giáo dục; Chính
sách và quản lý giáo dục; Hệ thống giáo dục; Chương trình và phương pháp
giáo dục; Thông tin và nghiên cứu giáo dục; Các vấn đề xã hội của giáo dục;
Chuẩn giáo dục và văn bằng.
II. So sánh đường lối phát triển giáo dục của Việt Nam trước và sau
đổi mới
1. Đường lối phát triển giáo dục trước đổi mới (trước năm 1986)
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam
dân chủ Cộng hoà được thành lập, ngày 03 tháng 9 năm 1945, trong phiên
họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra đề nghị: Nạn
dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân Pháp dùng để
cai trị chúng ta. Hơn 95% đồng bào chúng ta mù chữ. Nhưng chỉ cần 3 tháng
là đủ để học đọc, học viết tiếng ta theo vần quốc ngữ. Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu. Vì vậy tơi đề nghị mở chiến dịch chống nạn mù chữ. Đề nghị của
Người đã được Hội đồng Chính phủ thơng qua thành quyết định. Ngày 8-91945, Chính phủ ký 3 Sắc lệnh quan trọng về bình dân học vụ bao gồm: Sắc


6


lệnh số 17/SL thành lập Nha bình dân học vụ; Sắc lệnh số 19/SL quy định hạn
6 tháng, làng nào, thị trấn nào cũng phải có lớp học với ít nhất 30 người theo
học; Sắc lệnh số 20/SL cưỡng bách học chữ quốc ngữ và không mất tiền, hạn
một năm tất cả mọi người Việt Nam từ 8 tuổi trở lên phải biết đọc biết viết
chữ quốc ngữ. Tháng 10-1945, Bác Hồ đã ra lời kêu gọi chống thất học và
khẳng định, một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là
nâng cao dân trí, Bác khuyên mọi người Việt Nam trước hết phải biết đọc biết
viết chữ quốc ngữ; những người biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết
chữ, những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết. Cùng với việc
chống nạn mù chữ, Chính phủ đã có những chủ trương cải tổ và xây dựng
bước đầu đối với toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Trong tháng 9-1945,
trong thư gửi cho học sinh nhân ngày khai trường Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết: “...Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay khơng, dân tộc Việt
Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu
được hay khơng, chính là nhờ một phần lớn ở cộng học tập của các em”.
Tháng 11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng
chiến kiến quốc” vạch rõ những nhiệm vụ của giáo dục “mở đại học và trung
học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trõ cách dạy học nhồi sọ”. Mục
đích cao cả của nền giáo dục mới được Bộ Giáo dục khẳng định đã là: tôn
trọng nhân phẩm, rèn luyện chí khí, phát triển tài năng của mọi người để
phụng sự đồn thể và góp phần vào cuộc tiến hoá chung của nhân loại.
Phương pháp giáo của nền giáo dục mới là: xoá bỏ lối học nhồi sọ, lối học
hình thức, chú trọng phần thực học, phần học về chuyên môn nghề nghiệp sẽ
chiếm một địa vị quan trọng.
Thực hiện chính sách giáo dục mới, chính phủ đã ban hành sắc lệnh số
146/SL ngày 10-8-1946 khẳng định ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục
mới là: đại chúng hoá, dân tộc hoá và khoa học hoá và theo tôn chỉ phụng sự



7

lý tưởng quốc gia và dân chủ, gồm ba bậc học. Sắc lệnh số 147/SL cùng ngày
quy định thêm việc học cơ bản không phải trả tiền, các môn dạy học bằng
tiếng Việt từ năm 1950 trở đi đều có thể đưa vào các trường học.
Sau một thời gian gián đoạn vì việc tản cư, sắp xếp lại trường sở, Đảng
đã chỉ ra nhiệm vụ quan trọng nhất của ngành giáo dục là phải tìm mọi biện
pháp khơi phục lại các hoạt động giảng dạy và học tập của các loại trường học
phù hợp với hoàn cảnh mới và đáp ứng những yêu cầu mới của cuộc kháng
chiến kiến quốc. Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ tư (4-1947)
đã xác định: Chương trình học phải thiết thực nhằm mục đích đào tạo nhân tài
cần dùng cho kháng chiến trước hết về tất cả các ngành y tế, canh nông, quân
giới, cũng như thương mại, ngoại giao...; học sinh phải vừa học vừa tham gia
sản xuất để tự túc một phần nào; tiếp tục phát triển bình dân học vụ; chú ý mở
trường ở các vùng quốc dân thiểu số.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở rộng (01-1948) chỉ rõ
những biện pháp để ngành giáo dục thực hiện tốt yêu cầu về việc xây dựng
một nền giáo dục của chế độ mới phục vụ nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc.
Dưới ánh sáng của nghị quyết này các ngành học đã có những chuyển biến
làm thay đổi tình trạng giáo dục thấp kém do chế độ thực dân để lại.
Tháng 7-1948, Bộ Giáo dục đã mở Đại hội nghị Giáo dục toàn quốc nhằm
thống nhất trong toàn ngành về cải tổ chương trình, xây dựng nền nếp và phương
pháp giảng dạy phù hợp với thời chiến và theo tinh thần dân chủ mới.
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất năm 1950, thay thế hệ thống giáo
dục do thực dân Pháp để lại bằng chế độ giáo dục dân chủ cộng hồ (giáo dục
phổ thơng 9 năm). Những quan điểm và những chủ trương lớn của cuộc cải
cách giáo dục lần thứ nhất năm 1950 xác định một số vấn đề cơ bản cốt lõi
của giáo dục Việt Nam giai đoạn này đã là:



8

Mục đích của cải cách giáo dục là phải huỷ bỏ triệt để nền giáo dục nô lệ
cùng với những tàn dư của nó về nội dung, phương pháp, phải xây dựng cơ sở
tư tưởng mới về nền giáo dục dân chủ nhân dân theo những thiết chế giáo dục
và hệ thống tổ chức giáo dục tương ứng.
Xác lập tính chất nền giáo dục của dân, do dân, vì dân. Nguyên tắc của
nền giáo dục là dân tộc, khoa học, đại chúng, phục vụ lợi ích của nhân dân
Việt Nam, đấu tranh chống đế quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc và
ruộng đất cho dân cày. Mục tiêu đào tạo của nhà trường là giáo dục bồi dưỡng
thế hệ trẻ thành những người công dân lao động tương lai trung thành với chế
độ dân chủ nhân dân và có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ kháng chiến phục
vụ nhân dân. Nội dung giáo dục nhằm vào việc bồi dưỡng người học có tinh
thần dân tộc, lịng u nước, chí căm thù giặc, tinh thần yêu chuộng lao động,
tôn trọng của công, tinh thần tập thể, phương pháp suy luận và thói quen làm
việc khoa học.
Xây dựng cơ cấu hệ thống giáo dục và nhà trường mới gồm: hệ thống
giáo dục phổ thơng 3 cấp; hệ thống bình dân học vụ phục vụ người lớn; hệ
thống giáo dục chuyên nghiệp; quy định bậc dự bị đại học 2 năm; xác định
nguyên tắc lãnh đạo tập thể và dân chủ tập trung trong các nhà trường. Ban
hành chương trình mới, kế hoạch giảng dạy cho trường phổ thông 9 năm và tổ
chức biên soạn sách giáo khoa.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (02-1951) đã xác định trong chính
cương về phương hướng nhiệm vụ đào tạo con người mới “Để đào tạo con
người mới, cán bộ mới và đẩy mạnh kháng chiến phát triển nền văn hoá giáo
dục có tính chất dân tộc khoa học đại chúng”. Chính cương xác định nhiệm
vụ chủ đạo của giáo dục là: thủ tiêu nạn mù chữ, cải cách chế độ giáo dục, mở
các trường chuyên nghiệp.



9

Tháng 7-1951, Bộ Giáo dục đã triệu tập Đại hội Giáo dục toàn quốc tại
Việt Bắc nhằm rút kinh nghiệm bước đầu của cải cách giáo dục và quyết định
mở rộng triển khai hệ thống giáo dục mới.
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (1956), sau khi miền Bắc hồn tồn
giải phóng (7-1954), bước vào khơi phục và phát triển kinh tế, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, tiến hành cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Tháng 3-1956, Đại hội Giáo dục phổ thơng tồn quốc họp bàn việc triển
khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khoá II. Đại hội đã thông
qua đề án do Bộ Giáo dục khởi thảo nêu nhiệm vụ sáp nhập 2 hệ thống giáo
dục 9 năm (của cùng tự do) và 12 năm (của vùng mới giải phóng), đó là cuộc
cải cách giáo dục lần thứ hai, đặt cơ sở cho thành lập hệ thống giáo dục phổ
thơng 10 năm theo tính chất nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai năm 1956 xác định, tính chất của nền
giáo dục Việt Nam mang tính chất xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
làm nền tảng tư tưởng nhằm phục vụ nhân dân lao động. Mục đích giáo dục Việt
Nam nhằm đào tạo bồi dưỡng thế hệ thanh niên và thiếu niên trở thành những
người phát triển về mọi mặt, những công dân tốt trung thành với Tổ quốc, những
người lao động tốt, cán bộ tốt của nước nhà có tài có đức để phát triển chế độ
dân chủ nhân dân tiến lên xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đồng thời
để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ.
Nội dung giáo dục mang tính chất tồn diện gồm 4 mặt: đức, trí, thể, mỹ.
Phương châm giáo dục: Liên hệ lý luận với thực tiễn, gắn nhà trường với
đời sống xã hội.
Phương hướng chính trị của giáo dục: Tồn bộ cơng tác giáo dục phải
phục tùng đường lối chính trị của chính phủ dân chủ cộng hoà và Đảng lao
động Việt Nam.



10

Hệ thống giáo dục phổ thông được xác định 10 năm học gồm 3 cấp học
là: Cấp I 4 năm; cấp II 3 năm; cấp III 3 năm. Cuối cấp I, II học sinh thi hết
cấp; cuối cấp III học sinh thi tốt nghiệp phổ thông. Trước khi vào học cấp I,
học sinh phải học qua lớp vì lịng để biết đọc, biết viết, biết đếm đến 10; hạn
tuổi học lớp 1 ít nhất học sinh có 7 tuổi trịn. Năm học được quy định với 9
tháng học, bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 9, kết thúc vào 31-5, các tháng 6,7, 8
nghỉ hè, số tuần thực học từ 33- 35 tuần, số tiết học ở cấp II, cấp III mỗi tuần
29-30 tiết.
Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (9-1960) đã xác định
phương hướng phát triển sự nghiệp giáo dục theo quy mô lớn bồi dưỡng thế
hệ trẻ phát triển toàn diện để xây dựng xã hội mới. Báo cáo chính trị của Đại
hội Đảng đã dành phần quan trọng xác định nhiệm vụ chính trị của giáo dục
trong tình hình mới: Cơng tác giáo dục văn hố phải được phát triển theo quy
mơ lớn và phải phục vụ đường lối và nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Sự
nghiệp giáo dục của chúng ta phải nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những
người lao động làm chủ đất nước, có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có văn hố và
kỹ thuật, có sức khoẻ, những người phát triển toàn diện để xây dựng xã hội
mới, đồng thời phải phục vụ đắc lực cho việc đào tạo cán bộ xây dựng kinh từ
và văn hoá xã hội chủ nghĩa và việc nâng cao khơng ngừng trình độ văn hoá
của nhân dân lao động.
Nguyên lý, phương châm giáo dục được xác định một cách hệ thống đó
là: phải nắm vững nguyên lý giáo dục két hợp với lao động sản xuất và các
phương châm: lý luận gắn liền với thực tế, học đi đôi với hành, giáo dục của
nhà trường kết hợp với giáo dục của xã hội. Phương thức giáo dục coi trọng
phát triển quy mô lớn, vừa nhiều vừa nhanh nhưng đồng thời phải luôn coi
trọng nâng cao chất lượng giáo dục... đi đôi với giáo dục văn hoá phải thực



11

hiện giáo dục kỹ thuật. Tăng cường cơng tác Đồn Thanh niên trong nhà
trường và đặc biệt coi trọng công tác đào tạo bồi dưỡng thầy giáo về mọi mặt.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (6-1962) bàn về phát triển
cơng nghiệp và vai trị của giáo dục được nhấn mạnh trong tương quan với
phát triển kinh tế .
Ngày 24-4-1962, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị 43/CT-TƯ quy
định trách nhiệm cụ thể cho các ngành y tế, giáo dục, phụ nữ, tổng cơng đồn,
Ban cơng tác nông thôn... đã quy định cụ thể về xây dựng nhà trẻ và lứa tuổi
mẫu giáo. Giáo dục phổ thông cũng được phát triển rộng rãi; chỉ sau 2 năm
học 1958-1959 đến 1960-1961 tổng số học sinh phổ thông đã
tăng gần gấp 2 lần. Cụ thể biểu hiện ở bảng thống kê sau đây:
Năm học
Số trường cấp I
Số trường cấp II Số trường cấp III
1958-1959
4.766
389
30
1959-1960
5.320
869
51
Ngày 7- 4 -1960, Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị số 203/CT-TƯ vạch
phương án mới của phát triển giáo dục: Song song với những trường phổ
thơng, cần tích cực nghiên cứu mở những trường vừa học văn hố phổ thơng,
vừa học kỹ thuật sản xuất, nhất là kỹ thuật sản xuất nông nghiệp. Theo
phương hướng đó, chúng ta cần tiến hành phổ cập kỹ thuật dần dần trong
nhân dân ta, đồng thời tạo điều kiện cho con em ta được học tập.

Trong phong trào phát triển giáo dục đã xuất hiện nhiều tấm gương điển
hình, đặc biệt là Trường phổ thơng cấp II Bắc Lý, Lý Nhân, Hà Nam; trường
Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hồ Bình và hàng loạt các trường sau
này. Cho đến năm 1975 đã có hàng loạt trường được thành lập, nhất là ở miền
Bắc xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đã chú ý đến giáo dục ở miền núi, đồng bào
dân tộc và có đủ các bậc đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Đứng trước yêu cầu mới của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, Đại hội IV Đảng cộng sản Việt Nam (12/1976) đã


12

quyết định tiến hành một cuộc cải cách sâu rộng toàn bộ hệ thống giáo dục
quốc dân nhằm làm cho giáo dục phục vụ đắc lực hơn, có hiệu quả hơn sự
nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Tháng 1 năm 1979, Bộ chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành nghị quyết về cải
cách giáo dục - cuộc cải cách giáo dục lần 3, nhằm 3 mục tiêu lớn:
1. Làm tốt việc chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thuở ấu thơ cho
đến lúc trưởng thành nhằm tạo ra cơ sở ban đầu rất quan trọng của con người
Việt Nam mới, người lao động, làm chủ tập thể và phát triển toàn diện.
2. Thực hiện phổ cập giáo dục toàn dân, góp phần xây dựng quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành
3 cuộc cách mạng.
3. Đào tạo bồi dưỡng với qui mô ngày càng lớn, đội ngũ lao động mới có
phẩm chất chính trị và cách mạng, có trình độ khoa học kỹ thuật và quản lý
phù hợp với yêu cầu phân công lao động trong nền sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa. Cải cách giáo dục dựa trên những nguyên lý cơ bản của nền giáo dục
xã hội chủ nghĩa: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất,
nhà trường gắn liền với xã hội.
Hệ thống giáo dục mới là một thể thống nhất và hoàn chỉnh bao gồm:

giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục
đại học và mạng lưới trường lớp tập trung và mạng lưới trường lớp khơng
thốt ly sản xuất và cơng tác.
Giáo dục phổ thông được chia thành hai bậc: phổ thông cơ sở và phổ
thông trung học. Trường phổ thông cơ sở là một thể thống nhất từ lớp 1 đến
lớp 9. Trường phổ thơng cơ sở có nhiệm vụ giáo dục tồn diện cho học sinh,
đạt trình độ văn hố phổ thơng tương đối hồn chỉnh, có năng lực làm các loại
lao động phổ thông. Nội dung giáo dục phổ thơng cơ sở có tính chất tồn diện
và kỹ thuật tổng hợp. Phương pháp giáo dục là coi trọng xây dựng cho học


13

sinh tính chủ động và thói quen tự học. Trường phổ thơng trung học từ lớp 10
đến lớp 12, có nhiệm vụ nâng cao trình độ văn hố phổ thơng cho những học
sinh đã tốt nghiệp bậc phổ thông cơ sở. Tốt nghiệp phổ thông trung học, vào
học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề hoặc trực
tiếp tham gia lao động sản xuất. Nội dung giáo dục ỏ trường phổ thơng trung
học có tính chất tồn diện và kỹ thuật tổng hợp đồng thời chú ý phát triển sở
trường và năng khiếu cá nhân. Giáo dục chuyên nghiệp gồm hệ thống các
trường dạy nghề có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công nhân và nhân
viên kỹ thuật có phẩm chất chính trị tốt, tay nghề giỏi và có sức khoẻ. Hệ
thống các trường trung học chuyên ngiệp nhận học sinh tốt nghiệp phổ thông
trung học thời gian học từ một đến hai năm có nhiệm vụ đào tạo cán bộ thực
hành có trình độ trung học về kỹ thuật nghiệp vụ và quản lý kinh tế, giáo dục,
văn hoá nghệ thuật và y tế .
Giáo dục đại học bao gồm các trường cao đẳng, đại học (từ 4 đến 5 năm)
đào tạo và bồi dưỡng cử nhân khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý có trình
độ đại học và trên đại học, có lý tưởng cách mạng, có năng lực nghiên cứu
khoa học hoặc chỉ đạo nghiệp vụ chun mơn do mình phụ trách. Các trường

cao đẳng (thời gian 3 năm) có nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thực
hành có trình độ đại học về kỹ thuật nghiệp vụ…
Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam (3-1982), sau khi khẳng định
những thành tựu to lớn mà nền giáo dục đã đạt được, đã chỉ ra những tồn tại và
yếu điểm cần phải khắc phục, xác định những chủ trương, phương hướng phát
triển giáo dục phù hợp yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước. Đại hội chỉ rõ:
nhiệm vụ trong những năm tới là triển khai cải cách giáo dục một cách tích cực
và vững chắc theo bước đi phù hợp với yêu cầu và khả năng của nền kinh từ
quốc dân và phải ra sức phấn đấu nâng cao chất lượng giáo dục, coi trọng giáo
dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Ở miền Nam và miền núi, đi đôi với


14

mặt chất lượng phải rất chú trọng phát triển về số lượng trường lớp, nhất là bậc
phổ thông, đồng thời khơng xem nhẹ cơng tác bổ túc văn hố và xố nạn mù
chữ. Đại hội cịn chỉ rõ phương hướng phát triển của ngành giáo dục.
Sau hội nghị Trung ương 3 (khố V), Hội đồng Bộ trưởng đã thơng qua
nghị quyết về công tác giáo dục trong những năm trước mắt. Nghị quyết
nhằm triển khai công tác cải cách giáo dục trong những năm trước mắt đã đề
ra những chủ trương và biện pháp cấp bách của ngành giáo dục. Đối với
ngành giáo dục phổ thông, nghị quyết chỉ rõ cần coi trọng phát triển và nâng
cao chất lượng giáo dục phổ thông trong cả nước, nhất là đối với việc phổ cập
giáo dục cấp I ở đồng bằng sông Cửu Long, những vùng miền núi. Bên cạnh
các loại trường phổ thơng trung học hình thành hệ thống các loại trường phổ
thông trung học kỹ thuật vừa dạy chữ vừa dạy kỹ thuật, phát triển các trường,
lớp năng khiếu, xây dựng các trường cho trẻ em có tật. Đến năm 1990 đã
hoàn thành việc thay sách giáo khoa mới cho tất cả 12 lớp của hệ thống giáo
dục phổ thông mới.
2. Đường lối phát triển giáo dục sau đổi mới (sau năm 1986)

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (121986) đã mở đầu cho công cuộc đổi mới ở nước ta, với sự chuyển đổi cơ chế
quản lý kinh từ đất nước từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Đường lối đổi mới mà
trước hết là đổi mới về tư duy kinh từ đã mang đến cho cách mạng Việt Nam
nguồn sức mạnh mới để tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước đã mở ra cho ngành giáo dục Việt Nam một giai
đoạn phát triển mới, hứa hẹn những đổi thay, tạo nên một bước tiến dài với
những thành cơng mới của tồn ngành giáo dục nước nhà.
Với những tư tưởng chỉ đạo của chương trình phát triển giáo dục 3 năm
1987-1990, ngay sau Đại hội VI của Đảng, ngành giáo dục - đào tạo đã thực


15

hiện đổi mới theo hướng đồng bộ, toàn bộ, toàn diện, sâu sắc. Ngành đã tích
cực điều chỉnh cuộc cải cách giáo dục nhằm đưa nền giáo dục và đào tạo vào
quy mô mới phù hợp với định hướng đổi mới kinh từ - xã hội của đất nước,
hợp với xu thế phát triển giáo dục của các nước trên thế giới.
Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương khố VI về cơng tác giáo
dục đã nêu rõ: Công tác giáo dục phải hướng trọng tâm vào việc từng bước ổn
định tình hình giáo dục, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Về giáo dục
phổ thông cần tăng cường đầu tư để thanh toán nạn mù chữ và phổ cập giáo
dục cấp I, lớp 1. Hoàn thành tổng kết việc thực hiện cải cách giáo dục để tiếp
tục điều chỉnh nhằm mục tiêu đào tạo thanh thiếu niên thành con người mới
xã hội chủ nghĩa, theo hướng hình thành nhân cách người lao động Việt Nam
có bản sắc văn hoá dân tộc, năng động, sáng tạo, có ý chí đưa đất nước đi lên,
có đủ phẩm chất và năng lực nghề nghiệp cần thiết để đáp ứng những yêu cầu
mới của nền kinh từ hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị Trung ương 6 khoá VI cũng đề cập đến vấn đề đổi mới quản lý
giáo dục, chăm lo cho đời sống của giáo viên cũng như các điều kiện giảng

dạy. Từ đó, ngành giáo dục đã xây dựng chương trình phát triển giáo dục 3
năm 1987-1990 với hệ thống 38 chỉ tiêu, 10 tư tưởng chỉ đạo là: Một là, giáo
dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, nhà trường là công cụ của nền
chun chính vơ sản. Ba là, kế hoạch phát triển giáo dục là một bộ phận của
kế hoạch phát triển kinh từ - xã hội. Bốn là, chất lượng và hiệu quả, trước mắt
và lâu dài, kịp thời và dẫn đầu. Năm là, phát triển theo cùng, phổ cập và nâng
cao, đại trà và mũi nhọn. Sáu là, giáo dục tồn diện, trị ra trị, học ra học. Bảy
là, hệ thống giáo dục đa dạng, linh hoạt. Tám là, thầy ra thầy, dạy ra dạy,
trường ra trường, lớp ra lớp. Chín là, tăng cường nghiên cứu khoa học, đẩy


16

mạnh áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và kinh nghiệm giáo dục tiên tiến.
Mười là, đổi mới quản lý giáo dục.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6-1991), diễn ra trong bối cảnh thế
giới hết sức phức tạp; cuộc khủng hoảng toàn diện của hệ thống các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã đặt ra những thách thức lớn đối với cách mạng
Việt Nam. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Trên cơ sở đánh giá chung thực trạng giáo dục từ sau Đại hội VI, Đại hội
VII đã đề ra mục tiêu cho ngành giáo dục. Theo đó, mục tiêu giáo dục và đào
tạo là nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành
đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ,
năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội. Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng tồn diện, có năng lực
chun mơn, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh từ hàng
hoá nhiều thành phần. Nhiệm vụ của ngành giáo dục trong 5 năm 1991-1995
là: tiếp tục đổi mới, ổn định, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục và

đào tạo. Coi trọng chất lượng giáo dục chính trị, đạo đức cho học sinh và sinh
viên; hiện đại hoá một bước nội dung, phương pháp giáo dục, dân chủ hoá
nhà trường và quản lý giáo dục; đa dạng hoá loại hình đào tạo và loại hình
trường lớp, từng bước hình thành trường bán cơng, dân lập, tư thục (dạy
nghề), phát triển loại hình vừa học vừa làm. Mở rộng đào tạo nghề, bồi dưỡng
nhiều người giỏi về khoa học, công nghệ, kinh doanh, quản lý kinh tế, xã hội
và nhiều công nhân lành nghề.
Tháng 1-1993, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VI đã ra Nghị quyết về “tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo”
xác định những quan điểm chiến lược và phương hướng tiếp tục đổi mới sự


17

nghiệp giáo dục trong giai đoạn mới. Nghị quyết đã nêu lên 4 quan điểm chỉ
đạo sự phát triển giáo dục đó là:
Giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được xem là quốc sách
hàng đầu, phải coi đầu tư cho giáo dục và đào tạo là một trong những hướng
chính của đầu tư phát triển; huy động tồn xã hội góp sức xây dựng giáo dục.
Giáo dục phải nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, hình thành những con người có chất lượng mới, những con người lao
động tự chủ, năng động sáng tạo. Phải mở rộng qui mô đồng thời nâng cao
chất lượng, hiệu quả giáo dục.
Giáo dục phải gắn chặt với yêu cầu phát triển của đất nước, phù hợp với
xu thế tiến bộ của thời đại, phải được tổ chức để mọi người đều được học và
học thường xun suốt đời.
Đa dạng hố hình thức giáo dục đào tạo, đảm bảo công bằng xã hội trong
giáo dục; người đi học nói chung phải đóng học phí, người sử dụng lao động
qua đào tạo phải đóng góp chi phí cho đào tạo; Nhà nước có chính sách bảo
đảm cho người nghèo và các đối tượng chính sách đều được đi học.

Nhờ có những chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước,
chính phủ, mà giáo dục nước nhà đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Phát
triển các ngành học từ giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
chuyên nghiệp, giáo dục đại học, giáo dục thường xuyên đều được phát triển
đa dạng và hiệu quả. Tuy nhiên, nhìn lại cho thấy giáo dục giai đoạn này vẫn
còn tồn tại những hạn chế, bất cập cần khắc phục. Cơng tác phát triển các bậc
học cịn tồn tại một số hạn chế ở bậc học mầm non, giáo dục phổ thông, giáo
dục chuyên nghiệp, công tác phát triển đội ngũ giáo viên, công tác giáo dục ở
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, hệ thống cơ sở vật chất, điều kiện
đảm bảo cho giáo dục còn nhiều hạn chế.


18

Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6-1996), tiếp tục khẳng định sự nghiệp
đổi mới đất nước, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã chỉ rõ: Giáo
dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Bằng nhiều hình
thức đa dạng, bảo đảm cho mọi người được học; động viên phong trào toàn
dân thi đua xoá mù chữ; cải tiến chất lượng dạy và học; hoàn thành tốt việc
đào tạo, bồi dưỡng nguồn lực con người cho cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước. Đại hội đã nhận định, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành
tựu bước đấu rất quan trọng, nhưng nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng
kinh từ - xã hội. Đồng thời, Đại hội cũng đề ra phương hướng, chủ trương
lãnh đạo trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; đặt mục tiêu đến năm 2020,
phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Về giáo dục và đào tạo, Đại hội VIII đã chỉ ra: cùng với khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả 3 mặt là mở rộng quy mô, nâng cao
chất lượng, phát huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh vực giáo dục - đào
tạo trong 5 năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng u cầu cơng nghiệp

hố, hiện đại hố, tạo điều kiện cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên có việc làm,
khắc phục những tiêu cực, yếu kém trong giáo dục -đào tạo.
Thực hiện Chương trình phát triển giáo dục và đào tạo với mục tiêu nâng
cao mặt bằng dân trí, đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tỷ lệ số
người tốt nghiệp phổ thông cơ sở (lớp 9) trong độ tuổi lao động dự kiến tăng lên
55-60% và tỷ lệ những người lao động qua đào tạo trong tổng số lao động dự
kiến tăng lên 22-25% vào năm 2010, bảo đảm nguồn lao động có chất lượng cho
các lĩnh vực ứng dụng công nghệ tiên tiến. Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học
và công nghệ vững mạnh, đủ sức giải quyết những vấn đề được đặt ra trong
chương trình phát triển khoa học và công nghệ. Phát hiện, bồi dưỡng và trọng


19

dụng nhân tài, chú trọng các lĩnh vực khoa học và cơng nghệ, văn hố - nghệ
thuật, quản lý kinh tế, xã hội và quản trị sản xuất kinh doanh.
Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng khố VIII (1997)
đã phân tích sâu sắc thực trạng giáo dục đào tạo, trên cơ sở đó đề ra những
định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước. Những tư tưởng chỉ đạo đó là:
Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con
người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hố
của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm
năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy
tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có
tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong cơng nghiệp, có tính
tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ.

Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, phương pháp giáo
dục đào tạo, trong chính sách, nhất là chính sách cơng bằng xã hội.
Thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhà nước và toàn
dân. Mọi người đi học thường xuyên, học suốt đời.
Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh từ xã hội,
những tiến bộ khoa học -công nghệ và củng cố quốc phòng an ninh. Coi trọng
cả ba mặt; mở tộng qui mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Thực
hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn
với thực tế, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội.


20

Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo. Tạo điều kiện để ai
cũng được học hành. Người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để
học tập. Bảo đảm cho những học sinh giỏi phát triển tài năng.
Giữ vai trò nòng cốt của các trường cơng lập đi đơi với đa dạng hố các
loại hình giáo dục đào tạo. Phát triển các trường bán công, dân lập ở những nơi
có điều kiện, từng bước mở các trường tư thục ở một số bậc học. Mở rộng các
hình thức đào tạo khơng tập trung, đào tạo từ xa, từng bước hiện đại hoá giáo
dục.
Đại hội IX của Đảng (4-2001), tiếp tục phát triển theo con đường xã hội
chủ nghĩa, thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã xác định chiến lược đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Về
giáo dục và đào tạo, Đại hội đã xác định, phát triển giáo dục và đào tạo là một
trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát

triển xã hội, tăng trưởng kinh từ nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ
thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hoá”; thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã
hội học tập. Thực hiện phương châm học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp
với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội. Xây dựng quy hoạch đào
tạo nhân lực theo phương thức kết hợp học tập trung, học từ xa, học qua máy
tính. Tăng ngân sách nhà nước cho giáo dục. Mở rộng hợp lý quy mô giáo dục
đại học. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học
sinh, sinh viên. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho
người nghèo có cơ hội học tập. Thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục,


21

phát triển đa dạng các hình thức đào tạo; tập trung giải quyết các vấn đề bức
xúc trong giáo dục.
Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X (4-2006), đã chỉ rõ: Giáo dục
và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và
động lực thúc đẩy cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Đổi mới tồn diện giáo
dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương
pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, chấn hưng nền
giáo dục Việt Nam. Chuyển dần mơ hình giáo dục hiện nay sang mơ hình giáo dục
mở - mơ hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên
thông giữa các bậc học, ngành học, đảm bảo sự công bằng trong giáo dục. Tăng tỷ
lệ phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tăng đầu tư ngân sách cho giáo dục. Khắc
phục những hạn chế, yếu kém trong giáo dục.
Đại hội XI của Đảng (2011) xác định: "Phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng

chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hố và hội nhập quốc tế, trong
đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo,
coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành,
khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định
chất lượng giáo dục-đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo
dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội". Đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam theo Đại hội XI tập
trung thực hiện tốt những quan điểm chỉ đạo chủ yếu sau: Thứ nhất, phát triển
giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, là quốc
sách hàng đầu. Do vậy, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, huy động cả
hệ thống chính trị, phát huy đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân chăm lo


22

phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo; Thứ hai, đổi mới giáo dục, đào tạo phải
nhằm mục tiêu xây dựng nền giáo dục có tính dân tộc, hiện đại, quán triệt
nguyên lý học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, kết hợp chặt chẽ
giữa nhà trường với gia đình và xã hội; đáp ứng nhu cầu nhân lực phát triển
đất nước, nhất là nhân lực chất lượng cao, góp phần xây dựng xã hội học tập,
tạo cơ hội bình đẳng để mọi người dân đều có thể đi học và học tập suốt đời;
Thứ ba, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển; đa dạng hóa các nguồn lực
đầu tư cho giáo dục, đào tạo; ưu tiên ngân sách nhà nước dành cho phát triển
giáo dục, đào tạo ở vùng khó khăn, cho giáo dục phổ cập và đào tạo nhân lực
chất lượng cao. Phát triển giáo dục, đào tạo phải gắn với phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh, với tiến bộ khoa học - công nghệ và
hội nhập quốc tế; Thứ tư, mở rộng hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo phải
trên cơ sở giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, giữ vững độc lập, chủ quyền,
định hướng xã hội chủ nghĩa. Khuyến khích các cơ sở giáo dục, đào tạo trong
nước hợp tác với các đối tác nước ngoài trong đào tạo nhân lực và nghiên cứu

khoa học, chuyển giao cơng nghệ, nâng cao trình độ chun mơn của đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo.
3. So sánh sự giống và khác nhau của đường lối phát triển giáo dục Việt
Nam trước và sau đổi mới
Nền giáo dục Việt Nam trước và sau đổi mới ln có sự phát triển khơng
ngừng cùng với sự phát triển của cách mạng, dân tộc và đất nước. Nền giáo
dục đã qua 3 lần cải cách (1950, 1956, 1979) và đã thu được nhiều thành tựu
to lớn, đã xây dựng được một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hồn
chỉnh thống nhất, đa dạng; qui mơ giáo dục tăng nhanh, bước đầu đáp ứng
nhu cầu học tập của nhân dân; công bằng xã hội trong giáo dục cơ sở về cơ
bản được đảm bảo; công tác xã hội hoá giáo dục đã đem lại kết quả bước đầu,
các lực lượng xã hội tham gia ngày càng tích cực vào việc huy động trẻ đến


23

trường, xây dựng cơ sở vật chất của trường học, đóng góp kinh phí cho giáo
dục dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhận thức của nhân dân về sự nghiệp
giáo dục có những chuyển biến tích cực. Các cấp uỷ đảng, chính quyền đồn
thể đã quan tâm hơn đến sự nghiệp giáo dục, nhận thức về ý nghĩa của việc
kết hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội không ngừng được nâng
cao; các điều kiện bảo đảm phát triển giáo dục được cải thiện đáng kể.
* Sự giống nhau của đường lối phát triển giáo dục Việt Nam trước và
sau đổi mới
Nền giáo dục Việt Nam trước và sau đổi mới đều tuân theo những qui
luật khách quan; nhất quán trong thực hiện mục tiêu nguyên lý, tính chất của
nền giáo dục, đều hướng tới mục tiêu xây dựng nhân cách con người Việt
Nam phát triển toàn diện nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài góp phần đặc biệt quan trọng vào thực hiện thắng lợi đường lối chính
trị, kinh tế, quân sự, công cuộc kháng chiến kiến quốc của Đảng, đánh bại

mọi kẻ thù xâm lược, đưa đất nước ta về một mối, hồ bình, thống nhất và
phát triển; thực hiện cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước theo con đường chủ nghĩa xã hội.
* Sự khác nhau về đường lối phát triển giáo dục ở Việt Nam trước và
sau đổi mới
Đường lối phát triển giáo dục ở Việt Nam trước và sau đổi mới cũng có
những nét khác nhau tương đối. Giáo dục nói chung phát triển ngày càng phong
phú, đa dạng; sự khác nhau đó được thể hiện ở một số nội dung sau
đây:
Nội dung

Giáo dục Việt Nam

Giáo dục Việt Nam

so sánh

trước 1986
Nền giáo dục của dân, do dân,

Sau năm 1986
Nền giáo dục xã hội chủ nghĩa,

Tính chất vì dân. Nền giáo dục xã hội Nâng cao dân trí, đào tạo nhân


24

của nền


chủ nghĩa (từ sau đại thắng lực, bồi dưỡng nhân tài cho sự

giáo dục

mùa xuân 1975, cả nước thống nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hố,
nhất).
hiện đại hố đất nước.
Đào tạo con người phát triển Đào tạo nguồn nhân lực người

Mục đích
giáo dục

tồn diện, đào tạo nguồn nhân phát triển toàn diện đáp ứng thời
lực người đáp ứng thời kỳ chiến kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố
tranh và xây dựng đất nước

đất nước và xây dựng chủ nghĩa

xã hội.
Đối tượng giáo dục trong giai Không ngăn cách độ tuổi đi học,
đoạn này thường nói đến giáo dục suốt đời được đặt ra.
những người ở lứa tuổi học Phẩm chất con người là hệ thống
đường, một bộ phận những hoá những giá trị trong những
Đối tượng
giáo dục

con người trong xã hội cắp mối liên hệ giữa con người với:
sách tới trường.

Bản thân, người khác, cơng việc,

mơi sinh, lí tưởng của dân tộc…
Tiêu chuẩn để được đánh giá
thoát nạn mù chữ cũng đặt ra yêu
cầu cao hơn so với giai đoạn

trước đó.
Hệ thống Nền giáo dục Quốc dân chỉ Tồn bộ hệ thống nhà trường, cả
nhà trường nói đến hệ thống các nhà giáo dục cộng đồng chứ không
trường từ tiểu đến đại học, chỉ trong nhà trường.
tồn bộ chi phí cho các hoạt Hệ thống giáo dục được xây
động của nhà trường đều được dựng tổng thể từ vĩ mô đến vi
bao cấp của Nhà nước, người mơ, kinh phí các hoạt động của
học được miễn phí.

nhà trường được kết hợp huy

Trong giai đoạn chiến tranh động các nguồn vốn trong xã hội,
chống xâm lược, hệ thống nhà trong và ngoài nước. Liên kết đào


25

trường chưa được phát triển, tạo, học hỏi các mô hình giáo dục
nhất là ở vùng chưa được giải của các nước có nền giáo dục
phóng.

phát triển.
Hệ thống nhà trường phát triển
nhiều loại hình đáp ứng yêu cầu
nâng cao dân trí, đào tạo nhân

lực, bồi dưỡng nhân tài cho sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại

hố đất nước.
Chỉ coi trọng mơi trường nhà Là xã hội, gia đình và nhà trường
trường tác động đến việc hình mà hạt nhân là nhà trường để
thành và phát triển nhân cách hình thành và phát triển nhân
Mơi

con người, phạm vi chỉ bó hẹp cách. Đặt con người trong mối

trường

trong giáo dục và đào tạo của quan hệ tương tác giữa con người

giáo dục

nhà trường.

với con người, con người với các
hiện tượng, hoàn cảnh xã hội
rộng lớn. Đặc biệt là sự tác động

mạnh mẽ của thơng tin.
Trình độ giáo viên giỏi một Địi hỏi người giáo viên phải toàn
chuyên ngành, một lĩnh vực diện giỏi chun ngành giảng
giảng dạy. Số lượng ít, chất dạy, thơng thạo các chuyên ngành
Đội ngũ
giáo viên


lượng hạn chế, đời sống sinh gần và phải hiểu biết ngoại ngữ
hoạt của đội ngũ nhà giáo cịn và tin học.
nhiều khó khăn gian khổ

Số lượng tăng rất nhanh, chất
lượng đảm bảo tốt hơn, đời sống
sinh hoạt của đội ngũ nhà giáo

được cải thiện.
Chất lượng Chỉ coi trọng bảo đảm tính Có sự sáng tạo và thích ứng cao


×