Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾXÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG VÀO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI NGHĨA ĐI LÊN CHỦ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.64 KB, 29 trang )

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN
MƠN: TRIẾT HỌC

Chủ đề: HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG VÀO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Số phách

Người chấm

(Do Phòng SĐH

(Ký, ghi rõ họ tên)

Điểm
Bằng số

Bằng chữ

ghi)

.................................................................................................................................................
......

Số phách
(Do Phòng SĐH ghi)


Họ và tên:
Ngày sinh:
Lớp:
Chuyên ngành:
Ngày thực hiện:

GIÁO DỤC HỌC

24/10/ 2021


2
MỞ ĐẦU
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về học thuyết hình thái kinh tế xã hội là
một bộ phận quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời lần đầu tiên đã luận
giải một cách khách quan, khoa học quá trình hình thành, phát triển và sự thay thế
lẫn nhau giữa các chế độ kinh tế-xã hội trong lịch sử loài người bằng thế giới quan
duy vật và phương pháp luận tư duy biện chứng. Học thuyết Mác-Lênin về hình
thái kinh tế-xã hội là hệ thống những quan điểm toàn diện, sâu sắc về tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, là cơ sở lý luận, nền tảng xuất phát, hình thành các
tư duy khoa học của các Đảng Cộng sản trên con đường xác lập mục tiêu, phương
hướng, con đường, biện pháp quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội. Đối với cách mạng
Việt Nam, học thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế-xã hội là kim chỉ nam định
hướng cho Đảng và nhân dân ta tiếp tục đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, ngày nay với sự
xuất hiện của những điều kiện khách quan mới về tình hình kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội đặc biệt là sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu,
các thế lực phản động, các học giả tư sản và những kẻ đội lốt “tâm huyết với chế
độ dân chủ ở Việt Nam” đang ngày đêm ca ngợi chủ nghĩa tư bản, ra sức tập trung

chống phá, xuyên tạc, phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác
nói chung và học thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế-xã hội nói riêng bằng
nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, thâm độc, nham hiểu.
Đối với nước ta, đi lên từ một nền kinh tế tiểu nơng, muốn thốt khỏi nghèo
nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của nước phát triển thì tất yếu cần
phải tiến hành sự nghiệp đổi mới để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Sự
nghiệp đó là một q trình đầy khó khăn và phức tạp đòi hỏi chúng ta phải phát
huy cao độ tính năng động chủ quan trong nhận thức và hành động trên cơ sở tôn


3
trọng khách quan. Tuyệt đối tránh việc cường điệu vai trò chủ quan mà bất chấp
khách quan sẽ rơi vào căn bệnh chủ quan duy ý chí. Thực tiễn sự sụp đổ của Liên
Xô và hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào cuối những năm 80 của thế
kỷ XX đã giúp chúng ta nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới một
cách toàn diện và sâu sắc cả về nhận thức và hành động. Trải qua sau 25 năm đổi
mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình và khoa học của Đảng
Cộng sản Việt Nam cho thấy chúng ta đã thu được nhiều thành tựu có ý nghĩa và
giá trị lịch sử to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, nước ta đang đứng
trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức
tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi chúng ta “trong quá trình đổi mới phải kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã
hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây
dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng” 1 đồng thời phải đập
tan những luận điểm phản động đưa cách mạng nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn hiện nay là nhận thức

và làm sáng tỏ “Học thuyết hình thái kinh tế -xã hội và sự vận dụng của Đảng
vào quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” để qua đó để góp
phần tích cực trong việc đấu tranh, bảo vệ và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác và
củng cố niềm tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG, HN, 2006
tr.70.
1


4
PHẦN 1

HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
1.1. Phương pháp tiếp cận trước Mác và của chủ nghĩa Mác-Lênin về
lịch sử xã hội.
Trước khi triết học Mác ra đời, vấn đề lịch sử phát triển của xã hội loài
người đã được nhiều nhà triết học thuộc các trường phái triết học khác nhau như
Platôn, Hêghen, Phơ Bách,...giải thích nhưng do bị giới hạn bởi điều kiện kinh
tế, chính trị, xã hội, năng lực nhận thức và lập trường giai cấp nên các nhà triết
học trước Mác đều đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm khi giải thích về
đời sống xã hội. Họ khơng xuất phát từ những điều kiện vật chất hiện thực của
xã hội để giải thích lịch sử, động lực lịch sử, bản chất con người… mà lại đi từ
những quan điểm, tư tưởng, lý luận về chính trị, triết học, pháp luật để giải thích
tồn bộ lịch sử xã hội. Ngun nhân cơ bản là do các nhà triết học đã coi ý thức
xã hội là nhân tố có trước, sinh ra và quyết đinh tồn tại xã hội. Sự hạn chế của
các quan điểm duy tâm là không vạch ra được bản chất của các hiện tượng xã
hội, nguyên nhân vật chất của các hiện tượng ấy đồng thời cũng không luận giải
được các quy luật chi phối sự vận dộng, phát triển của xã hội, khơng thấy được

vai trị của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Cũng trong lịch tư tưởng nhân
loại đã có khơng ít cách tiếp cận khác khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã
hội. Xuất phát từ những nhận thức khác nhau, với những ý tưởng khác nhau mà
có sự phân chia lịch sử tiến hoá của xã hội theo những cách khác nhau. Trước
đây là các khái niệm thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng, thời đại cối xay gió, thời
đại máy hơi nước….và gần đây là các nền văn minh: văn minh nông nghiệp, văn
minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp.


5
Đối lập với các nhà triết học và tư tưởng trong lịch sử, Mác đi tiếp cận và
nghiên cứu xã hội lồi người từ chính những điều kiện vật chất hiện thực. Bằng
sự kế thừa có chọn lọc tất cả các thành quả nghiên cứu về xã hội của các nhà triết
học, bằng những cơng trình nghiên cứu tỷ mỉ về q trình lịch sử lồi người, nhất
là lịch sử xã hội tư bản, Mác đã lấy con người làm điểm xuất phát của mình. Con
người mà Mác nghiên cứu là con người hiện thực, phi trừu tượng, không biệt lập,
cố định mà luôn sống và hoạt động trước hết là hoạt động sản xuất, tái sản xuất
ra đời sống hiện thực của mình. Đó là con người cụ thể, là sản phẩm của sự
thống nhất hữu cơ giữa tự nhiên và xã hội. Từ việc nghiên cứu về con người Mác
nhận thấy hoạt động sản xuất vật chất của con người là một điều kiện cơ bản của
mọi xã hội, là hành động lịch sử mà hiện nay cũng như hàng trăm năm trước con
người phải tiến hành để duy trì cuộc sống. Trên cơ sở hoạt động sản xuất vật
chất, con người không ngừng hoạt động để sản xuất, tái sản xuất ra bản chất con
người, các quan hệ xã hội và năng lực tinh thần, trí tuệ. Ông đã làm nổi bật riêng
quan hệ sản xuất trong các quan hệ xã hội và xem đây là quan hệ cơ bản, ban đầu
quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác. Chính nhờ phương pháp tiếp cận đó
Mác đã giải thích đầy đủ và đúng đắn những quy luật vận động, phát triển của xã
hội lịch sử. Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch
sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã xây dựng nên học thuyết hình thái
kinh tế-xã hội

1.2. Nội dung học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội là nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng
giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó
phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Là biểu
hiện tập trung nhất của quan niệm duy vật về lịch sử, học thuyết hình thái kinh tế-


6
xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ sở xem xét và giải quyết các mối quan hệ
nội tại của một chế độ kinh tế-xã hội đó là mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng được biểu hiện trên toàn
bộ các yếu tố cấu trúc thành bộ mặt của thời đại: Chính trị , kinh tế, văn hoá , xã
hội , khoa học , kỹ thuật …..từ đó chỉ ra bản chất của quá trình phát triển của xã
hội lồi người. Hình thái kinh tế - xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời phát triển và
diệt vong. Đó là khi phương thức sản cũ đã nên lỗi thời, hoặc khủng hoảng do
mâu thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất q lớn khơng thể phù hợp
thì phương thức sản xuất này sẽ bị diệt vong và xuất hiện một phương thức sản
xuất mới hoàn thiện hơn. Mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa các yếu tố cơ
bản của hình thái kinh tế-xã hội được thể hiện chủ yếu trên hai quy luật đó là: quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất, quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa các cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng.
1.2.1. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất, là biểu hiện trình độ trinh phục tự nhiên của con người trong giai
đoạn lịch sử nhất định. Lực lượng sản xuất là một thể thống nhất hữu cơ giữa tư
liệu sản xuất với người lao động. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên, nói lên trình độ kỹ thuật - kinh tế của một hình thái kinh

tế-xã hội và là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại
kinh tế-kỹ thuật trong lịch sử. Đây là yếu tố xét đến cùng quyết định các yếu tố
khác và quyết định sự biến đổi của các hình thái kinh tế-xã hội.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất vật chất thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức
quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm. Trong quan hệ sản xuất quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất giữ vị trí quyết định các quan hệ khác. Quan hệ sản xuất do


7
con người tạo ra, song nó được hình thành một cách khách quan không phụ
thuộc vào yếu tố chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất mang tính ổn định
tương đối với bản chất xã hội và tính phương pháp đa dạng trong hình thức biểu
hiện. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các hình thái kinh
tế- xã hội, phân biệt bản chất của các chế độ xã hội trong lịch sử.
Mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất biểu hiện ở chỗ: Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi
phát triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và sự phát triển
của lực lượng sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Lực lượng sản xuất
phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện
địi hỏi khách quan, phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng quan hệ sản
xuất mới. Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất
(phù hợp) nhưng do mâu thuẫn của lực lượng sản xuất (động) với quan hệ sản
xuất (ổn định tương đối) quan hệ lại trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất (không phù hợp). Tuy nhiên quan hệ sản xuất cũng có
tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất thể hiện trong sự tác động trở lại
lực lượng sản xuất ở việc quy định mục đích xã hội của sản xuất, xu hướng phát
triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành những yếu tố tồn tại thúc đẩy và kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại đó bao giờ cũng
thơng qua các quy luật kinh tế - xã hội đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản .

Sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là sự
thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của sản xuất xã hội. Tác
động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là cơ sở
hình thành quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này trong xã hội là mâu giữa
các giai cấp đối kháng. Lịch sử đã chứng minh rằng do sự phát triển của lực
lượng sản xuất, loài người đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền với bốn


8
cuộc cách mạng xã hội, dẫn đến sự ra đời nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế
xã hội. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có thể hiểu là cả
ba mặt của quan hệ sản xuất phải thích ứng với tính chất trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Đây được coi như nguyên tắc của sự phát triển. Sự phù hợp
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là sự phù hợp biện chứng, bao hàm
cả phù hợp và không phù hợp, với xu hướng vận động từ phù hợp đến không phù
hợp rồi đến phù hợp, được chuyển hoá một cách liên tục trong xu thế phát triển.
Dấu hiệu của sự phù hợp ấy trên thực tế là năng suất, chất lượng sản xuất tăng,
thái độ người lao động tích cực hơn, mọi mặt của đời sống người lao động được
cải thiện.... Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống
nhất biện chứng không thể tách rời trong một phương thức sản xuất mà trong đó
lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất, còn quan hệ
sản xuất thì ln ln thể hiện tính độc lập tương đối, tác động trở lại lực lượng
sản xuất, lực lượng sản xuất luôn vận động phát triển, là nguyên nhân sâu xa của
mọi sự biến đổi xã hội.
1.2.2. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế
tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng, đó là những quan điểm tư
tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học và các thể
chế tương ứng như Nhà nước, Đảng phái, giáo hội và các đoàn thể quần chúng.

Kiến trúc thượng tầng là bộ mặt tinh thần của xã hội. Nó có tác động to lớn tới cả
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Kiến trúc thượng tầng được hình thành
trên tổng hợp tồn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một
chế độ xã hội nhất định người ta gọi đó là cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng bao gồm những quan hệ sản xuất đang giữ địa vị thống trị
nền kinh tế nhóm những quan hệ sản xuất tàn dư và những quan hệ sản xuất mới
là quan hệ mầm mống của xã hội. Bất kỳ một cơ sở hạ tầng nào cũng bao gồm


9
những thành phần kinh tế khác nhau, mỗi thành phần kinh tế này đều gắn liền
với một kiểu quan hệ sản xuất trong đó quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng
giữ vai trò chi phối các thành phần kinh tế khác. Trong xã hội có giai cấp đối
kháng, giai cấp nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, từ mâu thuẫn và xung đột kinh tế là cơ
sở hình thành giai cấp đối kháng trong kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của một xã hội luôn tác động qua lại
biện chứng với nhau. Trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và
kiến trúc thượng tầng tác động to lớn trở lại cơ sở hạ tầng sinh ra nó. Cơ sở hạ
tầng nào thì kiến trúc thượng tầng đó. Quan hệ sản xuất nào thống trị cũng sẽ tạo
ra kiến trúc thượng tầng tương ứng. Cơ sở hạ tầng thay đổi thì nhất định sớm hay
muộn sẽ dẫn đến sự thay đổi về kiến trúc thượng tầng. Q trình đó diễn ra ngay
trong những hình thái kinh tế xã hội cũng như khi chuyển tiếp từ hình thái này
sang hình thái kinh tế xã hội khác. Khi hạ tầng cũ bị xố bỏ thì kiến trúc thượng
tầng cũ cũng mất đi và thay thế vào đó là kiến trúc thượng tầng mới được hình
thành từng bước thích ứng với cơ sở hạ tầng mới. Thực tế cho thấy không phải
"khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì lập tức sẽ dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc
thượng tầng mà trong quá trình hình thành và phát triển của kiến thượng tầng
mới, nhiều yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại gắn liền với cơ sở
kinh tế đã nảy sinh ra nó. Tuy nhiên kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương
đối tác động trở lại cơ sở hạ tầng biểu hiện cụ thể là các bộ phận của kiến trúc

thượng tầng không phụ thuộc một chiều vào cơ sở hạ tầng mà trong quá trình
phát triển, chúng có tính độc lập tương đối trong q trình vận động phát triển và
tác động mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng. Trước tiên kiến trúc thượng tầng bao
giờ cũng có vai trị bảo vệ củng cố cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Ngồi ra sự tác
động trở lại được thể hiện ở chỗ kiến trúc thượng tầng quy định phương hướng,
hình thức tốc độ vận động phát triển của cơ sở hạ tầng. Nó tác động theo 2 chiều
hướng. Nếu kiến trúc thượng tầng phản ánh đúng các quy luật khách quan về


10
kinh tế- xã hội thì nó thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở hạ tầng phát
triển; bằng khơng nó sẽ kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng, gây nên các trở
lực cho quá trình sản xuất xã hội. Vai trị tác động của các bộ phận trong kiến
trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng là khơng ngang bằng nhau. Trong đó vai trị
của bộ phận chính trị, pháp quyền (nhà nước) trong kiến trúc thượng tầng là quan
trọng nhất. Ngồi ra, tính độc lập tương đối của kiến trúc thượng tầng còn biểu
hiện là ngay bản thân giữa các bộ phận trong kiến trúc thượng tầng cũng thường
xuyên có mối quan hệ tác động qua lại một cách biện chứng lẫn nhau. Trong điều
kiện ngày nay vai trò của kiến trúc thượng tầng không giảm đi mà ngược lại tăng
lên và tác động mạnh đến tiến trình lịch sử. Bản chất mối quan hệ giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng chính là mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong
đó kinh tế đóng vai trị quyết định cịn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế
và có tác dụng mạnh mẽ trở lại kinh tế. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
cần tránh khuynh hướng quá thổi phồng hoặc hạ thấp vai trò của kiến trúc
thượng tầng, nếu tuyệt đối hố vai trị của kiến thượng tầng thì sẽ rơi vào tả
khuynh cịn ngược lại sẽ rơi vào hữu khuynh
1.2.3. Sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử
tự nhiên.
Từ chỗ xác định các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế-xã hội, luận giải
mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố đó theo các quy luật khách quan, đồng

thời trên cơ sở thực tiễn xã hội lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã xem xét
và khẳng định sự vận động của xã hội là một q trình biến đổi và phát triển
khơng ngừng. C. Mác đã viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tếxã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Tiến trình phát triển của lịch sử xã hội là quá trình phát triển biện chứng
vừa bao hàm sự phát triển đứt đoạn và liên tục. Con người tạo ra lịch sử, tạo ra
những quan hệ xã hội của mình, đó là xã hội. Nhưng xã hội luôn vận động theo


11
quy luật khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Trong quá trình sản xuất, con người có những quan hệ với nhau, đó chính là
quan hệ sản xuất. Những quan hệ sản xuất đó do trình độ của lực lượng sản xuất
quy định. Đến lượt nó quan hệ sản xuất lại quy định các quan hệ xã hội khác
như: chính trị, luật pháp, đạo đức… Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một
mức độ nào đó thì những thay đổi về chất mâu thuẫn gay gắt với những quan hệ
sản xuất có, dẫn đến đòi hỏi khách quan là thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng
quan hệ sản xuất mới thông qua cuộc cách mạng xã hội. Quan hệ sản xuất thay
đổi thì toàn bộ các quan hệ sản xuất khác cũng thay đổi. Như vậy, phương thức
sản xuất thay đổi, các quan hệ xã hội, chính trị, tinh thần thay đổi dẫn đến sự
thay đổi của hình thái kinh tế – xã hội. Chính vì thế, V.I.Lênin viết: “Chỉ có đem
quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan
hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có thể có
được những cơ sơ vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã
hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên.”
Quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử được chia ra thành những bậc
thang lịch sử khác nhau, ứng với một trình độ kinh tế, kỹ thuật nhất định trong
từng phương thức sản xuất nhất định. Mỗi hình thái kinh tế-xã hội được coi như
một cơ thể xã hội của các bậc thang phát triển theo những quy luật vốn có của
nó, những quy luật riêng về sự ra đời hoạt động và chuyển hố lên hình thức cao
hơn; thành một cơ thể xã hội khác. Sự thay thế kế tiếp nhau của các hình thái

kinh tế- xã hội từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ đến xã hội chiếm hữu nô lệ, đến
xã hội phong kiến, rồi đến xã hội tư bản chủ nghĩa,...là q trình tiến hố bao
hàm những bước nhảy vọt tạo nên sự phát triển cho lịch sử loài người. Thực tiễn
đã cho thấy, loài người đã, đang và sẽ trải qua 5 hình thái kinh tế – xã hội theo
thứ tự từ thấp đến cao. Với sự nghiên cứu các quy luật của sự phát triển xã hội
nói chung và chủ nghĩa tư bản nói riêng, C. Mác đã đi đến nhận định khoa học là


12
sẽ xuất hiện một hình thái kinh tế- xã hội mới hình thái kinh tế-xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Đó chính là q trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử, thể hiện tính
liên tục của lịch sử.
Trong lịch sử nhân loại thì xã hội lồi người đã trải qua một số hình thái
kinh tế- xã hội nhất định. Nhưng do điều kiện về lịch sử, không gian và thời gian
nên không phải quốc gia nào cũng phải trải qua đầy đủ tất cả các hình thái kinh
tế- xã hội có tính tuần tự từ thấp đến cao theo sơ đồ chung. Đối với mỗi nước cụ
thể, do những điều kiện khách quan và chủ quan riêng thì một nước nào đó, một
dân tộc nào đó có thể “ bỏ qua” những chế độ xã hội nhất định. Sự khác nhau về
trật tự phát triển ở phạm vi toàn nhân loại vẫn là quá trình lịch sử – tự nhiên, còn
đối với từng quốc gia, dân tộc cụ thể bỏ qua những “ nấc thang ” nhất định.
V.I.Lênin viết: “ …tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử tồn thế
giới đã khơng loại trừ mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang
những đặc điểm hoặc về hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó”. Thực
tế trong lịch sử đã có khơng ít quốc gia với những điều kiện lịch sử nhất định đã
bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế-xã hội trong quá trình phát triển trong khi
đa số các quốc gia khác vẫn phát triển tuần tự qua các hình thái kinh tế-xã hội.
Từ đó Mác đã nêu lên những tư tưởng về khả năng “phát triển rút ngắn” và
V.I.Lênin đã nêu lên khả năng “không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa” để tiến lên chủ nghĩa xã hội đối với nước lạc hậu. Ông chỉ ra những
điều kiện cho phép các nước lạc hậu, tư bản có thể bỏ qua giai đoạn phát triển tư

bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, đó là: Phương thức sản xuất định
bỏ qua đã đã trở lên lỗi thời, phương thức sản xuất mới đã trở thành hiện thực
giai cấp cách mạng và lực lượng xã hội tiên tiến có đủ khả năng lãnh đạo cuộc
chuyển biến cách mạng tiến lên phương thức sản xuất cao hơn.
Như vậy quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội loài người bao
hàm cả con đường phát triển tuần tự và “bỏ qua” trong những điều kiện lịch sử


13
nhất định một hoặc vài hình thái kinh tế-xã hội. Theo quan điểm biện chứng duy
vật thì tất cả các con đường phát triển cụ thể của mỗi nước đều là cách riêng mà
trong đó bao hàm những quy luật chung, những q trình có tính phổ biến của sự
phát triển xã hội. Các quy luật phổ biến ấy vẫn giữ vai trò chi phối con đường
phát triển riêng của mỗi quốc gia. Tất cả các yếu tố của kết cấu hình thái kinh tếxã hội tạo thành một cơ cấu hồn chỉnh ln vận động thơng qua sự tác động
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng. Hạt nhân của sự vận động, phát triển của các hình thái
kinh tế -xã hội suy đến cùng là sự phát triển năng động của lực lượng sản xuất.
Nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩ Mác cho ta phương
pháp biện chứng trong xem xét, hoạch định, xác lập hình thái kinh tế- xã hội của
đất nước một cách khoa học nhất.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của
chủ nghĩa Mác-Lênin
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội.
Sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã đưa lại cho khoa học xã hội một
phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học. Học thuyết Mác về hình thái kinh tếxã hội ra đời là một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội.
Nó đã làm sáng tỏ, khoa học động lực của lịch sử khơng phải do một lực lượng
thần bí nào mà chính hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các
quy luật khách quan. Đó là: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội,
phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho nên, không
thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để giải thích

các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất.
Nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển xã hội là mối quan hệ biện
chứng giữa các yếu tố cấu thành của một hình thái kinh tế-xã hội và các mối
quan hệ khác trong quá trình phát triển xã hội. Nó cũng là cơng cụ lý luận giúp


14
chúng ta nhận thức những quy luật phổ biến đang tác động và chi phối sự vận
động của xã hội. Trang bị cho chúng ta phương pháp khoa học để nghiên cứu xã
hội và chỉ đạo thực tiễn ở tầm vĩ mô và vi mô. Giúp chúng ta một cái nhìn biện
chứng về sự phát triển liên tục của các hình thái kinh tế – xã hội, của các giá trị
văn hố, khoa học , kĩ thuật và của chính bản thân thế hệ con người. Từ đó giúp
chúng ta khơng nóng vội chủ quan, khơng đốt cháy giai đoạn, biết kế thừa những
thành tựu chung của văn minh nhân loại. Đồng thời là cơ sở lý luận của việc
hoạch định các đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản. là cơ sở lý luận cho
việc triển khai đường lối, chính sách ở tầm quốc gia và mỗi địa phương nhằm
thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Xã hội khơng phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá
nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau. Điều đó cho thấy, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội,
phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn
nhau giữa chúng. Đặc biệt phải đi sâu phân tích về quan hệ sản xuất thì mới có
thể hiểu một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Chính quan hệ sản xuất cũng là
tiêu chuẩn khách quan để phân kỳ lịch sử một cách đúng đắn, khoa học. Sự phát
triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức diễn
ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên,
muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận
động phát triển của xã hội. Kể từ khi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của
Mác ra đời cho đến nay, lồi người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về
mọi mặt, nhưng học thuyết đó vẫn nguyên giá trị. Nó vẫn là phương pháp thực

sự khoa học để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống xã hội.
Gần đây, trước những thành tựu kỳ diệu của khoa học và công nghệ, có
những quan điểm đi đến phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và địi
phải thay thế bằng cách tiếp cận văn minh. Cách tiếp cận này phân chia lịch sử


15
phát triển nhân loại thành văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn
minh hậu công nghiệp (hay văn minh tin học, văn minh trí tuệ). Thực chất đây là
phân chia dựa vào các trình độ phát triển kinh tế, dựa vào trình độ khoa học và
cơng nghệ. Rõ ràng, cách tiếp cận này không thể thay thế được học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội, nó khơng vạch ra mối quan hệ giữa các mặt trong đời sống
xã hội và các quy luật vận động, phát triển của xã hội từ thấp đến cao.


16

PHẦN 2
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI
KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG VÀO QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
Lịch sử vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, thực tiễn phát triển
của thế giới suốt thế kỷ XX, cũng như thập niên đầu thế kỷ XXI đã chứng minh
rằng, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một
tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế vận động tiến bộ của thời đại và điều
kiện lịch sử - cụ thể của Việt Nam. Đồng thời đó cũng là khát vọng của nhân dân
ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử… Đây là một quá trình cách
mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự
biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải

qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội đan xen. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ trong lịch
sử xã hội lồi người giữa hình thái kinh tế - xã hội cũ và hình thái kinh tế-xã hội
mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một thời kỳ quá độ. Lịch sử phát triển của xã
hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã
hội. Song, khơng phải hình thái kinh tế-xã hội này kết thúc hồn tồn rồi hình
thái kinh tế-xã hội tiếp sau mới ra đời. Giữa hình thái kinh tế-xã hội cũ bị thay
thế và hình thái kinh tế-xã hội mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một giai đoạn
chuyển tiếp, một thời kì quá độ. Xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa với giai
đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội, một chế độ xã hội mới hoàn toàn về chất so với các
chế độ xã hội trước đó lại càng địi hỏi phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài,
đầy khó khăn, thử thách, khó tránh khỏi những va vấp, đổ vỡ tạm thời. Mặt khác,


17
học thuyết Mác - Lê-nin chứng minh rằng, do đặc điểm lịch sử - cụ thể về không
gian và thời gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngồi
và bên trong chi phối, khơng phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các
hình thái kinh tế-xã hội từ thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung. Mà có
những nước có thể bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế-xã hội nào đó trong tiến
trình phát triển của mình. Sự bỏ qua này đã và đang diễn ra trong lịch sử. Thực
tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy việc bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hồn tồn phù hợp. Lịch sử
đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước ta cũng đã làm
sáng rõ rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất để nước ta thốt
khỏi ách đơ hộ của thực dân đế quốc, để thực hiện thành cơng cách mạng giải
phóng dân tộc. Ngày nay, sự tác động của những điều kiện khách quan bên ngoài
và bên trong càng tạo ra những tiềm năng mới để nước ta để quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều kiện bên ngoài là sự phát triển
như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm cho lực lượng sản

xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới của q
trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều
kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh
nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Điều kiện bên trong là nước ta đã giành được độc lập dân tộc, có chính
quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, đặc
biệt là những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của 25 năm đổi mới, đất
nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, sự nghiệp đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thu được nhiều thành quả to lớn, quan hệ quốc
tế ngày càng được mở rộng, vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực
và trên thế giới. Đây là điều kiện tiên quyết, quyết định con đường quá độ lên


18
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ phương
diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế
kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng, xây dựng đất nước
ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại,
với đặc điểm lịch sử - cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng
của nhân dân ta.
Nhận thức đúng thực tiễn tình hình cách mạng Việt Nam và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, ngay sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945 và
đại thắng mùa xuân 1975, Đảng ta đã khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội không tách rời nhau. Từ kết quả của những thành tựu của cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân đã tạo tiền đề vật chất và tinh thần để Việt Nam chuyển vào
chặng đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trước năm 1986, Đảng ta
mắc phải một số khuyết điểm: do chủ quan duy ý chí, nóng vội, vi phạm quy luật

khách quan, đánh giá không đúng xuất phát điểm kinh tế-xã hội Việt Nam khi
bước vào giai đoạn đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa; thiếu tri thức về quy
luật phát triển kinh tế-xã hội; chậm tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận; mắc
bệnh giáo điều khi học tập kinh nghiệm của nước ngồi. Đặc biệt là, tính q độ
và các bước trung gian trong quá trình chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân sang cách mạng xã hội chủ nghĩa đã không được tôn trọng đầy đủ.
Có lúc, Đảng nhận thức chưa thật đúng về việc “bỏ qua” chế độ tư bản chủ
nghĩa, coi đó như loại trừ tức khắc mọi yếu tố của chủ nghĩa tư bản. Chẳng hạn
như việc để cho mơ hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp tồn tại dài
khơng phù hợp, tuyệt đối hố sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể nên đã khơng kích
thích được sản xuất phát triển, làm phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trì trệ khác về
mặt xã hội. Điển hình như trong lĩnh vực kinh tế ta đã quan niệm chủ nghĩa tư


19
bản có kinh tế hàng hố, cịn chủ nghĩa xã hội khơng chỉ có kinh tế hiện vật; chủ
nghĩa tư bản có quy luật giá trị cịn chủ nghĩa xã hội có quy luật giá trị tàn dư;…
Do đó, nhiều nhân tố hữu ích của chủ nghĩa tư bản đã không được kế thừa, phát
huy để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Công cuộc đổi mới được Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ 1986
nhằm khắc phục những sai lầm phiến diện, siêu hình, cực đoan và để nhận thức
đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình
thức và bước đi thích hợp. Nhiều vấn đề về con đường, cách thức xây dựng hình
thái kinh tế- xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta dần dần được làm rõ. Tính tất
yếu nội dung, bản chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được trình bày
trong các văn kiện đại hội Đảng và trong các Cương lĩnh của Đảng. Đây là vấn
đề lớn và đầy phức tạp cả trong lý luận và thực tiễn. Song nhận thức ấy là một
q trình phát triển khơng ngừng từ thấp đến cao, từ chưa đầy đủ, hoàn thiện đến
đầy đủ và hồn thiện. Trong tiến trình đổi mới, trước tình hình phức tạp trong
nước và trên thế giới, Đảng ta đã nêu 6 quan điểm mang tính nguyên tắc trong

Hội nghị Trung ương 6 (khóa VI) năm 1989 và được phát triển qua các kỳ Đại
hội là: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu xây
dựng Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh; Kiên
định chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh- nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam và cách mạng Việt Nam; Kiên
định và không ngừng nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam; Giữ vững, xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Trên cơ sở vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, từ thực tiễn thành
công và thất bại của chủ nghĩa xã hội trên thế giới và nhất là từ thực tiễn những
năm đầu tiến hành đổi mới, tiếp thu chọn lọc tinh hoa nhân loại, Đại hội VII của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời


20
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã tổng kết hơn 60 năm quá trình
cách mạng Việt Nam, rút ra 5 bài học lớn, phân tích bối cảnh quốc tế trong nước;
phác hoạ ra mơ hình xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đồng thời đã
phác hoạ ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đại hội IX khẳng định “Con
đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa”2. Đại hội đã nêu ra những nội dung mới mà nổi bật là nội
dung quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” thực chất bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng vẫn tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa đặc biệt
là khoa học công nghệ, nhằm phát triển nhanh lực lượng sản xuất xây dựng nền
kinh tế hiện đại. Nước ta cần "tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ tư bản" bởi vì: Một là "bỏ qua" chế độ tư bản chủ nghĩa
nhưng nước ta vẫn phải tơn trọng q trình lịch sử - tự nhiên của sự chuyển biến

từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, đặc biệt,
phải tơn trọng q trình lịch sử tự nhiên của lực lượng sản xuất, của các nhân tố
kinh tế - kỹ thuật mà xét đến cùng là những nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại
và phát triển của chế độ mới; Hai là, từ một nước chậm phát triển, bằng "con
đường rút ngắn" đi lên chủ nghĩa xã hội, tất yếu nước ta phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài trong đó có sự xen kẽ "những mảnh của chủ nghĩa xã hội" với
"những mảnh của chủ nghĩa tư bản". Trạng thái xen kẽ ấy làm cho các yếu tố của
chủ nghĩa xã hội và các yếu tố của chủ nghĩa tư bản vừa đấu tranh với nhau, vừa
"chung sống hịa bình", vừa bài trừ, vừa nương tựa, thâm nhập vào nhau.
Ba là, nước ta "bỏ qua" chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không thể bỏ qua
q trình phát triển có tính quy luật t sn xut nh lờn sn xut ln m ch
2

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 84


21
nghĩa tư bản đã từng trải qua: sản xuất hàng hóa; tiến hành cách mạng kỹ thuật theo nhu cầu phát triển biện chứng của kỹ thuật trong hiệp tác giản đơn, cơng
trường thủ cơng, đại cơng nghiệp cơ khí - để chuyển lao động thủ công thành lao
động sử dụng máy móc; mở rộng giao lưu trong nước và giao lưu quốc tế, khắc
phục tâm lý sản xuất nhỏ và tư tưởng phong kiến; Bốn là, "bỏ qua" chế độ tư bản
chủ nghĩa nhưng phải kế thừa những thành tựu tiến bộ mà loài người tạo ra trong
chế độ chủ nghĩa tư bản. Sau khi "bỏ qua" phần lạc hậu của chủ nghĩa tư bản (địa
vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa),
chúng ta cần tiếp thu những thành tựu của chủ nghĩa tư bản và sử dụng chúng
vào mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. "Bỏ qua" chế độ tư bản chủ nghĩa,
nhưng đồng thời sử dụng những thành quả văn minh trong chủ nghĩa tư bản một
cách chủ động và tự giác, chọn lọc kỹ lưỡng trong điều kiện mới - điều kiện có
nhà nước xã hội chủ nghĩa và với chủ thể mới là nhân dân lao động.
Qua 20 năm đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên

chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Cho đến nay, Ðảng ta đã bước
đầu hình thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm cơ sở
khoa học cho đường lối của Ðảng, góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần
thứ X Đảng ta nhận định: “lý luận về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội đã hình thành trên những nét cơ bản” và đã bổ sung, phát
triển, làm cho mơ hình chủ nghĩa xã hội đang được xây dựng ở nước ta tồn diện
hơn, hồn chỉnh hơn đó là: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là
một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân
làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp


22
bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các
dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới".
Tổng kết thực tiễn sau 25 năm đổi mới, nhất quán tư duy trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã từng bước hồn thiện trong q trình
xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội XI đã tiến hành
tổng kết, bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991. Đại hội chỉ rõ: “Qua tổng kết
20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa lịch sử và
giá trị định hướng chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh đối với công cuộc đổi mới theo
con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta; đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn
đề mới đặt ra cần tiếp tục được giải đáp” và khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội
là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt

Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Đại
hội XI đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh đã điều chỉnh, chuẩn
hóa một số nội dung và cơ đọng hóa một số đặc trưng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng là xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội


23
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”3.
Những đặc trưng bao quát nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta
xây dựng được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội được Đại hội XI khẳng định: Một là,“dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là
những giá trị xã hội tốt đẹp nhất, ước mơ ngàn đời của loài người, cho nên cũng
là mục tiêu phấn đấu của chủ nghĩa xã hội. Đây là đặc trưng phổ qt, có tính
bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến
bộ hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ xã hội trước đó. Đảng
ta đã vạch ra phương hướng, chính sách cụ thể, có cơ sở lý luận - thực tiễn để
thực hiện trong hiện thực: “nước mạnh” gắn với “dân giàu”, “công bằng” và
“văn minh”, bảo đảm “dân chủ”; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; hoàn thiện nhà nước pháp
quyền với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; …. Hai là, Xã hội “do nhân dân làm
chủ”. “Nhân dân làm chủ xã hội” là đặc trưng quan trọng và quyết định nhất

trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Để có một xã hội do nhân
dân thực sự làm chủ, chúng ta phải nhanh chóng xây dựng và hồn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa để bảo đảm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”;
mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì
lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải là “công bộc” của nhân dân, hồn
thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tơn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ
nhân dân; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Ba là, “Có nền kinh
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.
70
3


24
bộ phù hợp”. Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
điều tiên quyết là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển. Bởi vì kinh tế là
lực lượng vật chất, nguồn sức mạnh nội tại của cơ thể xã hội, nó quyết định sự
vững vàng và phát triển của xã hội. Để thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa tiến bộ phù hợp, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, Đảng ta đã tập
trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trước
mắt là hồn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại để
có một nền kinh tế phát triển cao - điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững
xã hội xã hội chủ nghĩa. Bốn là, “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc”. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nguồn lực tinh thần bên
trong của phát triển xã hội, là tinh hoa con người và dân tộc, tinh hoa xã hội và
thời đại; là sức mạnh con người và dân tộc, sức mạnh xã hội và thời đại. Nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu của xã hội xã hội chủ
nghĩa, đồng thời là động lực thúc đẩy xã hội đó phát triển. Để xây dựng thành
cơng chủ nghĩa xã hội, cần kế thừa và phát huy những giá trị, tinh hoa văn hóa

tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
và văn hóa thời đại để phát triển văn hóa Việt Nam thực sự là nền văn hóa vừa
tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là
động lực và sức mạnh cho xã hội phát triển. Đảng đã chủ trương phát triển nền
văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc; thống nhất trong đa dạng, làm
phong phú diện mạo văn hóa Việt Nam. Năm là, “Con người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện”. Bản chất xã hội xã hội
chủ nghĩa, là hướng đến và tạo điều kiện tốt nhất để cong người phát triển toàn
diện. Xã hội xã hội chủ nghĩa chính là nơi: sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Phấn đấu đạt tới một xã
hội bảo đảm hạnh phúc cho con người là một xã hội văn hóa cao. Sáu là, “Các


25
dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ
nhau cùng phát triển”. “Bình đẳng” là một phẩm chất và giá trị nhân quyền thể
hiện trình độ phát triển và chất nhân văn cao của xã hội. Một đòi hỏi quan trọng
của xã hội chủ nghĩa là bảo đảm bình đẳng khơng chỉ cho cá nhân người cơng
dân, mà cịn ở cấp độ cho tất cả các cộng đồng, các dân tộc trong một quốc gia.
Mặt khác, “đồn kết” là sức mạnh - đó là một chân lý. “Bình đẳng” và “đồn
kết” chính là nền tảng của sự “tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Tơn trọng
và giúp nhau khơng chỉ là tình thương, lòng nhân đạo, mà thực sự là đòi hỏi, yêu
cầu, trách nhiệm và điều kiện thiết yếu cho sự phát triển của từng cá nhân, cộng
đồng, dân tộc; là một tiêu chuẩn quan trọng của xã hội phát triển. Đồn kết tồn
dân, tơn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc đã làm nên thành công của cách
mạng Việt Nam và hiện nay là những nét đặc sắc của giá trị xã hội xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Bảy là,“Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và điều hành đất nước và xã hội
bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân dân; vì vậy, là nhà nước của

nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân với nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức và
quản lý xã hội bằng hệ thống pháp luật đó và khơng ngừng tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo
thống nhất của Trung ương. Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt
động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đòi hỏi khách quan
để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa hiện nay. Xây dựng Nhà nước pháp


×