Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Trình bày toàn bộ thân thế và sự nghiệp của chủ tịch hồ chí minh học tập bác hồ SV phải làm gì và làm như thế nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.93 KB, 9 trang )

ĐẠI HỌC NGUYỄN TẤT THÀNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



MƠN:



TƯỞNG HỒ

CHÍ

MINH

BÀI THU HOẠCH
GV: ThS. BÙI CHÍ KIÊN

Tp. HCM Tháng 11/2021

Họ và tên : Nguyễn Mai Thắm
MSSV : 2000006207
Lớp: 20DYK2D
Môn : Tư tưởng Hồ Chí Minh


Để bài : Trình bày tồn bộ thân thế và sự nghiệp của Chủ Tịch Hồ Chí Minh.
Học tập Bác Hồ SV phải làm gì và làm như thế nào?

Bài làm:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc chân chính, nhà cách mạng sáng suốt, vị


lãnh tụ thiên tài. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người gắn liền với lịch sử vẻ
vang của dân tộc Việt Nam. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các
dân tộc vì hịa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Năm 1987, Tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã tơn vinh Hồ Chí Minh là
"Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam".
Giai đoạn từ năm 1890 đến năm 1911
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là Nguyễn Tất
Thành, khi hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn Ái Quốc). Người sinh ngày
19/05/1890, tại quê mẹ là làng Hoàng Trù (thường gọi là làng Trùa) huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An (nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Thân phụ là
Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là Hoàng Thị Loan. Người sinh ra trong một gia đình nhà
Nho yêu nước, ngay từ thuở nhỏ đã tiếp thu được truyền thống yêu nước, lòng nhân ái từ
gia đình và quê hương đất nước. Trong thời gian 10 năm sống ở Huế - trung tâm văn
hóa, chính trị của đất nước, Người tiếp xúc với nhiều sách báo Pháp, với nền văn hóa
mới và những bàn luận về các phong trào chống Pháp của các sĩ phu u nước.  
Sống trong hồn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, Người đã chứng
kiến sự đối lập giữa cuộc sống lao động nghèo khổ của nhân dân với cảnh sống xa hoa,
phè phỡn của bọn thực dân Pháp. Người đã thấy được những  cuộc biểu tình chống sưu
thuế của nơng dân bị đàn áp dã man và sự thất bại của các phong trào yêu nước. Theo
Người, muốn cứu nước phải tìm ra một con đường cách mạng mới. Có thể nói, tình u
q hương, đất nước và gia đình đã hình thành nên người thanh niên Nguyễn Tất Thành
một nhân cách giàu lòng u nước, có hồi bão cứu nước cứu dân và thấu hiểu được sức
mạnh của ý chí độc lập tự cường của dân tộc. Với một ý chí nghị lực phi thường, Người
đã quyết tâm tìm cách sang Pháp và các nước phương Tây, Người khẳng định: "Tôi
muốn ra nước ngoài xem, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như
thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta". Người cho rằng dân tộc Việt Nam đang là
một dân tộc mất quyền độc lập và nhiệm vụ của những người Việt Nam yêu nước là phải
đấu tranh giành lại quyền độc lập.
Giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1920

Để thực hiện hoài bão của mình, ngày 05/06/1911, Người lên con tàu Đơ đốc Latútsơ
Tơrêvin, từ bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) rời
Tổ quốc đi sang Pháp. Người vừa lao động để kiếm sống, vừa học tập, nghiên cứu các
học thuyết cách mạng. Khi trả lời phỏng vấn một nhà báo Nga, Người nói: "Khi tôi độ
mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái…Tơi rất
muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những
chữ ấy" (1). Khi được chứng kiến ở Pháp cũng có những người nghèo như ở Việt Nam,
Người nhận ra rằng những người Pháp trên đất Pháp tốt và lịch sự hơn những bọn thực


dân Pháp ở Đông Dương. Từ năm 1911 đến năm 1917, Người đã đến nhiều nước ở châu
Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ đã tận mắt thấy cuộc sống khổ cực của nhân dân và
những tội ác, thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân. Người cho rằng nhân dân lao động các
nước, trong đó có giai cấp cơng nhân, đều bị bóc lột có thể là bạn của nhau, còn chủ
nghĩa đế quốc, bọn thực dân ở đâu cũng là kẻ bóc lột, là kẻ thù của nhân dân lao động.
Năm 1917, Người tham gia phong trào công nhân Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực
dân.
Năm 1919, Người tham gia "Hội những người Việt Nam yêu nước" vào Đảng Xã hội
Pháp- đảng của giai cấp công nhân Pháp, theo Người đây là tổ chức theo đuổi lý tưởng
cao quý của Đại Cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Người đã cùng với một số
nhà yêu nước Việt Nam thảo ra bản Yêu sách của nhân dân An Nam lấy tên Nguyễn Ái
Quốc gửi Hội nghị Vécxây đòi quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Đây là
tiếng nói chính nghĩa đầu tiên của đại biểu phong trào giải phóng dân tộc. Người khẳng
định các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức của bản thân mình, Người
viết: "Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trơng cậy vào mình, trơng cậy vào
lực lượng của bản thân mình" .
Tháng 7/1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin trên báo L'Humanité (Nhân Đạo). Khi đọc Luận
cương của Lênin, Người hiểu hơn về chủ nghĩa Lênin, Quốc tế Cộng sản, về cách mạng
vô sản, về phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, Người viết: "Luận cương của

Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến
phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần
chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta,
đây là con đường giải phóng chúng ta". Từ bản Luận cương của Lênin, Người đã tìm
thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vơ sản, trong đó có cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc
đến với chủ nghĩa Lênin, từ một người Việt Nam yêu nước trở thành người cộng sản Việt
Nam đầu tiên. Đây là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người, một sự chuyển biến về chất, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế vô sản, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1930
Cùng với những nhà hoạt động cách mạng của các thuộc địa Pháp, Người thành lập Hội
liên hiệp các dân tộc thuộc địa và xuất bản báo Người cùng khổ  (Le Paria) bằng tiếng
Pháp vào năm 1922. Trong bài Lời kêu gọi đăng ở số báo đầu tiên, Người cũng chỉ ra
mục đích của tờ báo là đấu tranh để giải phóng con người. Trong thời gian hoạt động ở
Quốc tế Cộng sản, Người chỉ ra tình cảnh của giai cấp công nhân, nông dân nghèo ở các
nước thuộc địa đang chết dần vì đói rét, bệnh tật và kêu gọi Quốc tế Cộng sản giúp đỡ
họ.
Năm 1925, Người đã viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, nhằm tố cáo tội ác của
chủ nghĩa thực dân Pháp, nêu rõ nỗi thống khổ và sức mạnh của nhân dân các nước
thuộc địa. Tại Quảng Châu, Nguời thành lập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí
hội  mở lớp huấn luyện, đào tạo trực tiếp cán bộ cho cách mạng Việt Nam, ra báo Thanh
niên bằng tiếng Việt. Đây là tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá


chủ nghĩa Mác- Lênin và lý luận cách mạng cho những người yêu nước. Các bài giảng
của Người tại lớp huấn luyện được tập hợp in thành cuốn Đường Cách mệnh (1927) đề
cập nhiều nội dung, nhiều vấn đề trong đường lối và phương pháp cách mạng Việt Nam.
Đây là một trong những văn kiện lý luận đầu tiên của Đảng, đặt cơ sở tư tưởng cho
đường lối cách mạng Việt Nam sau này. Ngồi ra, Người cịn viết rất nhiều tác phẩm và

nhiều bài trên báo Việt Nam độc lập, với nội dung ca ngợi truyền thống yêu nước, tinh
thần đoàn kết, quật cường của dân tộc, kêu gọi các tầng lớp nhân dân tham gia vào các
hội, đoàn thể cứu quốc, kêu gọi các đảng cộng sản ở chính quốc phải giúp đỡ phong trào
giải phóng ở thuộc địa. Thơng qua báo chí và các hoạt động thực tiễn, Người tích cực
truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam; Người đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục, khơi dậy tinh thần dân tộc, hướng
dẫn xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang góp phần tạo ra một cao trào cứu
nước mạnh mẽ để đón thời cơ, tiến tới tổng khởi nghĩa giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và được lãnh đạo
bởi một tổ chức chính trị, Người khẳng định: "Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo
mới chắc chắn thắng lợi"(4). Người chỉ rõ cách mạng Việt Nam phải có đảng lãnh đạo, có
chủ nghĩa Mác-Lênin làm nịng cốt. Năm 1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ
chức cộng sản, thành lập ra một Đảng Cộng sản thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Nguyễn
Ái Quốc dự thảo, các văn kiện này trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Bản
Cương lĩnh chính trị thể hiện rõ sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin
trong việc giải quyết mối quan hệ giai cấp-dân tộc- quốc tế về đường lối cách mạng Việt
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, đưa
nhân dân Việt Nam bước vào cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do cùng các dân tộc bị áp bức,
đấu tranh giải phóng dân tộc, xóa bỏ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần
giải phóng lồi người khỏi bóc lột và bất cơng. Người đã hồn thành sứ mệnh lịch sử, trở
thành Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đúng đắn đã
chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối, phương pháp và tổ chức lãnh đạo cách mạng
Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1945
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu cho một thời kỳ mới trong lịch sử
của dân tộc. Tuy Đảng vừa mới ra đời nhưng đã trực tiếp lãnh đạo cao trào cách mạng
1930-1931, đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Người kêu gọi một số tổ chức quốc tế, các
đảng anh em có những hình thức phối hợp đấu tranh nhằm động viên, giúp đỡ phong trào

về vật chất và tinh thần. Bên cạnh đó, Người cịn thẳng thắn góp ý phê bình Đảng cịn
kém đường bí mật cơng tác, nhắc nhở Đảng phải tìm cách bảo vệ cán bộ, khơng để kẻ
thù tìm cách bắt giữ hết cán bộ của ta. Người không chỉ kêu gọi sự giúp đỡ phong trào
mà còn ngăn chặn sự đàn áp đẫm máu của bọn đế quốc, nhờ đó mà Ban Chấp hành Quốc
tế Cộng sản đã ca ngợi cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng, đồng thời đánh giá cao công lao to lớn của Người.
Tháng 10/1930, Hội nghị Trung ương Đảng đã họp và ra nghị quyết: Hội nghị hiệp nhất
Đảng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì là phạm sai lầm, chỉ lo đến việc phản đế mà quên lợi


ích giai cấp đấu tranh, việc phân chia thành trung, tiểu, đại địa chủ trong sách lược của
Đảng là không đúng nên Hội nghị đã bỏ tên "Đảng Cộng sản Việt Nam" mà lấy tên là
"Đảng Cộng sản Đông Dương" hoạt động theo như chỉ thị của Quốc tế Cộng sản. Bên
cạnh đó, Đại hội I của Đảng Cộng sản Đơng Dương ở Ma Cao vẫn cử đồng chí Nguyễn
Ái Quốc là đại biểu chính thức của Đảng đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản. Điều đó
chứng tỏ quan điểm và uy tín của Người trong Đảng vẫn rất lớn.
Tháng 10/1934, Người được vào học Trường Quốc tế Lênin, Người học đầy đủ các môn
lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và những phương pháp học tự nghiên cứu kết
hợp với thực tế. Cuối năm 1936, Người trúng tuyển vào lớp nghiên cứu sinh, ngành lịch
sử của Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Năm 1937, Người dự kỳ thi học
kỳ I của lớp nghiên cứu sinh đạt kết quả tất cả các môn học. Do chiến tranh ngày một ác
liệt, Người không thể n tâm ngồi học mà nóng lịng muốn trở về nước hoạt động. Năm
1938, Người đã gửi thư cho Quốc tế Cộng sản bày tỏ nguyện vọng được về nước.
Trước khi về nước, trong thời gian khi còn hoạt động ở nước ngoài, dù đã từng bị tù đầy
trong lao tù đế quốc vượt qua bao khó khăn gian khổ nhưng Người vẫn kiên định thực
hiện con đường đã chọn là giải phóng dân tộc. Người vẫn ln theo dõi tình hình trong
nước, kịp thời chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Được Quốc tế Cộng sản chấp thuận, vào
ngày 28-01-1941, Người trở về Việt Nam sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài.
Tháng 05/1941, Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp tại Pác Bó (Cao Bằng) dưới sự
chủ trì của Người. Hội nghị đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, Người

khẳng định: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải
đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sơi
lửa nóng". Để tập hợp đơng đảo các tầng lớp nhân dân, tranh thủ mọi lực lượng yêu nước
chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù. Hội nghị quyết định
thành lập "Việt Nam độc lập đồng minh", gọi tắt là Mặt trận Việt Minh vào ngày
19/05/1941. Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành
lập, là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 18/08/1945, Người viết thư kêu
gọi Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Người viết: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân
tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lật đổ chế độ phong kiến, lật đổ ách thống
trị của thực dân Pháp và giành lại độc lập dân tộc từ tay phát xít Nhật. Đây là thắng lợi to
lớn của dân tộc vừa là sự kế thừa truyền thống của cha ông ta trong lịch sử, vừa là sự tiếp
thu, vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự lãnh đạo tài tình của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử, khai sinh
ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: "Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hố
cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Bản tuyên ngôn khẳng định
quyền tự do, độc lập của các dân tộc và nói lên ý chí của tồn dân quyết đem tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy "Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn
thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ
vững quyền tự do và độc lập ấy". Bản Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá


trị to lớn, trong đó độc lập, tự do gắn với phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội
là tư tưởng chính trị cốt lõi vốn đã được Người phác thảo lần đầu trong Cương lĩnh của
Đảng năm 1930, nay đã trở thành hiện thực cách mạng đồng thời trở thành chân lý của
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới của dân tộc Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1969

Mới giành được chính quyền chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã quay lại xâm lược
Việt Nam. Quân Pháp núp sau quân đội Anh, đã nổ súng ở Nam Bộ. Ở miền Bắc thì hơn
20 vạn quân Tưởng kéo vào hòng thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng và nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Vận mệnh dân tộc lúc đó như "ngàn cân treo sợi tóc" trước tình thế
đó, Người đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm trở.
Người cùng Trung ương Đảng một mặt lãnh đạo đồng bào Nam Bộ kháng chiến, mặt
khác chăm lo xây dựng Đảng, củng cố chính quyền non trẻ, đầy lùi giặc đói, giặc dốt,
khắc phục nạn tài chính thiếu hụt. Về đối ngoại, Người vận dụng sách lược mềm dẻo,
khôn khéo, thêm bạn, bớt thù, "dĩ bất biến, ứng vạn biến", với những nhân nhượng cần
thiết để tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng đi vào cuộc kháng chiến lâu dài. Nhờ vậy
mà tháng 12-1946, chính quyền cách mạng trong cả nước được giữ vững với tư thế sẵn
sàng và lòng tin sắt đá vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ nhưng nhất định thắng
lợi. Người ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: "Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng
với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!". Người đề ra đường
lối kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh đồng thời Người lãnh đạo,
tổ chức, chỉ đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và kiên quyết chiến đấu bảo vệ tổ
quốc với ý chí "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ"
Năm 1951, Người cùng Trung ương Đảng quyết định triệu tập Đại hội toàn quốc lần thứ
II của Đảng, đưa Đảng ra công khai với tên là Đảng Lao động Việt Nam và bầu Người
làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng. Trong Thư gửi Đại hội trù bị, Người
viết: "Nhiệm vụ chính của Đại hội ta là đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây
dựng Đảng Lao động Việt Nam". Đại hội đã thông qua Cương lĩnh mới, Điều lệ mới của
Đảng đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai
cấp nhằm động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đẩy mạnh kháng chiến đưa đến
thắng lợi ở Điện Biên Phủ lịch sử (năm 1954) lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Người chỉ đạo, động viên cán bộ chiến sĩ trên mặt trận và truyền thêm sức mạnh, ý chí
quyết chiến quyết thắng, một niềm tin sắt đá để quân và dân ta vượt qua mọi khó khăn,
gian khổ giành thắng lợi. Trong Thư gửi Mặt trận Điện Biên Phủ, Người viết: "Thu Đông
năm nay, các chú lại có nhiệm vụ tiến quân vào Điện Biên Phủ để tiêu diệt thêm sinh lực

địch, mở rộng thêm căn cứ kháng chiến, giải phóng thêm đồng bào cịn bị giặc đè nén".
Tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc Việt Nam được giải phóng,
nhưng miền Nam vẫn bị đế quốc Mỹ xâm lược. Người cùng Trung ương Đảng lãnh đạo
nhân dân cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Năm 1960, Đại hội lần thứ III của Đảng, Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành
Trung ương Đảng và Người nêu ra hai nhiệm vụ chiến lược: "Xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc và đấu tranh hịa bình thống nhất nước nhà". Cả hai nhiệm vụ đều nhằm mục


tiêu chung là củng cố hịa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân
chủ. Người còn nêu rõ miền Bắc là hậu phương lớn, có vai trị quyết định đối với cách
mạng cả nước, miền Nam có vai trị quyết định trực tiếp đối với hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ ở miền Nam. Để đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, là hậu phương
lớn cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, Người nhấn mạnh trong Bài nói tại Hội
nghị cán bộ cơng đồn: "muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có người xã hội chủ
nghĩa". Con người mới xã hội chủ nghĩa là những người có đạo đức và tri thức, là những
người vừa "hồng" vừa "chuyên" và  có ý thức làm chủ, xây dựng nước nhà. Người lãnh
đạo nhân dân miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, đánh thắng chiến tranh phá hoại của
giặc Mỹ, đồng thời ra sức hoàn thành nhiệm vụ chi viện cho cách mạng miền Nam.
Người cũng luôn tin tưởng và khẳng định sự tất thắng của cách mạng miền Nam. Sau
Hiệp định Giơnevơ, Người nêu rõ: "Để giành lấy thắng lợi, toàn thể nhân dân, quân đội
và cán bộ ta từ Bắc đến Nam cần phải đoàn kết chặt chẽ, tư tưởng phải thống nhất, hành
động phải nhất trí"(15). Người cịn viết Thư gửi đồng bào cả nước vạch trần những âm
mưu trong nước và thế giới về những hành động sai trái của đế quốc Mỹ, Người khẳng
định: "Nước Việt Nam ta nhất định phải thống nhất. Đồng bào Nam và Bắc nhất định sẽ
sum họp một nhà". Đây là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ, địi hỏi tồn thể đồng
bào phải quyết tâm kháng chiến.
Năm 1965, trước thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ đã chuyển
sang chiến lược "chiến tranh cục bộ". Chúng dùng mọi thủ đoạn, mọi phương tiện hiện

đại đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng hải quân, không quân kể cả máy bay chiến lược
B.52. Trước những hành động leo thang xâm lược tàn bạo của đế quốc Mỹ, Người khẳng
định: "dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên
quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn" Người đã ra Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ
cả nước, Người nói: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn
nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân
Việt Nam quyết khơng sợ! Khơng có gì q hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân
dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!". Người khẳng định nhân
dân Việt Nam chẳng những khơng sợ mà cịn cịn quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, đồng bào và chiến sĩ từ hậu phương đến
tuyền tuyến đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với tinh thần dũng cảm
đã đoàn kết chiến đấu lần lượt đánh thắng mọi chiến lược của kẻ thù và giành được thắng
lợi vẻ vang nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
Ngày 02/09/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã qua đời, Người để lại cho nhân dân Việt
Nam bản Di chúc thiêng liêng. Di chúc là những lời căn dặn cuối cùng đầy tâm huyết,
nói lên tình sâu nghĩa nặng của Người với nước, với dân; nói lên niềm tin tất thắng ở sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước. Đề ra những phương sách lớn để xây dựng lại đất nước sau
chiến tranh nhằm thực hiện mục tiêu: "Xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng
thế giới". Di chúc là một văn kiện lịch sử vơ giá, kết tinh trong đó cả tinh hoa tư tưởng,
đạo đức và tâm hồn cao đẹp của Người đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và nhân
loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam – Thời
đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong suốt chặng đường hoạt động


cách mạng, Người đã vạch đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người luôn là tấm
gương sáng ngời cho chúng ta học tập và noi theo. Mỗi chúng ta cần cố gắng, nỗ lực hết
mình để chăm lo hạnh phúc của nhân dân, ra sức phấn đấu, rèn luyện, noi gương tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh để thực sự là những người cán bộ, đảng viên chân chính hết
lịng phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII khẳng định: "Tiếp
tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi
đó là cơng việc thường xun của các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị gắn
với chống suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ". Việc nghiên cứu, tuyên truyền, học tập tấm gương
Hồ Chí Minh góp phần thiết thực vào việc làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh trở thành một bộ phận cấu thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội Việt
Nam hiện đại.
Hội viên, sinh viên, và bản thân em cần chủ động, tích cực, thường xun tìm hiểu,
tun truyền tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực,
nói đi đơi với làm, góp phần nâng cao nhận thức và ý chí quyết tâm thực hành trong sinh
viên.
Kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phụ thuộc
nhiều vào sự nỗ lực của thanh niên, sinh viên, có tác động to lớn đến tương lai của cá
nhân và đất nước.
Mỗi khi thanh niên, sinh viên tích cực nêu cao trách nhiệm, trung thực, nói đi đơi với
làm, đồng thời tun truyền tinh thần đó cho xã hội, đặc biệt là đối với thiếu niên, nhi
đồng, càng có ý nghĩa lớn lao, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ
Dành thời gian thỏa đáng tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách và tấm gương Hồ Chí
Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đơi với làm.
Tự soi mình, sửa mình và rèn luyện, tạo được thói quen cho bản thân làm theo lời Bác
dạy.
Phấn đấu trở thành tấm gương sáng về nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính trung thực,
ln nói đi đơi với làm để cho người khác noi theo.
Tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên các cấp.
Phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạt danh hiệu "Sinh viên 5 tốt" với các tiêu chí: Đạo đức
tốt, Học tập tốt, Thể lực tốt, Tình nguyện tốt, Hội nhập tốt. Nói đi đơi với làm mà cịn
phải: Tích cực tun truyền, làm cho nhiều xung quanh mình có nhận thức đúng đắn, đầy

đủ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích to lớn của tinh thần trách nhiệm, trung
thực, nói đi đôi với làm; chỉ rõ tác hại của những hành vi vơ trách nhiệm, sự giả dối, nói
một đàng làm một nẻo, hoặc "nói thì hay mà làm thì dở" đối với bản thân, gia đình và xã
hội.
Chú ý phát hiện, tuyên dương, nhân rộng các gương điển hình thanh niên, sinh viên hoặc
các cơ sở Đồn, Hội có những ý tưởng, sáng kiến, cách làm hiệu quả trong thực hành


theo tư tưởng, tấm gương của Bác về tinh thần trách nhiệm, trung thực nói đi đơi với
làm.
Phải dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Sẵn sàng nhận nhiệm vụ và có trách
nhiệm với nhiệm vụ của mình, nỗ lực hết sức mình để hồn thành nhiệm vụ, khơng tránh
né, đùn đẩy nhiệm vụ qua cho hồn cảnh hay người khác. Sẵn sàng nhận lỗi và gánh chịu
hậu quả xấu đến với mình khi mình khơng hồn thành nhiệm vụ, khơng đổ thừa cho hồn
cảnh hay người khác. Tôn trọng chân lý, yêu cái đúng, ghét cái sai, tôn trọng sự thật, lẽ
phải. Sống ngay thẳng, thật thà, dũng cảm nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm. Phải tự
giác phấn đấu, rèn luyện đạo đức, tự phê bình, phê bình, cầu thị, sửa chữa khuyết điểm,
khắc phục những mặt hạn chế, tiêu cực, phát huy ưu điểm và mặt tích cực.



×