Tải bản đầy đủ (.docx) (342 trang)

Nội luật hóa quy định của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 342 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRỊNH DUY THUN

NỘI LUẬT HĨA QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC
VỀ CHỐNG TRA TẤN ĐỐI VỚI LẤY LỜI KHAI, HỎI CUNG BỊ
CAN TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

TP. HỔ CHÍ MINH NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRỊNH DUY THUN

NỘI LUẬT HĨA QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC
VỀ CHỐNG TRA TẤN ĐỐI VỚI LẤY LỜI KHAI, HỎI CUNG BỊ
CAN TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 9.38.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA


TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
thông tin nêu trong luận án là trung thực. Các trích dẫn trong luận án đều
được chú thích đầy đủ và chính xác. Các kết quả nghiên cứu luận án
chưa được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác

Tác giả luận án

Trịnh Duy Thuyên


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1. BLTTHS:
2. BLHS :
3. CAT :
4.
5.
6.
7.

CTOC :
CQĐT :
CHLB :
ĐTV :


8. ĐƯQT:
9. HCBC :
10. KSV :
11. LLK :
12. PACE :
13. VAHS
14. VKSND :

:

Bộ luật tố tụng hình
sự. Bộ luật hình sự.
Cơng ước Chống tra tấn và các hình thức trừng phạt
hay đối xử tàn ác, vơ nhân đạo hoặc hạ nhục con
người 1984.
Công ước chống tội phạm có tổ chức xun
quốc gia. Cơ quan điều tra.
Cộng hịa liên
bang Điều Tra
viên.
Điều ước quốc
tế. Hỏi cung bị
can. Kiểm sát
viên.
Lấy lời khai.
Luật Cảnh sát và chứng cứ hình sự 1984.

Vụ án hình sự
Viện kiểm sát nhân dân.



MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................................01
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN…........................06
Chương 1: Lý luận về nội luật hóa quy định của Công ước Liên hợp quốc
về chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam....................................................................................................23
1.1 Khái niệm, đặc điểm của tra tấn................................................................23
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của tra tấn trong các văn kiện quốc tế và
nghiên cứu nước ngoài.............................................................................................23
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm của tra tấn theo quan điểm các nhà nghiên cứu
Việt Nam................................................................................................................... 29
1.2 Khái niệm, đặc điểm của lấy lời khai, hỏi cung bị can...............................33
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm lấy lời khai.................................................................33
1.2.2 Khái niệm, đặc điểm hỏi cung bị can..........................................................35
1.3 Khái niệm, nguyên tắc và ý nghĩa nội luật hóa quy định của Cơng
ước Liên hợp quốc về chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung
bị can
trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam………………………………….….

38

1.3.1 Khái niệm nội luật hóa quy định của Công ước Liên hợp quốc về
chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố
tụng hình sự
Việt Nam................................................................................................................... 38
1.3.2 Ngun tắc nội luật hóa quy định của Công ước Liên hợp quốc về
chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố
tụng hình sự

Việt Nam................................................................................................................... 43
1.3.3 Ý nghĩa nội luật hóa quy định của Cơng ước Liên hợp quốc về chống
tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam44
Chương 2: Đánh giá quy định về lấy lời khai, hỏi cung bị can trong
Bộ tố tụng hình sự Việt Nam so với quy định của Công ước Liên hợp quốc
về chống tra tấn......................................................................................................47


2.1 Quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tra tấn về nghĩa vụ của
quốc gia thành viên phịng ngừa tra tấn có liên quan đến lấy lời khai,
hỏi cung bị can…....................................................................................................47
2.2 Những kết quả đạt được trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam về lấy lời khai, hỏi cung bị can so với Công ước Liên hợp quốc
về chống tra tấn......................................................................................................55
2.3 Những hạn chế trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về lấy
lời khai, hỏi cung bị can so với Công ước Liên Hợp quốc về Chống tra tấn..63
Chương 3: Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định phòng ngừa tra tấn
đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
so với
quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tra tấn…..................................74
3.1 Những kết quả đạt được trong thực tiễn phịng ngừa tra tấn của Bộ luật tố
tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở quy định của Công ước Liên
hợp quốc về chống tra tấn…..................................................................................74
3.2 Những hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định phòng ngừa tra tấn đối với
lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam trên
cơ sở quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tra tấn.............................79
3.2.1 Hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định phòng ngừa tra tấn đối với lấy lời
khai, hỏi cung bị can trong bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ
sở nghĩa vụ thứ nhất của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn.......................79
3.2.2. Hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định phòng ngừa tra tấn đối với lấy lời

khai, hỏi cung bị can trong bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ
sở quy định nghĩa vụ thứ ba của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn...........96
3.2.3. Hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định phòng ngừa tra tấn đối với lấy lời
khai, hỏi cung bị can trong bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ
sở nghĩa vụ thứ tư của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn..........................98


5.2.1. Kiế
3.2.4. Hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định phòng ngừa tra tấn đối với lấy lời
n
khai, hỏi cung bị can trong bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở nghĩa
ng
vụ thứ năm của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn......................
hị
3.2.5. Hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định phòng ngừa tra tấn đối với lấy lời
để
khai, hỏi cung bị can trong bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở nghĩa

bả

vụ thứ sáu của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn.......................

o

Chương 4: Kinh nghiệm lập pháp nước ngồi về nội luật hóa quy
định của Cơng ước Liên hợp quốc về chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi
cung

bị


can............................................................................................................
4.1

Cơ sở lựa chọn pháp luật tố tụng hình sự một số quốc gia đã tham

gia Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn để nghiên cứu học tập kinh
nghiệm.....
4.2 Kinh nghiệm nước ngoài trong việc nội luật hóa quy định Cơng ước Liên
4.2.1.Liên Bang Nga...................................................................................
Liên

bang

nghiệm

lập

pháp

cho

Việt

Nam

về

Anh
ngừa


tra

Chương 5 : Kiến nghị về nội luật hóa quy định của Cơng ước Liên
Hợp quốc về chống tra tấn đối với quy định lấy lời khai, hỏi cung bị can
trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam……………………………………….
5.1 Cơ sở kiến nghị nội luật hóa quy định của Cơng ước Liên Hợp
quốc về chống tra tấn đối với quy định về lấy lời khai, hỏi cung bị can
Bộ

luật

tố

tụng

c
hiệ
n
ng
vụ
thứ
ất,
ng

phòng

tấn..........................................................................................................................

trong


thự

nh

4.2.3.
Vương
quốc
...............................................................................
4.3 Kinh

m

hĩa

hợp quốc về chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can..........

4.2.2
.Cộng
Hịa
Đức...............................................................................

đả

hình

sự

Việt

Nam………………………………………………

5.2. Một số kiến nghị nội luật hóa quy định của Công ước liên hợp quốc về
chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam…………………………………….……………………

hĩa
vụ
thứ
ba,
ng
hĩa
vụ
thứ

m,
ng


hĩa vụ thứ sáu………….……………….…………….…….
99

100

103
103
104
104
112
116
120


123

123

126
126


5.2.2 Kiến nghị để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thứ
tư…………………….
KẾT
LUẬN...........................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

136
138


10
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 28/11/2014, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8 đã thơng qua Nghị
quyết số 83/2014/QH13 phê chuẩn Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn
và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp
nhân phẩm1 (Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn). Đây là một trong
những ĐƯQT đa phương quan trọng về quyền con người, thể hiện ý chí của
nhân loại u chuộng hịa bình, mong muốn sớm loại bỏ các hành vi tra tấn,
đối xử tàn bạo, vô nhân đạo ra khỏi đời sống xã hội. Sự kiện này, có ý nghĩa
quan trọng đối với hoạt động bảo vệ nhân quyền, thể hiện chính sách nhân

đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Qua đó, góp phần triển khai, thi hành
có hiệu quả Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền con người, quyền công
dân. Đồng thời đây là bước đi cụ thể trong quá trình chủ động hội nhập quốc
tế, khẳng định Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm với cộng
đồng quốc tế.
Khoản 1, Điều 2 Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn quy định
“mỗi quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp cụ thể về lập pháp,
hành pháp, tư pháp hoặc các biện pháp hiệu quả khác nhằm phòng ngừa mọi
hành vi tra tấn trên bất cứ khu vực lãnh thổ nào thuộc quyền tài phán của
mình.”2 Căn cứ vào tình hình thực tế, Việt Nam nội luật hố các quy định của
Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn vào hệ thống pháp luật quốc gia
(trong đó có BLTTHS), để tổ chức triển khai thực hiện, phòng ngừa tra tấn,
đặc biệt là khi tiến hành các hoạt động tố tụng như: bắt, tạm giữ, ghi lời khai,
hỏi cung, giam giữ...
Thực tiễn cho thấy, tra tấn có khả năng xảy ra trong mơi trường khép
kín, giữa một bên là đại diện quyền lực cơ quan nhà nước cần thu thập
thông tin với một bên đang bị nghi ngờ đã thực hiện hành vi phạm tội. Do
đó, LLK, HCBC ở giai đoạn điều tra, là những hoạt động có khả năng xảy ra
tra tấn, khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ.
Đánh giá các quy định của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối
với quy định LLK, HCBC trong BLTTHS năm 2015. Tác giả

1

Vào ngày 07/11/2013, Việt Nam đã ký Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn và các hình
thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vơ nhân đạo hoặc hạ nhục nhân phẩm. Sau khi được Quốc hội
phê chuẩn, ngày 05/2/2015, Việt Nam nộp văn kiện phê chuẩn cho Tổng thư ký Liên Hợp quốc và
chính thức trở là thành viên của Công ước này.
2
Article 2, Convention against Torture “1. Each State Party shall take effective legislative,

administrative, judicial or other measures to prevent acts of torture in any territory under its


11
jurisdiction”.


nhận thấy, bên cạnh những điểm tương đồng, thì vẫn còn một số điểm hạn
chế chưa phù hợp để phòng ngừa tra tấn.
Thứ nhất, BLTTHS năm 2015 chưa ghi nhận triệt để vấn đề ghi âm, ghi
hình có âm thanh khi tiến hành LLK người bị bắt, bị tạm giữ. Riêng đối với
người người bị tố giác, kiến nghị khởi tố cịn thiếu những quy định về trình tự,
thủ tục. Thực tế cho thấy, tra tấn xảy ra nhiều, ở giai đoạn trước khi khởi tố vụ
án. Bởi vì, thời điểm này cơ quan chức năng chưa đủ điều kiện, thời gian để
thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh. Nhưng với tâm lý mong muốn khám
phá nhanh vụ án, thì tra tấn nhằm thu thập thơng tin, buộc người bị nghi thực
hiện tội phạm là có thể. Do đó, khi đã thiếu hành lang pháp lý cụ thể, tra tấn
sẽ tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Thứ hai, Điều 1 của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn quy
định tra tấn bao gồm: tra tấn thể chất và tra tấn tinh thần, nhưng các quy định
của BLTTHS năm 2015 chỉ mới tập trung phòng ngừa tra tấn thể chất là chủ
yếu và thiếu quy định cụ thể về phòng ngừa tra tấn tinh thần như: BLTTHS
vẫn có những khoảng trống khi cho phép tiến hành HCBC vào ban đêm,3
chưa quy định cụ thể về thời gian, tần suất tiến hành LLK, HCBC trong một
ngày hoặc thiếu các quy định về việc người bị nghi thực hiện tội phạm từ chối
khai báo khi câu hỏi của người có thẩm quyền khơng liên quan đến vụ án...
Ngồi ra, quy định về HCBC trong BLTTHS Việt Nam năm 2015 chưa nghiêm
cấm hành vi đe dọa bị can hoặc đe dọa gây thiệt hại cho người thân thích của
bị can (người thứ ba) nhằm buộc phải khai nhận tội hoặc thu thập các thông
tin theo quy định tại Điều 1 của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn, là

những điểm còn chưa phù hợp với quy định của Công ước.
Thứ ba, khi HCBC phải ghi âm, ghi hình có âm thanh nhưng thực tế
cho đến nay vẫn chưa áp dụng đầy đủ, đồng bộ. Thông tư liên tịch số
03/2018/TTLT-BCA- VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01/02/2018 của Bộ
Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Quốc
phịng hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm, ghi hình có âm
thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm, ghi hình có âm thanh
trong q tình điều tra, truy tố, xét xử quy định “trong quá trình hỏi cung bị
can hoặc lấy lời khai có thể tạm dừng ghi âm, ghi hình có âm

3

Khoản 3 Điều 183 BLTTHS năm 2015.


thanh bằng cách nhấn nút tạm dừng.”4 Tuy nhiên, nội dung này cịn thiếu
tính chặt chẽ, bởi vì tra tấn có thể xảy ra trong q trình bấm nút tạm dừng.
Thứ tư, trong thực tiễn, người bào chữa tham gia tố tụng hình sự cịn
khá muộn, khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng LLK, HCBC. Nhiều
trường hợp được tham gia LLK, HCBC thì đó là lúc nhận tội. Do đó, trong
buổi LLK, HCBC người bào chữa có vai trò mờ nhạt và giống như người
chứng kiến cho lời nhận tội. Như vậy, tuy có quy định khi tiến hành LLK,
HCBC người bào chữa được tham gia, được đặt câu hỏi 5 nhưng chưa có
cơ chế bảo đảm thực hiện một cách tốt nhất.
Trên đây là một số vấn đề còn hạn chế trong quy định của BLTTHS
năm 2015 về LLK và HCBC so với quy định của Công ước Liên Hợp quốc
về chống tra tấn. Chính vì vậy, nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên
sâu về LLK, HCBC và đưa ra các giải pháp hoàn thiện để bảo đảm thực
hiện quy định của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn là một đòi hỏi
bức thiết trong quá trình bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay.

Với nhận thức và quan điểm nêu trên tác giả chọn đề tài “Nội luật hóa quy
định của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với lấy lời
khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam” để làm
Luận án Tiến sĩ luật học.
2. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý về nội
luật hố các quy định của Cơng ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với
LLK, HCBC trong BLTTHS năm 2015; kinh nghiệm nước ngoài. Luận án đề
xuất những giải pháp, hoàn thiện các quy định về LLK, HCBC trong
BLTTHS Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa tra tấn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận, pháp lý và
thực tiễn thực hiện nghĩa vụ của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn
tại Việt Nam đối với LLK, HCBC trong BLTTHS năm 2015.
Lý luận về nội luật hóa quy định Cơng ước Liên Hợp quốc về chống tra
tấn vào BLTTHS như: khái niệm, đặc điểm, cơ sở pháp lý của nội luật hóa.

4

Điểm b, khoản 2, Điều 5 Thông tư liên tịch số 03/2018 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng ngày 01/02/2018 hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực
hiện ghi âm, ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm, ghi hình có âm thanh
trong q tình điều tra, truy tố, xét xử
5
Khoản 1, điểm b, Điều 73 BLTTHS năm 2015.


Nghiên cứu những vấn đề lý luận về LLK, HCBC của các Cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trong BLTTHS năm 2015.
Đánh giá tương đồng và khác biệt giữa quy định của Công ước Liên

Hợp quốc về chống tra tấn với quy định về LLK, HCBC trong BLTTHS năm
2015.
Nghiên cứu thực trạng những bất cập, hạn chế có thể dẫn đến tra tấn
đối với quy định LLK, HCBC khi thực hiện Công ước Liên Hợp quốc về chống
tra tấn,.
Nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia đã thực hiện nội luật hóa
Cơng ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với quy định về LLK, HCBC
trong BLTTHS.
Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện quy định LLK, HCBC trong BLTTHS
năm 2015 để phòng ngừa tra tấn.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Luận án nghiên cứu nghĩa vụ lập pháp của Việt
Nam sau khi phê chuẩn Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với
quy định về LLK, HCBC trong BLTTHS năm 2015 để phòng ngừa tra tấn;
khảo sát thực tiễn áp dụng quy định của BLTTHS năm 2003 và BLTTHS
năm 20015 về LLK, HCBC6 về phòng ngừa tra tấn; tham khảo kinh nghiệm
nội luật hóa đối với LLK, HCBC của một số quốc gia đã phê chuẩn Công
ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn như: Liên Bang Nga, CHLB Đức,
Vương quốc Anh.
Phạm vi chủ thể: Luận án nghiên cứu quá trình LLK, HCBC được
thực hiện bởi lực lượng Công an xã, phường, thị trấn; Cơ quan Cảnh sát
điều tra các cấp trong lực lượng Công an nhân dân.
LLK: luận án nghiên cứu q trình LLK đối với những đối tượng có
thể bị tra tấn như: người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tố giác, kiến nghị
khởi tố.
HCBC: luận án nghiên cứu quá trình hỏi cung đối với bị
can. Phạm vi khơng gian: tồn quốc.
Phạm vi thời gian: từ năm 2010 đến năm 2020.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án
Đây là Luận án tiến sĩ đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách có

hệ thống và chun sâu về nội luật hóa quy định Cơng ước Liên Hợp quốc
về chống tra tấn đối với LLK, HCBC trong BLTTHS Việt Nam.
6

BLTTHS năm 2015 vừa mới được áp dụng trong thực tiễn từ ngày 01/01/2018, có những sửa đổi, bổ sung
đối với quy định LLK, HCBC nhưng cơ bản vẫn trên nền tảng của BLTTHS năm 2003 và khơng có nhiều
khác biệt. Do đó, những hạn chế trong thực tiễn áp dụng BLTTHS năm 2003 chưa được BLTTHS năm 2015


sửa đổi, sẽ tiếp tục là hạn chế trong phòng ngừa tra tấn trong thời gian tới.


Kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần bổ sung cơ sở lý luận về
nội luật hóa các ĐƯQT mà Việt Nam đã ký kết nói chung và Cơng ước Liên
Hợp quốc về chống tra tấn nói riêng; làm rõ những điểm tương đồng, hạn
chế trong quy định về LLK, HCBC trong BLTTHS năm 2015 so với Công
ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn và thực tiễn thực hiện phịng ngừa tra
tấn tại Việt Nam. Từ đó có một góc nhìn tồn diện về phịng ngừa tra tấn và
là cơ sở để phát triển thêm các cơng trình nghiên cứu khoa học khác có liên
quan.
Những kiến nghị hồn thiện dựa trên các căn cứ khoa học sẽ là
nguồn tài liệu, là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền tiếp tục nghiên cứu, có
thể vận dụng khi hồn thiện BLTTHS Việt Nam. Đồng thời, là nguồn tài liệu
cho sinh viên, giảng viên luật học, các nhà khoa học trong quá trình giảng
dạy và để cho ĐTV, cán bộ điều tra, KSV, kiểm tra viên nhận thức được tầm
quan trọng của phòng ngừa tra tấn bảo đảm quyền con người trong hoạt
động tố tụng hình sự.


TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1 Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi
Qua tìm hiểu trên thế giới, hiện nay có nhiều cơng trình nghiên cứu
liên quan đến đề tài Luận án như: thực hiện ĐƯQT của quốc gia; bình luận
chung về tra tấn, quyền con người; phòng ngừa tra tấn và bảo đảm quyền
con người của một số quốc gia khi tham gia Công ước Liên Hợp quốc về
chống tra tấn... Các tài liệu này có thể được chia thành các nhóm vấn đề
sau:

Thứ nhất, cơng trình nghiên cứu về thực hiện ĐƯQT của quốc
gia thành viên
Trên thế giới, có hai trường phái giải quyết về mối quan hệ giữa ĐƯQT
và hệ thống pháp luật quốc gia. Trường phái nhất nguyên luận (monism) cho
rằng ĐƯQT và luật pháp quốc gia là hai mặt thống nhất của hệ thống luật
pháp, khi đã ký kết hoặc tham gia ĐƯQT thì có thể áp dụng trực tiếp quy
định của ĐƯQT trong nội bộ quốc gia. Trong khi đó, trường phái nhị nguyên
luận (dualism) cho rằng luật pháp quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ
thống pháp luật tách biệt. ĐƯQT có hiệu lực thi hành trong phạm vi quốc gia
sau khi đã được “chuyển hóa” hay nội luật hố một cách thích hợp bằng văn
bản pháp luật. Tuy nhiên, có một số quốc gia kết hợp cả hai quan điểm nhất
nguyên luận và nhị nguyên luận cho vấn đề thực hiện ĐƯQT tại quốc gia của
mình.
Trong cơng trình nghiên cứu “The incorporation of public international
law into municipal law and regional law against the background of the
dichotomy between monism and dualism”7 (tạm dịch, kết hợp luật quốc tế
vào luật quốc gia và luật khu vực trên nền tảng thuyết nhất nguyên luận và
nhị nguyên luận), (2014) của tác giả G Ferreira & A Ferreira-Snyman. Các
tác giả đã bàn luận về lý thuyết Nhất nguyên luận và Nhị nguyên luận và
cho rằng các học thuyết này đại diện cho hai cách tiếp cận khác nhau đối
với mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Theo cách

tiếp cận Nhất nguyên luận, pháp luật quốc tế được thực thi trước Tịa án
quốc gia mà khơng cần đưa vào pháp luật quốc gia. Trái lại, cách tiếp cận
Nhị nguyên luận lại cho rằng pháp luật quốc tế phải được chính thức đưa
vào pháp luật quốc gia khi Tòa án quốc gia thực hiện. Tuy nhiên, không
phải tất cả hệ thống pháp luật điều rõ ràng theo nhất nguyên luận hoặc nhị
nguyên luận. Sự tách biệt giữa nhất nguyên luận và nhị ngun luận là
khơng cịn phù hợp để chỉ mối quan hệ giữa pháp luật


7

Xem />

quốc tế và pháp luật quốc gia. Bên cạnh đó, cơng trình thảo luận việc tiếp
cận nhất ngun luận và nhị nguyên luận của Tòa án Hiến pháp Nam Phi
trong vụ “Glenister” và Tịa án Cơng lý Châu âu trong vụ “Hungary” để minh
họa cho áp dụng thực tế giữa nhất nguyên luận và nhị nguyên luận trong hệ
thống pháp luật quốc gia và trên cấp độ khu vực.
Cơng trình “The relationship between international law and national
law in the case of Kosovo: A constitutional perspective”8 (tạm dịch, mối liên
hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia trong trường hợp của Kosovo: quan
điểm hiến pháp), (2011) tác giả Visar Morina, Fisnik Korenica, Dren Doli.
Cơng trình đề cập đến mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật
quốc gia ở Kosovo. Đồng thời, dùng Hiến pháp để trả lời các câu hỏi về mối
quan hệ giữa ĐƯQT và trật tự pháp lý trong nước ở Kosovo; mối quan hệ
giữa pháp luật tập quán quốc tế và trật tự pháp lý trong nước ở Kosovo; mối
quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia trong lĩnh vực nhân
quyền. Tác giả bài viết cũng cho rằng, căn cứ vào quy định Hiến pháp,
Kosovo đi theo thuyết nhất nguyên luận cho mối quan hệ giữa pháp luật
quốc tế và pháp luật quốc gia, đồng thời thừa nhận tính áp dụng ĐƯQT vào

pháp luật trong nước.

Thứ hai, cơng trình nghiên cứu bình luận về tra tấn; hình thức
tra tấn
trong thực tiễn
“The United Nations Convention Against Torture,”9(tạm dịch, Công
ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn), (2008) tác giả Manfred Nowak,
Elizabeth McArthur. Đây được xem là nguồn tài liệu đầy đủ nhất, được
nghiên cứu, biên soạn bởi những tác giả là nhà nghiên cứu nổi tiếng về vấn
đề nhân quyền. GS. Manfred Nowak (người được Chủ tịch Ủy ban nhân
quyền Liên Hợp quốc chỉ định là báo cáo viên đặc biệt về chống tra tấn) đã
giải thích về Tra tấn tại Điều 1 của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra
tấn như sau: “Tra tấn được hiểu là bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn
hoặc khổ đau nghiêm trọng về thể chất hay tinh thần cho một người, vì
những mục đích như lấy thơng tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một
người thứ ba, hoặc để trừng phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay
người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện”. Tác giả đã đi vào
phân tích “Tra tấn” không chỉ là các hành vi đánh đập về thể chất như: sốc
điện vào các bộ phận sinh dục, rút móng tay… mà
8

International Journal of Constitutional Law, Oxford Academic, Volume 9, Issue 1, 1 January 2011,


P. 1-4
9
Manferd Nowak, Elizabeth McArthur (2008), “The United Natrions Convention Against Torture”,
Oxford University Press.



cịn có các hành vi tra tấn về tinh thần: bỏ đói, uy hiếp về tinh thần, thẩm
vấn xuyên đêm kéo dài, tra tấn tình dục… làm cho nạn nhân đau khổ và lâm
vào tình trạng khủng hoảng tinh thần, tuyệt vọng. Việc cấm tra tấn về thể
chất và tinh thần được bảo đảm theo các điều khoản mạnh nhất theo luật
quốc tế. Nó được bảo vệ như một quyền tuyệt đối, không được phương hại
đến ngay cả trong thời chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp. Bên cạnh đó,
tác giả cịn đi vào phân tích khi tham gia Cơng ước Liên Hợp quốc về chống
tra tấn, quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ phịng ngừa các hành vi tra tấn
bằng nhiều hình thức như: hình sự hóa hành vi tra tấn, có các biện pháp
bảo vệ trong giai đoạn điều tra sơ bộ, đào tạo nhân viên thực thi cơng vụ;
q trình thẩm vấn tù nhân; các quyền khiếu nại của phạm nhân khi bị tra
tấn, quyền được bồi thường thiệt hại khi phát hiện tra tấn…Đặc biệt, trong
cơng trình nghiên cứu, tác giả cịn nêu lên các trình tự, thủ tục, hoạt động
giám sát của Ủy ban chống tra tấn; phân biệt giữa tra tấn và đối xử vô nhân
đạo hay hạ nhục, tàn nhẫn và nguyên tắc không chấp nhận bằng chứng do
bị tra tấn. Đây là một trong những nội dung quan trọng để tác giả có thể
nhận diện được thế nào là tra tấn nhằm xây dựng hệ thống cơ sở lý luận tại
chương
1. Ngồi ra, tồn văn của bài bình luận về Cơng ước Liên Hợp quốc về chống
tra tấn cũng cung cấp bối cảnh lịch sử và phân tích kỹ lưỡng về luật pháp
và thực tiễn từ các Tòa án quốc tế và khu vực và các cơ quan giám sát.
Các quy định pháp lý liên quan đến các Tòa án trong nước (như của House of Lord
trong vụ kiện của Pinochet) cũng như thảo luận về các quy định của các uỷ ban
chống tra tấn khi kiểm tra nhà tù. “The Torture Reporting Handbook”10 (tạm dịch, sổ
tay báo cáo tra tấn), (2000) của tác giả Camille Giffard. Đây là tài liệu ghi lại các cáo
buộc tra tấn và trả lời các cáo buộc tra tấn trong hệ thống quốc tế bảo vệ quyền con
người. Trong tài liệu này đưa ra cách hiểu về tra tấn (What’s Torture) theo quy định tại
Điều 1 của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn. Từ quy định của Điều 1 tài
liệu đã nêu ra ba vấn đề quan trọng của Tra tấn đó là: Tra tấn phải gây đau đớn về thể
chất hoặc tinh thần; được thực hiện bởi người của cơ quan nhà nước hoặc được sự

đồng ý của cấp trên; nhằm mục đích lấy thơng tin từ người bị tra tấn. Đồng thời cũng
đưa ra cách hiểu về đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người sẽ có mức
độ đau khổ ít nghiêm trọng (thấp hơn) so với tra tấn. Các hình thức đối xử được cho
là không phải tra tấn khi không được gây ra cho một mục đích cụ thể. Nhưng phải có
ý định đưa các cá nhân đến các điều kiện hoặc dẫn đến việc đối xử tệ. Cơng trình cũng
đi đến phân tích nạn nhân của tra tấn có thể là bất kỳ ai: đàn ông, đàn
10

Camille Giffard (2000), The Torture Reporting Handbook, Human Rights Centre, University of Essex.


bà, người già, trẻ em, tơn giáo, khơng có tơn giáo, trí thức hay nơng dân đều
có thể là nạn nhân của tra tấn và thường tập trung là những người có liên
quan đến vấn đề chính trị (bất đồng quan điểm chính trị) phản đối chính
quyền, hồi giáo, những người bị buộc tội đang đối mặt với hệ thống tư pháp
hình sự… Đồng thời đưa ra các bằng chứng cho rằng nạn nhân đã bị tra tấn
về thể chất (màu sắc da, vết bỏng, bầm tím của bất kỳ thương tích nào….)
hoặc tra tấn tinh thần. Tuy tra tấn tinh thần không để lại bất cứ dấu vết vật lý
nào nhưng sẽ để lại những ảnh hưởng tâm lý, tư tưởng sâu sắc cho nạn
nhân. Có thể xác định qua tư tưởng, hành vi, nỗi sợ hãi, các cơn ác mộng bị
đe dọa giết… Vấn đề này cần phải có một chuyên gia về tâm lý để xác định
cụ thể.
“A History of Torture,”11 (tạm dịch, lịch sử của tra tấn), (2007), của tác
giả Jame Ross cung cấp thông tin về lịch sử về tra tấn và chống tra tấn của
nhân loại. Theo tác giả, Tra tấn đã có từ rất xưa, ngay cả trong lý luận và
thực tiễn. Mọi tình huống sử dụng tra tấn để gây đau đớn (cả thể chất và
tinh thần) đối với người khác điều bị lên án. Tất cả các ý kiến về chống
hành vi tra tấn đều dựa trên cách tiếp cận từ vấn đề từ đạo đức và quyền
con người. Bên cạnh đó, tác giả đã chỉ ra rằng: mọi ý kiến chống đối tra tấn
dường như được tìm thấy trong các nội dung của văn bản pháp lý về quyền

con người. Điều này được ông kết luận sau khi nghiên cứu về cách thức sử
dụng tra tấn trong lịch sử tư pháp thế giới, bất cứ hình thức tra tấn nào cũng
phản ảnh bản chất đi ngược công lý, vô đạo đức và xâm phạm nhân quyền.
“The shape of modern Torture”12 (tạm dịch, hình thức của tra tấn hiện đại),
(2005), của tác giả John T.Parry. Đây là bình luận của tác giả qua xem xét
các cuộc tranh luận quốc tế hiện nay về “tra tấn” trong khuôn khổ quyền lực
của Nhà nước hiện đại. Mục tiêu của bình luận này là kết hợp hai cách suy
nghĩ về “tra tấn” và các hình thức “cưỡng bách điều tra và thẩm vấn có liên
quan”. Phân tích pháp lý về một số vấn đề liên quan đến tra tấn, đặc biệt
liên quan đến việc thực hiện diễn ra bất thường (sử dụng vũ lực, chứ khơng
phải là q trình pháp lý).
“Extraordinary renditions and the protection of human rights”13 (tạm dịch,
những đề xuất về bảo vệ quyền con người), (2010), của tác giả Manfred Nowak,
Roland Schmidt. Đây là kết quả của cuộc Hội thảo của viện nhân quyền Ludwig
Boltsmann tổ chức vào ngày 6,7 tháng 10 năm 2008. Trong đó nêu lên sau hậu quả
khủng bố ngày 11/9 tại Mỹ, chính quyền Bush cùng với đồng minh đã bắt cóc các đối
tượng bị tình nghi khủng bố mà không theo đúng thủ tục và đưa họ đến những nơi
bí mật giam giữ. Tại


11

Kenneth Roth and Minky worden,Amy D.Bernstein ,“A Human Rights Perspective”, (2007), P. 1-17.
Xem />13
Xem />12


đây, họ đã bị thẩm vấn tăng cường bằng nhiều biện pháp khác nhau. Đây
được gọi là những hành vi vi phạm nhân quyền trầm trọng nhất trong cái gọi
là “cuộc chiến chống khủng bố”. Các nghi phạm đã được vận chuyển trong

các máy bay riêng của CIA, không tuân thủ luật hàng không quốc tế và đưa
cho các đồng minh sẵn sàng tra tấn. “Does it Make Us Safer? Is it Ever Ok?
A Human Right Perspective”14, (tạm dịch, có thật sự làm cho chúng ta an
tồn, có bao giờ ổn chưa, quan điểm về nhân quyền), (2007), được biên tập
bởi Kenneth Roth và Minky Worden hợp tác xuất bản. Trong cuốn sách này
có 12 bài luận của các nhà tư tưởng hàng đầu và các chuyên gia về lịch sử
và các lục địa, cung cấp một thăm dò chi tiết của chủ đề tra tấn. Bao gồm
Reed Brody trên đường tới Abu Ghraib và “những người bị ma quỷ”; Eitan
Felner về kinh nghiệm của Israel; Tom Malinowski về vi phạm “cấm thực
hành” của Bộ Ngoại giao tại Abu Ghraib và ở Afghanistan; Kenneth Roth về
sự thay đổi của chính phủ Hoa Kỳ từ sự che đậy sang biện minh; Minky
Worden về một cuộc khảo sát toàn cầu về các quốc gia đang tra tấn… Tác
giả Roth cho rằng các hình thức ngược đãi thường là kênh để dẫn đến tra
tấn. Do đó, tra tấn phải được cấm trong mọi trường hợp, một số câu hỏi
chính bao gồm làm thế nào để xác định tra tấn, cho dù tra tấn có hiệu quả
hay khơng và liệu nó có thể chấp nhận được hay khơng.
Thứ ba, các cơng trình phịng ngừa tra tấn trong lĩnh vực tố tụng
hình sự của một số quốc gia
Phòng ngừa tra tấn là một trong những yêu cầu đặt ra của Công ước
Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với các quốc gia thành viên khi đã phê
chuẩn. Hình thức phịng ngừa bao gồm: quy trình cụ thể quá trình thẩm
vấn, quy trình bắt người bị nghi thực hiện tội phạm, tuyên truyền cho các
nhân viên thực thi pháp luật để phòng ngừa tra tấn… có thể nêu lên một số
cơng trình như: “A handbook for public officials”15, (tạm dịch, sổ tay cảnh
sát), (2008), của tác giả Wayne K.Lemieux. Đây là cẩm nang cung cấp
thông tin hướng dẫn pháp luật cho nhân viên thực thi pháp luật làm thế nào
để chấm dứt hành vi tra tấn trong cơng việc thường ngày của họ. Bên cạnh
đó còn nêu lên trách nhiệm bảo vệ quyền con người và sự tôn trọng đối với
cá nhân và nêu lên một số vụ việc cụ thể sử dụng quá mức, trái pháp luật
để tra tấn nhằm có một lời thú tội hoặc thông tin từ một nghi can trong

VAHS. “Police and criminal Evidence Act

14

Kenneth Roth, Minky Worden (2007), “Does it make Us Safer? Is it Ever Ok? A Human right
Perspective”,


New York.
15
Wayne K.Lemieux (2008), “A handbook for public officials”, United States of America.


×