Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận tình huống chuyên viên chính Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý của Sở Xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.97 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đất nước ta đã và đang chuyển mạnh sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa - với những thời cơ và vận hội, đồng thời cũng đặt ra những
khó khăn, thử thách địi hỏi Đảng ta phải tiếp tục đổi mới tồn diện, trong đó việc đổi mới
công tác cán bộ là khâu quan trọng có tính quyết định góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp
cách mạng của nước ta. Có thể nói rằng cán bộ và công tác cán bộ là khâu then chốt trong
cơng tác xây dựng Đảng cũng như tồn bộ hoạt động của Đảng ta. Trong sự nghiệp phát triển
đi lên của đất nước hiện nay nếu thực hiện không tốt cơng tác cán bộ, khơng có đội ngũ cán
bộ có phẩm chất, năng lực thì sẽ khó thúc đẩy tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII khẳng định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng”.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã thực sự quan tâm chăm lo đến cán
bộ, công tác cán bộ. Nhiều nghị quyết chuyên đề quan trọng về công tác cán bộ được
ban hành. Trung ương cũng đã cụ thể các quy chế, quy định, quyết định về phân công,
phân cấp, nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong cơng tác cán
bộ. Những văn bản đó đã tạo cơ sở pháp lý cho các cấp ủy đảng và những người có
trách nhiệm làm cơng tác cán bộ thực hiện đúng đắn hơn. Vì vậy, cơng tác cán bộ
những năm qua đã có bước đổi mới, Đảng ta đã từng bước xây dựng được một đội ngũ
cán bộ có số lượng và cơ cấu hợp lý, chất lượng ngày một nâng cao, đặc biệt đội ngũ
cán bộ trẻ nhanh thích ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ cách mạng mới.
Để bổ nhiệm đúng cán bộ phải thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, do
tập thể quyết định, đồng thời phát huy trách nhiệm của từng thành viên lãnh đạo, thực
sự coi trọng vai trò, quyền hạn của người đứng đầu các tổ chức, các cơ quan, đơn vị
trong công tác cán bộ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ phải được thể chế hóa thành
các quy chế, quy trình để thực hiện đúng và thống nhất. Những nhận xét, kết luận về


cán bộ và quy trình xem xét bổ nhiệm cán bộ nhất thiết phải do cấp ủy cơ quan lãnh
đạo có có thẩm quyền, quyết định, sau khi đã lắng nghe đầy đủ ý kiến của các cơ quan
có liên quan, ý kiến đóng góp của cán bộ, nhân dân và việc tự phê bình của cán bộ; kết
hợp đúng đắn chế độ tập thể với trách nhiệm cá nhân, dân chủ thật sự, khơng dân chủ
hình thức; huy động mọi cấp, mọi ngành phối hợp với cơ quan tham mưu giúp cấp ủy
làm công tác quản lý cán bộ.


2Quán triệt đầy đủ những quan điểm, những nguyên tắc của Đảng về công tác cán
bộ, những năm qua cấp ủy Đảng sở Xây dựng tỉnh … đã tập trung triển khai và thực
hiện có hiệu quả các nghị quyết, quy chế, quy định của Đảng về công tác cán bộ. Nhờ
đó, đã khắc phục được một phần thiếu sót trước đây, coi công tác cán bộ là công việc
của một số người, của cơ quan tổ chức, tạo ra bước tiến đáng kể trong việc thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong cơng tác cán bộ. Vì vậy, công tác cán bộ thời gian
qua của sở Xây dựng tỉnh … đã có bước đổi mới, từng bước xây dựng được đội ngũ
cán bộ cơ bản có chất lượng, với số lượng và cơ cấu hợp lý, đặc biệt một đội ngũ cán
bộ trẻ được đào tạo cơ bản, có phẩm chất, năng lực tốt, nhanh thích ứng với yêu cầu
nhiệm vụ.
Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ của
Sở Xây dựng tỉnh … vẫn còn một số hạn chế cần được nghiên cứu để đưa ra giải pháp
khắc phục. Chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức đối với những quan điểm chủ
yếu về tiêu chuẩn cán bộ, chưa thực sự lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo
chủ yếu về phẩm chất và năng lực cán bộ; cách đánh giá cán bộ chung chung, thiếu cụ
thể, hình thức, máy móc, thiếu căn cứ xác đáng. Một số bước trong quy trình xem xét
bổ nhiệm thực hiện chưa thật chặt chẽ, hoặc hình thức, nặng nề khơng cần thiết. Chưa
thực hiện tốt quy trình dân chủ, cơng khai và minh bạch trong bổ nhiệm cán bộ.
Trong bối cảnh trên, cần có một sự nghiên cứu tồn diện về việc tổ chức thực
hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, các quy chế, quy định, quy trình về công tác
bổ nhiệm cán bộ tại Sở Xây dựng tỉnh …. Từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài
"Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo,

quản lý của Sở Xây dựng …". Đây là vấn đề cấp thiết, phù hợp với nhiệm vụ trong
công tác xây dựng Đảng hiện nay và đáp ứng nhu cầu thực tiễn của địa phương.
2. MỤC ĐỊCH, NHIỆU VỤ CỦA TIỂU LUẬN
Mục đích của tiểu luận là đề xuất những phương hướng, giải pháp góp phần
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo,
quản lý của Sở Xây dựng tỉnh … trong giai đoạn hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, tiểu luận có những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Trình bày rõ quan niệm về nguyên tắc tập trung dân chủ và việc thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ của Đảng;
Phân tích những ưu điểm và hạn chế trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
khi bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý của Sở Xây dựng tỉnh … thời gian qua;
Đề xuất các giải pháp khả thi thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong
bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý của Sở Xây dựng tỉnh ...
3. NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ Ý NGHĨA CỦA TIỂU LUẬN
Đánh giá khách quan thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý của Sở Xây dựng tỉnh …;


3Đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm góp phần thực hiện đúng nguyên tắc
tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý của Sở Xây dựng tỉnh
… trong giai đoạn hiện nay;
Tiểu luận có thể được dùng làm tài liệu để các cấp ủy, cơ quan tổ chức - cán bộ
tham khảo cho việc nâng cao chất lượng bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý của Sở
Xây dựng tỉnh … trong giai đoạn hiện nay.
CHƯƠNG 1
NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG ĐỀ BẠT,
BỔ NHIỆM CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Khái quát về nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng
1.1.1. Khái niệm chung:

Nguyên tắc tập trung dân chủ là những vấn đề thuộc về quan điểm và nguyên tắc
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng và Nhà nước XHCN do
Đảng lãnh đạo phải thực hiện nhất quán trong thực tiễn hoạt động của mình.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của quản lý, phản ánh
mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý cũng như yêu cầu và mục tiêu của quản
lý.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là hoạt động của các cấp ủy đảng theo những quy
trình, phương pháp, quy định nhằm bố trí cán bộ đủ tiêu chuẩn vào các vị trí lãnh đạo,
quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của đảng trong tình hình mới
Nguyên tắc tập trung dân chủ đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa tập
trung và dân chủ, càng mở rộng dân chủ thì yêu cầu tập trung thống nhất càng cao,
khắc phục tình trạng dân chủ quá mức đưa đến tự do vô chính phủ cũng như tập trung
quá mức dẫn đến chuyên quyền, độc đoán, quan liêu. Tập trung phải trên cơ sở dân
chủ, dân chủ phải được thực hiện trong khuôn khổ tập trung. Đây là một nguyên tắc rất
quan trọng trong quản lý, nó có tính khách quan, phổ qt song thực hiện không đơn
giản, phụ thuộc vào bản lĩnh, phẩm chất đạo đức và phong cách của người quản lý.
1.1.2. Vị trí, tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các đảng
cộng sản. Song, ngun tắc này khơng chỉ đóng khung trong đảng cộng sản, mà khi
giành được chính quyền, nó đã được thực hiện trong quản lý và hoạt động của nhà
nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) và của nhiều tổ chức chính trị - xã hội trong chế độ
XHCN.
Nguyên tắc tập trung dân chủ được C. Mác và Ph. Ăng-ghen nêu ra lần đầu vào
năm 1847 trong việc tổ chức “Liên minh những người cách mạng”; sau đó, được tiếp


4tục khẳng định trong tổ chức “Liên minh công nhân quốc tế” (Quốc tế I) do chính C.
Mác sáng lập vào năm 1864 và cùng với Ph. Ăng-ghen lãnh đạo tổ chức này nhằm đáp
ứng nhu cầu của của phong trào công nhân là phải thống nhất lực lượng trong cuộc
đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản, bảo đảm sự ổn định, nhất trí và tính tổ chức của

đội tiên phong.
V.I. Lênin là người kế thừa và phát triển sáng tạo nguyên tắc tập trung dân chủ
phù hợp với những điều kiện lịch sử và thời đại mới. Nguyên tắc tập trung dân chủ
được V.I. Lênin đề cập sâu từ năm 1905. Tại Hội nghị Trung ương Đảng Công nhân
dân chủ-xã hội Nga, V.I. Lênin đề nghị đưa nguyên tắc tập trung dân chủ vào
chương trình nghị sự của Hội nghị và được Hội nghị chấp thuận. Tuy nhiên, tại Hội
nghị, nguyên tắc tập trung dân chủ vẫn chưa được đưa vào Điều lệ của Đảng Công
nhân dân chủ-xã hội Nga, vì cịn có những ý kiến khác nhau. Năm 1906, Đảng
Công nhân dân chủ-xã hội Nga họp Đại hội từ ngày 23-4 đến ngày 8-5 để thống
nhất lực lượng và nguyên tắc tổ chức của Đảng. Tại Đại hội này, V.I. Lênin trình
bày “Cương lĩnh hành động” của Đảng. Người viết: “nguyên tắc tập trung trong
Đảng hiện nay được mọi người thừa nhận”. Đại hội nhất trí thơng qua Điều lệ mới
của Đảng. Điều lệ ghi rõ: “Tất cả các tổ chức đảng phải được xây dựng theo nguyên
tắc tập trung dân chủ”. Như vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ lần đầu tiên được ghi
trong Điều lệ của một đảng cộng sản vào năm 1906.
V.I. Lênin thường viết “dân chủ” là tính từ giải nghĩa cho danh từ “tập trung”,
nên khi dịch ra tiếng Việt là “tập trung dân chủ”. Cịn Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
viết “dân chủ tập trung”. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II (năm 1951) của Đảng
ta do Người trình bày ghi rõ: “Về tổ chức, Đảng Lao động Việt Nam theo chế độ dân
chủ tập trung”. Đây chỉ là cách viết theo văn phong khác nhau (phương Tây và Hán
ngữ), còn về thực chất quan niệm của V.I. Lênin và của Hồ Chí Minh là thống nhất.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc xây dựng Đảng đã được kiểm nghiệm lâu
dài và có hiệu quả nhất đối với việc xây dựng tổ chức; là cơ sở vững chắc cho hoạt
động của các đảng cộng sản và đảng công nhân. Nguyên tắc tập trung dân chủ bắt
nguồn từ tính chất của bản thân đảng cộng sản với tư cách là một một tổ chức chính trị
thống nhất về cả tư tưởng, đường lối, tổ chức và hành động. V.I. Lênin viết: “Trong
cuộc đấu tranh để giành chính quyền, giai cấp vơ sản khơng có vũ khí nào hơn là sự tổ
chức”.
Tại Việt Nam, thuật ngữ “nguyên tắc tập trung” xuất hiện lần đầu tiên vào năm
1929. Trong Điều lệ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (gọi tắt là Thanh niên) một trong các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam - được thông qua tại Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội (tháng 5- 1929) ghi: “Hội tổ chức theo
nguyên tắc tập trung”.Tiếp đó, tháng 6 - 1929, Đơng Dương Cộng sản Đảng họp Đại
hội lần thứ nhất (Đại hội thành lập), thơng qua Điều lệ Đảng, trong đó ghi: “Đảng


5Cộng sản tổ chức theo lối dân chủ tập trung”. Tại Đại hội lần thứ nhất (Đại hội thành
lập, tháng 11- 1929), An Nam Cộng sản Đảng thông qua Điều lệ Đảng, trong đó ghi:
“Đảng tổ chức theo dân chủ tập trung”. Trong “Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt
Nam” được thông qua Hội nghị thành lập Đảng ngày 03-02-1930 chưa ghi nguyên tắc
tập trung dân chủ. Tháng 10-1930 Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất, quyết
định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương và thông qua “Điều lệ Đảng
Cộng sản Đông Dương”, trong đó ghi: “Đảng Cộng sản Đơng Dương cũng như các chi
bộ của Quốc tế Cộng sản phải tổ chức theo lối dân chủ tập trung”. Điều lệ Đại hội I
Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3-1935), Điều lệ Đại hội II Đảng Lao động Việt
Nam (tháng 2-1951) đều ghi nguyên tắc tổ chức của Đảng là “dân chủ tập trung”. Điều
lệ Đảng được thông qua tại Đại hội III (năm 1960), Đại hội IV (năm 1976), Đại hội V
(năm 1981), Đại hội VI (năm 1986), Đại hội VII (năm 1991), Đại hội VIII (năm 1996),
Đại hội IX (năm 2001), Đại hội X (năm 2006) đều ghi: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc
tập trung dân chủ” và xác định tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của
Đảng. Về mặt nhà nước, Điều 6, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm
1992, ghi: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Đảng ta nhận thức rõ việc tổ chức sinh hoạt nội bộ của Đảng trên cơ sở tập trung
dân chủ là sự bảo đảm có tính chất quyết định trong việc vạch ra đường lối, chiến
lược, sách lược; trong việc hình thành các cơ quan lãnh đạo và tạo ra những tiền đề
cần thiết để bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được đúng hướng và phát triển.
Trong Đảng đều có chung nhận thức là, thực hiện tập trung dân chủ đúng đắn sẽ
dẫn đến sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thể hiện sự sinh hoạt chặt chẽ và
đoàn kết nội bộ; Đảng được xây dựng và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc thống nhất
về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Cơ quan lãnh đạo cao nhất là Đại hội đại biểu toàn

quốc của Đảng. Trong thời gian giữa hai Đại hội, sự lãnh đạo của Đảng tập trung vào
Ban Chấp hành Trung ương. Những nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng là sản phẩm kết tinh trí tuệ của toàn Đảng. Khi nghị quyết của Đại hội Đảng và
nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã được thơng qua thì trở
thành “pháp lệnh” đối với các tổ chức đảng và đảng viên. Nghị quyết đó chính là thành
quả của một q trình thảo luận đóng góp dân chủ trong Đảng. Nghị quyết đúng và đi
vào cuộc sống là sự thể hiện một cách đầy đủ nguyên tắc (chế độ) tập trung dân chủ
trong Đảng và trong sinh hoạt của Đảng. Vì vậy, nếu xem nhẹ, buông lỏng hoặc thực
hiện không đúng nguyên tập trung dân chủ sẽ gây những thiệt hại nghiêm trọng đến
năng lực hoạt động của Đảng, đến vai trò lãnh đạo và ảnh hưởng của Đảng trong xã
hội, thậm chí dẫn đến Đảng bị tan rã.
Một trong những đặc trưng cơ bản của đảng vô sản kiểu mới là thừa nhận và thực
hiện triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt nội bộ và toàn bộ


6hoạt động của mình. Đây khơng chỉ là một ngun tắc tổ chức cơ bản đối với đảng vô
sản chân chính, mà cịn là một quy luật và nhu cầu của quá trình phát sinh, phát triển
và trưởng thành của đảng.
Với tư cách là một đảng cầm quyền, vai trò, năng lực và sức chiến đấu của Đảng ta
một phần cơ bản và quyết định bởi mức độ nhận thức và khả năng thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ. Đây là một trong những nhân tố quyết định sự sống cịn của Đảng gắn
với sự thành bại của cơng cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện nay,
dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Đây cũng chính là một trọng tâm chống phá của kẻ thù
nhằm thúc đẩy sự tự tan vỡ của Đảng.
Mặc dù trên thế giới có ý kiến khác nhau, nhưng Đảng ta trước sau như một
khẳng định, Đảng được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc TTDC.
1.2. Bản chất và nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ
Dù diễn đạt là “tập trung dân chủ” hay “dân chủ tập trung” thì đây vẫn là một
ngun tắc hồn chỉnh chứ khơng phải là sự lắp ghép cơ học giữa hai thành tố “tập
trung” và “dân chủ”. V.I. Lênin viết:

Chế độ tập trung hiểu theo nghĩa thực chất dân chủ, đã bao hàm khả năng – khả
năng này do lịch sử tạo ra lần đầu tiên – phát huy một cách đầy đủ và tự do không
những các đặc điểm của địa phương mà cả những sáng kiến của địa phương, tính chủ
động của địa phương, tính chất mn hình mn vẻ của các đường lối, của các phương
pháp và phương tiện để đạt mục đích chung.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung.
Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục
tùng đồn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa
phương phải phục tùng Trung ương.
Rõ ràng, nguyên tắc tập trung dân chủ là một chỉnh thể thống nhất, nguyên tắc
này hướng tới sự tập trung thống nhất, nhưng là tập trung trên cơ sở dân chủ, mang
tính chất dân chủ; bảo đảm, củng cố và tăng cường tập trung phải đặt trên cơ sở giữ
vững, mở rộng và phát huy dân chủ. Đến lượt mình, dân chủ trong nguyên tắc tập
trung dân chủ chỉ được thực hiện đúng đắn và đầy đủ bằng sự bảo đảm và chế ước bởi
tập trung; mở rộng và phát huy dân chủ khơng có mục đích gì khác ngồi việc hướng
tới củng cố sự tập trung trong Đảng.
Nói cụ thể, tập trung trên cơ sở dân chủ, mang tính chất dân chủ là sự tập trung trí
tuệ ý chí và quyền lực của đa số, thiểu số phải phục tùng; là sự tập trung gắn liền giữa
cấp trên và cấp dưới, cấp trên lắng nghe và tôn trọng cấp dưới, kiểm tra cấp dưới và
cấp dưới tự giác phục tùng cấp trên, giám sát cấp trên. Đồng thời, tập trung trên cơ sở
dân chủ, được quyết định bởi nền tảng dân chủ là sự tập trung do toàn thể đảng viên
kiến lập nên, khơng phải do một ai đó ban phát hoặc một nhóm nào có quyền thâu
tóm; là sự tập trung của ý chí, trí tuệ, quyền lực của đa số tạo nên một cách thống nhất


7và tự giác chứ không phải là thứ tập trung được thiết lập một cách độc đốn, cưỡng
bức nào đó. Nó khác hẳn, đối lập với mọi thứ: tập trung quan liêu, độc đoán chuyên
quyền; tập trung nhằm trấn áp cấp dưới, trấn áp đảng viên, thoát ly cơ sở, xa rời thực
tiễn, tập trung theo kiểu hình hành “đẳng cấp” trong Đảng.
1.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, trong bổ nhiệm

cán bộ
1.3.1. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong
công tác cán bộ
Nội dung khái quát của nguyên tắc TTDC trong công tác cán bộ được Đảng ta
khẳng định:
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời
đề cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu tổ chức.
Cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền phải chủ trì và chịu trách nhiệm về cơng tác tổ chức
cán bộ theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định; xác định rõ trách
nhiệm của tập thể và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong
công tác cán bộ.
Nội dung cụ thể của nguyên tắc này là:
- Đảng đề ra đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách và quy chế quản lý
công tác cán bộ; lãnh đạo và kiểm tra các cấp, các ngành tổ chức thực hiện; trực tiếp
quản lý cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong các tổ chức của hệ thống chính trị như cán bộ
lãnh đạo các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, đoàn thể nhân dân, tổ chức kinh tế
- xã hội; quản lý cán bộ theo chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và điều lệ
của đoàn thể.
- Đảng thực hiện đường lối, chính sách cán bộ thơng qua các tổ chức đảng (ban
cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy...) và đảng viên trong cơ quan nhà nước và các đồn
thể nhân dân, thực hiện đúng quy trình, thủ tục, pháp luật của Nhà nước và điều lệ của
các đoàn thể và tổ chức xã hội.
- Phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp ủy và các tổ chức đảng, đồng
thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp, coi
đây là một trong những công việc quan trọng bậc nhất của lãnh đạo công tác cán bộ.
- Những vấn đề về chủ trương, chính sách, đánh giá, bố trí, sử dụng điều động,
đề bạt, khen thưởng, xử lý kỷ luật cán bộ nhất thiết phải do cấp ủy có thẩm quyền
quyết định theo đa số.
- Mọi tổ chức đảng và cán bộ đảng viên phải “nghiêm túc chấp hành các nghị
quyết của cấp uỷ về cán bộ và công tác cán bộ; cá nhân phải chấp hành quyết định của

tập thể; tổ chức đảng cấp dưới phải chấp hành quyết định của tổ chức đảng cấp trên”.
- Nguyên tắc TTDC trong công tác cán bộ phải được thể chế hóa, cụ thể hóa
thành các quy chế, quy định, quy trình. Những nhận xét, kết luận về cán bộ nhất thiết


8phải do cấp ủy có thẩm quyền quyết định sau khi đã lắng nghe đầy đủ ý kiến của các
cơ quan có liên quan, ý kiến đóng góp của nhân dân và tự phê bình của cán bộ. Kết
hợp đúng đắn chế độ tập thể với trách nhiệm cá nhân, dân chủ với tập trung, khơng
dân chủ hình thức. Huy động mọi cấp, mọi ngành phối hợp với cơ quan tham mưu
giúp cấp ủy làm tốt công tác cán bộ.
Các cấp ủy, tổ chức đảng theo thẩm quyền cần cụ thể hóa để các quy đinh, quy
chế, quy trình của công tác cán bộ mà Trung ương đã xác định phù hợp với thực tiễn
của từng địa phương, ngành đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý; xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong hệ thống chính trị (HTCT) tham gia,
phối hợp trong công tác cán bộ làm cơ sở để thực hiện tốt các khâu trong công tác cán
bộ
1.3.2. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong
bổ nhiệm cán bộ
Cần nói ngay rằng, từ khi trong tồn Đảng đều đã thực hiện công tác quy hoạch
cán bộ lãnh đạo, quản lý, việc bổ nhiệm cán bộ khác căn bản với khi chưa có quy
hoạch cán bộ. Hiện nay, nói chung, cán bộ được xem xét bổ nhiệm phải trong diện quy
hoạch cả nguồn tại chỗ và cán bộ ở nơi khác, đã có thời gian bồi dưỡng, thử thách;
khơng phải khi có nhu cầu bổ nhiệm mới giới thiệu cán bộ bất kỳ, chưa được dự kiến.
Trường hợp điều động, luân chuyển kết hợp bổ nhiệm (không phải trong quy hoạch từ
nguồn tại chỗ) có quy định riêng, nhưng nói chung cán bộ đó cũng trong quy hoạch bổ
nhiệm giữ chức vụ cao hơn ở nơi công tác cũ. Vì vậy, khâu xem xét bổ nhiệm được bắt
đầu từ các cán bộ trong quy hoạch cho từng chức danh.
Nguyên tắc TTDC thể hiện trong quá trình xem xét bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở những nội dung chủ yếu sau:
Một là: Người đứng đầu và các thành viên cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ

quan, đơn vị đề xuất nhân sự đề nghị bổ nhiệm và nêu nhận xét, đánh giá về cán bộ
được đề xuất.
Người lãnh đạo, quản lý đề cao trách nhiệm của mình trong việc đề xuất, nhận
xét, đánh giá cán bộ, giúp tập thể cấp ủy xem xét, quyết định.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX trình Đại hội X đã
xác định: Thực hiện chế độ trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo theo
hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng
trực tiếp giới thiệu để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Hai là: Cá nhân, tập thể đề nghị bổ nhiệm cán bộ phải có ý thức xây dựng cao,
chịu trách nhiệm về đề nghị của mình.
Đây là biện pháp cần thiết để quy trách nhiệm cho những cá nhân và tổ chức đề
xuất cán bộ bổ nhiệm, nhằm nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người lãnh đạo đối với
việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, tránh tình trạng dựa dẫm, đùn đẩy trách nhiệm


9lẫn nhau, khi bổ nhiệm cán bộ sai thì khơng ai chịu trách nhiệm, đề phòng nguy cơ tư
lợi trong công tác cán bộ.
Trong trường hợp người lãnh đạo, quản lý không đề xuất, bồi dưỡng được cán
bộ dự nguồn để bổ nhiệm thì họ cũng phải chịu trách nhiệm như những trường hợp đề
xuất bổ nhiệm không đúng, gây hậu quả không tốt.
Ba là: Tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị thảo luận nhận
xét, đánh giá cán bộ một cách dân chủ, công khai trước khi biểu quyết (bằng phiếu
kín) đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định bổ nhiệm.
Quyết định bổ nhiệm cán bộ cùng với nhận xét, đánh giá chính thức về cán bộ
đề nghị bổ nhiệm do tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị xem xét,
thảo luận quyết định theo đa số đúng theo Quyết định số 68-QĐ/TW ngày 04-7-2007
của Bộ Chính trị. Trường hợp không thuộc thẩm quyền theo phân cấp quản lý thì tập
thể cấp ủy lãnh đạo cơ quan, đơn vị đề nghị lên cấp có thẩm quyền xem xét, quyết
định.
Bốn là: Cấp ủy, tổ chức đảng và tập thể lãnh đạo các cơ quan có thẩm quyền

xem xét, quyết định bổ nhiệm một cách dân chủ trên cơ sở phát huy đầy đủ trách
nhiệm và quyền hạn của từng thành viên, nhất là của người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Việc đánh giá, lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ phải do tập thể cấp ủy và tổ chức
đảng, tập thể lãnh đạo các cơ quan có thẩm quyền thảo luận dân chủ và quyết định
theo đa số.
Trường hợp người đứng đầu cơ quan, đơn vị và tập thể lãnh đạo có ý kiến khác
nhau thì cần báo cáo đầy đủ lên cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Trường hợp
tập thể lãnh đạo giới thiệu hai người có số phiếu ngang nhau thì chọn nhân sự do
người đứng đầu giới thiệu để quyết định bổ nhiệm hoặc trình cấp có thẩm quyền bổ
nhiệm.
Năm là: thực hiện quy trình bổ nhiệm chặt chẽ qua các bước sau:
- Trước hết, khi cơ quan, đơn vị có nhu cầu, cấp ủy tổ chức đảng phải trình cơ
quan có thẩm quyền về yêu cầu, số lượng và dự kiến phân công công tác đối với cán
bộ sẽ được bổ nhiệm. Sau khi được cơ quan có thẩm quyền đồng ý về chủ trương mới
thực hiện các bước tiếp theo.
- Người đứng đầu và các thành viên cơ quan, đơn vị đề xuất nhân sự dự kiến bổ
nhiệm.
Căn cứ quy hoạch cán bộ, những người có trách nhiệm đề xuất nhân sự, tiến
hành đánh giá, nhận xét đầy đủ về cán bộ được dự kiến bổ nhiệm làm căn cứ để lấy ý
kiến cán bộ trong cơ quan, đơn vị.
- Tổ chức lấy ý kiến cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị.
Cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ tiến hành các bước lấy ý kiến cán bộ, công
chức trong cơ quan, đơn vị về cán bộ dự kiến bổ nhiệm.


10- Tập thể lãnh đạo xem xét, quyết định bổ nhiệm hoặc trình lên cấp trên bổ
nhiệm theo quy định phân cấp quản lý cán bộ.
Tập thể lãnh đạo (cấp ủy đảng, lãnh đạo đơn vị) căn cứ ý kiến đề xuất của các
cá nhân có trách nhiệm, sự tín nhiệm của tập thể xem xét, đánh giá và thảo luận một
cách tồn diện, sau đó quyết định theo ý kiến của đa số các thành viên trong lãnh đạo.

Trường hợp có ý kiến khác nhau giữa tập thể lãnh đạo và người đứng đầu cơ quan, đơn
vị, thì báo cáo lên cấp trên xem xét, quyết định.
Đối với những cán bộ thuộc diện của Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý thì quy
trình nêu trên được bổ sung thêm những yêu cầu cao hơn.
Khi cần thiết, cơ quan có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm cán bộ gặp, trao đổi
ý kiến hoặc uỷ quyền cho cơ quan tham mưu về công tác tổ chức - cán bộ gặp, trao đổi
ý kiến với nhân sự trước khi quyết định.
Quy trình xem xét bổ nhiệm lại cũng cơ bản như quy trình xem xét bổ nhiệm
lần đầu, gồm các bước chính:
- Cán bộ làm báo cáo tự nhận xét, đánh giá về việc thực hiện chức trách, nhiệm
vụ trong thời hạn giữ chức vụ.
- Tập thể cán bộ, công chức trong đơn vị tham gia ý kiến bằng phiếu kín.
- Cán bộ đứng đầu cơ quan, đơn vị trực tiếp sử dụng cán bộ nhận xét, đánh giá
và đề xuất ý kiến có bổ nhiệm lại hay khơng.
- Tập thể lãnh đạo xem xét, quyết định hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền quyết
định theo phân cấp quản lý cán bộ.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG ĐỀ
BẠT, BỔ NHIỆM CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ SỞ XÂY DỰNG …
Sở Xây dựng là cơ quan chuyên mơn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, có chức năng
tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các
lĩnh vực: xây dựng; kiến trúc, quy hoạch xây dựng; hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao (bao gồm: kết cấu hạ tầng giao
thơng đơ thị; cấp nước, thốt nước, xử lý nước thải, chiếu sáng, công viên cây xanh,
nghĩa trang, chất thải rắn trong đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu
công nghệ cao); phát triển đô thị; nhà ở và công sở; kinh doanh bất động sản; vật liệu
xây dựng; về các dịch vụ công trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Sở; thực hiện
một số nhiệm vụ, quyền hạn khác theo phân cấp, ủy quyền của Ủy ban nhân dân tỉnh
và theo quy định của pháp luật.
Những năm qua, cấp ủy Đảng sở luôn coi trọng công tác cán bộ, nhất là trong

bổ nhiệm cán bộ đã được cấp uỷ lãnh đạo thực hiện đúng quy trình, thủ tục, bảo đảm
nguyên tắc tập trung dân chủ. Qua đó từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,


11quản lý ngành có đủ tiêu chuẩn, góp phần xây dựng tổ chức đảng và các tổ chức trong
hệ thống chính trị vững mạnh.
2.1. Tình hình đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý sở
Xây dựng Bình …
2.1.1. Về số lượng: Tổng số cán bộ hiện đang công tác tại Sở Xây dựng tính
đến 31/12/2015 gồm có 40 người, trong đó nữ 8 người với 05 phịng ban chun mơn
(Quản lý nhà – thị trường bất động sản, Quản lý Hạ tầng Kỹ thuật, Quản lý Xây dựng,
Quản lý Quy hoạch – Kiến trúc và Văn phòng).
Bảng 1: Số lượng Cán bộ công chức
Số lượng
Tổng số
Nữ
Chỉ tiêu
Số lượng cán bộ, công chức, viên chức
Người
40
08
Số lượng Đảng viên Đảng CSVN
Người
25
05
Số lượng biên chế
Người
36
06
2.1.2. Về độ tuổi: Cơ cấu nhân lực theo nhóm tuổi: Cán bộ cơng chức của Sở

tương đối trẻ, cán bộ có độ tuổi dưới 30 tuổi chiếm 25%; từ 31-45 tuổi chiếm 50% và
trên 45 tuổi chiếm 25%.
ĐVT

Bảng 2: Độ tuổi cán bộ, công chức
Chỉ tiêu
Tổng

ĐVT
Người

Tổng số
40

Tỷ lệ %
100

Từ 18 đến 30 tuổi

Người

10

25

Từ 31 đến 45 tuổi

Người

20


50

Trên 45 tuổi.
Người
10
25
2.1.3. Về trình độ học vấn: Nhìn chung chất lượng cán bộ Sở Xây dựng ... khá
cao có 20% trình độ trên Đại học, có 75% tốt nghiệp Đại học. Sở Xây dựng có quy chế
tuyển dụng ưu tiên đối với cán bộ tốt nghiệp Đại học chính quy loại khá, giỏi nên đội
ngũ cán bộ của ngành đến nay phần lớn là tốt nghiệp Đại học chính quy loại khá giỏi
từ các trường Đại học trong cả nước, nhất là đội ngũ cán bộ trẻ. Phần lớn cán bộ tốt
nghiệp các ngành học xây dựng, các ngành khác chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ; cán bộ tuyển
dụng được bố trí công tác phù hợp với năng lực chuyên môn và ngành nghề đào tạo.
Bảng 3: Trình độ chun mơn của cán bộ, cơng chức

ĐVT: người

Tổng
Nam

40
32

Trình độ
Khác
01
01

Nữ


08

0

Tổng số

Trung cấp

Cao đẳng

Đại học

01
01

0
0

30
30

Trên
Đại học
8
08

0

0


0

0


122.1.4. Về trình độ lý luận chính trị: Cử nhân chính trị: 02 người; Cao cấp
chính trị: 08; Đang học cao cấp chính trị: 02; Trung cấp chính trị: 06; Đang học trung
cấp chính trị: 02.
2.1.5. Tinh thần, thái độ chấp hành pháp luật, kỷ cương, kỷ luật: Sở Xây
dựng Bình Định đã coi trọng vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cho nền công
vụ và coi đây là một nhân tố quyết định thúc đẩy sự đổi mới về hiệu quả làm việc nên
đội ngũ cán bộ không ngừng trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, kiến thức về
năng lực thực tiễn được nâng lên, hầu hết có bản lĩnh chính trị, kiên định lập trường, nổ
lực phấn đấu quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Hầu hết cán bộ của Sở đều có tinh thần cầu thị, có ý chí tiến thủ, tích cực
trong công việc, tôn trọng đồng nghiệp, phục vụ nhân dân; đảm bảo kỷ cương, kỷ
luật và chấp hành tốt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
2.1.6. Tinh thần hợp tác trong lao động, năng lực làm việc: Có tinh thần, thái
độ hợp tác trong phối hợp giải quyết cơng việc giữa các phịng, ban thuộc Sở, giữa Sở
và các phòng Kinh tế Hạ tầng, Quản lý đô thị cấp huyện và giữa Sở với các đơn vị liên
quan trên địa bàn tỉnh. Kết quả chất lượng công việc đạt cao, được Tỉnh ủy, Uỷ ban
nhân dân tỉnh đánh giá cao.
2.1.7. Về văn hóa giao tiếp, kỹ năng ứng xử: Hầu hết cán bộ Sở Xây dựng đều
tốt nghiệp Đại học và trên Đại học nên dễ dàng có kỹ năng ứng xử văn hóa.
2.2. Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ
nhiệm cán bộ lãnh đạo sở Xây dựng ...
Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là vấn đề rất quan trọng trong công tác
cán bộ của Đảng. Sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương
khóa VIII, cấp ủy và cán bộ, đảng viên ở Sở Xây dựng đã nhận thức rõ hơn tầm quan

trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, đồng thời thể chế hóa
ngun tắc này thành các quy chế, quy trình, quy định cụ thể để tổ chức thực hiện nên đã
lựa chọn được đội ngũ cán bộ có đức, có tài để gánh vác trọng trách mà Đảng và nhân
dân giao phó.
Trong những năm qua, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công
tác bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý tại Sở Xây dựng … đã đạt được những kết quả
tích cực đồng thời có những hạn chế sau:
2.2.1. Những ưu điểm và nguyên nhân
Ưu điểm:
Cấp uỷ đảng đã quán triệt sâu sắc chủ trương, nghị quyết của Đảng, qui định,
hướng dẫn của Trung ương, của Tỉnh uỷ về công tác bổ nhiệm cán bộ, tạo nhận thức
đúng đắn về vị trí, vai trị của cơng tác bổ nhiệm cán bộ, thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách trong công tác bổ nhiệm cán bộ.


13Cấp ủy đảng chỉ đạo cơ quan tham mưu tiến hành rà sốt đội ngũ cán bộ cơng
chức của sở để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; tham mưu giúp cấp ủy Đảng, lãnh đạo
sở kiểm tra, đánh giá, phân loại hiện trạng đội ngũ cán bộ công chức, qua đó giúp lãnh
đạo sở quản lý chặt chẽ hơn đội ngũ cán bộ công chức, kịp thời bổ sung, bố trí, sắp xếp
lại cán bộ đối với những phịng, đơn vị có yêu cầu bổ nhiệm và bổ nhiệm lại những
chức danh cịn thiếu, tìm những cán bộ có triển vọng phát triển cao hơn để quy hoạch
vào chức danh chủ chốt của sở.
Công tác bổ nhiệm cán bộ quản lý, lãnh đạo của sở luôn giữ vững nguyên tắc
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời phát
huy trách nhiệm của người đứng đầu và các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị.
Qua đó, việc bổ nhiệm cán bộ đã bảo đảm đúng người, đúng việc, tạo được động lực
mới thúc đẩy cán bộ hăng say học tập, công tác; khắc phục được tư tưởng cục bộ, bảo
thủ, trì trệ. Các đồng chí được bổ nhiệm đều phấn khởi, tự giác thực hiện quyết định
của tổ chức, hồn thành tốt nhiệm vụ được giao. Các phịng, đơn vị có cán bộ được bổ
nhiệm đều có sự chuyển biến, tiến bộ rõ rệt trong thực hiện nhiệm vụ chính trị.

Cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại đều xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ,
được đánh giá tín nhiệm từ cơ quan, đơn vị. Trong thời gian qua đã bổ nhiệm 5 đồng
chí, bổ nhiệm lại 4 đồng chí; Nhìn chung, cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm đều đảm bảo
tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, trình độ, năng lực và tín nhiệm
của quần chúng, sau bổ nhiệm đã phát huy được vai trị, hồn thành chức trách, nhiệm
vụ được giao; đối với cán bộ được bổ nhiệm lại qua đánh giá đều hoàn thành tốt nhiệm
vụ trong thời gian giữ chức vụ, còn đủ tiêu chuẩn và sức khỏe để đảm đương nhiệm vụ
trong thời gian tới.
Do nắm vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ, thời gian qua
cơng tác này của sở Xây dựng Bình Định ln đảm bảo quy trình, đúng quy định, cơ
quan làm công tác tổ chức cán bộ kịp thời tham mưu cho cấp uỷ trong thẩm tra, xác
minh, đánh giá, kết luận nhân sự được đề xuất, cung cấp thông tin chính xác để cấp ủy
Đảng đưa ra những quyết định đúng; các phòng, đơn vị thể hiện rõ ý thức, trách nhiệm
trong tham gia vào quá trình thực hiện cơng tác bổ nhiệm cán bộ, phát huy được vai
trị của đảng viên và người đứng đầu trong công tác nhân sự.
Chính nhờ sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của cấp uỷ đảng và chủ động tổ
chức lấy ý kiến nhận xét, đánh giá, lấy phiếu tín nhiệm trong cán bộ, đảng viên, công
chức cơ quan và của cấp uỷ, quần chúng nhân dân nơi cư trú; gắn với thẩm tra, xác
minh chuẩn xác của cơ quan tham mưu về nhân sự đã giúp cho cấp ủy Đảng có cơ sở
thảo luận, quyết định bổ nhiệm cán bộ được chuẩn xác hơn, góp phần giữ gìn đồn kết
thống nhất nội bộ.
Nguyên nhân:


14Thứ nhất: Nhờ có các quan điểm của Đảng, các nghị quyết của Trung ương về
công tác tổ chức và cán bộ đúng đắn; nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng đã được thể
chế hóa thành các quy chế, quy định, quy trình trong tổ chức thực hiện; có sự hướng dẫn
chặt chẽ, cụ thể của Tỉnh ủy, Đảng ủy khối các cơ quan tỉnh về công tác cán bộ, cùng với
ý thức trách nhiệm và sự nỗ lực của chi ủy.
Thứ hai: Cấp ủy đảng đã kiên trì khẳng định và thực hiện nguyên tắc Đảng

thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ đi đôi với phát huy
trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị,
nguyên tắc tập trung dân chủ và quyết định tập thể về cán bộ. Các phòng, đơn vị, đảng
viêng và cán bộ công chức đã nhận thức đúng đắn công tác cán bộ là khâu then chốt
của nhiệm vụ then chốt trong tồn bộ cơng tác xây dựng Đảng. Công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng đã được các cấp
ủy Đảng xác định phải xuất phát từ đường lối của Đảng, yêu cầu nhiệm vụ chính trị
của cơ quan, đơn vị, trên cơ sở tiêu chuẩn là chính, có cơ cấu hợp lý, lấy hiệu quả công
việc làm thước đo, được cán bộ, đảng viên và quần chúng tín nhiệm trước khi xem xét
bổ nhiệm. Việc lựa chọn nguồn cán bộ quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, bổ nhiệm cán bộ
lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị phải thực hiện theo đúng quy chế, quy trình
chặt chẽ, đúng quy định của Điều lệ Đảng, điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội và
pháp luật của Nhà nước. Đây chính là yếu tố quan trọng bảo đảm vai trò của Đảng cầm
quyền, giữ vững sự ổn định, tạo được sự đoàn kết, thống nhất cao trong đội ngũ cán
bộ.
Thứ ba: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ, đảng viên nói chung có ý
thức chính trị, tính tổ chức kỷ luật cao được trưởng thành trong quá trình xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, được đào tạo bồi dưỡng về chính trị và kiến thức về Đảng ở các mức
độ khác nhau, do đó tham gia một cách có trách nhiệm, có chất lượng vào các khâu
của quy trình bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Thứ tư: Để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới, cấp ủy Đảng đã
quan tâm, tập trung nâng cao chất lượng quy hoạch; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi
dưỡng “chuẩn hóa” đội ngũ cán bộ kế cận; từng bước gắn việc bố trí, sử dụng bổ nhiệm
với việc quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời tiến hành trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý trên cơ sở kết hợp giữa các độ tuổi, các lớp cán bộ, chú ý đến đội ngũ cán bộ
trẻ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức.
2.2.2. Những hạn chế yếu kém
Việc quản lý, đánh giá, quy hoạch, bố trí cán bộ một số trường hợp chưa
sát đúng, đặc biệt là cán bộ chủ chốt một số phòng, đơn vị năng lực hạn chế,
có khuyết điểm nhưng khơng kịp thời thay thế.

Khơng ít cán bộ, đảng viên chưa hiểu rõ về sự cần thiết phải thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ. Một số cấp uỷ viên và một bộ phận cán


15bộ, đảng viên có biểu hiện xi chiều, ngại va chạm, khơng dám bày tỏ chính kiến cá
nhân.
Trong một số trường hợp chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa trách nhiệm cá
nhân và vai trò của tập thể. Vẫn cịn hiện tượng dân chủ hình thức trong thảo luận,
xem xét, quyết định đề bạt, bổ nhiệm cán bộ của tập thể cấp uỷ, làm cho vai trò của tập
thể cấp uỷ bị hạ thấp. Việc lấy ý kiến nhận xét của cấp uỷ và nhân dân nơi cư trú chưa
được quan tâm đúng mức.
2.3. Từ thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong đề bạt, bổ nhiệm cán
bộ ở Sở Xây dựng tỉnh Bình Định thời gian qua cho thấy:
Một la, kiên quyết giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác cán bộ và quản
lý đội ngũ cán bộ trong thực hiện bổ nhiệm cán bộ, phát huy dân chủ, tạo sự thống
nhất trong nội bộ đảng và cơ quan, đơn vị. Cấp uỷ đảng phải giữ vai trò lãnh đạo trong
bổ nhiệm cán bộ, phải mở rộng dân chủ, thảo luận công khai trong cấp ủy đảng và ban
lãnh đạo cơ quan, đơn vị để bổ nhiệm được cán bộ đủ tiêu chuẩn, có chất lượng, tín
nhiệm cao, đáp ứng u cầu cơng việc.
Hai la, giải quyết hài hoà, bảo đảm nguyên tắc giữa người đứng đầu với tập thể
lãnh đạo trong thảo luận, đề xuất, quyết định bổ nhiệm cán bộ. Tránh khuynh hướng
quá đề cao dân chủ tập thể hoặc người đứng đầu quyết định vượt q thẩm quyền. Vì
vậy, cần có quy định thật cụ thể, hợp lý để vừa phát huy được trách nhiệm của người
đứng đầu, vừa đảm bảo được dân chủ tập thể lãnh đạo trong đề xuất nhân sự và quyết
định bổ nhiệm cán bộ.
Ba la, thực hiện đồng bộ các khâu của công tác cán bộ từ đánh giá, quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển... đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là cơ sở
quyết định chất lượng của công tác bổ nhiệm cán bộ.
Bốn la, tập trung xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh,
giữ gìn đồn kết thống nhất nội bộ, kỷ luật nghiêm minh; đồng thời tăng cường giáo

dục chính trị, tư tưởng, nâng cao năng lực tồn diện cho cán bộ, tạo mơi trường để cán
bộ rèn luyện, phấn đấu.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TỐT NGUYÊN TẮC
TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG ĐỀ BẠT, BỔ NHIỆM CÁN BỘ LÃNH
ĐẠO, QUẢN LÝ SỞ XÂY DỰNG TỈNH …
3.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy viên, người đứng đầu về
vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu của cơng tác cán bộ nói chung và công
tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý sở Xây dựng tỉnh …. Để nâng cao và thống


16nhất nhận thức về nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác bổ nhiệm cán bộ, cấp ủy
Đảng phải tiếp tục thường xuyên quán triệt sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân
các quan điểm, đường lối, nguyên tắc của Đảng được thể hiện trong các Nghị quyết các kỳ
Đại hội Đảng, nhất là các nghị quyết, quy định, quy chế của Trung ương về công tác cán bộ.
Trong sinh hoạt các cấp ủy cần đưa nội dung về nguyên tắc tập trung dân
chủ vào để thảo luận. Tăng cường các sinh hoạt chuyên đề về công tác cán bộ,
trong đó vấn đề thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán
bộ là một trọng tâm để mọi người bộc lộ rõ nhận thức của mình và đóng góp cho
những người nhận thức còn giản đơn, phiến diện, sai lệch về nguyên tắc tập trung
dân chủ; làm cho quan niệm đúng về nguyên tắc tập trung dân chủ thấm sâu vào
từng người.
3.2. Nắm vững nguyên tắc, quy trình bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản

Đây là giải pháp quan trọng để thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung
dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ. Bởi vì, các nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong
bổ nhiệm cán bộ chỉ được thực hiện đầy đủ trong khi những nội dung đó được thể chế hóa,
cụ thể hóa thành quy chế, quy định để mọi người cùng thực hiện. Trong Báo cáo chính trị
tại Đại hội tồn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy

chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ và các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Đảng. Hoàn
thiện quy chế, quy trình về cơng tác tổ chức cán bộ bảo đảm mở rộng và phát huy dân chủ
trong Đảng”.
Lấy tiêu chuẩn cán bộ làm tiền đề để xây dựng đội ngũ cán bộ tốt, làm căn cứ
để đào tạo, bồi dưỡng, rà sốt, bố trí, bổ nhiệm cán bộ; là căn cứ để mỗi cán bộ tự giác,
nỗ lực phấn đấu, rèn luyện để đạt được những tiêu chuẩn.
Trong đánh giá cán bộ phải lấy tiêu chuẩn cán bộ và hiệu quả công việc làm
thước đo, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định trên cơ sở tiêu
chuẩn cán bộ và thực hiện theo đúng quy trình. Quá trình đánh giá cán bộ phải bảo
đảm dân chủ, tập trung, công khai, minh bạch, khách quan, tồn diện và cơng tâm.
Trên cơ sở những quy chế, quy định mà Trung ương ban hành để thực hiện thống nhất
trong toàn Đảng, căn cứ vào quy định của Tỉnh ủy, cấp ủy Đảng phải tiến hành rà sốt,
bổ sung hồn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy định về công tác cán bộ,
về bổ nhiệm cán bộ thuộc thẩm quyền phụ trách, trong đó cần tập trung hồn thiện
Quy định về phân cơng, phân cấp tổ chức bộ máy và cán bộ công chức; Quy chế đánh
giá, bổ nhiệm cán bộ công chức phù hợp với yêu cầu, tình hình và nhiệm vụ mới.
Trong các quy chế đó phải xác định rõ hơn trách nhiệm của cấp ủy đảng, của tập thể và
của cá nhân, nhất là người đứng đầu trong bổ nhiệm cán bộ, góp phần khắc phục
những biểu hiện cá nhân, cục bộ, thiếu dân chủ, không công tâm, nể nang, tùy tiện
trong bổ nhiệm cán bộ. Đổi mới quy trình bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử


17theo hướng công khai, minh bạch, giảm bớt thủ tục, đáp ứng kịp thời việc kiện toàn
đội ngũ cán bộ.
3.3. Phát huy dân chủ gắn với định hướng của người đứng đầu trong
bổ nhiệm cán bộ
Trong tổ chức thực hiện phải giữ vững nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, nguyên tắc tập trung dân chủ, đi
đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong
hệ thống chính trị.

3.4. Định kỳ tổng kết rút kinh nghiệm
Cấp uỷ, thủ trưởng đơn vị cần chỉ đánh giá, rút kinh nghiệm về những ưu
điểm và hạn chế trong q trình thực hiện, từ đó đề ra biện pháp thực hiện tốt hơn
trong thời gian tiếp theo; chú ý phát hiện nhân tố điển hình, có cách làm mới, sáng
tạo trong thực hiện quy hoạch cán bộ để kịp thời biểu dương, khen thưởng và
nhân rộng; đồng thời có biện pháp xử lý, khắc phục hạn chế ở những đơn vị thực
hiện chưa tốt.
3.5. Phát huy vai trị của cơ quan tham mưu
Cơng tác tổ chức và cán bộ là một cơng việc khó, đụng chạm tới đời
sống, tình cảm và định hướng hoạt động tổ chức, của con người. Đó là khâu then chốt của
vấn đề then chốt. Vì vậy, địi hỏi bộ máy làm cơng tác cán bộ phải thật sự hồn thiện, có
trình độ tổ chức khoa học, chuyên sâu về sử dụng con người.
Việc nâng cao chất lượng tham mưu của đơn vị làm công tác tổ chức - cán bộ
cần tập trung: Xây dựng các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tham mưu cho cấp ủy
trong công tác cán bộ; Hồn thiện bộ máy làm cơng tác cán bộ; Lựa chọn, đào tạo, bồi
dưỡng người làm công tác tổ chức - cán bộ; Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đối
với bộ phận làm công tác cán bộ.
3.6. Lắng nghe ý kiến phản hồi, góp ý của nhân dân
Cơng tác cán bộ phải dân chủ, công khai và khách quan. Khi bổ nhiệm cán bộ
phải lấy phiếu tín nhiệm và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Hiện nay, nếu ở những nơi
chưa có những quy định cụ thể về việc lấy ý kiến của nhân dân thì phải bổ sung.
3.7. Tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo của cấp ủy cấp trên trực tiếp
Tiếp tục tăng cường và nâng cao vai trị lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác tổ
chức - cán bộ trong hệ thống chính trị là vấn đề có tính ngun tắc. Nâng cao chất
lượng tồn diện, năng lực lãnh đạo cơng tác cán bộ của cấp ủy đảng là nhân tố quyết
định sự thắng lợi của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng.
Cấp ủy Đảng phải phát huy tinh thần trách nhiệm, am hiểu cán bộ thuộc thẩm
quyền quản lý, lắng nghe dư luận xã hội, nắm vững các quan điểm của Đảng, Nhà
nước về cơng tác cán bộ, có kiến thức về nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực mà cán bộ
cơng tác, đặc biệt là phải có cái tâm trong sáng, hết lịng vì sự nghiệp cách mạng. Hơn



18nữa, trước mỗi quyết định quan trọng về công tác cán bộ, cần thẳng thắn trao đổi, thảo
luận, cân nhắc kỹ càng.

KẾT LUẬN
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã chỉ ra: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ
công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng
khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách


19phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức,
có tài. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình
trạng chạy theo bằng cấp. Làm tốt cơng tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý
cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch
cán bộ cấp chiến lược. Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu
chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hồn thiện, lấy hiệu quả cơng tác thực tế và sự
tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Không bổ nhiệm cán bộ không đủ
đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa. Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ
chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm
chất, năng lực, khơng hồn thành nhiệm vụ, uy tín giảm sút. Có chế tài xử lý
nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi,
chạy bằng cấp, chạy huân chương. Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản
lý theo quy hoạch ở các ngành, các cấp; khắc phục tư tưởng cục bộ, khép kín. Tăng
cường công tác giáo dục, quản lý cán bộ. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo và quản lý các cấp, đội ngũ chuyên gia đầu ngành. Đổi mới, trẻ hoá đội ngũ cán
bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát
triển”
Vì vậy, để cơng tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ quản lý, lãnh đạo tại Sở Xây dựng

tỉnh … thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp ủy Đảng, đảng viên phải
nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn về nguyên tắc tập trung dân chủ, hoàn thiện và
thực hiện nghiêm túc hệ thống các quy chế, quy trình bổ nhiệm cán bộ; nâng cao chất
lượng toàn diện, năng lực lãnh đạo và thực hiện công tác cán bộ của cấp ủy đảng;
nâng cao chất lượng cơ quan tham mưu về công tác tổ chức – cán bộ; tăng cường sự
lãnh dạo của Tỉnh ủy và sự hướng dẫn của các ban thuộc Tỉnh ủy. Đây là những giải
pháp thiết thực đảm bảo cho công tác bổ nhiệm cán bộ thực sự khoa học, nghiêm túc,
công tâm, khách quan, dân chủ.
Đặc biệt, cần xác định rõ trách nhiệm cấp ủy, người đứng đầu và cơ quan tham
mưu về công tác cán bộ; phát huy vai trị của các đồn thể nhân dân và cả hệ thống
chính trị trong cơng tác cán bộ để xây dựng được đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý của Sở Xây dựng tỉnh … thực sự vững mạnh, ngang tầm,
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ./.


20TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, XII;
[2]. Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị về cơng tác
quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH;
[3]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước;
[4]. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Định lần thứ XIX;
[5]. Luật Cán bộ, công chức năm 2008;
[6]. Nghị định số 18/2010/NĐ-CP của chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức ngày 5/3/2010;
[7]. Nghị định 06/2010/NĐ-CP của chính phủ quy định những người là
cơng chức ngày 25/01/2010;
[8]. Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/ 2008 của Chính phủ quy định tổ
chức các cơ quan chun mơn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương ;

[9]. Quyết định số …/QĐ - UBND ngày … của UBND tỉnh … về việc tổ chức
các cơ quan chuyên môn thuộc tỉnh;
[10]. Quyết định số .../QĐ-UBND ngày ... của UBND tỉnh ... về việc Ban hành
Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Xây dựng.



×