Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý trường tiểu học nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.87 KB, 80 trang )

Vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý trường tiểu
học nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
MỤC LỤC
Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục tiêu nghiên cứu
III.Nhiệm vụ nghiên cứu
IV.Phương pháp nghiên cứu
Phần nội dung
Chương I: Một số vấn đề lí luận của việc vận dụng nguyên tắc tập trung
dân chủ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên TH
1. Cơ sở khoa học của việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân
chủ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên TH
2. Cơ sở pháp lý của việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên TH
3. Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân
chủ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên TH
Chương II: Thực trạng của việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường tiểu học
Nam Sơn, Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá.
1. Một số đặc điểm của trường tiểu học Nam Sơn, Quảng Xương, tỉnh
Thanh Hoá.
2. Một số biện pháp của việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường tiểu học Nam
Sơn, Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá.
2.2. Về công tác quản lý, tổ chức
2.2. Xây dựng đội ngũ giáo viên nhà trường
3
5
1
2.3. Một số tồn tại của việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm


nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường tiểu học Nam
Sơn, Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá.
2.4. Một số vấn đề đặt ra trong việc quản lý nhằm xây dựng và phát triển
đội ngũ giáo viên trường tiểu học Nam Sơn, Quảng Xương,
tỉnh Thanh Hoá.
Chương III: Một số biện pháp của việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân
chủ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường tiểu
học Nam Sơn, Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá.
1.


Tăng cường nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý và giáo viên về việc
vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên trường tiểu học Nam Sơn, Quảng
Xương, tỉnh Thanh Hoá.
1.2. Đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng năng lực đội ngũ giáo viên.
1.3. Đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trường
tiểu học.
1.4. Đẩy mạnh công tác thi đua, khen thưởng nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên.
2. Một số kiến nghị về việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Phần kết luận
1. Kết luận
2. Bài học kinh nghiệm
2
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Nhân dân ta rất hiếu học và rất coi trọng vai trò của thầy giáo. Câu
ca dao “ Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.” đã

nói lên điều đó. Trong lễ giáo trước đây, người ta sắp xếp thứ bậc: Quân -
Sư – Phụ; xếp thầy trên cha. Thứ bậc ấy tuy là của đạo Nho nhưng được
nhân dân ta chấp nhận, điều đó chứng tỏ nhân dân ta đánh giá cao vai trò của
giáo dục, của học vấn trong sự phát triển của xã hội. Bác Hồ rất quan tâm
đến sự nghiệp giáo dục và đội ngũ thầy giáo. Về sự nghiệp giáo dục, người
đã từng nói: “ Vì sự nghiệp mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
người”. Về vai trò thầy giáo, Bác dạy “ nếu không có thầy giáo thì không
có giáo dục ”. Nhưng để thực hiện được vai trò vẻ vang của mình, trước
hết: “ Thầy phải xứng đáng làm thầy, thầy phải được lựa chọn cẩn thận vì
không phải ai cũng làm thầy được .”
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 2 khóa VIII về
những giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu GD-ĐT từ nay đến năm 2010
đã nêu: “ Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội
tôn vinh, giáo viên phải đủ đức, đủ tài ”. Điều đó có nghĩa là giáo viên
không đủ đức, đủ tài không thể tạo ra những con người đi vào kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên của trí tuệ, kỷ nguyên của KHKT hiện đại; và sẽ không hoàn
thành sứ mệnh CNH - HĐH đất nước. Đề cập đến vai trò đội ngũ giáo viên,
Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương 2, khóa VIII nhấn mạnh : “Xây dựng
đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học, giáo viên là nhân
tố quyết định, là lực lượng cốt cán để biến mục tiêu giáo dục thành hiện
thực, có vai trò quyết định về chất lượng và hiệu quả giáo dục”.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “ Nghề dạy học là nghề sáng
tạo bậc nhất vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”.
Chỉ thị số 40- CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010" đã ghi nhận rõ lí do vì sao
phải xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
3
dục : “Trong lịch sử nước ta, "tôn sư trọng đạo" là truyền thống quý báu của
dân tộc, nhà giáo bao giờ cũng được nhân dân yêu mến, kính trọng. Những

năm qua, chúng ta đã xây dựng được đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục ngày càng đông đảo, phần lớn có phẩm chất đạo đức và ý thức
chính trị tốt, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng được nâng cao. Đội
ngũ này đã đáp ứng quan trọng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của đất
nước. Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục có những hạn chế, bất cập. Số lượng giáo viên còn thiếu nhiều, đặc
biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số Cơ cấu giáo
viên đang mất cân đối giữa các môn học, bậc học, các vùng, miền. Chất
lượng chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ nhà giáo có mặt chưa đáp ứng
yêu cầu và truyền đạt lý thuyết, ít chú ý đến phát triển tư duy, năng lực sáng
tạo, kỹ năng thực hành của người học; một bộ phận nhà giáo thiếu gương
mẫu trong đạo dức, lối sống, nhân cách, chưa làm gương tốt cho học sinh,
sinh viên. Năng lực của sự nghiệp giáo dục. Chế độ, chính sách còn bất hợp
lý, chưa tạo được động lực đủ mạnh để phát huy tiềm năng của đội ngũ này.
Tình hình trên đòi hỏi phải tăng cường xây dựng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng
yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài, nhằm thực hiện thành
công Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và chấn hưng đất nước”.
Từ nhận thức trên đây, tôi thấy vị trí, vai trò của giáo viên trong sự
nghiệp giáo dục, càng thấy hơn trách nhiệm xây dựng đội ngũ giáo viên
“vừa hồng vừa chuyên” của các nhà quản lý giáo dục.
Từ những suy nghĩ trên đây, tôi thấy rõ hơn trách nhiệm xây dựng
đội ngũ giáo viên đạt chuẩn ở các trường tiểu học là việc làm cần thiết và
phải làm ngay. Đó cũng là mục tiêu hàng đầu của quản lý nhà nước.
Xuất phát từ những lý do khách quan và lý do chủ quan như đã phân
tích ở trên, tôi lựa chọn đề tài: “ Một số biện pháp quản lý nhằm xây dựng
và phát triển đội ngũ giáo viên trường tiểu học Nam Sơn, Quảng Xương,
tỉnh Thanh Hoá”.

II. Mục tiêu nghiên cứu
4
Xuất phát từ nhiệm vụ, vai trò, vị trí và trọng trách của đội ngũ giáo
viên; xuất phát từ thực trạng bức xúc của đội ngũ giáo viên nói riêng và giáo
dục đào tạo nói chung hiện nay; trước sự đòi hỏi, phát triển của đất nước
trong thời kỳ Công nghiệp hoá - HĐH đất nước, chúng tôi mạnh dạn đề xuất
một số biện pháp quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên
trường tiểu học Nam Sơn, Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá”.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Xác định cơ sở khoa học của việc quản lý nhằm xây dựng và phát
triển đội ngũ giáo viên trường tiểu học
2. Thực trạng của đội ngũ giáo viên trường tiểu học Nam Sơn, Quảng
Xương, tỉnh Thanh Hoá.
3. Những giải pháp, biện pháp nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo
viên trường tiểu học Nam Sơn, Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá.
4. Đối tượng nghiên cứu: “Một số biện pháp quản lý nhằm xây dựng và
phát triển đội ngũ giáo viên trường tiểu học Nam Sơn, Quảng Xương,
tỉnh Thanh Hoá.
IV. Phương pháp nghiên cứu
1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
3. Nhóm phương pháp nghiên cứu hỗ trợ (biểu bảng, sơ đồ).
PHẦN NỘI DUNG:
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CỦA TRƯỜNG TIỂU HỌC.
1. Cơ sở khoa học của việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên
trường tiểu học
Từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, ngành giáo dục Việt
Nam đã không ngừng chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên cả về số lượng

lẫn chất lượng. Ngày nay, chúng ta đã có một hệ thống trường sư phạm đào
tạo giáo viên mọi cấp, từ Trung ương đến địa phương. Tỉ lệ giáo viên chuẩn
5
ngày một cao hơn. Đội ngũ giáo viên đó đã tạo nên thành tựu rực rỡ cho nền
giáo dục XHCN Việt Nam. Vấn đề đội ngũ giáo viên hiện nay là họ đã thấm
nhuần tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương 2, Ngành
giáo dục và đào tạo đã có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng của đội
ngũ giáo viên nói chung, giáo viên phổ thông nói riêng, đã và đang không
ngừng lớn mạnh về số lượng cũng như chất lượng.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây với cơ chế thị trường, bên cạnh
những mặt tích cực, đã gây nên những biến động lớn, làm đảo lộn nhiều bậc
thang giá trị trong xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. Nguyên nhân của
sự giảm sút này có nhiều, trong đó vấn đề đội ngũ giáo viên là nguyên nhân
quan trọng. Bởi một số giáo viên còn có những biểu hiện chưa toàn tâm toàn
ý phục vụ sự nghiệp giáo dục, và một số bộ phận không đủ điều kiện đảm
nhận trách nhiệm người thầy. Sự phân bố đội ngũ giảng dạy lại không đồng
đều; nơi thừa, nơi thiếu, môn thừa, môn thiếu. Đời sống cán bộ giáo viên
cũng có sự phân bố sâu sắc. Trong lúc đó, đất nước ta trong giai đoạn hiện
nay đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ giỏi về trình độ nhận thức, trình độ
chuyên môn, trình độ sư phạm, trình độ công nghệ thông tin, có năng lực,
phẩm chất đạo đức tốt.
Đảng, Nhà nước, ngành giáo dục đã và đang có chính sách và những
biện pháp tích cực, cụ thể nhằm tháo gỡ những khó khăn của giáo dục nói
chung và đội ngũ giáo viên nói riêng, chuẩn bị cho sự đổi mới toàn diện giáo
dục khi bước vào thiên niên kỉ mới. Tuy nhiên, mọi chính sách, biện pháp dù
tích cực đến mấy cũng trở thành hình thức nếu bản thân đội ngũ giáo viên và
mỗi giáo viên không ý thức đầy đủ trách nhiệm khó khăn và cao cả của mình
để tự đổi mới và tự vươn lên.
b) Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động

chính trị xã hội ở nước ta, đồng thời cũng là một nguyên tắc quan trọng
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước của nước ta.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc Hiến định; Điều 6, Chương I, Hiến
pháp 1992 (đã sửa đổi, bổ xung năm 2001) ghi nhận:
"Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ".
6
Quan điểm về tổ chức và hoạt động của nhà nước theo nguyên tắc tập
trung dân chủ đã được Nhà nước CHXHCN Việt Nam ghi nhận trong ba văn
bản Hiến pháp: Hiến pháp 1959 (Điều 4, Chương I); Hiến pháp 1980 (Điều 6,
Chương I); Hiến pháp 1992 (Điều 6, Chương I - sửa đổi).
* Những yêu cầu và nội dung của
nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa sự lãnh đạo, chỉ đạo tập
trung, thống nhất của các cơ quan trung ương, của cấp trên với mở rộng dân
chủ, nhằm tăng cường tính chủ động, sáng tạo và khai thác mọi tiềm năng của
các cơ quan địa phương, của cấp dưới, đồng thời đảm bảo phát huy quyền làm
chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước và thực hiện các quyền
và nghĩa vụ công dân.
Sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương cần tập trung vào các vấn đề vĩ mô
như: thể chế, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành cũng
như toàn bộ nền kinh tế, còn mở rộng dân chủ ở địa phương là phải có sự phân
định rõ ràng về thẩm quyền và trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền; tiến hành
phân cấp quản lý cho địa phương quản lý các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo
dục, đời sống, thu - chi ngân sách, tổ chức nhân sự ở địa phương; xác định rõ
trách nhiệm quản lý theo ngành và theo lãnh thổ.
Các cơ quan quyền lực nhà nước là do dân bầu ra, các cơ quan đó phải
chịu trách nhiệm, phải báo cáo công tác trước nhân dân, phải chịu sự giám sát
của nhân dân. Các cơ quan tư pháp, hành pháp tối cao là do Quốc hội lập ra,
các cơ quan đó cũng phải chịu sự giám sát của Quốc hội; phải chịu trách nhiệm

và phải báo cáo công tác trước Quốc hội.
Nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi phải có sự qui định rõ ràng về các
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của từng loại cơ quan nhà nước, của từng
chức danh công chức, cán bộ. Phải có sự phân định rõ trách nhiệm tập thể của
các cơ quan nhà nước và trách nhiệm cá nhân của từng công chức, cán bộ. Phải
xây dựng chế độ kết hợp giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phục trách.
Quản lý nhà nước về giáo dục cũng tuân thủ nguyên tắc này. Dưới góc
độ vĩ mô nguyên tắc này có nghĩa là nhà nước thống nhất quản lí HTGDQD
về mục tiêu, chương trình, nội dung, qui chế thi cử và hệ thống văn bằng
7
(Luật Giáo dục 2005). Bên cạnh đó phân cấp rõ ràng về QLGD cho địa
phương và tạo điều kiện để cơ sở phát huy chủ động và sáng tạo.
Nguyên tắc
tập trung dân chủ
quá quen thuộc đối với tất cả các cơ quan
nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, các đơn vị sự nghiệp… ở Việt Nam.
Tuy nhiên để hiểu đúng và có thể vận dụng được nguyên tắc
tập trung
dân chủ
trong hoạt động quản lí nhà nước về giáo dục ở cơ sở cần suy nghĩ
để trả lời câu hỏi : Làm thế nào giải quyết tốt mối quan hệ giữa chế độ thủ
trưởng và thực hiện dân chủ cơ sở ở một trường học ?
Như vậy, nguyên tắc
tập trung dân chủ
đối với quản lí trường tiểu học
có nghĩa là nhà nước thống nhất, tập trung quản lí về chế độ, chính sách giáo
dục ; về mục tiêu, nội dung giáo dục và qui chế văn bằng đồng thời tạo
điều kiện cho cơ sở chủ động sáng tạo trong việc triển khai các hoạt động
giáo dục và quản lí trường tiểu học cụ thể, tránh việc ôm đồm hoặc buông
lỏng trên cơ sở phân cấp, phân quyền về quản lí trường tiểu học rõ ràng bằng

một hành lang pháp lí hợp lí, đồng bộ.
Đối với cơ sở phát huy quyền làm chủ của tập thể sư phạm, đồng thời
đề cao trách nhiệm cá nhân theo chế độ thủ trưởng đối với việc quản lí
trường tiểu học. Dân chủ hoá giáo dục, dân chủ hoá nhà trường là các tư
tưởng lớn, tuy nhiên việc dựa vào các văn bản pháp luật, pháp qui để đảm
bảo quyền và nghĩa vụ đối với mọi đối tượng tham gia hoạt động giáo dục là
điều cần nắm chắc khi triển khai nguyên tắc tập trung dân chủ ở cơ sở.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây là phát huy
quyền chủ động của Hiệu trưởng phối hợp với tổ chức Đảng, các tổ chức
đoàn thể xã hội trong quản lý trường TH.
Sự phối hợp giữa Hiệu trưởng với tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể
xã hội trong trường TH hình thành nên hệ thống các mối quan hệ. Hệ thống
quan hệ này có nhiều mức độ.
Có thể chỉ tham gia ở mức độ góp phần vào một hoạt động, một tổ chức
chung nào đó, chưa thể hiện được chiều sâu trong việc làm.
Có thể cùng góp sức làm chung một công việc, nhưng có thể không
thực hiện chung một trách nhiệm. Sự cộng tác đôi khi có tính chất nhất thời,
tuỳ từng vụ việc.
8
Sự hợp tác cùng chung sức, hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc một
lĩnh vực hoạt động, nhằm một mục tiêu giáo dục (MTGD)
Tóm lại quan hệ đó là quan hệ phối hợp với nhiều mức độ khác nhau.
Quan hệ ấy cũng nhiều tầng, bậc do vai trò của từng lực lượng trong
quan hệ phối hợp.
. Hiệu trưởng phối hợp với tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể trong
trường TH nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục, cụ thể là :
a) Quan hệ phối hợp trên cơ sở quy định của pháp luật
Để phát triển giáo dục nói chung và phát triển trường tiểu học nói riêng
có nhiều văn bản pháp luật quy định nhiệm vụ, trách nhiệm của nhà trường
và các tổ chức đoàn thể.

- "Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát
triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân;…. Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học
trung học cơ sở." (Điều 27 Luật Giáo dục).
- "Các đoàn thể nhân dân trước hết là Đoàn TNCS HCM, các tổ chức
xã hội, các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà trường có trách nhiệm giáo
dục thanh niên, thiếu niên, nhi đồng". "Đoàn TNCS HCM có trách nhiệm
phối hợp với nhà trường giáo dục thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, vận động
thanh niên gương mẫu trong học tập, rèn luyện tham gia sự nghiệp giáo
dục".
Điều 22, Điều lệ trường TH quy định: ”Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam
và đoàn thể trong trường
1. Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong trường tiểu học lãnh đạo
nhà trường và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ
của Đảng.
2. Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu
niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Sao Nhi đồng Hồ Chí Minh và các tổ chức
9
xã hội khác hoạt động trong trường tiểu học theo quy định của pháp luật và
Điều lệ của từng tổ chức nhằm giúp nhà trường thực hiện mục tiêu, nguyên
lý giáo dục”.
Như vậy, nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây phải
được biểu hiện ở sự phối hợp giữa Chi bộ Đảng, chính quyền, Công đoàn,
Đoàn TNCS HCM trong trường THPT được các văn bản nhà nước quy định,
là trách nhiệm chung, sự thống nhất thực hiện MTGD.
Trong mối quan hệ phối hợp vì MTGD, Hiệu trưởng phải luôn luôn giữ

vai trò trung tâm, nòng cốt. Tuỳ theo nội dung hoạt động, đặc điểm của tổ
chức đoàn thể làm cơ sở để xác định mức độ phối hợp và xây dựng cơ chế
phối hợp. Sự vận hành của cơ chế được chỉ đạo bởi nguyên tắc Đảng lãnh
đạo - Chính quyền quản lý - Nhân dân làm chủ, toàn xã hội tham gia dưới
sự quản lý của Nhà nước.
. Hiệu trưởng phối hợp với Công đoàn trong trường THPT
Quan hệ phối hợp giữa Hiệu trưởng và Công đoàn trong trường THPT là
sự vận dụng mềm dẻo, có tính nguyên tắc về quyền, trách nhiệm của tổ chức
công đoàn với thủ trưởng đơn vị cơ quan.
- Quyền kiến nghị, tham gia ý kiến của Công đoàn đối với Hiệu trưởng
trong các hoạt động : Xây dựng chương trình kế hoạch năm học ; Dự hội
nghị của trường và các cuộc họp quan trọng do Hiệu trưởng tổ chức ; Giải
quyết và sắp xếp việc làm của cán bộ, giáo viên, nhân viên; Quản lý bảo
hiểm xã hội ; Giải quyết khiếu nại, tố cáo
- Quyền cùng thực hiện công việc của Công đoàn với Hiệu trưởng:
Tổ chức thi đua; Chăm lo công tác bảo hiểm xã hội; Quản lý quỹ phúc
lợi; Quyền thoả thuận quyết định của Công đoàn với Hiệu trưởng: Quy định
mối quan hệ giữa Hiệu trưởng với Công đoàn; Quyết định tiền lương,
thưởng, nhà ở, kỷ luật; Điều kiện làm việc cung cấp thông tin cho Công
đoàn; Thời gian hoạt động, điều kiện hoạt động của cán bộ Công đoàn.
- Quyền "đối thoại" giữa Công đoàn và Hiệu trưởng.
Đại diện người lao động đối thoại với Hiệu trưởng; Cấp phát tài chính,
và nhiều hoạt động khác.
10
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, Công đoàn ngành Giáo dục đã
phối hợp với Bộ GD & ĐT tạo phát động bốn cuộc vận động : dân chủ hoá
nhà trường, xã hội hoá giáo dục, kỷ cương - tình thương - trách nhiệm và gia
đình nhà giáo văn hóa.
Hiệu trưởng và Công đoàn trong trường THPT phối hợp thực hiện bốn
cuộc vận động đó, trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của cấp trên và tình

hình thực tiễn của địa phương.
Như vậy mối quan hệ giữa Hiệu trưởng và Công đoàn trong trường
THPT rất đa dạng và phong phú ở nhiều mức độ khác nhau. Hiệu quả của
sự phối hợp này phụ thuộc vào sự năng động, năng lực của Hiệu trưởng và
Ban chấp hành Công đoàn trong việc thực hiện các văn bản pháp quy và
giải quyết tình hình thực tiễn trong nhà trường.
. Hiệu trưởng phối hợp với Đoàn TNCS HCM
Đoàn TNCS HCM trong trường TH là tổ chức gần Đảng nhất, là lực
lượng đông đảo trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường.
Đoàn TNCS HCM có vị trí, vai trò đã được khẳng định trong Hiến
pháp, trong Luật Giáo dục và trong Điều lệ Đoàn. Đoàn có trách nhiệm phối
hợp với Hiệu trưởng về giáo dục thế hệ trẻ. Đoàn có vai trò nòng cốt trong
các tổ chức học sinh và thanh niên trong các hoạt động giáo dục. Tổ chức
quần chúng đông đảo này là đối tượng giáo dục đồng thời cũng là chủ thể
công tác giáo dục. Cho nên vai trò đảm bảo hiệu quả chất lượng giáo dục
thực sự đặt lên vai Đoàn Thanh niên. Trong sự phối hợp giữa Hiệu trưởng và
Đoàn TNCS HCM có rất nhiều hình thức phong phú về công tác giáo dục
trong nhà trường.
Đoàn TNCS HCM trong trường TH có tiềm năng lớn tham gia công tác
giáo dục.
Đoàn Thanh niên cùng với Hiệu trưởng thực hiện các hoạt động ngay
trong nhà trường. Việc chỉ đạo hoạt động đoàn trong nhà trường thực chất là
việc chỉ đạo học tập và tham gia các hoạt động giáo dục theo kế hoạch của
nhà trường, kết hợp với những chủ trương về giáo dục của bản thân Đoàn
Thanh niên theo hướng chỉ đạo của Ban nhà trường từ Trung ương Đoàn.
Đoàn còn hoạt động ngay trong tổ chức của những người dạy, vì không
ít giáo viên trẻ là đoàn viên thanh niên, cho nên chính đoàn viên là người
11
học và người dạy này sẽ góp phần quyết định chất lượng và hiệu quả của
giáo dục.

Đoàn cùng với nhà trường tổ chức và thực hiện các hoạt động ngoại
khoá chương trình giáo dục ngoài nhà trường.
Các hoạt động ngoại khoá tuy gắn với từng bộ môn nhưng cần có sự hỗ
trợ của Đoàn, nhất là những hoạt động phù hợp với tính chất của lứa tuổi và
chức năng của Đoàn. Chương trình hoạt động giáo dục ngoài nhà trường xây
dựng theo các chủ điểm có sự phối hợp từ Trung ương (Bộ GD&-ĐT và
Trung ương Đoàn TNCS HCM). Đoàn có vai trò chủ động tổ chức hoạt
động này.
- Đoàn thanh niên giữ vai trò chính trong các hoạt động thăm quan, du
lịch, vui chơi giải trí, thể dục thể thao, sinh hoạt câu lạc bộ … Đoàn còn giữ
vai trò nòng cốt của nhiều chương trình xã hội trong nhà trường như phong
trào "thanh niên lập nghiệp", "Tuổi trẻ giữ nước" cuộc vận động lớn năm
2001 - 2002 " xã hội tình nguyện vì trẻ em đặc biệt khó khăn" do Trung
ương Đoàn phát động.
Để phát huy vai trò trách nhiệm của Đoàn TNCS HCM trong trường
THPT về công tác giáo dục cần phát triển tổ chức Đoàn ngày càng vững
mạnh. Cho nên ở những nơi, những lúc cần thiết chính Hiệu trưởng phải tham
gia vào việc xây dựng, củng cố Đoàn Thanh niên, nhất là đổi mới phương thức
hoạt động của Đoàn tạo nên tính đồng bộ trong việc đổi mới nội dung và
phương pháp giáo dục trong trường TH
Tóm lại, nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây là
phát huy quyền chủ động của cơ sở dựa trên hành lang pháp lí được qui định
bởi Luật Giáo dục và những văn bản pháp quy trong hoạt động quản lí giáo
dục, đồng thời nâng cao tinh thần cá nhân phụ trách, tập thể lãnh đạo và
phát huy dân chủ của tập thể theo qui chế dân chủ cơ sở do chính phủ và Bộ
giáo dục ban hành. Muốn có nguyên tắc tập trung dân chủ ở cơ sở, trong tổ
chức điều hành công việc hàng ngày cần thực hiện tốt chế độ thủ trưởng
nhưng phải bảo đảm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
1.2. Tập thể sư phạm trong trường tiểu học
a. Khái niệm

12
Tập thể sư phạm trong trường tiểu học là tổ chức của tập thể lao động sư
phạm, đứng đầu là Hiệu trưởng. Tập thể sư phạm liên kết các giáo viên, cán
bộ, nhân viên thành một cộng đồng giáo dục có tổ chức, có mục đích giáo
dục thống nhất, có phương thức hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục
của nhà trường. Đội ngũ giáo viên là lực lượng chủ yếu, quan trọng nhất
trong tập thể sư phạm nhà trường làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong
nhà trường, là người quyết định chất lượng đào tạo trong nhà trường.
Tập thể sư phạm nhà trường đa dạng hoá về cơ cấu tổ chức, bao gồm
các tổ chức hành chính, tổ chức Đảng và tổ chức đoàn thể. Tổ chức trong
nhà trường và các tổ chuyên môn, tổ hành chính, Hội đồng trường và các hội
đồng khác.
Giáo viên nhà trường tiểu học được tổ chức thành các tổ chuyên môn,
theo môn học, hoặc nhóm môn học, có tổ trưởng, tổ phó, do hiệu trưởng chỉ
định và giao nhiệm vụ: nhiệm vụ của họ là xây dựng kế hoạch hoạt động của
tổ, hướng dẫn xây dựng và quản lý kế hoạch của từng giáo viên trong tổ theo
kế hoạch dạy học, tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức kiểm
tra, đánh giá chất lượng thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, đề xuất khen
thưởng hoặc kỷ luật đối với những giáo viên có thành tích hoặc vi phạm kỷ
luật. Tổ trưởng sử dụng các buổi sinh hoạt để thực hiện nhiệm vụ quản lý
của mình.
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhà trường tiểu học được
tổ chức thành chi bộ - Chi bộ lãnh đạo nhà trường hoạt động theo điều lệ
Đảng trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
13
Cơ cấu tổ chức trong nhà trường tiểu học
Điều 20, Điều lệ trường tiểu học, ban hành kèm theo Quyết định số
51/2007/QĐ-BGDĐT, ngày 31 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo quy định :
“Hội đồng trường đối với trường công lập, Hội đồng quản trị đối với trường

tư thục được gọi chung là Hội đồng trường. Hội đồng trường là tổ chức chịu
trách nhiệm quyết định về phương hướng hoạt động của nhà trường, huy
động và giám sát việc sử dụng các nguồn lực dành cho nhà trường, gắn nhà
trường với cộng đồng và xã hội, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục.
Cơ cấu tổ chức, hoạt động và thủ tục thành lập Hội đồng trường tiểu học
công lập :
a) Cơ cấu tổ chức :
Hội đồng trường tiểu học công lập gồm: đại diện tổ chức Đảng Cộng
sản Việt Nam, Ban giám hiệu (gồm Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng), đại
diện Công đoàn, đại diện Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng
phụ trách Đội, đại diện các tổ chuyên môn, đại diện tổ văn phòng;
Hội đồng trường có chủ tịch, thư ký và các thành viên khác. Chủ tịch
Hội đồng trường công lập không đồng thời là Hiệu trưởng. Số lượng thành
viên của Hội đồng trường từ 9 đến 11 người.
b) Hoạt động của Hội đồng trường :
Hội đồng trường họp thường kỳ ít nhất hai lần trong một năm. Trong
trường hợp cần thiết, khi Hiệu trưởng hoặc ít nhất một phần ba số thành viên
Hội đồng trường đề nghị, Chủ tịch Hội đồng trường có quyền triệu tập phiên
họp bất thường để giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường. Chủ tịch Hội đồng trường có
thể mời đại diện chính quyền và đoàn thể địa phương tham dự cuộc họp của
Hội đồng trường khi cần thiết;
Phiên họp Hội đồng trường được công nhận là hợp lệ khi có mặt từ ba
Chi bộ Đảng
Công đoàn
Ban giám hiệu
Hội đồng trường
Đoàn, Đội, Sao
Nhi đồng
Hội đồng thi đua

khen thưởng,
Bí thư
14
Tổ chuyên môn
Hội đồng kỉ luật
Ban đại diện Cha
mẹ HS
phần tư số thành viên của hội đồng trở lên (trong đó có Chủ tịch hội đồng).
Nghị quyết của Hội đồng trường được thông qua và có hiệu lực khi được ít
nhất hai phần ba số thành viên có mặt nhất trí. Các nghị quyết của Hội đồng
trường được công bố công khai trong toàn trường;
Hiệu trưởng nhà trường có trách nhiệm thực hiện các nghị quyết hoặc
kết luận của Hội đồng trường về những nội dung được quy định tại khoản 3
của Điều này. Khi Hiệu trưởng không nhất trí với nghị quyết hoặc kết luận
của Hội đồng trường, phải kịp thời báo cáo xin ý kiến cơ quan quản lý giáo
dục cấp trên trực tiếp. Trong khi chờ ý kiến của cấp trên, Hiệu trưởng vẫn
phải thực hiện theo nghị quyết hoặc kết luận của Hội đồng trường đối với
những vấn đề không trái với pháp luật hiện hành và Điều lệ trường tiểu học.
c) Thủ tục thành lập :
Căn cứ vào cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động của Hội
đồng trường, Hiệu trưởng tổng hợp danh sách nhân sự do tập thể giáo viên
và các tổ chức, đoàn thể nhà trường giới thiệu, làm tờ trình đề nghị Phòng
giáo dục và đào tạo trình Uỷ ban nhân dân cấp huyện ra quyết định thành
lập Hội đồng trường. Chủ tịch Hội đồng trường do các thành viên hội đồng
bầu ra; thư ký hội đồng do Chủ tịch hội đồng chỉ định. Nhiệm kỳ của Hội
đồng trường là 5 năm; hằng năm, nếu có sự thay đổi về nhân sự, Hiệu
trưởng làm văn bản đề nghị cấp có thẩm quyền ra quyết định bổ sung, kiện
toàn Hội đồng trường.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng trường tiểu học công lập :
a) Quyết nghị về mục tiêu, chiến lược, các dự án, kế hoạch đầu tư và

phát triển của nhà trường trong từng giai đoạn và từng năm học;
b) Quyết nghị về tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản của nhà trường; giới
thiệu người để bổ nhiệm làm Hiệu trưởng theo yêu cầu của cơ quan có thẩm
quyền;
c) Giám sát các hoạt động của nhà trường; giám sát việc thực hiện các
nghị quyết của Hội đồng trường, việc thực hiện quy chế dân chủ trong các
hoạt động của nhà trường.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thành phần, cơ cấu tổ chức, thủ tục
thành lập và hoạt động của Hội đồng trường đối với trường tiểu học tư thục
được thực hiện theo Quy chế tổ chức và hoạt động của trường tư thục thuộc
15
các cấp học phổ thông”.
Các tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ban nữ
công là những tổ chức chính trị - xã hội được thành lập và hoạt động theo
quy định của Luật Giáo dục, Điều lệ trường TH, Điều lệ Công đoàn, Điều lệ
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nhằm phối hợp với nhà trường
thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục .
Mỗi tổ chức tập thể trong nhà trường tiểu học đều có chức năng,
nhiệm vụ cụ thể và có một sức mạnh riêng. Người quản lý có nhiệm vụ khai
thác tiềm năng của tổ chức đó để tạo nên sức mạnh tổng hợp của từng tập
thể sư phạm trong nhà trường.
b. Đặc điểm về lao động sư phạm:
Lao động của giáo viên là loại hình lao động đặc thù, đối tượng lao động sư
phạm trường tiểu học là học sinh lứa tuổi từ 06 đến 11 tuổi; lứa tuổi có sự
phát triển cao về tâm lý, sinh lý. Học sinh có nhu cầu cao về trí tuệ và tình
cảm với người thầy. Phương tiện lao động cũng rất đặc thù. Đó là nhân cách
của người thầy cùng các thiết bị dạy học, trong đó nhân cách người thầy
đóng vai trò quan trọng nhất. Thời gian lao động sư phạm không chỉ đảm
bảo được quy định trong chương trình đào tạo và chế độ lao động sư phạm
không chỉ đảm bảo được quy định trong chương trình đào tạo và chế độ lao

động mà cần mang tính năng động, sáng tạo, cộng với say mê nghề nghiệp
và tinh thần trách nhiệm trước thế hệ trẻ và trước toàn xã hội.
Sản phẩm của lao động sư phạm là những nhân cách phát triển toàn
diện, đạt được mục tiêu giáo dục của nhà trường. Nghĩa là sản phẩm đó
không được quyền có phế phẩm. Học sinh TH phải thoả mãn được những
nhu cầu của bản thân, gia đình và xã hội. Lao động sư phạm của người giáo
viên vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật và tính nhân đạo
cao. Nó mang đặc thù của nghề sư phạm, đồng thời có tính liên kết công tác,
phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. Bời vì sự
hình thành và phát triển nhân cách của người học sinh cũng như sự chi phối
của "Tổng hoà các mỗi quan hệ xã hội" trong đó tạp thể sư phạm nhà trường
là lực lượng giáo dục chuyên biệt có hệ thống, thường xuyên và cơ bản nhất.
Các yếu tố tâm lý xã hội của tập thể sư phạm: quá trình tâm lý xã hội
của một tập thể sư phạm thường biểu hiện ở sự giao tiếp thích nghi, tìm hiểu,
16
đánh giá, cảm hoá, thuyết phục, bắc chước, lan truyền cảm xúc cho nhau. Sự
chia rẽ, xung đột cũng có thể xảy ra trong quá trình tâm lý của tập thể sư
phạm. Trong quá trình đó, mối quan hệ thường tập trung vào Ban lãnh đạo
của tập thể sư phạm.
Ban giám hiệu, Chi bộ Đảng, Ban chấp hành Công đoàn. Ban chấp
hành Đoàn trường bao giờ cũng có tác động thúc đẩy hay kìm hãm các quá
trình tâm lý xã hội của tập thể sư phạm. Các thuộc tính của tập thể sư phạm
bao gồm tất cả các đặc điểm về đời sống tinh thần, về trạng thái tâm lý xã
hội của tập thể. Đó là nhu cầu về lợi ích chung của tập thể là những nét nổi
bật về truyền thống, kỷ cương, nề nếp của tập thể. Khi các thuộc tính này
được khơi dậy và phát huy thì sẽ trở thành động lực và sức mạnh tinh thần
của tập thể.
Giá trị của tập thể sư phạm mang ý nghĩa xã hội to lớn của tập thể sư
phạm, đó là nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, những công dân tương lai của đất
nước. Có thể nói tập thể sư phạm góp phần quan trọng vào sự nghiệp đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, họ xứng đáng được xã hội tôn vinh.
2. Cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý:
- Nghị quyết BCH Trung ương 2 khoá VIII đã nêu: "Xây dựng đội ngũ
giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học, giáo viên là nhân tố quyết
định, là lực lượng cốt cán để biến mục tiêu giáo dục thành hiện thực, có vai
trò quyết định về chất lượng, quyết định về hiệu quả giáo dục".
- Chỉ thị số 40- CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010 " đã ghi
nhận mục tiêu của việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 – 2010 là:
“Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng chuẩn
hoá, nâng cao chất lượng, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt
chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm
nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao
của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước”.
17
- Để thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo, Điều 15, Luật Giáo dục năm
2005 nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của nhà giáo : "Nhà giáo giữ vai trò quyết
định trong việc bảo đảm chất lượng GD.
Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học.
Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo; có chính sách sử dụng, đãi
ngộ, bảo đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực
hiện vai trò và trách nhiệm của mình; giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng
nhà giáo, tôn vinh nghề dạy học ".
Điều 27, Luật Giáo dục năm 2005 còn nhấn mạnh : “Mục tiêu của GD phổ
thông
1. Mục tiêu của GD phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo

đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân,
tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục
học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. GD tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự
phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
Điều 28, Luật Giáo dục năm 2005 nhấn mạnh : “Yêu cầu về nội dung,
phương pháp GD phổ thông
1. Nội dung GD phổ thông phải bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện,
hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh
lý lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu GD ở mỗi cấp học.
GD tiểu học phải bảo đảm cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về
tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính
toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về
hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật.
2. Phương pháp GD phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học;
bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú học tập cho học sinh.
18
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001 – 2010, ban hành kèm theo
Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg, ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ
tướng Chính phủ cũng quy định: “Mục tiêu phát triển giáo dục tiểu học là:
Phát triển những đặc tính tự nhiên tốt đẹp của trẻ em, hình thành ở học sinh
lòng ham hiểu biết và những đức tính, kỹ năng cơ bản đầu tiên để tạo hứng
thú học tập và học tập tốt. Củng cố và nâng cao thành quả phổ cập GD tiểu
học trong cả nước.
Tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường từ 95% năm 2000 đến

97% năm 2005 và 99% năm 2010.
Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg, ngày 11 tháng 01 năm 2005,
về việc phê duyệt Đề án"Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010"; Quyết
định số 09 cũng đã ghi nhận mục tiêu, các nhiệm vụ chủ yếu, các giải pháp
của việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục giai đoạn 2005 – 2010. Trong đó các nhiệm vụ chủ
yếu mà Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg nhấn mạnh là:
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo thuộc các cơ sở giáo dục
và dạy nghề công lập và ngoài công lập, bảo đảm đến năm 2010 đáp ứng đủ về số
lượng, trong đó có 80% giáo viên bậc mầm non, 100% giáo viên các cấp, bậc học
phổ thông, dạy nghề đạt chuẩn đào tạo theo quy định;
- Củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống các trường, khoa sư phạm, các
trường cán bộ quản lý giáo dục; đẩy mạnh việc xây dựng các trường Đại học Sư
phạm trọng điểm.
- Thực hiện đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục, đào tạo,
bồi dưỡng trong các trường, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng sư phạm theo hướng
hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, trong đó chú trọng đổi mới phương
pháp giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, gắn với nội dung đổi mới Chương trình giáo
dục phổ thông.
- Triển khai có hệ thống và chuẩn hoá công tác đào tạo, bồi dưỡng giảng
viên các trường đại học, cao đẳng và giáo viên các trường trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề; bảo đảm cho các nhà giáo được bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
theo quy định của Luật Giáo dục; nội dung, chương trình phương pháp đào tạo
phải phù hợp với yêu cầu của từng bậc học.
19
- Đổi mới công tác quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng
nâng cao chất lượng, hiệu quả; quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của các
cấp, các ngành, các cơ quan quản lý giáo dục và các ngành có liên quan.
- Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, đặc biệt là thanh tra chuyên môn.

Hiện đại hoá và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống quản lý
giáo dục.
- Tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện và thực hiện chính sách ưu đãi đối
với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; khuyến khích đội ngũ nhà giáo nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đẩy mạnh sự gắn kết chặt chẽ giảng dạy với
nghiên cứu khoa học; đổi mới công tác quản lý, sử dụng và giao biên chế ngành
giáo dục nhằm nâng cao quyền và trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo, tạo sự bình
đẳng giữa các loại hình cơ sở giáo dục và đào tạo.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để tiếp tục xây dựng và nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục.
Điều lệ Trường tiểu học năm 2007, Điều 31 qui định : ”Nhiệm vụ của giáo
viên tiểu học
1. Giảng dạy, giáo dục đảm bảo chất lượng theo chương trình giáo dục,
kế hoạch dạy học; soạn bài, lên lớp, kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh;
quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức; tham
gia các hoạt động của tổ chuyên môn; chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu
quả giảng dạy và giáo dục.
2. Trau dồi đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất,
danh dự, uy tín của nhà giáo; gương mẫu trước học sinh, thương yêu, đối xử
công bằng và tôn trọng nhân cách của học sinh; bảo vệ các quyền và lợi ích
chính đáng của học sinh; đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp.
3. Tham gia công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương.
4. Rèn luyện sức khỏe, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ để nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục.
5. Thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và của
ngành, các quyết định của Hiệu trưởng; nhận nhiệm vụ do Hiệu trưởng phân
công, chịu sự kiểm tra của Hiệu trưởng và các cấp quản lý giáo dục.
6. Phối hợp với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Sao Nhi đồng
20
Hồ Chí Minh, với gia đình học sinh và các tổ chức xã hội có liên quan trong

hoạt động giảng dạy và giáo dục.
7. Nhiệm vụ của Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, Tổng phụ trách Đội
được quy định cụ thể tại Điều 17, Điều 18, Điều 19 của Điều lệ này.
Điều lệ Trường tiểu học, Điều 32 qui định : ”Quyền của giáo viên tiểu
học
1. Được nhà trường tạo điều kiện để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và
giáo dục học sinh.
2. Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ;
được hưởng nguyên lương, phụ cấp và các chế độ khác theo quy định khi
được cử đi học để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
3. Được hưởng mọi quyền lợi về vật chất, tinh thần và được chăm sóc,
bảo vệ sức khoẻ theo chế độ, chính sách quy định đối với nhà giáo.
4. Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự.
5. Được thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, còn nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác về việc xây dựng,
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
của nhà nước như :
- Chỉ thị số 18 ngày 27/08/2001 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện
pháp cấp bách xây dựng đội ngũ nhà giáo.
- Chỉ thị số 16/1999/CT-BGD&ĐT về vấn đề bồi dưỡng nhà giáo, cán bộ
quản lý GD&ĐT trong các dịp nghỉ hè.
- Chỉ thị năm học của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT và hướng dẫn nhiệm vụ năm
học ;
- Nghị quyết Tỉnh Đảng bộ lần thứ XIII của Thường vụ Tỉnh uỷ Thanh
Hoá
3. Cơ sở thực tiễn :
Nghị quyết BCH Trung ương 2 của Đảng CSVN về giáo dục và đào
tạo đã có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Có thể
nói rằng: trong những năm qua, đội ngũ giáo viên phổ thông nói chung, giáo
viên TH nói riêng không những lớn mạnh về số lượng cũng như về chất

lượng, trình độ chuẩn ngày một nâng cao.
21
Tuy nhiên trên thực tế, đội ngũ giáo viên TH vẫn còn trong tình trạng
chưa đủ về số lượng, yếu về chất lượng, thiếu đồng bộ về cơ cấu.
Nhưng vấn đề đáng lo ngại nhất là chất lượng đích thực của đội ngũ
giáo viên. Có thể thấy trình độ chuyên môn còn yếu, ít am hiểu các kiến thức
về cuộc sống và khoa học cơ bản. Nhiều giáo viên không những hạn chế về
kiến thức mà còn thiếu một cái "Tâm" về giáo dục. Một bộ phận giáo viên
có trình độ chuyên môn tốt nhưng chỉ lo dạy thêm, chạy sô kiếm tiền.
Trong số giáo viên này, họ nói thực rằng: "Vấn đề đáng quan tâm là
kiếm được bao nhiều tiền, dạy được bao nhiêu lớp" mà không biết, vì thế mà
uy tín của rất kém về ý thức phấn đấu, không chịu tự học, tự bồi dưỡng để
nâng cao trình độ chuyên môn mà chú tâm vào những việc vặt vãnh, tầm
thường. Thái độ thường trực của những giáo viên này là mệt mỏi, bàng quan
với những công việc của chính mình, công việc trên lớp thì qua loa, chiếu lệ.
Ngoài ra còn một số rào cản, ảnh hưởng không nhỏ đến động lực
trong mỗi giáo viên, không kích thích, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên. Đó là công tác bổ nhiệm cán bộ, công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra
đánh giá giáo viên, công tác thi đua khen thưởng, công tác đánh giá học
sinh. Một số cán bộ quản lý có thái độ bình quân chủ nghĩa, không chịu phấn
đấu nên trình độ chuyên môn và trình độ quản lý tụt hậu và các xa với thực
tế giáo dục.
Công tác thanh tra, kiểm tra còn nặng về hình thức; kết quả thanh,
kiểm tra mang rõ tính chất đối phó, ít phản ánh được chất lượng đích thực
của một cá nhân hay một đơn vị. Rõ ràng việc làm này không thúc đẩy được
chất lượng giáo dục. Về vấn đề thi giáo viên giỏi chỉ căn cứ một số mặt như:
giáo án, một số giờ lên lớp, sáng kiến kinh nghiệm mà không căn cứ vào quá
trình giáo dục của giáo viên và chất lượng mà giáo viên phụ trách. Nếu việc
đánh giá của ta không dựa trên kết quả thực tiễn và bằng những tiêu chuẩn
khách quan, công bằng thì sẽ dẫn tới việc không đánh giá đích thực của chất

lượng giáo dục, người dạy không dám "Dũng cảm" đưa ra những phương
pháp giáo dục mới và cũng không còn hào hứng việc tìm tòi, đào sâu suy
nghĩ để nâng cao chất lượng giáo dục.
Nói tóm lại: để có một đội ngũ cán bộ giáo viên vững mạnh, đáp ứng
được nhu cầu đổi mới giáo dục hiện nay thì ngoài việc bồi thường nâng cao
22
chất lượng đội ngũ giáo viên mà còn phải phá bỏ những rào cản trong quản
lý, cũng như chế độ, chính sách hợp lý.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG TIỂU HỌC
I. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ NHÀ GIÁO
1. Những thành tựu chung
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo: Đến cuối năm học 2002-
2003, cả nước có khoảng 911.000 nhà giáo đang đảm nhận nhiệm vụ giảng
dạy cho trên 22 triệu học sinh, sinh viên ở tất cả các cấp học, bậc học và
trình độ đào tạo. Đại bộ phận nhà giáo có đạo đức tốt, tận tuỵ với nghề, có
tinh thần trách nhiệm và ý thức phấn đấu, thường xuyên tự bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ để giảng dạy tốt, nêu gương tốt cho học sinh, sinh
viên noi theo. ý thức phấn đấu rèn luyện về chính trị tư tưởng của đội ngũ
nhà giáo đã có tiến bộ đáng kể, nhiều người được kết nạp và đảng, đến nay
đã có khoảng 23% là đảng viên.
Hệ thống các trường đào tạo giáo viên, quy mô đào tạo giáo viên ở
các cấp học, bậc học, các địa phương được mở rộng. Chất lượng đào tạo
giáo viên đang dần được nâng cao. Công tác bồi dưỡng giáo viên được thực
hiện thường xuyên và định kỳ, nhiều người được cử đi học ở trong nước và
nước ngoài để nâng cao trình độ. Hiện nay tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn ở các
bậc học là: mầm non 54,5%; tiểu học 87,5%; trung học cơ sở (THCS)
91,5%; trung học phổ thông (THPT) 95,35%; dạy nghề 71%; trung học

chuyên nghiệp (THCN) 85,17%. Bậc đại học và sau đại học đã có 1.654 giáo
sư và phó giáo sư, 5.743 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 10.599 thạc sĩ và 571
chuyên khoa cấp I,II.
Những năm gần đây, nhiều chế độ chính sách ưu đãi nhà giáo đã được
thể chế hoá. Nhờ đó, nhiều tỉnh đã giải quyết được một phần đáng kể tình
trạng thiếu giáo viên, giáo viên yếu kém. Chính sách miễn học phí cho các
học sinh, sinh viên sư phạm đã tạo một buớc chuyển biến rõ rệt chất lượng
đầu vào của các trường sư phạm các cấp. Số giảng viên trẻ được cử đi đào
23
tạo sau đại học ở trong nước và nước ngoài ngày càng nhiều đang góp phần
khắc phục tình trạng hẫng hụt về trình độ đội ngũ giảng viên các trường cao
đẳng, đại học (CĐ, ĐH).
Đội ngũ CBQLGD hiện có khoảng 10.400 người ở cấp bộ, sở, phòng và
có khoảng 80.000 người ở các trường học, chiếm 10% tổng số cán bộ công
chức và viên chức toàn ngành. Đội ngũ CBQLGD đã từng bước được hoàn
chỉnh về cơ cấu và nghiệp vụ; nói chung có ý thức chính trị vững vàng, có
phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm quản lý; đã và
đang là lực lượng nòng cốt thực hiện các chủ trương, công tác của ngành, của
địa phương và nhà trường. Cơ chế tuyển chọn, quy trình, thủ tục bổ nhiệm
CBQLGD từng bước được hoàn thiện và được các cấp có thẩm quyền thực
hiện nghiêm túc. Nhìn chung, phần lớn CBQLGD được bố trí, sử dụng đúng
chuyên môn, sở trường, do đó đã tạo điều kiện để họ phát huy khả năng của
bản thân.
Tại Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15/6/2004, Ban Bí thư Trung ương đã
đánh giá: "Những năm qua, chúng ta đã xây dựng được đọi ngũ NG&
CBQLGD ngày càng đông đảo, phần lớn có phẩm chất đạo đức và ý thức
chính trị tốt, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng được nâng cao. Đội
ngũ này đã đáp ứng quan trọng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của đất
nước."

2. Những yếu kém và bất cập
2.1. Về số lượng và cơ cấu
Hiện nay vẫn còn thiếu nhiều giáo viên, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và giáo viên các môn đặc thù như thể dục,
mỹ thuật, âm nhạc, giáo dục quốc phòng, giáo dục công dân, tin học. Cả
nước còn thiếu khoảng 65.000 giáo viên mầm non và phổ thông, 15.500 giáo
viên các trường dạy nghề, THCN và giảng viên CĐ,ĐH, nhưng lại có hiện
tượng thừa cục bộ. Trong khi đó một số lượng giáo sinh ra trường hiện chưa
có việc làm hoặc làm nghề khác vì thiếu biên chế hoặc không muốn xa thành
phố, thị xã. Ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ giáo viên người dân
tộc thiểu số chiếm tỷ lệ khoảng 5,7%.
24
Bên cạnh tình trạng thiếu giáo viên, cơ cấu đội ngũ cũng đang mất cân đối
giữa các môn học, các vùng miền.
Về nội dung này, Chỉ thị số 40-CT/ TW của Ban Bí thư Trung ương đánh
giá: " Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đội ngũ NG&CBQLGD có những
hạn chế, bất cập. Số lượng giáo viên còn thiếu nhiều, đặc biệt ở các vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số Cơ cấu giáo viên đang mất
cân đối giữa các môn học, bậc học, các vùng, miền."
2.2. Về chất lượng
Chất lượng chuyên môn của đội ngũ nhà giáo chưa có chuyển biến
đáng kể; việc giải quyết mối tương quan giữa dạy chữ, dạy người và
dạy nghề còn chưa hợp lý (còn nặng về dạy chữ, nhẹ về dạy người,
dạy nghề); đặc biệt còn yếu về phương pháp giảng dạy; chậm được bổ
sung, cập nhật các tri thức mới về sư phạm, khoa học-công nghệ,
ngoại ngữ Vẫn còn một số lượng đáng kể giáo viên mầm non, phổ
thông, THCN và dạy nghề chưa đạt chuẩn đào tạo theo quy định của
Luật Giáo dục, đặc biệt là ở các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó
khăn. Một bộ phận NG&CBQLGD chưa toàn tâm, toàn ý phục vụ sự

nghiệp giáo dục; thiếu tính gương mẫu về đạo đức và lối sống, cá biệt
có người còn vi phạm pháp luật, làm giảm sút uy tín của
NG&CBQLGD trước con mắt xã hội.
Chỉ thị số 40-CT/TW đã đánh giá: "Chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ
của đội ngũ nhà giáo có mặt chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và phát
triển kinh tế-xã hội, đa số vẫn dạy theo lối cũ, nặng về truyền đạt lý thuyết, ít
chú ý đến phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành của người
học; một bộ phận nhà giáo thiếu gương mẩu trong đạo đức, lối sống, nhân
cách, chưa làm gương tốt cho học sinh, sinh viên "
2.3. Công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên chưa theo kịp với những đổi
mới của giáo dục phổ thông. Chất lượng và hiệu quả công tác bồi dưỡng
giáo viên còn thấp. Chương trình, hình thức bồi dưỡng chưa đáp ứng yêu
cầu, chậm được đổi mới. Phương pháp bồi dưỡng vẫn chưa chú trọng phát
huy tính chủ động, tích cực của người học. Đội ngũ báo cáo viên còn nhiều
bất cập. Tài liệu bồi dưỡng còn nghèo nàn, chưa kịp thời. Kiểm tra, đánh giá
nhiều khi còn mang tính hình thức.
25

×