Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

55 vũ đình thành lịch sử đảng công sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.14 KB, 10 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Thời gian làm bài: 24giờ
Học kỳ I, năm học 2021-2022

Họ và tên: Vũ Đình Thành
Ngày/tháng/năm sinh: 08/09/1987
Số báo danh: 55
Lớp: THA21TC- TTLC Số trang: 10
Điểm
Cán bộ chấm thi 1
Cán bộ chấm thi 2
(Ký

ghi

họ
tên)
(Ký và ghi rõ họ
Bằng số
Bằng chữ
tên)

Chủ đề 1:
Hoàn cảnh ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trị của Đảng trong tiến
trình lãnh đạo cách mạnh Việt Nam.
A. Phần mở đầu
Gần bảy thập kỷ vừa qua, dân tộc ta đã vượt qua một chặng đường đấu tranh


cực kỳ khó khăn, gian khổ, giành được những thắng lợi vẻ vang. Từ thân phận
người dân mất nước, nhân dân ta đã anh dũng vùng lên, lần lượt đánh bại sự
xâm lược của nhiều đế quốc lớn mạnh, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới
– kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Lực lượng lãnh đạo
nhân dân ta dành được những thắng lợi vĩ đại đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trước khi Đảng ra đời đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra nhưng đều bị
thất bại trước sự đàn áp dã man của thực dân Pháp. Chỉ đến năm 1924 Nguyễn
Ái Quốc trở về thống nhất ba Đảng lúc bấy giờ thành một Đảng duy nhất là
Đảng Cộng sản Việt Nam thì cuộc khủng hoảng về đường lối cách mạng mới
được giải quyết. Sự ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh – người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam. Người là
người Việt Nam đầu tiên nắm bắt Chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng sáng tạo
vào đặc điểm lịch sử cách mạng dân tộc Việt Nam. Vai trò quan trọng của Người
được thể hiện rõ nét trong quá trình thành lập Đảng cũng như trong q trình
đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước.
B. Phần nội dung
I. Khái quát xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Vào đầu thế kỷ XIX, tình hình thế giới có nhiều biến động, bức tranh
phân chia thế giới của chủ nghĩa đế quốc ngày càng được phác hoạ cơ bản và rõ
nét. Sự áp bức và xu hướng thơn tính dân tộc của Chủ nghĩa đế quốc đã tăng lên
rõ rệt. Cũng từ đó sự thức tỉnh về ý thức dân tộc và phong trào đấu tranh tự giải
phóng khỏi ách áp bức cuả thực dân tăng lên một cách mạnh mẽ. Việt Nam đã
chịu sự tác động của bối cảnh lịch sử đó.
Từ năm 1858, nước Việt Nam đã bị thực dân Pháp xâm lược, mở đầu
bằng cuộc tiến công vào cảng Đà Nẵng. Chúng từng bước thiết lập chế độ thống
trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Sau khi hoàn
1


thành việc xâm lược và bình định vũ trang, thực dân Pháp tiến hành những cuộc

khai thác thuộc địa nhằm cướp đoạt tài ngun thiên nhiên, bóc lột nhân cơng rẻ
mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hành hố của chính quốc.
Chính sách “khai hố văn minh”, “khai hoá và cải tạo theo kiểu phương Tây”
của thực dân Pháp được Hồ Chí Minh vạch rõ: “Khi người ta là một nhà khai
hố thì người ta có thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là văn minh nhất” và
nếu dân bản xứ không nhịn nhục chịu đựng mà đứng dậy đấu tranh thì các nhà
khai hoá sẽ đưa quân đội, súng liên thanh và tàu chiến đến. Trên tất cả mọi lĩnh
vực, từ chính trị, kinh tế đến văn hố tư tưởng chúng đều tìm mọi cách kìm hãm
sự phát triển của dân tộc ta.
1. Tình hình chính trị
Thực dân Pháp ra sức thi hành chính sách “chia để trị”; chúng trực tiếp
nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, bên cạnh đó là một hệ
thống chính quyền tay sai bù nhìn người Việt: chúng lập ra những đội quân
thuộc địa người ngoại quốc và những đội lính cơ giới người Việt, những toà án
Tây và toà án Nam, nhiều nhà tù để đàn áp các cuộc nổi dậy. Chúng thi hành
chính sách cai trị chuyên chế, thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã
man, tàn bạo, chia rẽ dân tộc tôn giáo….làm cho nhân dân mất hết quyền độc
lập, quyền tự do dân chủ; mọi phong trào đấu tranh của nhân dân đều bị chúng
đàn áp dã man.
2. Tình hình kinh tế
Trong thời kỳ này thực dân Pháp đã khơng từ một thủ đoạn nào để bóc lột
nhân dân ta, thu lợi nhuận tối đa, thẳng tay cướp đoạt và bần cùng hố nơng dân,
chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên, nắm các mạch máu kinh tế ở Việt Nam, nắm
độc quyền trong cơng nghiệp khai hống và cơng nghiệp chế rượu, kìm hãm
cơng nghiệp nặng, hạn chế công nghiệp nhẹ, độc chiếm thị trường Việt Nam,
tăng cường cho vay nặng lãi; đồng hoá lãnh thổ kinh tế Việt Nam vào trong toàn
bộ lãnh thổ của đế quốc Pháp và biến Việt Nam thành khâu khăng khít trong sợi
dây chuyền của kinh tế thế giới Tư bản chủ nghĩa.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, quá trình tập trung hố ruộng
đất diễn ra với quy mơ lớn và tốc độ nhanh hơn trước. Chúng đã trắng trợn cướp

đoạt ruộng đất của nông dân để lập ra các đồn điền trồng cao su, cà phê,…và bắt
dân ta lao động không công cho chúng hoặc thuê với giá rất rẻ mạt. Khơng
những thế, thực dân Pháp cịn tạo điều kiện để bọn địa chủ tăng cường chiếm
đoạt ruộng đất của nơng dân. Ngồi ra bọn chúng cịn đặt ra nhiều thứ thuế vơ lý
bắt nhân dân phải đóng. Bọn thực dân và địa chủ đã kìm hãm nơng nghiệp Việt
Nam trong vòng lạc hậu để làm lợi cho chúng: thực dân Pháp chưa bao giê đặt
vấn đề kĩ nghệ hố nơng nghiệp ở Việt Nam nên cơng cụ lao động sản xuất rất
thô sơ. Thiên tai xảy ra liên miên, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.
Chúng cịn duy trì lối bóc lột phong kiến, kết hợp với lối cướp bóc của đế quốc
(đây là đặc điểm của phương pháp bóc lột thuộc địa), làm nơng dân phá sản, kìm
hãm sản xuất.
Vì muốn biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp ế thừa
của Pháp, nên chúng đã ra sức kìm hãm sự phát triển của công nghiệp nước ta.
2

2


Do sự kìm hãm đó nên cơng nghiệp Việt Nam rất nhỏ bé,què quặt. Điều đó thể
hiện rõ rệt ở chỗ trong hoạt động công nghiệp, thực dân Pháp chỉ chú trọng vào
việc khai thác mỏ mà không hề quan tâm đến những ngành nghề khác. Không
chỉ trên lĩnh vực công nghiệp mà trên tất cả mọi phương diện kinh tế, thực dân
Pháp đều tìm mọi cách đưa nước ta vào trong quỹ đạo phát triển của Chủ nghĩa
tư bản theo kiểu thực dân.
3. Tình hình văn hố - xã hội
Từ khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, chúng thực hiện chính sách
ngu dân, khuyến khích văn hố nơ dịch, vong bản, tự ti, sùng Pháp, kìm hãm
nhân dân ta trong vòng tối tăm, dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng.
Với chính sách khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam
có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư

sản. Từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến, xã hội
Việt Nam xuất hiện hai mâu thuẫn: mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lòng xã hội
Việt Nam phong kiến cũ là mâu thuẫn giữa nhân dân ta, trước hết là nông dân,
với giai cấp địa chủ phong kiến không mất đi, mà vẫn tiếp tục tồn tại, tuy khơng
cịn hồn tồn giống như trước. Bên cạch mâu thuẫn này, xuất hiện mâu thuẫn
mới bao trùm lên tất cả, đó là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc thực dân
Pháp. Mâu thuẫn này ngày càng mở rộng và gay gắt hơn. Hai mâu thuẫn đó
quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp
xâm lược vừa là mâu thuẫn cơ bản đồng thời là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội
Việt Nam – một xã hội thuộc địa của Pháp. Vì vậy, nhiệm vụ chống đế quốc
Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống bọn phong kiến tay sai không tách rời nhau.
Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn kiền với đấu tranh địi quyền dân sinh,
dân chủ. Đó là u cầu của Cách mạng Việt Nam đặt ra cần được giải quyết.
II. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài gian khổ ác liệt,
dân téc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh
anh dũng kiên cường bất khuất. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân
ta đã liên tiếp đứng lên chống lại chúng. ở khắp nơi trong nước, nhân dân ta đã
tham gia đấu tranh dưới ngọn cờ của các sĩ phu yêu nước đương thời theo nhiều
khuynh hướng khác nhau. Từ những phong trào tự phát đến những phong trào
có tổ chức, lãnh đạo, các phong trào diễn ra ngày càng một hoàn thiện hơn. Tuy
rằng các phong trào đều bị đàn áp dã man nên đã bị thất bại nhưng tất cả những
cuộc khởi nghĩa đó đã để lại tiếng vang lớn, gây cho địch nỗi hoang mang lo sợ.
1. Phong trào Cần Vương
Sau khi thực dân Pháp căn bản hoàn thành cuộc xâm lược Việt Nam với hoà
ước 1884, cuộc đầu tranh của nhân dân Việt Nam chống xâm lược đã chuyển qua
mét giai đoạn mới. Mở đầu là cuộc tấn cơng trại lính Pháp mằn cạnh kinh thành
Huế, dưới sự chỉ huy của Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa nhà vua yêu nước trẻ
tuổi Hàm Nghi. Bị thất bại, Tôn Thát Thuyết đã phò vua Hàm Nghi lánh vào vùng
rừng núi, thảo chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu văn thân cùng tồn dân tiếp tục

chiến đấu. Từ đó phong trào Cần Vương đã phát triển trong nhiều địa phương ở
Trung Kỳ và Bắc Kỳ, cho đến những năm cuối của thế kỷ XIX.
3

3


Trong phong trào Cần Vương, các thủ lĩnh sĩ phu văn thân, liên kết với
các thổ hào địa phương, đã tập hợp đông đảo quần chúng nông dân trong vùng,
dùng vũ khí thơ sơ nổi dậy chống lại cuộc bình định của thực dân Pháp. Các sĩ
phu muốn khôi phục một vương triều phong kiến có chủ quyền, các thổ hào
muốn dành lại những thế lực bị tước đoạt, nông dân chống lại sự bóc lột thuế má
và cướp đoạt ruộng đất, tất cả gắn bó lại trên danh nghĩa của một phong trào yêu
nước chống xâm lược mang tính chất truyền thống. Nhưng cuối cùng phong trào
Cần Vương đẫ thất bại vì rời rạc, lẻ tẻ, thiếu sự chỉ huy thống nhất.
2. Phong trào dân tộc - dân chủ của tầng líp sĩ phu yêu nước.
2.1 Sự chuyển biến của xã hội Việt Nam và những ảnh hưởng của tác
động bên ngoài.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến,
trước những chính sách cai trị của thực dân Pháp, cơ cấu xã hội truyền thống
Vệt Nam biến đổi. Giai cấp công nhân Việt Nam (chủ yếu là trong các công
trường và hầm mỏ) hình thành. ở đơ thị xuất hiện một tầng lớp công thương và
tiểu tư sản thành thị. Tầng lớp sĩ phu nho học bên cạnh đọc các kinh sách nho
giáo, các nho sĩ này cũng đã đọc ngững cuốn sách mới của các tác giả Châu Âu
và Trung Quốc. Vì vậy phong trào cải cách chính trị – văn hoá ở Trung Quốc,
cùng với những tư tưởng cách mạng Pháp được dịch qua chữ Hán đã tác động
vào Việt Nam. Giới sĩ phu lúc này thấy được thế suy tàn của các chế độ phong
kiến Châu Á và sự cần thiết phải cải cách xã hội.
2.2. Trào lưu dân tộc chủ nghĩa
Những nhận thức chính trị đó đã làm nảy sinh một khuynh hướng chính trị

mới: trào lưu dân tộc chủ nghĩa. Trào lưu chính trị này kế tiếp phong trào Cần
Vương yêu nước chống Pháp nhưng đồng thời đã mang nhiều nét mới khác trước.
Tầng lớp khởi xướng trào lưu này là những sĩ phu yêu nước tiến bộ. Lịng u nước
của họ khơng cịn bám giữ vào những tư tưởng “trung quân” mà đã chuyển sang ý
thức về một chủ nghĩa quốc gia – dân tộc, vì lợi ích chung của nhiều triệu đồng bào
trong cả nứơc. Những sĩ phu yêu nước tiến bộ ở Việt Nam lúc bấy giờ cho rằng,
muốn đánh đuổi thực dân Pháp, khơng thể chỉ hạn chế trong những hình thức khởi
nghĩa vũ trang như trước đây, mà còn phải kết hợp cả với nhiều biện pháp mới về
chính trị, ngoại giao, tiến hành một phong trào cải cách xã hội sâu rộng trong đông
đảo quần chúng nhân dân. Hai gương mặt nổi bật cho trào lưu dân tộc dân chủ là
các nhà sĩ phu Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
Phan Bội Châu là một sĩ phu sớm có lịng u nước, chủ trương vận động
quần chúng trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài, tổ chức bạo động
để đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc. Ông đã lập hội Duy Tân,
vượt biển sang Nhật mưu cầu ngoại viên, tổ chức phong trào Đông Du đưa các
thanh thiếu niên Việt Nam sang học ở Nhật để chuẩn bị lực lượng chống Pháp và
dùng văn thơ yêu nước để thức tỉnh quốc dân. Cuộc vận động Đông du chỉ diễn
ra được mấy năm và đã bị thực dân Pháp bóp chết . Những du học sinh Việt
Nam bị trục xuất ra khỏi Nhật và cả cụ Phan cũng phải rời khỏi đất nước
này.Sau cách mạng Tân Hợi, ông lưu lạc ở Trung Quốc, lại lập ra tổ chức Việt
Nam Quang Phục hội, chuẩn bị đưa quân về nước khỏi nghĩa, nhưng cũng
4

4


không tránh khỏi bị thât bại.Phan Bội Châu là một người anh hùng đầy nhiệt
huyết nhưng không gặp thời thế.
Phan Châu Trinh gần đồng thời với Phan Bội Châu, là một sĩ phu ở Quảng
Nam đã giương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội. Ơng đã từng bơn ba ở

nhiều nước, sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ, chủ trương cứu nước bằng
phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền. Ơng vạch trần chế độ vua quan phong
kiến thối nát, địi Pháp phải sửa đổi chính sách cai trị ở thuộc địa. Chịu nhiều
ảnh hưởng tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh, nhiều phong trào cải cách xã
hội lúc đó đã nổi lên như việc thành lập nhà trường kiểu mới Đông Kinh Nghĩa
Thục ở Hà Nội, phong trào Duy Tân. Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh thể
hiện một tinh thần dân tộc yêu nước sâu sắc, nhưng chủ trương dùng cải cách để
cứu nước của ơng có phần khơng hợp thời thế.
2.3. Phong trào đấu tranh của quần chúng công, nông, binh:
Các phong trào chính trị của giới sĩ phu đã có ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp đến phong trào đấu tranh của quần chúng công nông binh trong thời kỳ
này. Ở đây những cuộc đấu tranh so với phong trào của giới sĩ phu thường là
thiếu đường lối, tổ chức nhưng lại đông đảo, quyết liệt hơn. Năm 1908, do ảnh
hưởng của những tư tưởng cải cách của Phan Châu Trinh và phong trào Duy Tân
hô hào đời sống mới, một phong trào chống sưu thuế của nông dân đã lan rộng
ra ở nhiều tỉnh. Hàng ngàn nông dân nổi dậy biểu tình, bao vây huyện lị địi
giảm sưu thuế. Đáng chú ý là khởi nghĩa của nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa
Thám, họ đã liên lạc với tổ chức yêu nước của Phan Bội Châu trong một kế
hoạch tấn công vào Hà Nội.
Giai cấp công nhân Việt Nam tuy mới ra đời, số lượng cịn ít nhưng bước
đầu đã tham gia đấu tranh, điển hình có những cuộc bãi công bạo động của công
nhân các công trường đường sắt(Yên Bái), học sinh trường Bách Nghệ (Sài
Gòn) và một số cơng nhân tàu biển. Ngồi ra cịn có những cuộc bạo động khởi
nghĩa chống Pháp của dân tộc ít người.
Ngồi tầng lớp sĩ phu và quần chúng công nông, đầu thế kỷ XX cịn có
một lực lượng xã hộ mới tham gia phong trào đấu tranh chống Pháp. Đó là các
binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Do thực hiện chính sách dùng người
Việt để trị người Việt nên qua những cuộc càn quét những binh lính Việt đã thấy
được tận mắt nhữnh tội ác của giặc, lòng căm thù giặc được khơi dậy. Hơn nữa
do sự đối xử của thực dân Pháp đối với họ là khinh miệt, bạc đãi nên đã dẫn tới

việc họ nổi dậy bạo động khởi nghĩa.
Những phong trào dân tộc – dân chủ chống Pháp ở Việt Nam đầu thế kỷ
XX do những sĩ phu yêu nước tiến bộ lãnh đạo, được đông đảo các tầng líp nhân
dân hưởng ứng tham gia, tuy khơng thành cơng nhưng đã có tiếng vang lớn. Đó
là những bước đi ban đầu để tìm ra mét con đường mới, dóng đắn trong cuộc
cách mạng dân tộc và cách mạng xã hội.
III. Quá trình thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Từ đầu thế kỷ XX trở đi, song song với sự phát triển của phong trào yêu
nước và dân chủ theo kiểu tư sản, phong trào công nhân chống lại chế độ bọc lột
của bọn địa chủ và thực dân Pháp đã lần lượt diễn ra bằng nhiều hình thức khác
5

5


nhau, đặc biệt là những hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp mình như bãi
cơng, biểu tình. Tuy nhiên trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, do nhiều nguyên
nhân những phong trào này cuối cùng đều không thành cơng. Những ngun
nhân cơ bản đó lá những người yêu nước đương thời chưa tìm được con đường
cứu nước đúng đắn phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hộ Việt Nam. Cách
mạng nước ta đang đướng trước cuộc khủng hoảng về đường lối.
1. Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang trong đêm tối chưa tìm được lối ra,
Nguyễn Ái Quốc với tên gọi Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc từ tháng 6 năm
1911 đi sang phương Tây, nơi mà Người cho là có tư tưởng tự do, dân chủ và
khoa học kỹ thuật phát triển để xem họ làm như thế nào, học tập họ rồi trở về
giúp đồng bào mình cởi bỏ xiềng xích nơ lệ. Trên con đường bôn ba khắp năm
châu, bốn bể, vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các
cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới như cách mạng Mỹ và cách mạng
Pháp Đồng thời Người tìm mọi cách tham dự tất cả các cuộc mít tinh, hội họp

do Đảng xã hội Pháp – một đảng duy nhất trong số các đảng ở Pháp đấu tranh
bảo vệ các dân tộc thuộc địa. Đến cuối năm 1918, một biến chuyển quan trọng
đã diễn ra trong cuộc đời của Nguyễn Ái Quốc: Người tham gia Đảng xã hội
Pháp. Người là người Việt Nam đầu tiên tham gia một đảng chính trị của “mẫu
quốc”. Trong q trình tham gia hoạt động Đảng và nghiên cứu về cách mạng
Mỹ và cách mạng Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp được nhiều bài học quý về
lực lượng cách mạng, về tổ chức, về tinh thần, ý chí cách mạng và đặc biệt là bài
học về con đường cách mạng. Người vạch rõ:” Cách mạng Pháp cũng như cách
mạng Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi,tiếng là cơng
hồ và dân chủ, nhưng kỳ thực trong thì nó tước lực cơng nơng, ngồi thì nó áp
bức thuộc địa”. ”Chúng ta dã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi
nghĩa là làm sao cách mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều…Thế
mới khỏi hy sinh nhiều lần, thì dân chúng mới được hạnh phúc”.
Giữa tháng giêng năm 1919, Pa-ri long trọng tổ chức hội nghị hồ bình.
Giới cầm quyền các cường quốc thắng trận muốn “tổng kết” chiến tranh càng
nhanh càng tốt, hay nói cách khác muốn giàu lên bằng cách bóc lột các nước bại
trận. Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến hội nghị một bản tài liệu có tên là “Bản yêu
sách của nhân dân An Nam” địi chính phủ Pháp cơng nhận các quyền tự do dân
chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Bản u sách đó khơng được hội nghị
quan tâm đến. Từ thực tế đó người ra một kết luận quan trọng : tù do bình đẳng
bác ái…những chữ tốt đẹp đó chẳng qua chỉ là màn khói để giai cấp tư sản che
đậy những tội ác của chúng. Những bản tuyên ngôn mà bọn đế quốc tung ra bừa
bãi trong những năm chiến tranh để làm bia đỡ đạn cho chúng hố ra chỉ là một
trị bịp bợm. Chẳng bao giờ cầu xin được công lý ở bọn đế quốc. Vậy thì lối
thốt ở đâu ? Chỉ ở trong đấu tranh, đấu tranh một mất, một cịn. Để giải phóng
mình nhân dân các dân tộc thuộc địa phải lât đổ ách thông trị của bọn áp bức.
Cách mang là trận đánh quyết liệt, nhờ nó mà thành luỹ thực dân tưởng như bất
khả xâm phạm cũng có thể bị hạ. “Bản yêu sách” đã trở thành một tuyên ngôn
6


6


chính trị báo hiệu sự mở đầu của giai đoạn mới trong việc phát triển phong trào
giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trong những ngày đang hoạt động sôi nổi lựa chọn con đường cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc thì cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ và
thắng lợi, làm chấn động toàn cầu. Sự thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga
có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc của các
nước thuộc địa trên thế giới. Nhờ có Cách mạng thámh Mười Nga, phong tràogiải
phóng dân tộc ở các nước phương Đông và phong trào công nhân ở các nước tư
bản đế quốc phương Tây đã có sự gắn bó mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Nguyễn Ái Quốc đã hướng đến con
đường Cách mạng tháng Mười và chú tâm tìm hiểu tư tưởng đường lối của cuộc
cách mạng đó. Và bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi
Người đọc toàn văn Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lê-nin đăng trên báo “Nhân đạo”. Đây là tác phẩm đầu tiên
của Lê-nin mà Nguyễn Ái Quốc được làm quen. Người đọc đi đọc lại một số câu,
cố gắng hiểu sâu hơn nữa bản chất những tư tưởng của Lê-nin và Người rưng
rưng nước mắt, hân hoan vơ cùng. Người nói to lên như đang đướng trước quần
chúng đông đảo:” Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ ! Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Bản đề cương đó đã chỉ rõ cho
Người “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khấc là
con đường cách mạng vô sản”. Từ đây, Người dứt khoát đi theo con đường cách
mạng của Lê-nin, con đường cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Đây là bước
ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải
phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế của Người. Sự kiện đó
cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc
của Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc.

2. Con đường "cách mệnh” Nguyễn ái Quốc.
Sau khi trở thành người chiến sĩ Cộng sản, Nguyễn ái Quốc đã tham gia
hoạt đọng trong phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế, tích cực vận động
phong trào cách mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lenin
vè Việt Nam qua các báo ‘Người cùng khổ”, “Nhân đạo”, “Đời sống công nhân”
và sau này là tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”(1925) của Người.
Tháng 12 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực
tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người
tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á Đông, sáng lập và viết
bài cho báo Thanh niên. Và đặc biệt là đầu năm 1927, tác phẩm “Đường cách
mệnh” được Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản. Tác phẩm này là sự
tiếp theo một cách lơ-gíc cuốn “Bản án chhế độ thực dân Pháp”. “Đường cách
mệnh” đã vạch ra con đường cụ thể để giải phóng dân tộc. Tác phẩm chỉ ra rằng:
để chiến thắng kẻ thù hùng mạnh, những nhà cách mệnh Việt Nam phải giải
quyết ngay hai nhiệm vụ cơ bản: nắm vững học thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin và
thành lập đội tiên phong tức là Đảng cách mạng.
7

7


Trước hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng
có vững, cách mạng mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy. Đảng có vững thì phải có chủ nghĩa làm nồng cốt, trong Đảng ai cũng
phải hiểu, ai cũng phải tuân theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa
cũng như người khơng có trí khơn. tàu khơng có bàn chỉ nam”. Nguyễn ái Quốc
đã trình bày một cách sáng tạo những nguyên lý cơ bản của học thuyết Lê- nin
áp dụng vào những điều kiện cụ thể của nước Việt Nam thuộc địa. Nguyễn Ái
Quốc chỉ ra rằng Việt Nam đang đứng ở ngưỡng của cách mạng giải phóng dân

tộc. Cuộc cách mạng này phải là một giai đoạn chuyển tiếp để đưa đất nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhiệm vụ chủ
yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này là lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống
bọn thực dân và Đảng phải kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa yêu
nước. Theo Nguyễn Ái Quốc,lực lượng cơ bản của cách mạng Việt Nam sau này
là giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Luận điểm quan trọng này được
Nguyễn Ái Quốc trình bày ngay từ buổi đầu của cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc và về sau trở thành luận điểm chủ đạo, luận diểm quyết định trong hoạt động
của Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của Người.
3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường đang khát
mà cị nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lơi cuốn những người yêu nước
Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, làm dấy lên phong cao trào đấu
tranh mạnh mẽ, sơi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp cơng nhân trở thành một
lực lượng chính trị độc lập. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, ý thức giác ngộ chính trị của cơng
nhân ngày càng cao. Những nhóm cộng sản bí mật đã bắt đầu xuất hiện trong
các xí nghiệp cơng nghiệp ở các thành phố lớn địi hỏi phải có tổ chức Đảng
chính trị lãnh đạo.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được
tuyên bố thành lập: ở Nam Kỳ là An Nam Cộng sản Đảng, ở Bắc Kỳ là Đông
Dương Cộng sản Đảng, ở Trung Kỳ là Đơng Dương Cộng sản Liên đồn. Ngay
từ khi thành lập, giữa các tổ chức đó đã xảy ra xích mích, bởi vì, mỗi tổ chức
đều có ý muốn đóng vai trị Đảng Cộng sản duy nhất ở trong vước. Những cuộc
xung đột nghiêm trọng giữa hai tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ đã xảy ra.
Mối quan hệ giữa các tổ chức Đảng khơng bình thường lại khơng có một cương
lĩnh hành động thống nhất làm các Đảng mất hết tính chiến đấu và khơng thể
hoạt động có kết quả trong quần chúng. Vì vậy u cầu bức thiết của Cách mạng
là cần có một Đảng duy nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách

mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp
ứng u cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng
sản duy nhất ở Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng,
Trung Quốc) từ ngày 3 đến 7 tháng 2 năm 1930 đã nhất trí thành lập Đảng duy
8

8


nhất , lấy tên là Đảng Cộng sản Vệt Nam. Các đại biểu tán thành chánh cương
vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng, Điều
lệ tóm tắt của các hội quần chúng, vạch kế hoạch thành lập Ban Chấp hành
Trung ương lâm thời…
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là
cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là một cương
lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại mới, nhuẫn nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần
dân tộc. Độc lập tự do gắn liền với định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội là tư
tưởng cốt lõi của cương lĩnh này. Đảng lấy lý tưởng chủ nghĩa Mác- Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, làm kim chỉ nam cho mọi hành động.
Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu bước ngoặt lờn trong
lịch sử cách mạng Việt Nam và đó là một kết quả tất yếu khách quan của cuộc đấu
tranh dân tộc và giải phóng giai cấp. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp lý luận
Mác-Lênin với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động. Sự ra đời của Đảng “chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành,
đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Sự ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn
Ái Quốc – Hồ Chí Minh – người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
IV. Kết luận
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, là bước ngoặc vĩ

đại trong phong trào cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ giai cấp Công nhân
Việt Nam đã trưởng thành. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp giữa
Chủ nghĩa Mác-Lenin và phong trào Công nhân. Đây là quy luật thành lập
Đảng của giai cấp Công nhân Việt Nam. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, lịch sử
phát triển của lồi người đang có những biến chuyển vơ cùng quan trọng, thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đã bắt đầu, tình hình đó địi
hỏi các chiến sĩ cách mạng thế giới phải nhận rõ xu thế phát triển của thời đại,
xây dựng các chủ trương và tìm ra các cuộc cách mạng phù hợp. lãnh đạo.
Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, Việt Nam liên tục phải đối mặt với áp bức
và bóc lột, mâu thuẫn dân tộc ngày càng gay gắt, các cuộc đấu tranh của nhiều
lực lượng và các khuynh hướng chính trị khác nhau và liên tiếp thất bại. Phong
trào cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng về đường lối và lãnh
đạo. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc -Hồ Chí Minh bằng đầu óc thiên tài
của mình đã nhanh chóng nắm bắt xu thế, nhu cầu của cách mạng Việt Nam,
tìm ra con đường cách mạng giải phóng dân tộc, tự do, hạnh phúc bằng chủ
nghĩa Mác - Lê-nin. Đối với nhân dân, đó là đường lối cách mạng theo con
đường cách mạng vô sản. Với quan điểm “cách mạng trước hết cần có đảng
cách mạng”, Người đã ra sức chuẩn bị mọi điều kiện cho sự ra đời của đảng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930 mang ý nghĩa to lớn đối
với sự nghiệp cách mạng Việt Nam .
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời,
Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải
phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vơ sản, chính là cơ sở để Đảng
Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách
9

9


mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách

mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường
và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là
cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân
tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành
những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương
hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong
Qúa trình thực tế lịch sử đã chứng minh rằng: Lựa chọn con đường cách
mạng vô sản, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản là một sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt của Cách mạng Việt Nam,
mà người tiên phong là Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ thiên tài của
dân téc Việt Nam, người thầy vĩ đại của Đảng. Hồ Chí Minh là tấm gương sáng
ngời của một chiến sĩ Cộng sản trọn đời vì nước, vì dân, là biểu tượng của khí
phách anh hùng, ý chí độc lập tự cường, kiên trì lý tưởng, sáng tạo và quyết thắng.

10

10



×