TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI
Khoa Mác - Lênin
ThS Nguyễn Anh Cường (chủ biên), ThS Vũ Kiến Quốc,
ThS Nguyễn Thị Ngọc Dung, CN Trần Thị Ngọc Thuý
LỊCH SỬ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(Đề cương bài giảng)
Hà Nội 2007
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
2
Bài mở đầu
NHẬP MÔN LỊCH SỬ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Đối tượng nghiên cứu
- Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với lịch sử dân tộc. Lịch sử Đảng là một khoa học chuyên
ngành của khoa học lịch sử và có quan hệ mật thiết với khoa học lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh.
- Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống tri thức về quá trình hoạt động đa dạng và phong
phú của Đảng trong mối quan hệ mật thiết với tiến trình lịch sử của dân tộc và thời đại.
- Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là một khoa học có đối tượng nghiên cứu là tổ chức và
hoạt động của Đảng và các phong trào cách mạng quần chúng diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng.
• Như vậy, môn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cung cấp các tri thức tin cậy về các sự kiện thuộc về
quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng của Đảng, khái quát thành quy luật phổ biến và đặc thù. Vị trí trung tâm
của môn khoa học này là tổng kết lý luận các quá trình lịch sử.
2. Mục đích, chức năng, nhiệm vụ
Mục đích
Làm sáng tỏ toàn bộ quá trình hình thành, phát triển của tổ chức đảng và những hoạt động toàn diện của
Đảng;
Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam;
Làm rõ những vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam góp phần tổng kết những kinh nghiệm
lịch sử phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời giáo dục niềm tin vào sự
lãnh đạo của Đảng và con đường cách mạng Hồ Chí Minh
Chức năng
- Chức năng nhận thức: nhận thức lịch sử để phục vụ việc cải tạo xã hội theo đúng quy luật phát triển
của xã hội Việt Nam như một quá trình lịch sử- tự nhiên; góp phần tích cực tạo cơ sở lý luận để Đảng vạch ra
đường lối, chủ trương, chính sách.
- Chức năng giáo dục: giáo dục tư tưởng chính trị, tham gia vào giải quyết những nhiệm vụ hiện tại.
Trau dồi thế giới quan, phương pháp luận khoa học, xây dựng niềm tin vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhiệm vụ
- Làm sáng tỏ điều kiện lịch sử, quá trình ra đời tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam - bộ tham mưu
chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.
- Làm rõ quá trình trưởng thành, phát triển của Đảng gắn liền với hoạt động xây dựng một chính đảng
cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Trình bày quá trình hoạt động lãnh đạo cách mạng của Đảng qua các thời kỳ, các giai đoạn cách mạng
trong những bối cảnh lịch sử cụ thể.
- Trình bày các phong trào cách mạng của quần chúng do Đảng tổ chức và lãnh đạo.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
3
- Tổng kết những kinh nghiệm lịch sử Đảng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh
Phương pháp cụ thể
- Phương pháp lịch sử: là phương pháp chung nhất, nghiên cứu sự vật, hiện tượng theo trình tự thời
gian, quá trình diễn biến, đi từ phát sinh, phát triển đến hệ quả của nó.
- Phương pháp logíc: nghiên cứu một cách tổng quát, nhằm tìm ra được cái bản chất của sự vật, hiện
tượng và khái quát thành lý luận.
- Ngoài ra, một số phương pháp khác như: phương pháp lịch đại, phương pháp đồng đại, phương pháp
so sánh … cũng được sử dụng để làm sáng tỏ những nội dung có liên quan.
- Trong nghiên cứu lịch sử Đảng phải luôn luôn quán triệt nguyên tắc: tính khoa học thống nhất với tính
Đảng; quan điểm lịch sử cụ thể; tính thực tiễn.
4. Ý nghĩa thực tiễn
- Giải đáp những vấn đề có liên quan đến tiền đồ và vận mệnh của cách mạng nước ta như: con đường
xây dựng đất nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn của lịch sử; hơn 75 năm qua Đảng Cộng
sản Việt Nam là Đảng lãnh đạo duy nhất và cũng chỉ cần một Đảng lãnh đạo mà thôi…
- Tự bồi dưỡng cho mình truyền thống yêu nước, lòng tự hào đối với Đảng và dân tộc, tự trang bị những
kiến thức chính trị - xã hội cần thiết về cách mạng Việt Nam để thêm tin tưởng vào tiền đồ cách mạng nước ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
- Bồi dưỡng ý chí chiến đấu cách mạng, biết noi gương những người đi trước, tiếp tục cuộc chiến đấu
bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội của chúng ta.
III. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Sự giống và khác nhau về đối tượng nghiên cứu giữa lịch sử Đảng và lịch sử dân tộc?
2. Chức năng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu môn lịch sử Đảng?
3. Mục đích, ý nghĩa của việc học tập nghiên cứu lịch sử Đảng?
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
4
Chương I
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (1920-1930)
I. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
1. Tình hình thế giới
- Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (đế quốc
chủ nghĩa).
+ Bản chất của chủ nghĩa đế quốc là chiến tranh, là xâm lược thuộc địa. Bởi vì, nền kinh tế hàng hoá
phát triển mạnh đặt ra nhu cầu bức thiết về thị trường, nguyên liệu và nhân công, khiến các nước đế quốc cạnh
tranh, giành giật thuộc địa và khu vực phụ thuộc. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn tới cuộc chiến tranh xâm lược
các quốc gia phong kiến ở phương Đông và châu Phi.
+ Các đế quốc lớn như: Mỹ, Anh, Pháp… đã xâm chiếm hầu hết các nước nhỏ, yếu trên thế giới và biến
các nước này thành thuộc địa của họ. Đến năm 1914, các nước đế quốc đã thực hiện xong mục đích đặt ách
thống trị trên một bộ phận lớn của thế giới. Đám mây đen của chủ nghĩa đế quốc đã bao trùm toàn thế giới.
- Sự xâm chiếm, khai thác và nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc đã dẫn tới mâu thuẫn gay gắt
giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc. Do đó, chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập cho các dân
tộc thuộc địa trở thành một nội dung lớn của phong trào cách mạng thế giới, nhất là các nước châu Á, trong đó
có Việt Nam.
- Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-1917) thành công đã làm biến đổi căn bản tình hình thế giới. Nó
không chỉ tác động sâu sắc đến phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản, mà còn lan toả sâu rộng tới các
nước thuộc địa, cổ vũ các dân tộc bị áp bức đứng lên tự giải phóng mình.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa Mác-Lênin đã được truyền bá rộng rãi, dẫn đến sự
ra đời của các Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa và thuộc địa (Đảng Cộng sản Pháp (1920), Đảng
Cộng sản Anh (1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921)…
- Quốc tế Cộng sản được thành lập vào tháng 3-1919 đã trở thành bộ tham mưu cho phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin
được công bố tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản (1920) đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng mình cho các
dân tộc bị áp bức.
2. Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội Việt Nam
a. Chính sách thống trị của thực dân Pháp
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
5
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Pháp thôn tính Việt Nam vào đúng lúc chế độ
phong kiến Việt Nam đang suy tàn. Mâu thuẫn giữa nông dân và phong kiến đang gay gắt. Hàng loạt các cuộc
nổi dậy của nhân dân chống lại triều đình đang diễn ra.
Sự yếu kém về kinh tế, quân sự, sự nhu nhược của bộ máy quan lại triều đình đã dẫn đến việc Việt nam
rơi vào bàn tay người Pháp và trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã
làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Sau khi bình định xong Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa (1897-1913;
1919-1929), với mục đích cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nguồn nhân công rẻ mạt, biến Việt Nam thành thị
trường tiêu thụ hàng hoá cho chính quốc, thu lợi nhuận tối đa, phục vụ cho giới tư bản lũng đoạn Pháp. Nhằm
thực hiện mục đích đó, thực dân Pháp tiến hành chính sách cai trị trên mọi lĩnh vực.
Về chính trị
Thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế điển hình của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ:
- Chúng chia Việt Nam ra thành ba miền nhằm bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ và đàn áp các
phong trào yêu nước.
- Chúng biến bộ máy triều đình Nhà Nguyễn thành chỗ dựa và hệ thống tay sai đắc lực giúp chúng áp
bức, bóc lột nhân dân ta.
- Mọi quyền hành của đất nước đều nằm trong tay các viên quan cai trị người Pháp.
- Chúng sáp nhập ba nước Việt Nam, Lào, Cămpuchia thành xứ Đông Dương, rồi dùng chính sách chia
rẽ dân tộc để dễ bề cai trị.
Về kinh tế
- Thực hiện chính sách độc quyền, đặc biệt trong các ngành kinh tế cho lợi nhuận cao: độc quyền xuất
nhập khẩu, khai thác dầu mỏ, giao thông, ngân hàng, cho vay nặng lãi, muối, rượu, thuốc phiện…
- Một mặt duy trì phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu. Mặt khác, thiết lập một cách hạn chế
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, để dễ bề bóc lột, thu lợi nhuận siêu ngạch.
- Mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá cho tư bản chính quốc và biến nền kinh tế Việt Nam phải phụ
thuộc vào nền kinh tế ở chính quốc.
- Ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động bằng nhiều hình thức thuế khoá nặng nề, vô lý.
Tóm lại, chúng kìm hãm nền kinh tế Việt Nam trong vòng lạc hậu, làm cho kinh tế nước ta bị phụ thuộc
và phát triển què quặt.
Về văn hoá
- Kìm hãm, nô dịch về văn hoá, thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị:
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
6
- Khuyến khích văn hoá độc hại, xuyên tạc lịch sử và giá trị văn hoá Việt Nam, gây tâm lý tự ti, vong
bản.
- Bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng văn hoá tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam.
- Dùng rượu cồn, thuốc phiện… đầu độc các tầng lớp nhân dân, khuyến khích các hoạt động mê tín dị
đoan, đồi phong bại tục.
Tóm lại, dưới danh nghĩa những người đi khai hoá văn minh, thực dân Pháp đã thực hiện ở Việt Nam
một chế độ cai trị hà khắc, nhằm nô dịch nhân dân ta về chính trị, văn hoá và bóc lột về kinh tế. Mặc dù vậy, sự
thống trị của người Pháp từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, về khách quan đã tạo nên sự chuyển biến xã hội,
giai cấp của Việt Nam.
b. Hậu quả chính sách cai trị của thực dân Pháp đối với xã hội Việt Nam
Về kinh tế
- Nền kinh tế què quặt, bị kìm hãm nặng nề và tiến triển chậm chạp, mang tính tư bản thực dân, song
đồng thời mang tính chất phong kiến.
- Quan hệ kinh tế phong kiến ở nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị, những trung tâm kinh
tế và tụ điểm dân cư mới.
- Tạo nên những biến đổi trong cơ cấu kinh tế; sự ra đời những ngành kinh tế công nghiệp, khai thác
mỏ, giao thông vận tải, thương nghiệp; trong nông nghiệp xuất hiện kinh tế đồn điền, kinh doanh theo lối tư bản.
Về xã hội
Trong cơ cấu xã hội có sự thay đổi. Bên cạnh giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân (hai giai
cấp cũ), xuất hiện những giai cấp, tầng lớp mới, với thái độ chính trị khác nhau:
-Giai cấp địa chủ, phong kiến
Trước sau vẫn được thực dân Pháp dung dưỡng để làm chỗ dựa cho chính sách thống trị.
Dưới ảnh hưởng của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ, phong kiến
chia làm ba bộ phận: tiểu, trung và đại địa chủ.
Một bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ không chịu nỗi nhục mất nước, có mâu thuẫn với đế quốc
về quyền lợi dân tộc nên đã tham gia đấu tranh chống thực dân và bọn phản động tay sai.
- Giai cấp nông dân
+ Là giai cấp đông đảo nhất, chiếm khoảng 90%, dân số.
+ Bị bóc lột nặng nề, ruộng đất bị tư bản thực dân chiếm đoạt và bị bần cùng hoá, nên mang mối thù sâu
nặng với đế quốc và phong kiến. Họ vừa có yêu cầu về độc lập dân tộc, vừa có yêu cầu về ruộng đất, nhưng yêu
cầu độc lập dân tộc là bức thiết nhất.
Tuy vậy, đây là giai cấp có phương thức sản xuất lạc hậu, manh mún, trình độ nhận thức hạn chế, nên
không thế tự vạch ra đường lối đúng đắn để tự giải phóng và không thể lãnh đạo cách mạng . Nhưng họ là lực
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
7
lượng đông đảo, không thể thiếu và cực kỳ quan trọng, là động lực chủ yếu của cách mạng. Khi giai cấp nông
dân được tổ chức lại và có sự lãnh đạo của đội tiên phong cách mạng sẽ phát huy được sức mạnh tiềm tàng của
mình.
- Giai cấp tư sản
Ra đời từ các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp (trước chiến tranh thế giới thứ nhất chỉ là một
bộ phận nhỏ, sau chiến tranh đã hình thành giai cấp rõ rệt). Số lượng tư sản Việt Nam không nhiều, thế lực kinh
tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối. Tư sản Việt Nam phân hoá thành hai bộ phận:
+ Tư sản dân tộc:
Có khuynh hướng kinh doanh độc lập, tiềm lực kinh tế nhỏ, quyền lợi kinh tế, chính trị mâu thuẫn với
đế quốc; hoạt động trong các ngành thương nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến hải sản…
Bị đế quốc chèn ép, phong kiến căm ghét, có mâu thuẫn về quyền lợi với bọn đế quốc thực dân và
phong kiến, nên họ có tinh thần chống đế quốc và phong kiến.
Nhưng có thái độ hai mặt: một mặt, có tinh thần cách mạng, chống đế quốc, phong kiến, tán thành độc
lập dân tộc. Mặt khác, có tư tưởng cải lương.
Đây là một lực lượng của cách mạng.
+ Tư sản mại bản:
Bao gồm những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế quốc, bao thầu những công trình xây dựng lớn,
hoặc sở hữu những đồn điền, ruộng đất lớn, cho phát canh, thu tô.
Là bộ phận có quyền lợi kinh tế, chính trị gắn chặt với thực dân, đế quốc, nên chúng là kẻ thù của dân
tộc.
- Tầng lớp tiểu tư sản
+ Bao gồm trí thức, học sinh, sinh viên, tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, viên chức, những người
buôn làm nghề tự do.
+ Họ có cuộc sống bấp bênh, luôn bị thực dân chèn ép, bóc lột.
+ Nhưng họ có sự nhạy bén về chính trị, nhạy cảm với cái mới, cái tiến bộ, hăng hái tham gia cách
mạng.
+ Có tinh thần dân tộc cao, khát khao độc lập, tự do. Nhưng họ chỉ là tầng lớp trung gian trong kết cấu
xã hội mới; dao động trước khó khăn, kém bền bỉ, dễ thoả hiệp, lập trường giai cấp không vững vàng, dễ thay
đổi.
+ Đây là lực lượng quan trọng của cách mạng.
- Giai cấp công nhân
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
8
+ Giai cấp này ra đời do chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, chỉ chiếm khoảng 1%
dân số, phát triển nhanh sau chiến tranh thế giới thứ nhất (năm 1914 có 10 vạn; năm 1929 có 22 vạn, trong đó
60% là công nhân mỏ than, còn lại là công nhân đồn điền).
+ Ngoài đặc điểm chung của giai cấp công nhân thế giới, đó là một lực lượng xã hội tiên tiến, đại
diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách mạng triệt để, lại
mang bản chất quốc tế họ còn có đặc điểm riêng, đặc trưng của giai cấp công nhân Việt Nam:
1. Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc nên nội bộ thuần nhất, thống nhất.
2. Chịu ba tầng áp bức (đế quốc, phong kiến, tư sản bản xứ).
3. Phần lớn xuất thân từ giai cấp nông dân, bị bần cùng hoá, bị cướp ruộng đất, xô đẩy vào con
đường không lối thoát, phải bán sức lao động nên họ có quan hệ mật thiết, máu thịt với nông dân nên dễ hình
thành liên minh công – nông.
4. Trình độ học vấn, kỹ thuật thấp, nhưng sống khá tập trung tại các thành phố, các trung tâm công
nghiệp và các đồn điền.
5. Sinh ra và lớn lên ở đất nước giàu truyền thống cách mạng, nên đã được hun đúc chủ nghĩa anh
hùng cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam khi được tổ chức lại và hình thành được một đảng tiên phong cách mạng,
được vũ trang bằng một học thuyết cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác-Lênin thì sẽ trở thành người lãnh đạo
cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.
Tóm lại, Việt Nam dưới chính sách thống trị và công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã từ
một xã hội phong kiến độc lập thuần tuý trở thành một xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt nam có hai mâu
thuẫn cơ bản:
1. Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt nam với thực dân Pháp xâm lược.
2. Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ yếu là giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến.
Hai mâu thuẫn đó gắn chặt với nhau, trong đó mâu thuẫn bao trùm, gay gắt, có bản, chủ yếu là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp và tay sai. Nó quy định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Việt Nam là chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc; chống phong kiến, đưa lại ruộng đất cho dân cày. Trong
đó, nhiệm vụ chống đế quốc là nhiệm vụ hàng đầu, vì nó giải quyết mâu thuẫn chủ yếu – mâu thuẫn giữa toàn
thể dân tộc Việt Nam với đế quốc.
II. CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC Ở VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
1. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản
- Phong trào Cần Vương (1885-1896)
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
9
Tháng 1-1885, vua Hàm Nghi và Thượng thư bộ binh Tôn Thất Thuyết phát động phong trào đánh vào
trại lính và toàn khâm sứ Pháp cạnh kinh thành Huế. Việc không thành, Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương kêu gọi
nhân dân đứng lên kháng chiến.
Tháng 11-1885, Vua bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển. Tiêu biểu là các cuộc khởi
nghĩa: Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892); Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1886-
1887); Hùng Lĩnh của Tống Duy Tân và Cao Điền (1887-1992); Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao
Thắng (1885-1895).
- Khởi nghĩa nông dân Yên Thế(1885-1913) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo
Mặc dù chiến đẩu rất anh dũng, nhưng cuối cúng các phong trào đều bị dập tắt. Sự thất bại này chứng tỏ
hệ tư tưởng phong kiến không thể giúp nhân dân ta thoát khỏi kiếp nô lệ. Nó hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ
của lịch sử đề ra.
- Phan Bội Châu (1867-1940) chủ trương dựa vào sự giúp đỡ ở bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản để đánh
Pháp, giành độc lập dân tộc. Ông lập ra Hội Duy tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906-1908), thành
lập Việt Nam Quang phục Hội (1912) tại Trung Quốc với tư tưởng võ trang bạo động đánh Pháp, nhưng đều
không thành công.
- Phan Châu Trinh (1872-1926) chủ trương dùng cải cách văn hoá, mở mang dân trí, phát triển kinh tế
theo hướng tư bản chủ nghĩa, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt Nam. Ở Bắc Kỳ có mở
trường học tiêu biểu là trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội. Ở Trung Kỳ có phong trào Duy tân kết hợp với
phong trào đấu tranh chống thuế (1908).
- Phong trào quốc gia cải lương (1919-1923)
Phong trào do một bộ phận của giai cấp tư sản và địa chủ lớp trên lãnh đạo. Họ hăng hái bước lên vũ đài
chính trị, bắt đầu từ mục tiêu kinh tế, vận động chấn hưng hàng nội hoá, bài trừ ngoại hoá, chống độc quyền.
Sau đó, phong trào tiến dần đến những mục tiêu chính trị, nhưng theo xu thế cải lương. Thể hiện qua một số
phong trào tiêu biểu sau:
+ Năm 1919, phong trào tẩy chay Hoa kiều, bài trừ hàng hoá ngoại, chấn hưng hàng nội hoá.
+ Năm 1923, phong trào chống độc quyền xuất khẩu gạo của Pháp ở cảng Sài Gòn.
+ Cuộc đấu tranh của Đảng Lập hiến (1923) do Bùi Quang Chiêu đứng đầu, tập hợp tư sản và địa chủ
lớp trên, đòi mở rộng các quyền tự do, dân chủ, tham gia các hoạt động chính trị. Nhưng khi thực dân Pháp ban
cho một số quyền lợi, thì Đảng này đi vào con đường đầu hàng, thoả hiệp, rồi đi đến cộng tác với đế quốc.
- Phong trào yêu nước dân chủ công khai (1925-1926)
+ Đây là phong trào của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như:
Việt Nam nghĩa hoà đoàn (1925), Phục Việt (1925), Hưng Nam (1925), Thanh niên cao vọng (1926)
+ Họ xuất bản một số tờ báo tiến bộ như Chuông rạn, Người nhà quê, An Nam trẻ… với một loạt các
nhà xuất bản như: Nam đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế)…
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
10
+ Thông qua sách báo để tuyên truyền tư tưởng yêu nước và lập trường chính trị của mình, tiến hành
những cuộc vận động văn hoá tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do, dân chủ.
+ Phong trào này đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chính trị, gây tiếng vang lớn như: đấu tranh đòi thả
Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để tang Phan Châu Trinh, đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh
)1926)…
+ Nhưng càng về sau, do những thay đổi của điều kiện lịch sử, phong trào ngày càng bị phân hoá, hoặc
đi sâu hơn vào khuynh hướng chính trị tư sản (Nam Đồng thư xã), hoặc chuyển dần sang quỹ đạo của cách
mạng vô sản (Phục Việt, Hưng Nam).
- Phong trào cách mạng quốc gia tư sản (1927-1930)
+ Phong trào này gắn liền với sự ra đời của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927), tiền thân là Nam
đồng thư xã.
+ Lãnh tụ: Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Phó Đức Chính, Nguyễn Khắc Nhu.
+ Thành phần: công chức, hào lý, địa chủ, binh lính trong quân đội…
+ Tư tưởng chính mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn: đánh đổ thực dân Pháp, phá
bỏ ngôi vua, thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ có một đường lối chính trị rõ ràng, cụ thể.
+ Về tổ chức, chủ trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng trên thực tế tổ chức rất lỏng
lẻo và chưa bao giờ có một tổ chức thống nhất.
+ Địa bàn hoạt động: đồng bằng, trung du Bắc Bộ.
Ngày 9-2-1930, Đảng tổ chức tiến hành ám sát trùm mộ phu Badanh sau đó bị thực dân Pháp khủng bố.
Họ đứng trước hai sự lựa chọn: hoặc đứng yên cho thực dân Pháp đàn áp, hoặc khởi nghĩa. Họ chọn giải pháp
thứ hai với khẩu hiệu “Không thành công cũng thành nhân”. Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì
thế nó bị thực dân Pháp chìm trong biển máu. Vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng trong phong trào dân tộc ở
Việt Nam kết thúc.
Tóm lại, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi
cuốn đông đảo quần chúng tham gia với nhiều hình thức đấu tranh phong phú song đều bị thất bại. Tuy nhiên
phong trào đã góp phần thức tỉnh và cổ vũ mạnh mẽ lòng yêu nước của nhân dân ta. Thúc đẩy những người yêu
nước tiến tới lựa chọn một con đường cứu nước giải phóng dân tộc mới phù hợp với nhu cầu và xu thế mới của
thời đại.
2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường giải phóng dân tộc và phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
a. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước
- Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19-5-1890 ở làng Kim Liên, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên trên mảnh đất có truyền thống bất
khuất, giữa lúc nước mất nhà tan, đau xót trước cảnh lầm than của đồng bào, Nguyễn Ái Quốc đã sớm có chí
đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
11
- Trăn trở với vận nước và sự nghiệp cứu nước không thành của các bậc tiền bối, ngày 5-6-1911,
Nguyễn Ái Quốc quyết ra đi tìm đường cứu nước. Khác với những người đi trước, Nguyễn Ái Quốc lên đường
đi sang phương Tây, nơi có khoa học - kỹ thuật phát triển, có những tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái,
xem họ làm thế nào để trở nên độc lập, hùng cường, rồi trở về để giúp đồng bào đấu tranh cho nền độc lập của
Việt Nam.
- Nguyễn Ái Quốc đã sang Pháp, đi qua nhiều nước thuộc địa của Pháp ở châu Phi, sang Mỹ (1912) và
qua nhiều nước ở châu Mỹ, đến nước Anh (1913) và năm 1917 trở lại Phá. Người đã chứng kiến cuộc chiến
tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), quan sát, tìm hiểu về chủ nghĩa tư bản, đế quốc, chính sách thực dân ở các
thuộc địa, cuộc sống của nhân dân các thuộc địa. Bản thân tham gia lao động và đấu tranh trong hàng ngũ giai
cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc đủ các màu da.
- Đây là thời kỳ kết hợp nguyên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn trong hoạt động của Nguyễn Ái Quốc.
Người đã khảo sát một số cuộc cách mạng tiêu biểu đã có trên thế giới như cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp.
Qua đó, Người rút ra những kết luận quan trọng trong nhận thức và hành động:
+ “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị
bóc lột. Mà chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”.
+ Tìm ra hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản là những cuộc cách mạng không giải phóng được công
nông và quần chúng lao động. Cách mạng tư sản là “những cuộc cách mạng không đến nơi”, không triệt để. Và
như vậy, “chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền
giao cho dân chúng số nhiều…Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”.
- Cuối năm 1917, Người trở lại Pháp. Tại đây, Người lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước với tờ
báo Việt Nam hồn để tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước cho Việt kiều ở Pháp. Trong lúc đó, Cách mạng
Tháng Mười Nga bùng nổ. Với sự nhạy cảm chính trị đặc biệt, Người hướng tới và chịu ảnh hưởng sâu sắc của
cuộc cách mạng vĩ đại đó.
- Đầu năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất ở Pháp lúc đó.
- Tháng 6-1919, các nước thắng trận họp tại Hội nghị Vecxay (Pháp). Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội
nghị Bản yêu sách, đòi Chính phủ Pháp phải thực hiện các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc
Việt Nam. Bản yêu sách đã không được Hội nghị quan tâm đến, nhưng đã gây được ảnh hưởng chính trị vang
dội. Người rút ra kết luận: những lời tuyên bố “dân tộc tự quyết” của bọn đế quốc chỉ là trò bịp bợm; các dân tộc
muốn được độc lập tự do thực sự phải trông cậy trước hết vào lực lượng của bản thân mình, phải tự mình giải
phóng mình.
- Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Lênin. Qua Luận cương, Người đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Cũng từ đó,
người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III. Vì thế, tại Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp (12-1920),
Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đã
đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động của Người. Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng
sản đầu tiên của Việt Nam.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
12
Như vậy, sau 10 năm tìm đường cứu nước, từ chủ nghĩa yêu nước, vượt qua sự hạn chế của các nhà
cách mạng đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và lựa
chọn con đường cách mạng vô sản, mở đường giải quyết đúng đắn về đường lối giải phóng dân tộc của Việt
Nam.
b. Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam
Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, từ năm 1921, Nguyễn Ái Quốc tích cực
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước, chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập chính
Đảng cộng sản ở Việt Nam.
- Từ đầu năm 1921 đến tháng 6-1923, tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc
địa, xuất bản báo Người cùng khổ (Le Paria).
- Cuối năm 1921, tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã kiến nghị thành
lập Ban nghiên cứu thuộc địa trực thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc
địa được thành lập và Nguyễn Ái Quốc được cử làm trưởng Tiều ban nghiên cứu vấn đề Đông Dương. Thời
gian này, Người tích cực viết bài đăng các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân… viết tác phẩm
Bản án chế độ thực dân Pháp, xuất bản lần đầu năm 1925 tại Pari.
- Từ tháng 6-1923 đến cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu và hoạt động ở Liên Xô, dự Hội
nghị quốc tế nông dân (10-1923), Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và nhiều đại hội quốc tế quan trọng
khác. Người viết nhiều bài đăng trên các báo của Liên Xô, của Quốc tế Cộng sản… Đây là những năm tháng
Người có dịp đi sâu nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga, nghiên cứu xây dựng lý
luận và tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc. Tư tưởng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc đã hình
thành về cơ bản.
- Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người tham gia sáng lập
Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức.
- Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, hạt nhân là Cộng sản
đoàn, xuất bản báo Thanh niên, huấn luyện cán bộ, viết tác phẩm Đường cách mệnh (xuất bản năm 1927). Đây
là bước chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên tiến hành đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng và xây dựng hệ thống tổ chức trong nước, chuẩn bị tích cực
cho việc thành lập Đảng.
- Hệ thống quan điểm và lý luận về cách mạng Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện khá hoàn
chỉnh qua các tác phẩm, bài viết của Người trong chặng đường hoạt động từ năm 1921 đến 1927. Nội dung hệ
thống quan điểm đó là:
+ Vạch rõ bản chất phản động của chủ nghĩa thực dân. Từ đó xác định: chủ nghĩa thực dân là kẻ thù
chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp của nhân dân các nước
thuộc địa.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
13
+ Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng của thời đại – cách mạng vô sản. Giải phóng
dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng vô sản ở các nước tư bản (“chính
quốc”) có quan hệ khăng khít với nhau. Phải thực hiện liên minh chiến đấu giữa các lực lượng cách mạng ở
thuộc địa và “chính quốc”. Cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc”, mà có
tính chủ động, độc lập và có thể thành công trước.
+ Mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng: cách mạng ở thuộc địa trước hết là giải phóng dân tộc,
sau đó mở đường tiến lên giải phóng hoàn toàn nhân dân lao động, giải phóng con người, tức là làm cách mạng
giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Về lực lượng cách mạng: “công nông là người chủ cách mệnh”, “là gốc cách mệnh”; công nhân là giai
cấp lãnh đạo, tiểu tư sản trí thức là bạn đồng minh của cách mạng.
+ Về phương pháp cách mạng: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Quần chúng cần được giác ngộ
và tổ chức lại thành đội ngũ vững bền; hiểu biết tình thế, có sách lược, “có mưu chước”, kế hoạch.
+ Về đoàn kết quốc tế: phải thực hiện liên minh, đoàn kết với các lực lượng cách mạng quốc tế; phải
nêu cao tính chủ động cách mạng, ý thức tự lực, tự cường.
+ Về vai trò của Đảng: phải có đảng cách mạng lãnh đạo. Đảng muốn vững phải có học thuyết cách
mạng, đó là học thuyết Mác-Lênin; phải biết vận dụng đúng đắn học thuyết đó vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam.
Hệ thống quan điểm lý luận của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng ở thuộc địa là sự chuẩn bị về tư tưởng,
chính trị cho Đảng Cộng sản ra đời và định hướng cho cách mạng Việt Nam trong những giai đoạn tiếp theo.
Người đã tiếp thu và vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận Mác-Lênin vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt
Nam, đặt nền móng hình thành chính đảng vô sản và xây dựng một chiến lược giải phóng dân tộc đúng đắn.
c. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Thông qua hoạt động của Nguyễn Ái Quốc và những người Việt Nam yêu nước khác, các sách báo cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam, thúc đẩy phong trào đấu tranh của dân tộc phát
triển mạnh mẽ theo khuynh hướng vô sản.
- Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
phong trào cách mạng trong nước, làm cho khuynh hướng giải phóng dân tộc theo con đường cách mệnh của
Nguyễn Ái Quốc ngày càng chiếm ưu thế.
+ Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thực hiện chủ trương “vô sản hoá”, từng bước
truyền bá lý luận giải phóng dân tộc, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
+ Cùng với việc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tích cực xây dựng lực lượng. Số hội viên của Hội tăng nhanh. Năm
1928 có 300 hội viên, năm 1929 có 1.700 hội viên.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
14
- Giai cấp công nhân đã tổ chức đấu tranh ngay từ khi ra đời. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất phong
trào diễn ra với những hình thức sơ khai như bỏ trốn tập thể, phá giao kèo, đốt lán trại, đánh cai ký, đưa đơn
phản kháng rồi tiến dần lên bãi công.
+ Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào đã có những bước phát triển mới. Từ năm 1919-1925, đã
nổ ra 25 cuộc bãi công, diễn ra trên quy mô lớn hơn và dài hơn.
+ Từ năm 1926-1929, phong trào công nhân ngày càng phát triển với sự ra đời và hoạt động của Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trong hai năm 1926-1927, mỗi năm có hàng chục cuộc đấu tranh. Trong hai
năm 1928-1929 nổ ra hơn 40 cuộc đấu tranh. Các cuộc đấu tranh đã kết hợp giữa khẩu hiệu kinh tế với khẩu
hiệu chính trị và vượt ra khỏi phạm vi của một nhà máy, đồn điền, thể hiện rõ rệt tinh thần đoàn kết giai cấp, ý
thức tổ chức của công nhân.
Tóm lại, phong trào công nhân đang phát triển mạnh mẽ, ngày càng quy tụ và dẫn đầu phong trào yêu
nước nói chung.
3. Các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
Trước sự phát triển của các phong trào yêu nước, đặc biệt là phong trào công nhân cuối những năm 20 -
thế kỷ XX, những người lãnh đạo trong kỳ bộ Bắc Kỳ nhận ra sự cấp thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản
thay cho Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, để tiếp tục đưa phong trào giải phóng dân tộc tiến lên. Yêu cầu
khách quan đó đã tác động vào các tổ chức tiền cộng sản, dẫn đến cuộc đấu tranh nội bộ và sự phân hoá tích cực
trong các tổ chức này, hình thành nên các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Tháng 3-1929, một số phần tử tiên tiến họp ở số nhà 5Đ, phố Hàm Long (Hà Nội) để thành lập chi bộ
cộng sản đầu tiên, gồm 7 đảng viên, do Trần Văn Cung làm bí thư.
- Tháng 9-1929, tại Đại hội I của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ (do
Ngô Gia Tự dẫn đầu) đưa ra đề nghị giải tán tổ chức Thanh niên và thành lập Đảng Cộng sản. Nhưng đề nghị đó
không được chấp nhận, nên Đoàn đã rút khỏi Đại hội về nước.
- Đêm 17-6-1929, 20 đại biểu của Kỳ bộ Bắc Kỳ đã họp tại 312 phố Khâm Thiên tuyên bố thành lập
Đông Dương Cộng sản đảng. Hội nghị đã thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ và quyết định xuất bản báo Búa liềm
làm cơ quan ngôn luận của Đảng.
- Trước ảnh hưởng sâu rộng của Đông Dương Cộng sản đảng, Tổng bộ Thanh niên và Kỳ bộ Nam kỳ đã
quyết định thành lập An Nam Cộng sản đảng vào tháng 8-1929, xuất bản báo Đỏ làm cơ quan ngôn luận của
mình.
- Tổ chức cộng sản thứ ba ra đời trên cơ sở của Tân Việt cách mạng Đảng. Tân Việt cách mạng Đảng ra
đời ngày 14-7-1928 là kết quả của sự phân hoá nội bộ các nhóm tiểu tư sản yêu nước trong cuộc đấu tranh giữa
hai đường lối cách mạng vô sản và tư sản trong phong trào dân tộc Việt Nam. Tiền thân của Tân Việt cách mạng
Đảng là Hội Phục Việt (1925), đổi thành Hội Hưng Nam (1926), đổi thành Việt Nam cách mạng Đảng (7-1926),
rồi Việt Nam cách mạng đồng chí Hội (7-1927). Dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của lý luận Mác-Lênin và tư tưởng
cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, trong nội bộ Tân Việt đã diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai xu hướng
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
15
cách mạng và cải lương. Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã tác động
mạnh mẽ đến sự phân hoá trong Tân Việt. Các đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã tách ra, công bố Tuyên đạt
thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn (9-1929).
Tóm lại, sự ra đời nhanh chóng của các tổ chức đảng lúc bấy giờ phản ánh xu thế tất yếu của phong trào
cách mạng và ưu thế của hệ tư tưởng cộng sản trong phong trào dân tộc ở Việt Nam. Song sự tồn tại ba đảng
hoạt động biệt lập có nguy cơ dẫn đến một sự chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam là phải có
một đảng cộng sản thống nhất trong cả nước.
III. HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
1. Hội nghị thành lập Đảng
- Nhận được tin ở Đông Dương có nhiều tổ chức cộng sản, ngày 27-10-1929, Quốc tế cộng sản gửi
những người cộng sản ở Đông Dương tài liệu Về việc thành lập một đảng cộng sản ở Đông Dương, trong đó chỉ
rõ: “Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một
đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản… Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy
nhất ở Đông Dương
1
.
- Song tài liệu này chưa kịp đến tay những người cộng sản Việt Nam. Lúc đó Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm
đã nhận được tin Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phân liệt. Nguyễn Ái Quốc lập tức rời Xiêm về Hương
Cảng (Trung Quốc). Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề có
liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, Người chủ động triệu tập đại biểu của hai nhóm Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng.
- Dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã họp ở bán đảo Cửu
Long, Hương Cảng (Trung Quốc) bắt đầu vào ngày 6-1-1930
2
. Hội nghị nhất trí với đề nghị của Nguyễn Ái
Quốc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Hội nghị thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi
thảo. Đó là Cương lĩnh và điều lệ đầu tiên của Đảng.
2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- Nhiệm vụ cụ thể của cách mạng là:
+ Về chính trị: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn
toàn độc lập”, “Dựng ra chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nông”.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1998, t1, tr 614
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 1998, t2, tr 19
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
16
+ Về kinh tế: Tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc để giao cho chính phủ công nông
binh quản lý; thu hết ruộng đất của đế quốc làm của công và chia cho dân nghèo; mở mang công nghiệp và nông
nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ.
+ Về văn hoá – xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo
hướng công nông hoá.
Những nhiệm vụ trên bao gồm hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến,
trong đó nhiệm vụ dân tộc được đặt lên hàng đầu.
+ Lực lượng cách mạng, Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, các nhà
yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai: Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông
dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; đưa tiểu tư sản, trí thức,
trung nông đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng
(như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ.
Chủ trương tập hợp lực lượng trên đây thể hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên, Cương lĩnh không quên nhấn mạnh “không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào
đường lối thoả hiệp”.
- Quan hệ quốc tế, cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới, “liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản
Pháp”.
- Người lãnh đạo cách mạng, đó là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản “Đảng là đội tiên
phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh
đạo được dân chúng”.
- Ý nghĩa của Cương lĩnh:
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là một cương lĩnh giải phóng dân tộc
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới.
+ Cương lĩnh đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp, thấm
đượm tính dân tộc và tính nhân văn.
+ Đấu tranh vì độc lập, tự do, tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới
xã hội cộng sản là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.
3. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng
- Sự ra đời của Đảng chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành và đủ khả năng đảm nhiệm
vai trò lãnh đạo của cách mạng Việt Nam. Từ đây giai cấp công nhân thật sự trở thành một lực lượng chính trị
độc lập, thống nhất trong cả nước.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
17
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta, chấm dứt cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước, là cơ sở dẫn đến những thắng lợi và những bước nhảy vọt lớn trong lịch sử
dân tộc những năm sau này.
- Với sự ra đời của Đảng, cách mạng Việt Nam đã trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới. Từ
đây, giai cấp công nhân, nhân dân lao động Việt Nam tham gia vào phong trào cách mạng thế giới một cách tự
giác và có tổ chức.
•
••
• Kết luận
- Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cũng là lúc Việt Nam Quốc dân Đảng tan rã, cùng với sự
thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái, sứ mệnh lịch sử của giai cấp tư sản kết thúc. Ngọn cờ phản đế, phản
phong được chuyển sang tay giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản trở thành người nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng
Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm lịch sử của cuộc đấu tranh dân tộc và giải quyết yêu cầu
của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Câu hỏi ôn tập
1. Đặc điểm nổi bật của thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ảnh hưởng tới cách mạng
Việt Nam?
2. Hậu quả của công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam?
3. Thái độ chính trị và khả năng cách mạng của mỗi giai cấp trong xã hội Việt Nam thuộc địa?
4. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX?
5. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX?
6. Nguyên nhân thất bại và ý nghĩa lịch sử của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị tư
sản ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến đầu năm 1930?
7. Hệ thống quan điểm cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh trong thời kỳ 1920 – 1930?
8. Quá trình hình thành các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam?
9. Quá trình Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng chính trị vô
sản?
10. Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị điều kiện về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam như thế nào?
11. Điều kiện lịch sử, quá trình phát triển, đấu tranh và ý nghĩa của phong trào công nhân Việt Nam?
12. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng?
13. Vai trò của Nguyễn ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng?
15. Các yếu tố hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam và ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng?
Vấn đề thảo luận
i hc Thy li - cng bi ging Lch s ng Cng sn Vit Nam
Nguyn Anh Cng, V Kin Quc, Nguyn Th Ngc Dung, Trn Th Ngc Thỳy
18
1. Chng minh rng ng Cng sn Vit Nam ra i u nm 1930 l mt tt yu lch s?
2. Phõn tớch nhng yu t dn n s ra i ca ng v mi quan h gia cỏc yu t ú.
3. Nhng t tng c bn v cỏch mng gii phúng dõn tc ca Nguyn i Quc nhng nm 20 ca th
k XX?
4. Ti sao núi Cng lnh chớnh tr u tiờn ca ng do Nguyn i Quc son tho l ỳng n v
sỏng to? Sỏng to im no?
5. Ti sao cỏc phong tro yờu nc Vit Nam cui th k XIX u th k XX u tht bi v khụng
tỡm c li thoỏt cho cỏch mng Vit Nam?
Ti liu hc tp
1. ng Cng sn Vit Nam, ng Kỏch mnh, Vn kin ng ton tp, tp 1, nxb Chớnh tr Quc
gia, H Ni, 2002, tr 13-82
2. ng Cng sn Vit Nam, Chỏnh cng vn tt ca ng, Vn kin ng ton tp, tp 2, nxb Chớnh
tr Quc gia, H Ni, 2002, tr 2-3
3. ng Cng sn Vit Nam, Sỏch lc vn tt ca ng, Vn kin ng ton tp, tp 2, nxb Chớnh tr
Quc gia, 2002, tr 4-5
4. B Giỏo dc v o to, Giỏo trỡnh lch s ng Cng sn Vit Nam, nxb Chớnh tr Quc gia, 2006
5. Lê Mậu Hn, Các cơng lĩnh cách mạng của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2003.
6. Lê Mậu Hn, Đảng Cộng sản Việt Nam các Đại hội và Hội nghị Trung ơng, Nxb Chính trị Quốc
gia, HN, 2005.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
19
Chương II
ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)
I. Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng 1930-1935
1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10-1930. Luận cương chính trị của Đảng
a. Nội dung Hội nghị
Tháng 4-1930, Trần Phú từ Liên Xô trở về nước hoạt động, được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời. Đồng chí được phân công cùng Ban thường vụ Trung ương chuẩn bị cho kỳ họp thứ nhất và dự thảo
bản Luận cương chính trị.
Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương đã được tiến hành
tại Hương Cảng (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của Trần Phú. Nội dung hội nghị gồm những điểm chính sau:
- Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Thông qua Nghị quyết “Về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng” và Điều
lệ Đảng.
- Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức gồm 6 uỷ viên
3
và cử đồng chí Trần Phú làm
Tổng bí thư.
- Ban Chấp hành Trung ương quyết định phải dựa vào nghị quyết của Quốc tế Cộng sản để hoạch định
cương lĩnh, chính sách và kế hoạch của Đảng, làm cho Đảng bôn-sê-vích hoá. Hội nghị đã thảo luận và thông
qua Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, với những vấn đề cơ bản của cách mạng dân tộc
dân chủ (cách mạng tư sản dân quyền) do giai cấp công nhân lãnh đạo.
b. Nội dung Luận cương chính trị tháng 10-1930
+ Về tính chất xã hội, mâu thuẫn giai cấp ở Đông Dương diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền dân
cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
+ Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu là “cách mạng tư sản dân quyền”, “có
tính chất thổ địa và phản đế”. “Tư sản dân quyền là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Sau khi cách mạng tư sản
dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
+ Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ phong kiến, thực hiện cách mạng ruộng đất một
cách triệt để và đánh đổ đế quốc, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan
hệ khăng khít, mật thiết với nhau, trong đó “vấn đề thổ địa là cái cốt cách mạng tư sản dân quyền”, là cơ sở để Đảng lãnh
đạo dân cày.
+ Về lực lượng cách mạng: Luận cương xác định giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính,
trong đó giai cấp vô sản là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Còn những giai cấp khác
như tư sản thương mại thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng, tư sản công nghiệp có tư tưởng cải lương.
Trong giai cấp tiểu tư sản: bộ phận thủ công nghiệp có thái độ do dự; thương gia không tán thành cách mạng; trí
thức chỉ hăng hái tham gia cách mạng ở thời kỳ đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị mới đi theo cách mạng
mà thôi.
3
Ban thường vụ có: Trần Phú, Ngô Đức Trì, Nguyễn Trọng Nhã.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
20
+ Về phương pháp cách mạng: phải tổ chức giáo dục quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao. Phải ra sức
chuẩn bị cho quần chúng về con đường “võ trang bạo động” và phải lập tức giành chính quyền khi có thời cơ.
Võ trang bạo động giành chính quyền là một nghệ thuật, “phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.
+ Về quan hệ quốc tế: cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới có liên hệ chặt chẽ với nhau; giai
cấp vô sản Đông Dương phải có quan hệ đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô
sản Pháp.
+ Về vai trò của Đảng: điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có
một Đảng Cộng sản với một đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, liên hệ mật thiết với quần chúng và
trải qua tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm
nền tảng.
- Nhận xét Luận cương:
+ Có thể thấy, Luận cương chính trị khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng
mà Chánh cương vắt tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu như: vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; mục tiêu chiến
lược của cách mạng; mối quan hệ quốc tế Ngoài ra, còn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận của cách mạng Việt
Nam như: đề cập đến vấn đề thời cơ cách mạng, cụ thể bước tiến của cách mạng bằng bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, chỉ rõ nội dung xây dựng Đảng.
+ Tuy nhiên, Luận cương chưa phân tích và làm rõ được tính chất và đặc điểm của cách mạng ở một xã
hội Việt Nam thuộc địa, trong đó mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp xâm
lược, từ đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu, nặng về đấu tranh giai cấp, về cách mạng ruộng
đất; đánh giá không đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc,
cường điệu mặt hạn chế của họ, chưa thấy được khả năng phân hoá và lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ
trong cách mạng giải phóng dân tộc, cho nên không đề ra liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh
chống đế quốc, tay sai.
- Nguyên nhân của những hạn chế:
+ Do nhận thức giáo điều và máy móc về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng
thuộc địa.
+ Không hiểu biết đầy đủ về tình hình và đặc điểm của xã hội, dân tộc, giai cấp ở Đông Dương.
+ Bị tác động trực tiếp của khuynh hướng “tả” của Quốc tế cộng sản và một số Đảng Cộng sản lúc đó.
2. Phong trào cách mạng Việt Nam những năm 1930-1935
a. Hoàn cảnh lịch sử
- Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 tàn phá kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa, chấm dứt thời kỳ ổn
định tạm thời của chủ nghĩa tư bản.
- Để cứu vãn tình hình, giai cấp tư sản trút gánh nặng này lên vai nhân dân các nước thuộc địa, làm cho
mâu thuẫn giữa: công nhân với tư bản; nông dân với địa chủ, phong kiến; các nước thuộc địa, nửa thuộc địa với
các nước đế quốc ngày càng gay gắt.
- Thực dân Pháp tăng cường vơ vét, bóc lột thuộc địa nhằm bù đắp những hậu quả do khủng hoảng ở
chính quốc gây ra. Hơn nữa kể từ sau khởi nghĩa Yên Bái (2-1930), thực dân Pháp tiến hành chiến dịch khủng
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
21
bố ở khắp nơi, làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với chúng và tay sai ngày càng gay gắt, đẩy nhân
dân ta tiến nhanh trên con đường vùng lên đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt hơn với kẻ thù.
- Trong khi đó, Liên Xô đang phát triển nhanh chóng về kinh tế, văn hoá, xã hội … thể hiện tính ưu việt
mọi mặt, cổ vũ các dân tộc bị áp bức, nhân dân các nước tư bản, khiến họ hướng về một mô hình chính trị - xã
hội ưu việt hơn.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời sẵn sàng lãnh đạo cách mạng. Cương lĩnh và Điều lệ Đảng được bí
mật đưa vào quần chúng. Phong trào đấu tranh đang trên đà phát triển từ năm 1929, đã bùng lên mạnh mẽ khắp
ba miền.
b. Phong trào cách mạng 1930-1931
Cuối năm 1929 đến tháng 4-1930
- Các cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy, đồn điền:
+ Mở đầu cao trào là hàng loạt các cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy xi măng Hải Phòng, hãng dầu
Sôcôni ở Sài Gòn.
+ Tiếp đó là cuộc đấu tranh của 5.000 công nhân đồn điền Phú Riềng (Nam Bộ) tháng 2-1930.
+ Cuộc đấu tranh của 4.000 công nhân nhà máy sợi Nam Định (25-3-1930).
+ Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 400 công nhân nhà máy diêm Bến Thuỷ-Vinh (19-4-1930).
- Phong trào đấu tranh của nông dân cũng diễn ra ở nhiều địa phương như Hà Nam, Thái Bình, Nghệ An, Hà
Tĩnh
- Trong các cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân ở khắp 3 miền. giai cấp công nhân đóng vai trò
tiên phong. Giai đoạn này, phong trào vẫn mang tính tản mạn, rời rạc, chưa có sự liên kết giữa các vùng, miền,
nặng về mục đích kinh tế. Tuy nhiên, hầu hết các cuộc đấu tranh đã giành được thắng lợi, buộc thực dân Pháp
và tay sai phải thả một số người bị bắt, cải thiện điều kiện làm việc cho công dân, hoãn thuế cho nông dân.
Từ tháng 5 đến tháng 9-1930
- Đây là thời kỳ phong trào phát triển thành cao trào.
+ Ngày 1-5, Đảng chủ trương phát động quần chúng đấu tranh trên phạm vi cả nước. Từ những cuộc
đấu tranh ban đầu đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ, phong trào tiến lên đấu tranh chính trị, nhiều cuộc biểu tình
có lực lượng tự vệ vũ trang bảo vệ. Phong trào đã lôi cuốn nhiều tầng lớp khác nhau tham gia. Công hội, Nông
hội, Đoàn thanh niên cộng sản, Hội phụ nữ tiếp tục phát triển và phát huy vai trò của mình.
+ Riêng trong tháng 5-1930, trong cả nước có 16 cuộc đấu tranh của công nhân, 34 cuộc đấu tranh của
nông dân, 4 cuộc đấu tranh của học sinh và dân nghèo thành thị.
+ Từ tháng 6 đến tháng 8-1930 đã nổ ra 121 cuộc đấu tranh, trong đó có 22 cuộc của công nhân, 95
cuộc của nông dân.
- Phong trào cách mạng nổ ra sôi nổi và quyết liệt nhất ở Nghệ An và Hà Tĩnh với nhiều cuộc đấu tranh
quy mô lớn của nông dân dưới hình thức biểu tình có vũ trang tự vệ, kéo đến các huyện lỵ, đốt sổ sách, phá nhà
lao như: cuộc biểu tình của 3.000 nông dân Nam Đàn (30-8-1930); cuộc biểu tình của 20.000 của nông dân
Thanh Chương (1-9-1930); 3.000 nông dân Can Lộc (7-9-1930)
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
22
+ Tháng 9-1930, phong trào cách mạng phát triển đến đỉnh cao với những hình thức đấu tranh quyết
liệt. Quần chúng có vũ trang tự vệ tiến hành biểu tình thị uy, tiến công vào cơ quan chính quyền địch ở địa
phương.
+ Ngày 12-9-1930, cuộc biểu tình của 8.000 nông dân Hưng Nguyên bị Đế quốc Pháp và tay sai đàn áp
dã man (máy bay ném bom làm chết 171 người) như lửa đổ thêm dầu làm phong trào cách mạng bùng lên dữ
dội.
+ Trước sức mạnh của quần chúng, bộ máy chính quyền thực dân tay sai nhiều nơi bị tê liệt ở cấp huyện
và tan rã ở cấp xã. Cách mạng đã giành quyền làm chủ ở một số nơi. Các tổ chức Đảng ở những địa phương này
chủ động lãnh đạo các Ban Chấp hành nông hội đứng ra quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Các “khu đỏ” tự do
hình thành ở nhiều vùng nông thôn của Nghệ An, Hà Tĩnh như: Thanh Chương, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Diễn
Châu, Can Lộc, Thạch Hà trong đó hình thành một chính quyền cách mạng của nông dân theo hình thức các
uỷ ban tự quản kiểu Xô-viết.
Chính quyền Xô- viết đã thực hiện chuyên chính với kẻ thù, dân chủ với nhân dân lao động, tiến hành
những thay đổi mọi mặt:
Về chính trị: ban bố quyền tự do dân chủ của nhân dân, quyền tự do hội họp và sinh hoạt trong các đoàn
thể cách mạng; trừng trị bọn phản cách mạng, quản chế bọn hào lý, giữ gìn trật tự trị an
Về kinh tế: tiến hành chia ruộng công cho dân cày nghèo, bỏ các thứ thuế vô lý, thực hiện giảm tô và
xóa nợ
Về văn hoá - xã hội: tổ chức các lớp học chữ Quốc ngữ, xoá bỏ các tệ nạn xã hội, bài trừ hủ tục, tổ chức
sinh hoạt tập thể như đọc sách báo cách mạng, tổ chức những hoạt động văn hóa - xã hội với những nội dung
mới…
- Hoảng sợ trước sức mạnh của quần chúng, đế quốc Pháp và bọn phong kiến tay sai điên cuồng khủng
bố trắng, dìm các “làng đỏ” trong máu lửa. Pháp còn mở các chiến dịch chiêu hàng, cưỡng bức, đầu thú, phát
thẻ quy thuận hòng tách quần chúng ra khỏi ảnh hưởng của cách mạng, cô lập Đảng để tiêu diệt phong trào cách mạng.
- Trước tình hình ấy, tháng 9-1930, Ban thường vụ Trung ương Đảng gửi thông tri cho xứ uỷ Trung Kỳ
vạch rõ: chủ trương bạo động riêng lẻ trong vài địa phương lúc bấy giờ là quá sớm, vì chưa đủ điều kiện, chưa
đúng với hoàn cảnh cho phép. Trách nhiệm của Đảng là phải chuyển hướng hoạt động, phải tổ chức quần chúng
chống khủng bố, giữ vững lực lượng cách mạng.
- Tháng 10-1930, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra những nhiệm vụ cần kíp trước mắt là:
mở rộng phong trào quần chúng khắp trong toàn cõi Đông Dương; tập trung đấu tranh chống khủng bố trắng,
chống sưu cao, thuế nặng, chống chính sách cải cách lừa bịp của địch, chống tư tưởng cải lương thoả hiệp,
chống khuynh hướng manh động
- Trung ương Đảng đã chỉ thị cho các cấp bộ Đảng đẩy mạnh phát triển các đội tự vệ để bảo vệ quần
chúng đấu tranh và có những chủ trương kịp thời bảo vệ “Nghệ - Tĩnh đỏ” như: lập Ban Chấp hành nông hội bí
mật, tổ chức lại huyện bộ và cán sự chi bộ bí mật; đồng thời uốn nắn những lệch lạc, sai lầm.
- Ngày 18-11-1930, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị về vấn đề thành lập Hội phản đế đồng
minh, nêu lên tư tưởng chiến lược cách mạng đúng đắn của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt. Chỉ thị phê
phán những nhận thức sai lầm trong Đảng là đã tách rời vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, nhận thức không
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
23
đúng về vấn đề đoàn kết dân tộc, về vai trò của hội phản đế đồng minh trong cách mạng ở thuộc địa. Tuy nhiên,
tư tưởng của chỉ thị mặc dù phù hợp với tình hình nhưng vẫn chưa thành tư tưởng chủ đạo của Ban Chấp hành
Trung ương lúc đó và ngày 9-12-1930, Ban thường vụ Trung ương lại quay lại nhấn mạnh chủ trương đấu tranh
giai cấp và phê phán quan điểm đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu của Hội nghị hợp nhất.
Từ đầu năm 1931, sự khủng bố của kẻ thù ngày càng dữ dội. Phong trào đấu tranh của quần chúng ngày
càng khó khăn và giảm sút dần. Tư tưởng hoang mang dao động đã xuất hiện trong quần chúng và cả một số
đảng viên. Xứ ủy Trung kỳ đã không nhận rõ nên đã đề ra chủ trương “thanh trừ trí, phú, địa, hào, đào tận gốc
trốc tận rễ” ra khỏi Đảng. làm cho Đảng và phong trào cách mạng càng thêm khó khăn.
Sự khủng bố ác liệt của kẻ địch làm cho phần lớn các cơ sở tổ chức của Đảng và quần chúng bị tan vỡ.
Lực lượng của Đảng bị tổn thất nặng nề. Xôviết và phong trào quần chúng dần lắng xuống.
- Ý nghĩa:
+ Khẳng định đường lối cách mạng do Đảng ta đề ra là đúng đắn.
+ Giai cấp công nhân đã thực hiện quyền lãnh đạo đối với cách mạng thông qua Đảng tiền phong của
mình.
+ Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, liên minh chiến đấu giữa công nhân- nông dân được thiết lập trên
thực tế.
+ Là cuộc tổng diễn tập lần thứ nhất của Đảng và quần chúng cách mạng về khởi nghĩa giành chính
quyền.
- Kinh nghiệm:
+ Trong mỗi thời kỳ cách mạng, phải biết căn cứ vào thực tế tình hình thế giới và trong nước, biết so
sánh lực lượng mà xác định mục tiêu cụ thể, trước mắt.
+ Khi chưa có tình thế cách mạng trực tiếp, phải biết sử dụng những hình thức và phương pháp cách
mạng thích hợp, không nhất thiết là lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền.
+ Kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
+ Trong đấu tranh phải kết hợp giữa phong trào cách mạng ở nông thôn và thành thị; kết hợp phong trào
đấu tranh của công nhân với phong trào của nông dân; xây dựng liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
+ Coi trọng công tác xây dựng Đảng, làm cho đảng viên thấm nhuần lập trường, quan điểm của giai cấp
công nhân; coi trọng nguyên tắc tổ chức và phương pháp làm việc; coi trọng khắc phục những khuynh hướng
“tả”, “hữu” xa rời lập trường, quan điểm, nguyên tắc tổ chức và đường lối đúng đắn của Đảng.
c. Đấu tranh trong những năm 1931-1935
- Từ tháng 9-1930, thực dân Pháp thực hiện khủng bố, tàn sát, nhằm dập tắt phong trào cách mạng Việt
Nam và tiêu diệt Đảng Cộng sản. Chúng thực hiện thủ đoạn mị dân, lừa bịp, thực hiện một số cải cách, nhằm lôi kéo
các tầng lớp quan lại, địa chủ, tư sản phong trào cách mạng bị tổn thất nặng nề.
- Từ tháng 9-1931, phong trào đi xuống. Đây là những năm tháng vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, Đảng đã
tích cực lãnh đạo để phục hồi và phát triển phong trào:
+ Các đảng viên cộng sản trong nhà tù đã thành lập các chi bộ Đảng để lãnh đạo đấu tranh chống chế độ
tù lao hà khắc, biến nhà tù đế quốc thành trường đấu tranh cách mạng và trường học.
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
24
+ Tháng 5-1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong và một số cán bộ chủ chốt
tổ chức Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng.
+ Tháng 6-1932, Ban lãnh đạo Trung ương đã thảo ra bản Chương trình hành động của Đảng Cộng sản
Đông Dương, được Quốc tế Cộng sản ghi nhận. Chương trình đã cụ thể hoá cương lĩnh của Đảng, đề ra những
yêu cầu chính trị trước mắt, những biện pháp tổ chức và đấu tranh, góp phần nhanh chóng khôi phục phong trào
cách mạng và hệ thống tổ chức của Đảng.
- Dựa trên “Chương trình hành động” do Ban lãnh đạo Trung ương đề ra, Đảng đã lãnh đạo đấu tranh
trên mọi phương diện: kinh tế, chính trị, tư tưởng và văn hoá:
+ Các tổ chức cơ sở Đảng đã phát triển các đoàn thể quần chúng cách mạng, sử dụng các hình thức tổ
chức hợp pháp như Hội cày, Hội cấy, Hội gặt, Hội bóng đá, Hội đọc sách… để tập hợp quần chúng, giáo dục và
hướng dẫn quần chúng đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp.
+ Sử dụng báo chí hợp pháp phê phán một số quan điểm chính trị, triết học, văn học, nghệ thuật tư sản,
vạch trần tư tưởng nô lệ của một số bồi bút tay sai của thực dân, tuyên truyền quan điểm cách mạng của Đảng…
+ Trong hai năm 1932-1933, các Xứ uỷ Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Trung Kỳ bị thực dân Pháp phá vỡ nhiều lần,
đã lần lượt được lập lại.
+ Đầu năm 1934, với sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông
Dương được thành lập do đồng chí Lê Hồng Phong đứng đầu.
Nhờ sự cố gắng phi thường của Đảng ta, được sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, đến cuối năm 1934 đầu
năm 1935 hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục. Đây là cơ sở để Đảng ta tiến tới Đại hội lần thứ nhất
của Đảng.
- Ý nghĩa
+ Đứng vững trong bão táp cách mạng và khủng bố trắng của kẻ thù, Đảng đã tỏ rõ bản lĩnh cách mạng,
phát huy truyền thống bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam.
+ Thắng lợi về khôi phục hệ thống tổ chức và phong trào những năm 1932-1935 đã chuẩn bị cơ sở cho
phong trào cách mạng 1936-1939.
- Kinh nghiệm
+ Trong cuộc đọ sức quyết liệt với đế quốc, thực dân, sự hy sinh, tổn thất, thậm chí có lúc thất bại là
không tránh khỏi, nhưng phải kịp thời rút ra những kinh nghiệm sâu sắc của thời kỳ đã qua, giữ vững lòng tin
vào tiền đồ cách mạng, chống tâm lý bi quan, dao động, nêu cao khí tiết người cộng sản trước kẻ thù.
+ Khi so sánh lực lượng không có lợi cho cách mạng, Đảng phải đề ra chủ trương, khẩu hiệu, hình thức
tổ chức và đấu tranh thích hợp, giữ vững tổ chức bí mật, giữ vững mối liên hệ với quần chúng, tận dụng mọi khả
năng hợp pháp, nửa hợp pháp, tiếp tục lãnh đạo quần chúng đòi quyền dân sinh, dân chủ để khôi phục phong
trào, chuẩn bị cho bước phát triển mới của cách mạng.
3. Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng (3-1935)
a. Hoàn cảnh lịch sử
- Hệ thống tổ chức của Đảng được xây dựng và chắp nối lại
- Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng quyết định triệu tập đại hội Đảng
Đại học Thủy lợi - Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Anh Cường, Vũ Kiến Quốc, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Thúy
25
- Đại hội họp ở Ma Cao (Trung Quốc), 13 đại biểu
b. Nội dung
- Nhận định tình hình:
+ Khẳng định thắng lợi của cuộc đấu tranh để khôi phục phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức Đảng
+ Lực lượng Đảng chưa phát triển mạnh ở các vùng tập trung công nghiệp, công nhân gia nhập Đảng còn ít
+ Hệ thống tổ chức Đảng chưa thật thống nhất, sự liên hệ giữa các cấp bộ của Đảng chưa chặt chẽ v.v…
- Đề ra ba nhiệm vụ trước mắt:
1. Củng cố và phát triển Đảng
+ Phát triển lực lượng Đảng vào các xí nghiệp, nhà máy, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng.
Đồng thời phải đưa nông dân lao động và trí thức cách mạng đã qua rèn luyện thử thách vào Đảng
+ Tăng cường các đảng viên ưu tú xuất thân từ công nhân vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng
+ Các đảng bộ cần thường xuyên phê bình và tự phê bình, đấu tranh trên cả hai mặt, chống "tả" khuynh và
hữu khuynh, giữ vững kỷ luật Đảng.
2. Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng
+ Chú ý các dân tộc ít người, phụ nữ, binh lính…
+ Củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng như Đoàn thanh niên cộng sản, Công hội đỏ, Nông hội đỏ,
Cứu tế đỏ
+ Lập Mặt trận thống nhất phản đế
+ “Thâu phục quảng đại quần chúng là một nhiệm vụ trung tâm, căn bản, cần kíp của Đảng hiện thời…".
3. Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, và ủng hộ cách mạng Trung
Quốc…
- Thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh
niên, phụ nữ, binh lính, các dân tộc ít người, về công tác mặt trận phản đế, đội tự vệ, và cứu tế đỏ.
c. Ý nghĩa
- Đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng quần chúng, đặt dưới sự chỉ
đạo thống nhất của Ban chấp hành Trung ương.
- Chuẩn bị điều kiện để Đảng bước vào thời kỳ đấu tranh mới.
- Hạn chế:
+ Chưa thấy được nguy cơ của chủ nghĩa phát xít trên thế giới và khả năng mới của cuộc đấu tranh chống
phát xít và chống phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình
+ Không đề ra được một chủ trương chính sách phù hợp với tình hình mới.