Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC MÔI TRƯỜNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.57 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Đề tài:
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC MƠI TRƯỜNG
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH

Họ và tên
MSSV
Lớp

:
:
:

Vũ Thị Bé
1253801011016
31-HC37.1

TP.HCM - THÁNG 6/2016


LỜI NĨI ĐẦU
Mơi trường hiện đang là m ột vấn nạn mà cả thế giới quan tâm. Bởi nó ảnh
hưởng đến sự sống còn, sức khỏe của con người cũng như sinh vật trong thế giới
tự nhiên. Một môi trường trong sạch sẽ đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển
bền vững. Thế nhưng, không phải ai cũng hiểu được tầm ảnh hưởng quan trọng
của việc giữ gìn mơi trường xanh, sạch, đẹp. Khơng ít người chỉ vì cái lợi về mặt
kinh tế trước mắt mà ra sức tàn phá, làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ô
nhiễm mơi trường. Tình trạng ơ nhiễm mơi trường cứ diễn ra từng ngày, thậm chí


là từng giờ từng phút và đang có xu hướng ngày càng trầm trọng; hiện tượng
biến đ ổi khí hậu diễn ra rất phức tạp; chất lượng khơng khí, nguồn nước, tài
ngun, hệ sinh thái tại nhiều nơi đang ở mức báo động. Nguyên nhân dẫn đến
việc ô nhiễm môi trường không chỉ xuất phát từ các hoạt động mang tính vĩ mơ
như chạy đua vũ khí h ạt nhân, thử nghiệm tên lửa… của các quốc gia mà còn
xuất phát từ ý thức thấp kém trong việc bảo vệ môi trường của từng cá nhân, tổ
chức thơng qua các hoạt đ ộng mang tính vi mô như việc xả rác thải sinh hoạt
hằng ngày, xả nước thải và chất độc hại vào môi trường mà khơng qua xử lý…
Trước tình trạng mơi trường ngày càng suy thối trầm trọng, Hội nghị Liên Hợp
Quốc về mơi trường và phát triển đã được tổ chức tại Jio de Janeiro - Braxin vào
tháng 6/1992; Hội nghị Thượng đ ỉnh Thế Giới về phát triển bền vững tại
Joharnesburg - Nam Phi đư ợc tổ chức vào tháng 8/2002; Hội nghị thế giới về Khí
hậu - Copenhagen diễn ra tại Đan Mạch từ ngày 7 đến 18/12/2009; gần đây nhất là
Hội nghị Thượng đỉnh Khí hậu COP21 diễn ra tại Paris bắt đầu từ ngày 12/12/2015
và nhiều Đi ều ước quốc tế song phương, đa phương v ề bảo vệ môi trường đã được
ký kết. Việt Nam đã tham gia một số Điều ước như: Công ước về bảo vệ di sản văn
hóa và tự nhiên của thế giới, 1972 (19/10/1987); Công ước về thông báo sớm sự cố
hạt nhân (IAEA), 1985 (30/10/1987); Công ư ớc về các vùng đất ngập nước có tầm
quan trọng quốc tế đặc biệt như là nơi cư trú của loài chim nước (RAMSAR), 1971
(20/9/1989); Cơng ước khung về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc (UNFCCC),
1992 (16/11/1994); Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), 1982. Việt
Nam đã nội luật hóa các Điều ước quốc tế mà mình đã cam kết vào các văn bản quy
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong hệ thống pháp luật quốc gia hiện nay
như Luật bảo vệ môi trường năm 2014, và hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi
hành, đi ển hình như Nghị định 179/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay cho thấy tình
trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường vẫn xảy ra tương đối
phổ biến, công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường cũng
chưa triệt để, có nhiều vụ vi phạm khơng được phát hiện kịp thời hoặc được phát
hiện nhưng xử lý chưa thỏa đáng, chưa đ ủ sức răn đe d ẫn đ ến việc tái phạm nhiều

lần.
1


Những bất cập trên đây có nhiều nguyên nhân khác nhau, không chỉ xuất phát từ
ý thức chấp hành của các cá nhân, tổ chức mà còn xuất phát từ chính những bất
cập của pháp luật điều chỉnh.
Trước tình hình đó, em đã ch ọn đ ề tài “Xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ mơi trường và thực tiễn thi hành” làm Tiểu luận tốt nghiệp, với
mong muốn góp phần nâng cao hiểu biết của các cá nhân, tổ chức về các biện
pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường, nhất là
những quy đ ịnh về vấn đ ề này trong Nghị định 179/2013/NĐ-CP quy đ ịnh xử
phạt vi phạm hành chính trong vực bảo vệ mơi trường. Tiểu luận có phạm vi
nghiên cứu giới hạn trong các quy định pháp luật hiện hành như Luật bảo vệ môi
trường 2014, Nghị định 179/2013/NĐ-CP quy đ ịnh về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường, Luật xử lý vi phạm hành chính 2012,
tham khảo một số bài viết trên báo, tạp chí chuyên ngành và phân tích một số vụ
việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường xảy ra trong
thời gian gần đây. B ằng việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân
tích, tổng hợp, những yêu cầu mà đ ề tài đ ặt ra đã d ần đư ợc làm sáng tỏ trong
Tiểu luận. Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Tiểu luận
được kết cấu thành 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Chương 2. Thực trạng pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và thực tiễn thi hành.
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá
trình nghiên cứu, nhưng với thời gian, điều kiện và khả năng có hạn nên bài viết
khơng tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì vậy, em rất mong nhận đư ợc
những ý kiến đóng góp của Q thầy cơ và các bạn.


2


Mục lục
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG..................................................................... 4
1.1. Khái niệm môi trường và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
mơi trường................................................................................................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm, vai trị của mơi trường đối với cuộc sống............................................. 4
a. Khái niệm................................................................................................................................................ 4
b. Vai trị của mơi trường đối với cuộc sống.............................................................................. 4
1.1.2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường. 5

1.2. Đặc điểm các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
mơi trường.................................................................................................................................................... 6
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ THỰC TIỄN THI
HÀNH................................................................................................................................................. 9
2.1. Thực trạng pháp luật về các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ mơi trường................................................................................................................. 9
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường................................................................................................. 15
Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ
PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MƠI
TRƯỜNG.................................................................................................................................................. 20

3


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH

TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG.
1.1. Khái niệm mơi trường và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ mơi trường.
1.1.1. Khái niệm, vai trị của môi trường đối với cuộc sống.
a. Khái niệm.
Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động
đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật.
Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường gồm đất,
nước, khơng khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật và các hình thái vật chất khác.
Hoạt động bảo vệ mơi trường là hoạt động giữ gìn, phịng ngừa, hạn chế các
tác động xấu đến mơi trường; ứng phó sự cố mơi trường; khắc phục ơ nhiễm, suy
thối mơi trường, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành.
Ơ nhiễm mơi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù
hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng
xấu đến con người và sinh vật.
Suy thối mơi trường là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của thành
phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật.
b. Vai trị của mơi trường đối với cuộc sống.
Mơi trường có các vai trị cơ bản sau:
• Mơi trường là khơng gian sống của con người và các lồi sinh vật.
• Mơi trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt
động sản xuất của con người.
• Mơi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra
trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình.
• Mơi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con
người và sinh vật trên trái đất.
• Mơi trường là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.

4



Con người luôn cần một khoảng không gian dành cho nhà ở, sản xuất lương
thực và tái tạo môi trường. Con người có thể gia tăng khơng gian sống cần thiết
cho mình bằng việc khai thác và chuyển đổi chức năng sử dụng của các loại
không gian khác như khai hoang, phá rừng, cải tạo các vùng đất và nước mới.
Việc khai thác quá mức không gian và các dạng tài ngun thiên nhiên có thể
làm cho chất lượng khơng gian sống mất đi khả năng tự phục hồi.
Môi trường là nơi con người khai thác nguồn vật liệu và năng lượng cần thiết
cho hoạt động sản xuất và cuộc sống như đấ t, nước, khơng khí, khống sản và
các dạng năng lượng như nắng, gió… Các sản phẩm cơng, nơng, lâm, ngư
nghiệp và văn hố, du lịch của con người đều bắt nguồn từ các dạng vật chất tồn
tại trên trái đất và không gian bao quanh trái đất.
Các nguồn năng lượng, vật liệu, thông tin sau mỗi lần sử dụng được tuần
hoàn quay trở lại dạng ban đầu được gọi là tài nguyên tái tạo. Ví dụ như nước
ngọt, đất, sinh vật, v.v... là loại tài nguyên mà sau một chu trình sử dụng sẽ trở
lại dạng ban đầu.
Trái lại, các nguồn năng lượng, vật liệu, thông tin bị mất mát, biến đổi hoặc
suy thối khơng trở lại dạng ban đầu thì được gọi là tài ngun khơng tái tạo. Ví
dụ như tài ngun khống sản, gen di truyền. Tài nguyên khoáng sản sau khi
khai thác từ mỏ, sẽ được chế biến thành các vật liệu của con người, do đó sẽ cạn
kiệt theo thời gian. Tài nguyên gen di truyền của các loài sinh vật quý hiếm, có
thể mất đi cùng với sự khai thác quá mức và các thay đổi về môi trường sống.
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người ngày càng tăng cường
khai thác các dạng tài nguyên mới và gia tăng số lượng khai thác, tạo ra các dạng
sản phẩm mới có tác động mạnh mẽ tới chất lượng mơi trường sống.
1.1.2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi
trường.
Xử phạt hành chính là cơng cụ cưỡng chế Nhà nước có tác dụng to lớn trong
việc phịng chống vi phạm hành chính để bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước trong

lĩnh vực bảo vệ mơi trường.
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là biện pháp
pháp luật nhằm đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, bảo vệ mơi trường.
Tính cưỡng chế thể hiện ở chỗ hoạt động áp dụng các biện pháp xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường luôn được các cơ quan hoặc
cán bộ Nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Chỉ có
cơ quan hoặc cán bộ Nhà nước được Nhà nước trao quyền xử phạt hành chính về
bảo vệ mơi trường mới có quyền áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường. Các chủ thể được sử dụng quyền lực
5


Nhà nước, có quyền lựa chọn các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính phù hợp
mang tính trừng phạt, giáo dục; trực tiếp tác động đến tinh thần hay vật chất;
buộc các đối tượng bị xử phạt phải gánh chịu những tổn hại về tài sản hoặc bị
hạn chế một số quyền.
Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường
được xác định trong chế tài của quy phạm pháp luật và được áp dụng khi có vi
phạm hành chính về mơi trường. Vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường nói riêng cũng như mọi vi phạm pháp
luật khác đều là các hành vi nguy hiểm cho xã hội, nó trực tiếp xâm hại đến
những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền
lợi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Đấu tranh với các vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường đượ c thực hiện thơng qua các góc độ khác
nhau: tổ chức - chính trị, giáo dục, cơng nghệ, kinh tế, pháp lý.
Quy phạm pháp luật xác định các biện pháp xử phạt hành chính đối với chủ
thể thực hiện vi phạm hành chính về mơi trường thuộc ngành Luật hành chính.
Về nguyên tắc chung, cũng giống như các quy phạm luật khác, cấu trúc gồm ba
phần: giả định, quy định, chế tài. Thông thường, phần giả định chỉ ra các điều
kiện về chủ thể, khơng gian, thời gian có hiệu lực của quy định. Phần quy định

xác định nội dung quy tắc hành vi dưới dạng các quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia quan hệ pháp luật môi trường. Còn chế tài ấn định các biện pháp cưỡng
chế nhà nước bảo đảm cho các nghĩa vụ trong quy định được thực hiện và luôn
liên quan đến nhân tố vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, không phải lúc nào các phần
của quy phạm pháp luật cũng thể hiện đầy đủ trong một Điều luật.
1.2. Đặc điểm các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo
vệ mơi trường
Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
là một trong các biện pháp cưỡng chế hành chính. Vì vậy, nó mang đầy đủ đặc
điểm của cưỡng chế hành chính, đó là:
- Nội dung là sự hạn chế quyền hoặc bổ sung thêm nghĩa vụ đối với đối
tượng vi phạm.
Khi tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường, về nguyên tắc Nhà nước buộc họ phải gánh chịu những hậu
quả bất lợi nhất định (hạn chế quyền hoặc tài sản). Việc làm này nhằm khôi phục
lại trật tự pháp luật bảo vệ môi trường đã bị xâm hại đồng thời giáo dục cá nhân,
tổ chức vi phạm cũng như toàn thể cộng đồng ý thức tuân thủ pháp luật bảo vệ
môi trường.
- Mang tính giáo dục và tính trừng phạt.
6


Các biện pháp xử phạt hành chính về mơi trường được áp dụng trên cơ sở có
vi phạm hành chính về môi trường thể hiện sự phản ứng củ a Nhà nước đối với
những đối tượng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về môi trường. Các biện
pháp xử phạt này mang tính giáo dục đồng thời cũng mang tính trừng phạt của
Nhà nước đối với chủ thể vi phạm pháp luật về môi trường mà chưa đến mức bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Sự trừng phạt biểu hiện ở việc buộc các chủ thể vi
phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về vật chất và tinh thần. Đây là ý
nghĩa quan trọng của các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

bảo vệ môi trường. Đồng thời, việc áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường cịn nhằm mục đích cao hơn là giáo dục
ý thức pháp luật của các chủ thể. Thông qua việc áp dụng các biện pháp này
trong các trường hợp vi phạm cụ thể, Nhà nước tác động đến tâm lý của đối
tượng vi phạm và các chủ thể khác; từ đó cho họ ý thức phải tuân thủ pháp luật
về bảo vệ môi trường.
Pháp luật về các biện pháp xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi
trường cần đảm bảo tính phù hợp giữa tính răn đe giáo dục với tính trừng phạt
mới có thể phát huy được hiệu quả. Tính trừng phạt trong các biện pháp xử phạt
hành chính về mơi trường sẽ phụ thuộc vào mức độ ảnh hưởng tiêu cực của hành
vi vi phạm hành chính đối với mơi trường.
- Các biện pháp xử phạt, mức phạt được pháp luật dự liệu.
Các biện pháp này sẽ được áp dụng trong thực tiễn tùy thuộc vào tính chất,
mức độ vi phạm, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng của người vi phạm.
Cùng một hành vi vi phạm pháp luật nhưng đối với mỗi trường hợp cụ thể lại
có tính chất, mức độ khác nhau nên thiệt hại hay nguy cơ gây thiệt hại cho mơi
trường có sự khác nhau. Do đó, các biện pháp xử phạt được lựa chọn để áp dụng
đối với mỗi trường hợp cụ thể là khác nhau. Ngoài ra, các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ của người vi phạm cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn các
biện pháp xử phạt để áp dụng.
- Đối tượng áp dụng là cá nhân và tổ chức.
Cưỡng chế hình sự tác động đối với tội phạm, áp dụng nguyên tắc cá thể hóa
trách nhiệm hình sự nên cưỡng chế này chỉ áp dụng đối với cá nhân mà không áp
dụng với tổ chức. Cưỡng chế trong dân sự cũng như cưỡng chế trong hành chính
được áp dụng cho cả cá nhân và tổ chức nhưng cưỡng chế hành chính thể hiện
mối quan hệ giữa cá nhân và Nhà nước, trong khi đó cưỡng chế dân sự thể hiện
mối quan hệ giữa bên vi phạm với bên bị vi phạm dưới sự bảo đảm của Nhà
nước.
- Được áp dụng khi có vi phạm hành chính về mơi trường.
7



Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường
chỉ có thể áp dụng khi có vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường.
Mục đích trừng phạt của các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính có tác dụng
tác động đến chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật đã quy
định. Hơn nữa, vi phạm hành chính xuất hiện trong tất cả các lĩnh vực quản lý
Nhà nước. Vi phạm hành chính trong mỗi lĩnh vực lại có các đặc thù riêng nên
các biện pháp xử phạt trong mỗi lĩnh vực cũng có những điểm riêng và chỉ được
áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính tương ứng đã được pháp luật quy
định trong lĩnh vực đó.

8


Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH
2.1. Thực trạng pháp luật về các biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường.
Xử phạt hành chính là hoạt động cưỡng chế của Nhà nước; do cơ quan Nhà
nước, người có thẩm quyền tiến hành áp dụng các biện pháp xử phạt đối với cá
nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính cho phù hợp với tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm gây ra cho xã hội. Xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là công cụ quan trọng trong hoạt động
quản lý nhà nước về môi trường nhằm duy trì pháp chế trong lĩnh vực này, góp
phần bảo đảm phát triển bền vững đất nước , khắc phục tình trạng ơ nhiễm, suy
thối mơi trường.
Sau khi Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 được ban hành, Chính phủ
đã ban hành Nghị định 179/2013/NĐ-CP ngày 14-11-2013 quy định về xử lý vi

phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Nghị định này đã thực sự tạo
hành lang pháp lý cần thiết cho việc xử lý hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh
vực mơi trường.
Những hành vi vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được quy định
trong Nghị định 179/2013/NĐ-CP gồm 8 nhóm, liệt kê tương đối đầy đủ, gồm có
41 hành vi vi phạm từ Điều 8 đến Điều 49.
Tuy nhiên, những quy định hiện hành về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực này vẫn cịn nhiều bất cập, hạn chế, gây khó khăn trong việc áp dụng và ảnh
hưởng đến hiệu quả của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường.
Thứ nhất, quy định về hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
mơi trường cịn nhiều bất cập.
• Quy định về hành vi vi phạm hành chính về bảo vệ mơi trường cịn
có sự trùng lặp, mâu thuẫn, chồng chéo nội dung.
Cùng một tính chất hành vi nhưng lại được quy định trong nhiều văn bản
pháp luật, thậm chí việc mơ tả hành vi có tính chất tương tự nhau nhưng tại các
Nghị định về xử lý lại khác nhau dẫn đến lúng túng cho chủ thể có thẩm quyền
xử phạt và ở mức độ nhất định, tạo nên sự tuỳ tiện trong việc lựa chọn văn bản
quy phạm pháp luật để áp dụng xử lý những trường hợp cụ thể. Ví dụ: Nghị định
9


179/2013/NĐ-CP quy định hành vi vi phạm các quy định về xả nước thải, trong
khi Nghị định 142/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực
tài nguyên nước và khống sản cũng có quy định về hành vi xả nước thải vào
nguồn nước khơng có giấy phép (Điều 5 và Điều 12); và Khoản 2, Điều 24, Nghị
định 103/2013/NĐ-CP về xử phạt hành chính về ni trồng thuỷ sản cũng quy
định về hành vi xả thải chất thải, nước thải bị ô nhiễm ra môi trường tự nhiên.
Hoặc ngay trong Nghị định 179/2013/NĐ-CP cũng có những quy định chồng
chéo, mâu thuẫn nhau. Ví dụ, tại Khoản 9, Điều 21, Nghị định này quy định xử

phạt đối với hành vi chôn lấp, đổ, thải chất thải nguy hại không đúng quy định về
bảo vệ môi trường với mức phạt từ 50 triệu đồng đến 1 tỷ đồng. Tuy nhiên, cũng
hành vi thải chất thải nguy hại không đúng quy định, thì tại K hoản 2, Điều 19,
Nghị định này cũng có quy định xử phạt từ 5 triệu đến 10 triệu đối với hành vi
“xả, thải dầu mỡ, hóa chất độc hại, chất thải nguy hại... vào môi trường nước”.
Như vậy, việc áp dụng sẽ không được thực hiện một cách thống nhất, khi nào
thì áp dụng theo Khoản 9, Điều 21 và khi nào thì áp dụng theo Khoản 2, Điều 19
của Nghị định 179/2013/NĐ-CP, gây khó khăn và tạo sự tuỳ tiện cho người thực
thi.
• Cịn quy định thiếu một số hành vi vi phạm.
Mặc dù khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội bị xâm
hại nhưng những hành vi vi vi phạm trong các văn bản thường không nêu quan
hệ xã hội bị xâm hại mà chủ yếu mô tả thông qua quy định của pháp luật mà
hành vi đó xâm hại. Do vậy, việc đánh giá mức độ đầy đủ của các hành vi vi
phạm về môi trường thường được đối chiếu giữa số lượng các hành vi vi phạm
đã được quy định với hệ thống quy phạm pháp luật của lĩnh vực đó. Theo đó,
Nghị định 179/2013.NĐ-CP cịn thiếu một số quy định sau:
Một là, hành vi vi phạm trong hoạt động nhập khẩu, phá dỡ tàu biển đã qua
sử dụng. Tại Điều 5, Nghị định 114/2014/NĐ-CP về nhập khẩu, phá dỡ tàu biển
đã qua sử dụng quy định nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong nhập khẩu, phá dỡ
tàu biển nhưng những hành vi vi phạm này chưa được Nghị định trên điều chỉnh.
Hơn nữa, loại hành vi xâm phạm vào quy định này diễn ra khá phổ biến trong
hoạt động nhập khẩu hiện nay. Do chưa có biện pháp xử lý hành chính nên đây
vẫn là lỗ hổng dẫn đến chưa bảo đảm được nguyên tắc công bằng trong thực hiện
pháp chế về bảo vệ môi trường hiện nay.
Hai là, các hành vi liên quan đến quản lý chất thải và phế liệu, đánh giá tá c
động môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường, phương án cải tạo và phục hồi
10



môi trường và một số hành vi khác trong Luật Bảo vệ mơi trường 2014 đã có
nhiều thay đổi nhưng Nghị định 179/2013/NĐ-CP chưa điều chỉnh kịp thời.
• Một số quy định cịn mang tính định tính và chưa được lượng hóa.
Cụ thể, tại Khoản 1, Điều 15, Nghị định 179/2013/NĐ-CP quy định về xử
phạt đối với hành vi “thải mùi hôi thối vào môi trường”. Tuy nhiên, đến nay vẫn
chưa có căn cứ quy định như thế nào là “mùi hơi thối” nên khó khăn cho việc
thực thi, từ đó lại dẫn đến việc áp dụng tùy tiện, khơng thống nhất.
Các hành vi để lẫn chất thải nguy hại khác loại với nhau và hành vi để lẫn
chất thải nguy hại với chất thải khác vẫn chưa được lượng hóa con số cụ thể mức
độ để lẫn chất thải nên không công bằng trong xử lý.
Thứ hai, quy định về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính chưa đầy đủ,
việc phân định thẩm quyền xử lý chưa hợp lý.
Trên cơ sở Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, thẩm quyền xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được quy định từ Điều 50 đến Điều
53, bao gồm: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, Cơng an, Thanh tra chun
ngành. Ngồi những người có thẩm quyền xử phạt trên, cịn có các lực lượng
khác có thẩm quyền xử phạt theo quy định của Luật này nếu phát hiện ra hành vi
vi phạm hành chính quy định trong Nghị định 179/2013/NĐ-CP mà thuộc lĩnh
vực và địa bàn quản lý của mình thì có quyền xử phạt. Quy định này vẫn bộc lộ
một số hạn chế sau:
• Số lượng chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Trong Nghị định 179 /2013/NĐ-CP quy định thẩm quyền xử lý của những
chức danh trực tiếp thi hành công vụ (như Chiến sĩ công an, Thanh tra viên
chuyên ngành bảo vệ mơi trường...) cịn ít, phần lớn là các chức danh lãnh đạo.
Trong khi những người trực tiếp thi hành công vụ là những người nắm bắt, kiểm
soát và phát hiện vi phạm hành chính trực tiếp và thường xuyên nhất.
Việc quy định theo kiểu liệt kê các chức có thẩm quyền xử phạt đã đạt được
mục đích xác định chủ thể có thẩm quyền một cách rõ ràng nhưng việc liệt kê
dẫn đến không linh hoạt, không đầy đủ trong huy động các nguồn lực tham gia

đấu tranh, phòng chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường.
Chẳng hạn như: ngoài Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Chiến sĩ công an nhân
dân, Thanh tra chuyên ngành… thì cịn quy định Bộ đội biên phịng, Cảnh sát
11


biển, Hải quan, Kiểm lâm, Quản lý thị trường, Quản lý thuế, Cảng vụ hàng hải,
Cảng vụ đường thủy nội địa có thẩm quyền xử phạt nhưng khơng quy định thẩm
quyền của một số chức danh khác như Cục trưởng Cục kiểm sốt hoạt động bảo
vệ mơi trường hay Chi cục bảo vệ mơi trường, Chi cục an tồn thực phẩm… đã
làm giảm đáng kể việc huy động các nguồn lực của một số cơ quan thực thi pháp
luật.
• Phân định thẩm quyền xử phạt chưa hợp lý.
Điều 54, Nghị định 179/2013/NĐ -CP quy định: Cảnh sát phòng chống tội
phạm về mơi trường có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm
quyền, thuộc lĩnh vực và phạm vi quản lý của mình quy định tại Nghị định này,
trừ các hành vi vi phạm về thủ tục hành chính và hoạt động quản lý nhà nước
thuộc trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường được quy
định tại Nghị định này (các Điều 8, 9, 10, 11 và 12; các Khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7
và 8 Điều 21; các Khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 22; các Khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6
Điều 23; Khoản 1 và Khoản 2, Điều 24; các Điều 26, 27, 28, 34, 37, 38 và 40) đã
bộc lộ những bất cập. Bởi vì khơng giao thẩm quyền cho cảnh sát mơi trường
được xử phạt hành chính nêu trên khơng chỉ thuần tuý là những hành vi vi phạm
về thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước, mà trong một hành vi
đã bao gồm cả hành vi gây ô nhiễm hoặc đi liền với hành vi vi phạm về bảo vệ
môi trường khác. Việc khoanh vùng thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính,
khơng giao thẩm quyền kiểm tra, xử lý các vi phạm về thủ tục hành chính, hoạt
động quản lý nhà nước có liên quan bảo bệ mơi trường cho Cảnh sát mơi trường
đã gây khó khăn, cản trở rất lớn đến hiệu quả công tác phịng ngừa, đấu tranh với
vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm hành chính về bảo vệ mơi trường nói

riêng.
• Quy định mâu thuẫn n gay trong điều luật và với các l uật chuyên
ngành khác.
Tại Đ iểm m, Khoản 1, Điều 54 , Nghị định 179/2013/NĐ -CP quy định về
thẩm quyền của Công an cấp huyện “Công an cấp huyện có thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính theo thẩm quyền, thuộc lĩnh vực và phạm vi quản lý của
mình đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường,
được quy định tại các Điều 20, 30, 31, 41, 42, 43, 45, 48 và 49 của Nghị định
này”. Tuy nhiên, tại Đ iểm o, Khoản 1, Điều 54 , Nghị định này lại quy định:
“Cảnh sát phịng chống tội phạm về mơi trường có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính theo thẩm quyền, thuộc lĩnh vực và phạm vi quản lý của mình quy
định tại Nghị định này”.
12


Như vậy, theo Nghị định 179 /2013/NĐ-CP thì Đ ội cảnh sát môi trường ở
công an huyện không được xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền của lực
lượng cảnh sát môi trường đối với các điều khoản quy định tại Điểm o, Khoản 1,
Điều 54. Đây là vấn đề mâu thuẫn giữa các điểm trong trong cùng một điều,
khoản của Nghị định.
Ngoài ra, tại Khoản 2, Điều 54, Nghị định 179/2013/NĐ-CP quy định: Người
có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường tại
điều, khoản nào của Nghị định này thì chỉ được thực hiện các biện pháp nghiệp
vụ, điều tra, kiểm tra, thanh tra về bảo vệ môi trường trong phạm vi các điều,
khoản đó; trường hợp phát hiện cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm khơng thuộc
thẩm quyền xử phạt của mình thì phải thơng báo và phối hợp ngay với cơ quan,
người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi
trường đối với hành vi đó để kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm theo quy định
của pháp luật. Quy định này chưa phù hợp với các văn bản pháp luật khác như:
Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, Luật Công an nhân dân 2014, Pháp lệnh

Cảnh sát mơi trường năm 2014, vì lực lượng Cảnh sát mơi trường thực hiện các
biện pháp nghiệp vụ không chỉ để xử lý vi phạm mà còn để phòng ngừa, ngăn
chặn tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ mơi trường. Muốn làm tốt điều đó
thì buộc phải thực hiện các biện pháp nghiệp vụ của ngành Công an. Do đó, quy
định tại Khoản 2, Điều 54 nêu trên chỉ cho phép Cảnh sát môi trường thực hiện
biện pháp nghiệp vụ trong phạm vi các điều khoản quy định tại Điểm o, Khoản
1, Điều 54 là không phù hợp với quy định của các Luật liên quan đến chức năng
của lực lượng Cảnh sát môi trường.
Thứ ba, biện pháp xử phạt vi phạm hành chính cịn nhiều bất cập dẫn đến
việc áp dụng thực tế chưa bảo đảm tính cơng bằng trong xử lý đối tượng vi
phạm hành chính.
Về hình thức xử phạt cảnh cáo: tại Nghị định 179 /2013/NĐ-CP, mức phạt
cảnh cáo chưa được đặt ra đối với những lỗi vi phạm các thủ tục hành chính hoặc
những lỗi hành vi khơng dẫn tới ơ nhiễm, suy thối chất lượng các thành phần
môi trường. Quy định trên là chưa phù hợp với tính chất, mức độ vi phạm của
các hành vi này; mức phạt cần phải mang tính định biến, từ thấp đến cao mới bảo
đảm công bằng trong xử phạt đối với những loại hành vi này.
Về hình thức phạt tiền: các hình thức xử phạt và mức phạt còn quy định
chung chung cho các hành vi mà không xem xét đến quy mô, mức độ vi phạm
của từng doanh nghiệp; chưa đảm bảo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả
tiền”, chưa đảm bảo công bằng trong xử phạt. Ví dụ: Khơng có sự phân định
13


mức xử phạt theo quy mô sản xuất nên đối với những cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, đặc
biệt là hộ sản xuất kinh doanh thì họ khơng có điều kiện nộp phạt, dễ dẫn đến
việc không chấp hành quyết định xử phạt hoặc phá sản.
Việc quy định mức xử phạt đối với hành vi “Để lẫn chất thải nguy hại khác
loại với nhau hoặc để lẫn chất thải nguy hại với chất thải khác” quy định tại
Khoản 6, Điều 21 là quy định chung cho các doanh nghiệp có hành vi vi phạm

mà không theo mức độ vi phạm. Một số doanh nghiệp có lượng chất thải nguy
hại phát sinh không nhiều, chỉ tương đương với một hộ gia đình cá nhân thì mức
phạt cũng tương đương với các doanh nghiệp có số lượng chất thải nguy hại phát
sinh nhiều gấp nhiều lần. Như thế là không công bằng cho các doanh nghiệp này.
Điều này sẽ gây phản ứng tiêu cực từ các doanh nghiệp, gây khó khăn cho việc
xử lý vi phạm của cơ quan có thẩm quyền.
Về biện pháp khắc phục hậu quả: tại Đ iểm n, Khoản 3, Điều 4, Nghị định
179/2013/NĐ-CP quy địn h biện pháp truy thu số phí bảo vệ mơi trường nộp
thiếu, trốn nộp theo quy định; buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, đo đạc
và phân tích mẫu mơi trường trong trường hợp có vi phạm về xả chất thải vượt
quy chuẩn kỹ thuật môi trường hoặc gây ô nhiễm môi trường theo định mức, đơn
giá hiện hành là biện pháp khắc phục hậu quả. Luật xử lý vi phạm hành chính
khơng quy định biện pháp này là biện pháp khắc phục hậu quả. Xét dưới góc độ
lý luận thì biện pháp trên khơng phải biện pháp khắc phục hậu quả vì bản chất
của biện pháp khắc phục hậu quả là biện pháp nhằm làm giảm bớt thiệt hại do vi
phạm hành chính gây ra. Việc buộc trả kinh phí trưng cầu giám định thể hiện sự
cưỡng chế của Nhà nước đối nhằm bảo đảm t hi hành các biện pháp xử lý vi
phạm hành chính chứ khơng phải thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra. Như
vậy, biện pháp này là một biện pháp độc lập trong cưỡng chế thi hành các quyết
định xử phạt vi phạm hành chính.
Về quy định mức và khung tiền phạt: Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012
chỉ quy định mức phạt tiền tối đa trên các lĩnh vực, còn ở Nghị định
179/2013/NĐ-CP mặc dù có liệt kê ra các hành vi vi phạm và mức phạt nhưng
mức phạt từ tối thiểu đến tối đa là khá xa (ví dụ: Đ iểm c, Khoản 9, Điều 35 quy
định “Phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng trong trường hợp
khối lượng dầu từ 10 tấn đến dưới 20 tấn đối với hành vi không khắc phục hậu
quả sự cố chảy nổ dầu, tràn dầu; không thực hiện bổi thường thiệt hại do ô nhiễm
dầu gây ra”. Quy định như vậy sẽ rất dễ gây sự tuỳ tiện trong vi ệc quyết định
mức phạt.


14


Đồng thời, việc quy định hình thức phạt tiền tối thiểu và tối đa cho từng loại
vi phạm là rất cứng nhắc, khơng hợp lý, nhất là khi tình hình kinh tế của đất
nước thay đổi hàng ngày, làm cho văn bản khơng có tính dự liệu cao. Nhiều khi
các quy định xử phạt vi phạm hành chính vẫn hợp lý nhưng mức phạt tiền này đã
trở thành thấp, làm cho pháp luật lạc hậu hơn so với thực tế cuộc sống.
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường.
Những năm qua, tình trạng vi phạm pháp luật môi trường không ngừng gia
tăng về cả quy mơ lẫn tính chất. Theo thống kê, từ năm 2007 đến năm 2014, lực
lượng Cảnh sát môi trường cả nước đã phát hiện 53.502 vụ vi phạm, với tổng số
tiền xử phạt vi phạm hành chính lên đến 65 tỷ đồng, truy thu phí bảo vệ mơi
trường 150 tỷ đồng; chuyển khởi tố 1.554 vụ; 2.356 đối tượng.
Cụ thể, năm 2014, Tổng cục Môi trường (Bộ TN&MT) đã tiến hành kiểm tra
và ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về mơi trường, điển hình như đối
với 8 đơn vị là Nhà máy Luyện đồng Lào Cai, Nhà máy Thép Việt Trung,
Xưởng sản xuất Bao bì, Nhà máy Phốt pho số 4 của Cơng ty CP Hóa chất Đức
Giang, Nhà máy DCP của Cơng ty Hóa chất Phúc Lâm, Nhà máy Phốt pho số 3
của Công ty TNHH Đông Nam Á, Nhà máy Hóa chất và Phân bón của Cơng ty
Hóa chất Đức Giang, Nhà máy Tuyển apatit Tằng Loỏng, với tổng số tiền xử
phạt là 1,420 tỷ đồng.
Song, việc xử lý vi phạm trên vẫn không thể triệt để. Theo Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh Lào Cai, hiện nay KCN Tằng Loỏng vẫn là một điểm nóng về
môi trường. Nguyên nhân của những tồn tại trên được Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Lào Cai xác định: Những năm đầu của thế kỷ 21, cùng với chính
sách chung của Nhà nước, tỉnh Lào Cai đã có nhiều cơ chế, chính sách thu hút
các nhà đầu tư vào đầu tư sản xuất kinh doanh tại tỉnh nhà.
Cũng từ việc thực thi Nghị định này, công tác thanh kiểm tra cũng đã được

xiết chặt hơn với việc xử lý nghiêm đối với 184/345 đối tượng vi phạm về bảo vệ
môi trường, với tổng số tiền phạt hơn 37 tỷ đồng trong 606 cuộc thanh tra môi
trường năm 2014; tạm đình chỉ hoạt động đối với 37 cơ sở, bộ phận gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng. Đặc biệt, trong thời gian qua, nhiều vụ việc vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường đã được phát hiện kịp thời, điển hình n hư: Ơ
nhiễm mơi trường của các Cơng ty sản xuất hóa chất trong Khu cơng nghiệp
Tằng Loỏng thuộc tỉnh Lào Cai, Công ty TNHH Thép Đồng Tiến, Hợp tác xã
Thương Mại và Dich vụ Phúc Lợi, Công ty cổ phần dầu thực vật Quang Minh,
Công ty Phát triển số 1 – TNHH MTV - Nhà máy tuyển quặng sắt Làng Mị,
15


Công ty cổ phần Bitexco Nam Long và nhiều vụ việc vi phạm pháp luật khác.
Cụ thể:
Suốt chục năm qua, hơn 1000 hộ dân tại thị trấn Tằng Loỏng, huyện Bảo
Thắng, tỉnh Lào Cai phải gánh chịu khói, bụi, tiếng ồn và nước thải xả trực tiếp
ra môi trường từ Khu công nghiệp Tằng Loỏng, gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng.
Cả KCN Tằng Loỏng có 15 nhà máy thì có đến 5 nhà máy sản xuất hóa chất
phốt pho. Theo Sở Tài ngun và Mơi trường Lào Cai, trong khí thải cũng như
nước thải của nhiều nhà máy ở đây chứa axit và một số loại hóa chất độc hại
vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần.
Năm 2015, Tổng cục Môi trường đã thanh tra, kiểm tra công tác bảo vệ môi
trường tại 1.076 cơ sở trên địa bản 29 tỉnh, thành phố và đã ban hành 426 Quyết
định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền xử phạt trên 50 tỷ đồng.
Theo thống kê năm 2015 chưa đầy đủ , riêng Cục Cảnh sát phòng chống tội
phạm về môi trường (C49), Bộ Công an phát hiện và thụ lý 41 vụ, ban hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường 23 vụ
với tổng số tiền hơn 6,8 tỷ đồng.
“Tình hình vi phạm về môi trường đang diễn biến phức tạp, vi phạm pháp

luật mơi trường có những biến đổi về hành vi, tính chất phạm tội. Thủ đoạn của
loại đối tượng này ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Mức độ vi phạm ngày càng
nghiêm trọng...”, theo lời cảnh báo từ thiếu tướng Nguyễn Xuân Lý, Cục trưởng
C49, Bộ Công An.
Theo Bộ Tài ngun và Mơi trường cho biết: tính đến tháng 6/ 2016, Bộ đã
ban hành 82 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền xử phạt hơn
16,5 tỷ đồng. Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài ngun và mơi
trường cịn xảy ra trên phạm vi cả nước, mặc dù đã được các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền tăng cường cơng tác thanh tra, kiểm tra xử lý, tuy nhiên do lực
lượng cán bộ thanh tra chuyên ngành các cấp còn chưa đáp ứng được so với yêu
cầu thực tiễn, bên cạnh đó ý thức chấp hành pháp luật của một số cá nhân, tổ
chức cịn kém dẫn đến gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền trong quá trình thực thi nhiệm vụ về xử lý vi phạm hành chính.
Một số vụ vi phạm pháp luật mơi trường nghiêm trọng, gây xôn xao dư luận
như Vedan, Nicotex Thanh Thái, Hào Dương vấn đề xử lý hình sự đều được đặt
ra. Tuy nhiên, kết quả chỉ dừng lại ở xử lý vi phạm hành chính vì chưa đủ căn cứ
16


để xử lý hình sự. Qua đó cho thấy trước những hành vi gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì các biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính hiện nay là chưa tương xứng, chưa đủ nghiêm minh, chưa đủ răn đe đối
với cá nhân, tổ chức vi phạm nói riêng và tồn thể người dân nói chung.
Từ đó mới dẫn đến tình trạng các cá nhân, tổ chức biết rõ hành vi của mình
là vi phạm pháp luật, là gây ô nhiễm môi trường trầm trọng nhưng vẫn cố ý vi
phạm bởi chi phí xử lý chất thải còn cao hơn rất nhiều so với việc bị xử phạt vi
phạm hành chính.
Trong khi đó, việc bồi thường thiệt hại cho những nạn nhân của ô nhiễm môi
trường cũng gần như không thể thực hiện trên thực tế do gánh nặng nghĩa vụ
chứng minh. Người dân - khách thể bị thiệt hại trực tiếp và nặng nề nhất trong

các vụ vi phạm môi trường đang thiếu các cơng cụ pháp lý để bảo vệ mình; cũng
như chịu bất lợi khi phải chứng minh thiệt hại. Chính vì vậy, trong hầu hết các vụ
vi phạm mơi trường nghiêm trọng đã xảy ra, việc bồi thường thiệt hại chỉ được
thực hiện thông qua thỏa thuận giữa các doanh nghiệp và người dân. Và người
dân thường phải chịu thiệt thịi hơn cả.
Hành vi gây ơ nhiễm mơi trường ln để lại những hậu quả lâu dài cho sức
khỏe người dân và chất lượng mơi trường. Chính vì vậy, việc buộc đối tượng vi
phạm hoàn nguyên và khắc phục hậu quả ô nhiễm là quy định cần thiết. Tuy
nhiên, quy định này hiện chưa được thực hiện một cách triệt để, có nguy cơ để
lại nhiều hệ lụy lên con người và hệ sinh thái.
Theo các chuyên gia, nguyên nhân khiến các vụ vi phạm mơi trường khó
phát hiện và xứ lý, truy cứu trách nhiệm là do chính sách, pháp luật của nhà nước
đối với hành vi này đang cịn nhiều thiếu sót. Hơn nữa, hệ thống các cơ quan
công quyền chịu trách nhiệm thực thi pháp luật bảo vệ mơi trường đang cịn
chồng chéo, chưa thống nhất.
Theo đánh giá của Tổng cục Môi trường, Nghị định 179/2013/NĐ-CP đã
phát huy hiệu quả và là công cụ hữu hiệu trong công tác bảo vệ môi trường. Với
mức phạt tiền tăng và các hình thức xử phạt nghiêm khắc, đảm bảo cơng bằng
trong q trình xử phạt… Nghị định số 179/2013/NĐ-CP có tính răn đe cao đối
với các tổ chức, cá nhân cố tình vi phạm và gây ơ nhiễm mơi trường, góp phần
đưa cơng tác bảo vệ mơi trường từng bước đi vào nề nếp. Nghị định
179/2013/NĐ-CP được đánh giá cao về mức xử phạt vi phạm về môi trường
được tăng lên gấp 4 lần so với những quy định trước đó. Nghị định
179/2013/NĐ-CP cũng đã có sự phân biệt xử lý vi phạm đối với tổ chức - cá
nhân, với cùng một hành vi mức phạt đối với tổ chức gấp 2 lần với cá nhân; mức
17


phạt tiền tối đa là 1 tỷ đồng đối với cá nhân và 2 tỷ đồng đối với tổ ch ức đã góp
phần nâng cao tính nghiêm minh, cố tình kéo giảm tình trạng lén lút xả nước

thải, khói thải chưa xử lý gây ô nhiễm môi trường của nhiều doanh nghiệp.
Xét thấy, Nghị định 179/2013/NĐ-CP tuy đã quy định khá đầy đủ song một
số quy định về hành vi vi phạm cịn rộng, chưa có tính răn đe đối với cá nhân, tổ
chức có hành vi vi phạm có mức độ nghiêm trọng, khối lượng xả thải lớn và
chưa hợp lý đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm ở mức độ ít nghiêm
trọng, chưa đảm bảo nguyên tắc “người gây ô nhiễm p hải trả tiền”, chưa đảm
bảo cơng bằng trong q trình xử phạt. Ngoài ra, mức xử phạt quy định một số
hành vi còn thấp, chưa tương xứng với hành vi vi phạm, chưa đảm bảo tính răn
đe, phịng ngừa ơ nhiễm và thực tế, nhiều doanh nghiệp chịu nộp phạt thay cho
việc xử lý ơ nhiễm… Vì vậy, theo Bộ TN&MT việc xây dựng Nghị định mới để
thay thế Nghị định số 179/2013/NĐ-CP là cần thiết.
Theo Tổng cục Môi trường, việc xây dựng Nghị định thay thế được tiến
hành: bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, Luật Xử lý vi phạm hành chí nh, Luật
Bảo vệ mơi trường, Luật Đa dạng sinh học và các quy định pháp luật liên quan;
bảo đảm phù hợp với thực tế, tính hợp lý, khoa học và tính khả thi; kế thừa
những quy định của Nghị định số 179 hiện hành còn phù hợp và đang phát huy
hiệu quả trong thực tiễn xã hội; kịp thời cập nhật, sửa đổi, bổ sung những quy
định tại Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học, Luật Thanh tra và các
văn bản hướng dẫn thi hành mới được ban hành nhằm bảo đảm sự đầy đủ, toàn
diện của văn bản; các hành vi vi phạm phải được quy định cụ thể, chi tiết; mức
xử phạt phù hợp, khả thi, bảo đảm tính răn đe, đáp ứng yêu cầu xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường trong tình hình mới.
Tại các cuộc lấy ý kiến, đại diện các Bộ, ngành, địa phương cơ quan liên
quan cơ bản thống nhất cao với nộng dung dự thảo, nội dung dự thảo phù hợp
với Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, đồng thời các cơ quan đề nghị tiếp tục
tiếp thu, chỉnh sửa cho phù hợp với các văn bản vừa ban hành.
Một số ý kiến đề ngh ị để đảm bảo công bằng tr ong quá trình xử phạt nên
chia nhỏ thêm các khoảng xả nước thải vượt quy chuẩn cho phép thành dưới 1,5
lần; từ 1,5 đến 2 lần; từ 2-4 lần; từ 4-6 lần; từ 6-8 lần; từ 8-10 và trên 10 lần. Bên
cạnh đó, cũng có các ý kiến đề nghị hành vi xả khí thải nên chia t hành các

khoảng vượt quy chuẩn cho phép dưới 1,2 lần; từ 1,2- 1,5 lần; từ 1,5-2 lần; từ 2 –
2,5 lần; từ 2,5 – 3 lần và trên 3 lần.
Gần đây nhất, tình trạng ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng, gâ y
hoang mang dư luận cả nước là Vụ cá chết hàng loạt ở Việt Nam năm 2016 tại
18


vùng biển Vũng Áng (Hà Tĩnh) bắt đầu từ ngày 6 tháng 4 năm 2016 và sau đó
lan ra vùng biển Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế. Trên bờ biển Quảng
Đơng, Vũng Chùa có đến hàng trăm cá thể cá mú loại từ 40 - 50 kg trôi dạt vào
bờ và chết. Đến ngày 25 tháng 4, tỉnh Hà Tĩnh có 10 tấn, Quảng Trị có 30 tấn,
đến ngày 29 tháng 4 Quảng Bình có hơn 100 tấn cá biển bất ngờ chết dạt bờ.
Thảm họa này gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và sinh hoạt của ngư dân, đến
những hộ nuôi thủy sản ven bờ, ảnh hưởng đến du lịch biển và cuộc sống của cư
dân miền Trung.
Trước hình tình diễn biến phức tạp của Vụ thảm họa môi trường này, các cơ
quan chức năng đã vào cuộc. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa đưa ra được nguyên
nhân cá chết hàng loạt. Qua đó thấy rõ đội ngũ n hân lực nước ta trong lĩnh vực
môi trường là còn thấp kém, cơ sở vật chất, kỹ thuật cịn nhiều hạn chế. Đồng
thời, qua đó cịn thể hiện rõ những khó khăn trong việc xác định trách nhiệm
trước những vi phạm pháp luật mơi trường mang tính nghiêm trọng như trên. Để
xử lý đối t ượng vi phạm, trươc hết phải trải qua quá trình kiểm tra, xác định
nguyên nhân. Quy trình này khá phức tạp nhưng không được quy định cụ thể, rõ
rãng. Qua vụ này, cho thấy quá trình xác định nguyên nhân cá chết đã là một
thách thức khó khăn đối với các cơ quan chức năng. Phải chăng, pháp luật vẫn
chưa phát huy được chức năng trước những trường hợp phát sinh trên thực tế
như thế này, khiến các cơ quan tỏ ra lúng túng trước vụ việc trên. Đến nay là hơn
02 tháng nhưng vụ việc vẫn chưa được xử lý.
Giả sử xác định được đối tượng vi phạm gây ra Thảm họa cá chết hàng loạt
trên. Với thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng như vậy, thì liệu mức xử phạt hành

chính hiện hành có phát huy được tính răn đe hay không, việc khắc phục hậu quả
sẽ tiến hành như thế nào, liệu người dân, đặc biệt là ngư dân chịu ảnh hưởng
nặng nề do Thảm họa này gây nên có được trả lại nguồn nước sạch, nguồn cá
sạch và cả những thiệt hại kinh tế ấy có được bồi thường hay khơng. Đó là
những gì mà cả nước đang quan tâm và mong có được câu trả lời từ các cơ quân
nhà nước.

19


Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MƠI
TRƯỜNG.
Để góp phần nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo
vệ mơi trường thì điều quan trọng là phải có hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính hồn chỉnh, đầy đủ, đồng bộ. Trên cơ sở tìm hiểu pháp luật hiện hành
về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (Luật Xử lý
VPHC năm 2012 và Nghị định 179/2013/NĐ-CP), dưới đây là một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
mơi trường:
Một là, hồn thiện quy định về biện pháp xử lý.
Cần có nghiên cứu chuyên sâu về cơ sở thực hiện nguyên tắc “Người gây ô
nhiễm phải trả tiền” và công bằng trong xử lý, để làm cơ sở phân định mức xử
phạt đối với quy mô sản xuất của từng đối tượng vi phạm. Nghiên cứu sự tác
động của tình hình kinh tế đất nước, các yếu tố thị trường, mối quan hệ giữa chi
phí và lợi ích trong việc vi phạm hành chính về bảo vệ mơi trường và lợi ích kinh
tế thu được để xây dựng cơ sở quy định mức phạt tiền, nhằm bảo đảm sự ổn định
của các văn bản về xử phạt và không lạc hậu so với thực tế.
Muốn vậy, cần xác định lại tính chất và cách áp dụng của các hình thức xử
phạt. Đối với việc xác định đây có phải là vi phạm lần đầu hay khơng để áp dụng

hình phạt cảnh cáo thì cơ quan chức năng có thẩm quyền phải thiết lập cơ sở dữ
liệu một cách công khai, minh bạch về những trường hợp vi phạm hành chính,
căn cứ vào đó, người có thẩm quyền có thể xử phạt khách quan, chính xác. Đối
với giải pháp này, cần vận dụng sự phát triển khoa học công nghê thông tin trong
việc xây dựng cở sở dữ liệu về các Quyết định xử phạt hành chính, đưa lên các
trang Thơng tin một cách cơng khai, minh bạch là khơng q khó khăn.
Về khung phạt tiền không nên quy định khung quá rộng và cách xa nhau. Để
phù hợp điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay, tránh sự lạc hậu của quy định pháp
luật, mức phạt tiền không nên quy định theo số tiền cụ thể mà nên theo một con
số trên tỷ lệ nhất định so với mức lương tối thiểu nhằm bảo đảm quy phạm có
giá trị lâu dài, không phải sửa đổi nhiều do sự thay đổi của tình hình kinh tế.
Mức tối đa trong xử phạt hành chính nói chung và xử phạt hành chính trong
lĩnh vực mơi trường nói riêng là cịn q thấp, chưa đủ sức răn đe trước những
hành vi vi phạm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
Cần quy định chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng trong việc xác định thiệt hại, xác định đối
20


tượng vi phạm, việc bồi thường thiệt hại, khắc phục hiệu quả ô nhiễm môi
trường.
Bãi bỏ Khoản 1, Điều 15: “Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 1.000.000 đồng
đối với hành vi thải mùi hôi thối gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người ra môi
trường”. Việc thải mùi hôi thối áp dụng quá chung chung, đề n ghị bãi bỏ, bởi
việc nhận biết mùi bằng cảm quan rất khó cho áp dụng, mỗi người ngửi mùi khác
nhau, mỗi ngành nghề có mùi đặc trưng. Hơn nữa, các thơng số gây mùi như
NH3, H2S, … nếu so sánh vượt quy chuẩn hiện hành sẽ xử phạt.
Bãi bỏ biện pháp buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, đo đạc và phân
tích mẫu mơi trường trong hệ thống các biện pháp khắc phục hậu quả, bổ sung
biện pháp này vào biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử lý vi phạm hành
chính.

Hai là, hồn thiện các quy định pháp luật về xác định thẩm quyền xử lý.
Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính cần xác định thứ tự ưu tiên các
nguyên tắc. Theo đó, người thụ lý vụ việc đầu tiên có quyền áp dụng các biện
pháp xử lý là nguyên tắc ưu tiên t rước để đảm bảo mọi hành vi vi phạm hành
chính đều được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh.
Trước hết, cần nâng mức xử phạt tiền cho các chủ thể trực tiếp thi hành công
vụ. Đồng thời, cần tăng thẩm quyền cho lực lượng Cảnh sát môi trường theo
hướng sửa đổi lại điểm o , khoản 1, Điều 54, Nghị định 179/2013/NĐ-CP theo
hướng tăng thêm thẩm quyền cho lực lượng Cảnh sát mơi trường vì qua hơn 8
năm hoạt động, lực lượng Cảnh sát phịng, chống tội phạm về mơi trường đã phát
hiện và xử lý hơn 40.000 vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, chuyển các
cơ quan có thẩm quyền khởi tố, điều tra trên 940 vụ và hơn 1.440 đối tượng, xử
phạt vi phạm gần 400 tỷ đồng, trong đó có nhiều vụ việc gây bức xúc trong dư
luận và bất bình trong nhân dân nên việc hạn chế thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính của lực lượng Cảnh sát Mơi trường có nguy cơ bỏ lọt người vi phạm.
Bổ sung thêm thẩm quyền xử lý cho một số chủ thể như Cảnh sát mơi trường
cấp huyện, Cục trưởng Cục Kiểm sốt hoạt động bảo vệ môi trường, cơ quanchi
cục bảo vệ môi trường, Chi cục an tồn thực phẩm để bảo đảm tính đồng bộ, hệ
thống trong xử lý vi phạm hành chính.
Bãi bỏ Khoản 2, Điều 54, Nghị định 179/2013/NĐ-CP khi quy định khi lực
lượng Công an tiến hành hoạt động nghiệp vụ điều tra đối với hành vi vi phạm
21


trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, đặc biệt là vi phạm hoạt động xử lý chất thải
nguy hại (đang diễn ra rất phức tạp, nghiêm trọng) phải thông báo và phối hợp
ngay với cơ quan quản lý nhà nước, Như vậy đã hành chính hố hoạt động
nghiệp vụ của lực lượng Công an nhân dân, không bảo đảm yêu cầu nghiệp vụ
và ngun tắc bí mật trong phịng, chống tội phạm liên quan đến các điều 21, 22,
23, 24, 26, 27 và 34 của Nghị định 179 /2013/NĐ-CP. Do đó, việc bãi bỏ quy

định trên là rất cần thiết.
Ba là, cần bổ sung thêm quy định về các hành vi vi phạm.
Cần bổ sung quy định điều chỉnh đối với hành vi vi phạm về bảo vệ môi
trường trong hoạt động nhập khẩu, phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng; các hành vi
liên quan đến quản lý chất thải và phế liệu, đánh giá tác động môi trường; xử
phạt đối với vi phạm về thải bụi, khí thải có chứa các thơng số mơi trường khơng
nguy hại vào môi trường trong trường hợp không xác định được lưu lượng thải.
Do, hiện nay đối với các loại hình sản xuất, kinh doanh như xay xát, lau bóng
gạo, sấy lúa; các loại hình hoạt động gây mùi, bụi phát tán ra môi trườ ng xung
quanh, không xác định được lưu lượng thải nên không thể áp dụng xử phạt được
nên cần bổ sung thêm quy định này.
Việc hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
mơi trường là thể chế hóa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết số 41
– NQ/TW ngày 15-11-2004 của Bộ Chính trị về về bảo vệ mơi trường trong thời
kỳ Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước nên Nghị định 179/2013/NĐ-CP
cần được sửa đổi, hồn thiện theo hướng đáp ứng u cầu của cơng tác đấu
tranh, phịng chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, đồng
thời bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, xử lý
nghiêm minh, triệt để, kịp thời, đúng pháp luật đối với các vi phạm hành chính
trong lĩnh vực vảo vệ mơi trường nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội trong
thời gian tới.
Bốn là, hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế
hiện nay.
Hồn thiện pháp luật về mơi trường cần lưu ý đến việc hợp tác quốc tế liên
quan đến vấn đề này. Bởi hợp tác quốc tế gi úp Việt Nam có được nhiều lợi thế
để bảo vệ, phát triển môi trường, như; được hỗ trợ về vốn, về công nghệ, về kinh
nghiệm quản lý và về thị trường… Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay Việt Nam
đã hội nhập ASEAN, năm nay đã hình thành Cộng đồng chung ASEAN, v ới ba
trụ cột kinh tế, chính trị và an ninh. Với ý nghĩa đó việc hồn thiện pháp luật về
môi trường ở Việt Nam sẽ phải phù hợp với các điều ước quốc tế và khu vực về

22


vấn đề này, đặc biệt hơn là Việt Nam càng ngày càng phải thực thi nghiêm túc
những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, kể cả trường hợp Việt Nam
chưa nội luật hóa các điều ước quốc tế đó. Mặc dù Việt Nam đã tham gia hầu hết
các điều ước quốc tế về môi trường song phương, khu vực và đa phương, nhưng
nguyên tắc tận tâm, thiện chí trong thực hiện các cam kết quốc tế về vấn đề này
lại chưa được tốt. Để có thể thực hiện hiệu quả pháp luật về bảo vệ môi trường
trên thực tiễn thì điều quan trọng là phải xác định được tại sao pháp luật môi
trường quy định nhiều như vậy mà thực thi vẫn chưa hiệu quả . Chúng tơi cho
rằng vấn đề chính ở đây là cần xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể và xử lý
nghiêm, chặt chẽ khi các chủ thể này không tuân thủ hoặc thực hiện không đúng.
Liên quan đến vấn đề môi trường chúng ta thấy các văn bản luật quy định rất rõ
trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình trong bảo vệ mơi trường cũng
như trách nhiệm của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương trong
bảo vệ môi trường, nhưng thực tiễn lại không hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị
khai thác ngày càng cạn kiệt, môi trường ngày càng bị ô nhiễm, suy thối,…
Trong khi đó chúng ta lại chưa xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật môi
trường của các tổ chức, cá nhân. Ví dụ; Bộ luật Hình sự quy định về tội gây ơ
nhiễm mơi trường từ Bộ luật Hình sự 1999 cách đây đã trên 15 năm, nhưng chưa
một cá nhân nào bị xét xử về hành vi này… Hơn nữa, các cơ quan nhà nước
được giao trách nhiệm quản lý về mơi trường thì thực hiện khơng hiệu quả, khi
quản lý khơng được thì các cơ quan, chủ thể này lại không bị xử lý trách nhiệm.
Do vậy trong bối cảnh xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay hoàn thiện pháp luật môi trường cần phải chú ý đến xử lý trách nhiệm
của các chủ thể quản lý nhà nước về vấn đề này.
Năm là, cần nội luật hóa các quy định của cơng ước quốc tế nói chung và
công ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực bảo vệ mơi trường.
Việc chuyển hóa các quy định của cơng ước quốc tế mà Việt Nam là một

bên ký kết được quy định cụ thể trong Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế năm 2005. Ô nhiễm môi trường không đơn thuần chỉ là vấn đề của
một quốc qua mà nó mang tính tồn cầu. Một khi Việt Nam đã tham gia các Điều
ước quốc tế chung tay cùng các nước trên thế giới bảo vệ mơi trường chung, thì
Việt Nam phải nội luật hóa các quy định ấy vào pháp lu ật quốc gia của mình đề
điều chỉnh. Bên cạnh nội luật hóa, chúng ta cần học hỏi pháp luật điều chỉnh về
vấn đề môi trường này một cách có chọn lọc, phù hợp với tình hình, hồn cảnh
hiện nay nhằm mang lại hiệu quả trong cơng tác phịng ngừa, xử lý tình trạng ơ
nhiễm môi trường.

23


Sáu là, cần nghiên cứu ban hành một đạo luật chun biệt về phịn g,
chống ơ nhiễm mơi trường.
Đây được xem là giải pháp hết sức cần thiết, bởi lẽ, mơi trường hiện đang là
vấn đề mang tính phổ biến, tác động hàng ngày, hàng giờ. Đòi hỏi một hệ thống
pháp luật đủ mạnh nhằm điều chỉnh kịp thời, nhanh chóng, hiệu quả các vấn đề
phát sinh. Chính vì thế, cần phát triển và ban hành đạo luật chuyên biệt về
phịng, chống ơ nhiễm mơi trường cũng như xử lý vi phạm trong lĩnh vực môi
trường nghiêm khắc, chặt chẽ nhằm khắc phục tình trạng bất cập trong pháp luật
điều chỉnh hiện nay.
Bảy là, bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ mơi
trường, thì vấn đề con người là yếu tố quyết định trong việc thực thi các
chính sách pháp luật.
Hiện nay đội ngũ lãnh đạo và cán bộ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường chưa
có nhiều kinh nghiệm trong việc giải quyết khi có sự cố xảy ra. Do vậy, cần có
sự quan tâm từ phía Nhà nước trong việc đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực
này.
Các trường đại học ở Việt Nam hiện nay có rất ít trường mở ngành đào tạo

chun sâu về mơi trường, một số trường có ngành đào tạo, nhưng sinh viên lại
không được trang bị nhiều kiến thức pháp luật về bảo vệ môi trường, quyền con
người về môi trường, đặc biệt là những kiến thức chuyên sâu về luật quốc tế.
Chính vì thế, khi có sự cố xảy ra thì những người được giao giải quyết công việc
tỏ ra lúng túng, không giải quyết kịp thời, hiệu quả công việc chưa cao. Cần đào
tạo đội ngũ nhân lực trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường nói chung, bảo vệ quyền
môi trường để thực hiện quyền con người trong lĩnh vực môi trường. Trước mắt
cần kết hợp việc giảng dạy quyền con người nói chung, quyền về mơi trường nói
riêng vào chương trình giảng dạy trong các trường đại học trong cả nước; đào tạo
đội ngũ thẩm phán và đội ngũ cán bộ quản lý có kiến thức chuyên sâu luật trong
nước và luật quốc tế, luật môi trường và các vấn đề về quyền con người, quyền
môi trường, để trang bị thêm những kiến thức, kinh nghiệm trong việc giám sát
và kiểm soát việc thực thi pháp luật về môi trường.
Tám là, tuyên truyền pháp luật, nâng cao hiểu biết cho người dân ý thức
chấp hành, ra sức giữ gìn mơi trường xanh, sạch, đẹp.
Muốn giải quyết tình trạng ơ nhiễm mơi trường. Cần giải quyết từ các
nguyên nhân đã nêu. Và giải pháp hữu hiệu và hiệu quả nhanh chóng nhất chính
là tun truyền ý thức chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về bảo vệ môi trường.
24


×