Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN HỒNG DIỄM PHÚC

ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
TỈNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN HỒNG DIỄM PHÚC

ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

Hà Nội, năm 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Hồ Sỹ Sơn. Các số liệu, ví dụ nêu trong Luận văn là
hoàn toàn trung thực và chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào. Các
thơng tin và tài liệu trích dẫn trong Luận văn được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Phan Hồng Diễm Phúc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA ĐỊNH TỘI
DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ........... 6
1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản................................................................................................................. 6
1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản............................................................................................................... 22
Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN
NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TẠI TỈNH BÌNH DƯƠNG ............... 38
2.1. Khái qt tình hình xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
tại tỉnh Bình Dương ......................................................................................... 38
2.2. Thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại
tỉnh Bình Dương .............................................................................................. 40
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI
DANH ĐÚNG TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN ................................................................................................................. 58
3.1. Yêu cầu của định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản............................................................................................................... 58

3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản ............................................................................................ 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADPL

: Áp dụng pháp luật

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

CTTP

: Cấu thành tội phạm

HĐXX


: Hội đồng xét xử

LDTNCĐTS

: Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

PLHS

: Pháp luật hình sự

TAND

: Tịa án nhân dân

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số liệu phản ánh tình hình khởi tố, truy tố, xét xử tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm 2014 -2020.

Bảng 2.2. Thống kê số các tội xâm phạm sở hữu mang tính chiếm đoạt trên
địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm 2014-2020.
Bảng 2.3. So sánh tỉ lệ các tội xâm phạm sở hữu mang tính chiếm đoạt với tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm
2014 -2020.
Bảng 2.4. Số liệu phản ánh tình hình trả hồ sơ điều tra bổ sung tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm 2014 2020.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng lý là một trong những giá trị xã hội trường tồn của nhân loại.
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, cơng lý vừa là nhiệm vụ, vừa là mục tiêu vừa
là động lực phát triển. Định tội danh đúng là tiền đề, điều kiện, là yêu cầu để
đạt được công lý trong lĩnh vực này. Sau nhiều năm đổi mới, công tác tư pháp
hình sự ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp tích cực
cho sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Trong dịng
chảy đó, chất lượng hoạt động định tội danh của các cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự ngày càng được nâng lên một cách rõ rệt. Tuy nhiên, trong hoạt động
định tội danh, trong đó có định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản vẫn còn những hạn chế, vi phạm, sai lầm dẫn đến oan sai, bỏ lọt tội phạm,
làm giảm uy tín các cơ quan bảo vệ pháp luật và làm giảm hiệu quả cơng tác
đấu tranh phịng, chống tội phạm.
Tỉnh Bình Dương sau hơn 20 năm tái lập tỉnh, kinh tế xã hội của Bình
Dương đã đạt được những bước phát triển vượt bậc, trở thành điểm sáng của
cả nước về nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh những thành tựu thu hút vốn đầu
tư và phát triển công nghiệp, đô thị cùng với sự phát triển của hệ thống hạ
tầng và sức bật nền kinh tế, Bình Dương dần giải quyết tốt bài tốn về tình
hình tội phạm nói chung, tình hình các tội xâm phạm sở hữu và tình hình tội
LDTNCĐTS nói riêng.

Thực tiễn định tội danh tội LDTNCĐTS tại tỉnh Bình Dương cho thấy,
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự cơ bản đã định tội danh chính xác, khắc
phục được tình trạng “hình sự hóa các quan hệ dân sự”, mang lại niềm tin của
nhân dân vào công lý. Tuy nhiên, thực tiễn định tội danh tội LDTNCĐTS tại
tỉnh Bình Dương cũng cho thấy vẫn cịn tình trạng vụ án phải trả hồ sơ nhiều
lần, kéo dài thời gian giải quyết do nhiều nguyên nhân, một trong những

1


nguyên nhân quan trọng là giữa CQĐT, VKSND và TAND trong quá trình
giải quyết vụ án xuất hiện quan điểm khác nhau do chưa có nhận thức đúng
các cơ sở lý luận, pháp luật và thực tiễn của định tội danh tội LDTNCĐTS.
Trong khi đó, cơng tác nghiên cứu lý luận và thực tiễn định tội danh tội
LDTNCĐTS tại tỉnh Bình Dương chưa được quan tâm đúng mức. Việc chưa
có cơng trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện
và chuyên sâu về định tội danh tội LDTNCĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Dương
ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức của những người tiến hành tố tụng hình
sự tại tỉnh Bình Dương.
Thực trạng trên đây đặt ra nhu cầu phải có những cơng trình nghiên cứu
chuyên sâu về định tội danh tội LDTNCĐTS tại tỉnh Bình Dương nhằm nâng
cao nhận thức của nhân dân nói chung, những người tiến hành tố tụng hình sự
tại tỉnh Bình Dương nói riêng, qua đó bảo vệ tốt hơn cơng lý, quyền con
người, quyền cơng dân, lợi ích của Nhà nước và của xã hội, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân. Đó cũng là lý do học viên lựa chọn đề tài “Định tội
danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bình Dương”
làm luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình làm luận văn này, học viên tham khảo một số cơng
trình khoa học liên quan đến đề tài đã được công bố, trong số đó có thể kể

đến: Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nhà
xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và
quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân,
Hà Nội; Đinh Văn Quế (2019), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015, phần
thứ 2, NXB. Thông tin và truyền thông; Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học
xã hội; Phùng Thị Thủy Duyên (2017) Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh;

2


Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội; Lê Quang Ninh (2019) Định tội
danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bình Phước ….
Với sự tham khảo các cơng trình nghiên cứu vấn đề định tội danh tội
LDTNCĐTS của nhiều tác giả từ thực tiễn của nhiều địa phương trong cả
nước, luận văn làm rõ một số khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến cải
cách tư pháp, định tội danh và bảo vệ cơng lý ở Việt Nam. Nhìn chung, u
cầu định tội danh chính xác đã từng bước thu hút được sự quan tâm, đầu tư
nghiên cứu tại Việt Nam, đặc biệt là sau khi Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 của Đảng ta được triển khai và đi vào thực tế cuộc sống. Tuy nhiên,
những nghiên cứu như đã giới thiệu và phân tích ở trên cịn hạn chế về số
lượng, chỉ hướng đến việc phân tích về lý luận của hoạt động định tội danh,
đặc biệt là trong hoạt động tư pháp chưa có tính sâu sắc và tồn diện. Đó là
một trong những lý do khiến tác giả chọn chủ đề này làm đề tài luận văn Cao
học Luật của mình trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu những cơng trình
nghiên cứu đã công bố làm một trong những nguồn tài liệu quan trọng, thơng
qua đó tác giả vận dụng, kế thừa và bổ sung nhằm hồn thiện cho luận văn
của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Thơng qua việc làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở pháp luật của định tội
danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; thực tiễn định tội danh tội này
tại tỉnh Bình Dương, Luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh
đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm hướng đến việc đạt những mục đích như đã phân tích, luận văn
tiến hành thực hiện các nhiệm vụ quan trọng sau:

3


- Phân tích cơ sở lý luận và cơ sở pháp luật của định tội danh tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn định tội danh tội LDTNCĐTS tại tỉnh
Bình Dương;
- Những giải pháp đề xuất nhằm bảo đảm định tội danh đúng tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Từ những quan điểm khoa học và quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội LDTNCĐTS cùng với thực tiễn của hoạt động định tội danh tội
LDTNCĐTS tại tỉnh Bình Dương, luận văn đã thực hiện nghiên cứu nội dung
nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ nghiên cứu dưới óc độ chuyên ngành
Luật hình sự Việt nam và Bộ luật tố tụng hình sự Việt nam.
Về mặt thực tiễn, luận văn nghiên cứu số liệu xét xử các vụ án
LDTNCĐTS của Tịa án nhân dân hai cấp tỉnh Bình Dương trong thời gian 07
năm từ năm 2014 đến 2020.
Như vậy về chủ thể định tội danh: Tòa án nhân dân hai cấp tại tỉnh

Bình Dương.
Địa bàn nghiên cứu: Tỉnh Bình Dương.
Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2014 đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Chủ trương, đường
lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về tội phạm, phòng, chống tội

4


phạm, công lý, bảo vệ công lý, quyền con người, bảo vệ quyền con người, cải
tách tư pháp hình sự…làm phương pháp luận để nghiên cứu đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng trong một tổng thể các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như thống kê, bảng biểu hóa, phân tích, tổng hợp, so sánh, nghiên cứu án
điển hình để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần nhận thức thống nhất về
các cơ sở của định tội danh tội phạm nói chung và định tội danh tội
LDTNCĐTS nói riêng, qua đó góp phần hoàn thiện lý luận định tội danh.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập về Luật tại các cơ sở
giáo dục trên cả nước. Kết quả nghiên cứu của luận văn cịn có thể được sử
dụng phục vụ hoạt động thực tiễn, đặc biệt là họt động của cán bộ làm công
tác điều tra, truy tố, xét xử hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn

Luận văn được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp luật của định tội danh tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản;
Chương 2. Thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản tại tỉnh Bình Dương;
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA ĐỊNH TỘI DANH
TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.1.1.1. Khái niệm định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Để có thể xây dựng khái niệm định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, trước hết phải nhận thức thế nào là định tội danh. Trước
hết cần nhấn mạnh rằng, trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền và
cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu lý luận về định tội
danh là một trong những vấn đề trung tâm và là nhiệm vụ cơ bản của khoa
học luật hình sự nước ta vì nó có ý nghĩa khoa học- thực tiễn quan trọng. Khái
niệm định tội danh đã đóng vai trị tố tụng như là căn cứ đầy đủ cho việc xét
xử vụ án hình sự tại Tịa án, vì vậy dần dần được nghiên cứu rộng rãi và phát
triển trong khoa học luật hình sự nước ta.
Quá trình áp giải quyết vụ án hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng là
quá trình áp dụng pháp luật với các nội dung gồm như: Định tội danh, miễn

trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt, miễn hình phạt…, trong đó định
tội danh là nội dung quan trọng nhất và được tiến hành ở tất cả các giai đoạn
tố tụng hình sự như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Vậy thì, định tội danh là
gì? Hiện trong khoa học pháp lý nước ta, cịn có nhiều quan điểm khác nhau.
Có quan điểm nhận định rằng định tôi danh được hiểu là hoạt động xác định
và ghi nhận trên phương diện pháp lý có sự phù hợp chính xác hay khơng
giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy phạm pháp luật hình sự
Việt nam với các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện trên

6


thực tế. Quan điểm này thể hiện được bản chất của hoạt động định tội danh
nhưng chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động định tội danh lại không được xác
định, chưa phản ánh được định tội danh là một q trình nhận thức có tính
logic, phải dựa trên những cơ sở nào và nhằm mục đích gì. Cũng có nhận định
của một quan điểm khác cho rằng hoạt động xác định sự phù hợp hay không
giữa những dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với
những dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do Bộ luật hình sự nước ta
quy định, nhằm đạt được sự thật khách quan trên cơ sở các tài liệu chứng cứ
thu thập được cùng với những tình tiết thực tế của vụ án của thể có thẩm
quyền định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic; là một
trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự và Bộ luật
tố tụng hình sự nước ta, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt
pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình
một cách cơng minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [9, tr.716]. Như vậy, quan
điểm này khẳng định tầm quan trọng của các quy luật nhận thức mà chủ thể
khi định tội danh phải tuân theo vì định tội danh là quá trình nhận thức, là
hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như áp dụng pháp luật tố tụng
hình sự được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và

các tình tiết thực tế của vụ án hình sự được thu thập theo đúng quy định của
PLTTHS, để các chủ thể có thẩm quyền xác định sự phù hợp giữa các dấu
hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu của
cấu thành tội phạm tương ứng do Luật hình sự quy định để xác định sự thật
khách quan. Ở một quan điểm khác nhận định rằng chủ thể có thẩm quyền
định tội danh thực hiện hoạt động định tội danh là hoạt động áp dụng pháp
luật thông qua các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Dựa vào
những tình tiết đã xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của một
hành vi cụ thể, chủ thể có thẩm quyền định tội danh sẽ quyết định hành vi đó

7


có đủ yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự nước ta
hay khơng. Những người theo quan điểm này mặc dù đã chỉ ra chủ thể trực
tiếp tiến hành hoạt động định tội danh và bản chất của hoạt động định tội
danh, song vẫn khơng nêu được quy trình cụ thể của hoạt động định tội danh
cho các chủ thể có thẩm quyền dựa trên cơ sở đó để định tội danh.
Phân tích nội dung của một số quan điểm trên đây về khái niệm định tội
danh có thể thấy cịn có sự nhận thức khá khác nhau về định tội danh; Mỗi
quan điểm có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Chúng ta không thể đưa ra
kết luận về khái niệm định tội danh mà chỉ dựa trên một số mô tả rời rạc về
hoạt động định tội danh theo từng quan điểm. Theo như đã phân tích, khi tiến
hành hoạt động định tội danh ở hầu hết các quan điểm nêu trên đều thống nhất
về mặt lý luận rằng hoạt động định tội danh được tiến hành bởi chủ thể có
thẩm quyền và mục đích cuối cùng là xác định có hay khơng có sự phù hợp giữa
một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã được thực hiện trên thực tế và quy
định của Bộ luật hình sự nước ta. Văn bản pháp lý duy nhất quy định về tội
phạm và hình phạt là BLHS đã quy định chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong BLHS với tên gọi cụ thể mới được xem là tội phạm và

phải chịu hình phạt. Người tiến hành tố tụng thực hiện so sánh, đối chiếu hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trên thực tế với những dấu hiệu đã được BLHS
mô tả trong cấu thành tội phạm cụ thể, từ đó xác định được người phạm tội đã
phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của BLHS trên cơ sở các dấu hiệu
tương ứng trong quy phạm PLHS như một khuôn mẫu pháp lý.
Quan điểm của luận văn cho rằng “Định tội danh là hoạt động của chủ
thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng quy định Bộ luật hình sự và Bộ
luật tố tụng hình sự để xác định một cách đầy đủ tồn diện có hay khơng có
sự phù hợp giữa những dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã
thực hiện trên thực tế và những dấu hiệu tương ứng được quy định tại Bộ luật

8


hình sự để quyết định ban hành văn bản áp dụng pháp luật thích hợp theo
đúng thẩm quyền. Hay nói cách khác, đó là hoạt động thực tiễm áp dụng
pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng, là hoạt động nhận
thức mang tính logic của chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng”
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài là tội cụ thể được quy định trong
BLHS. Bởi vậy, trong nội hàm của khái niệm định tội danh tội này có những
nội dung của khái niệm định tội danh nói chung đã nêu trên đây. Tuy nhiên,
bởi là tội cụ thể lại được quy định tại điều luật cụ thể của Phần các tội phạm
BLHS và gắn với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm tài sản và các dấu hiệu
đặc trưng khác của tội này, nên trong nội hàm của khái niệm định tội danh tội
này phải thể hiện được những dấu hiệu đó.
Có thể hiểu khái niệm định tội danh đối với tội LDTNCĐTS theo quy
định tại Điều 8, Điều 175 của Bộ luật hình sự năm 2015 như sau: Định tơi
danh tội LDTNCĐTS là hoạt động của chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố
tụng áp dụng quy định Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự để xác định
một cách đầy đủ tồn diện có hay khơng có sự phù hợp giữa những dấu hiệu

của một hành vi chiếm đoạt tài sản cụ thể đã thực hiện trên thực tế và những
dấu hiệu tương ứng quy định tại Điều 175 của BLHS năm 2015 trên cơ sở thu
thập các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để tiến hành ban hành văn
bản áp dụng pháp luật phù hợp theo đúng thẩm quyền nhằm đạt mục đích
giải quyết được tất cả các vấn đề vụ án theo đúng trình tự, thủ tục do pháp
luật hình sự quy định.
1.1.1.2. Đặc điểm của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản
Hoạt động định tội danh tội LDTNCĐTS có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, định tôi danh tội LDTNCĐTS là hoạt động của chủ thể có
thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng quy định Bộ luật hình sự và Bộ luật tố

9


tụng hình sự để xác định một cách đầy đủ tồn diện có hay khơng có sự phù
hợp giữa những dấu hiệu của một hành vi chiếm đoạt tài sản cụ thể đã thực
hiện trên thực tế và những dấu hiệu cấu thành tội phạm tương ứng quy định
tại Điều 175 của BLHS năm 2015. Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng gồm CQĐT, VKS, TA và một số cơ quan được giao nhiệm vụ được
trang bị vốn kiến thức nhất định về pháp luật và được phép sử dụng tất cả các
công cụ cần thiết cũng như biện pháp nghiệp vụ mà pháp luật cho phép tiến
hành một số hoạt động điều tra thông qua những người tiến hành tố tụng thực
hiện một số chức năng, nhiệm vụ được quy định cụ thể trong BLTTHS năm
2015. Hiểu như thế nào về tính logic của q trình định tội danh tội
LDTNCĐTS là một vấn đề thiết yếu cho hoạt động này. Tất cả hoạt động cần
thiết để dẫn đến việc quyết định đưa ra kết luận định tội danh của hành vi
LDTNCĐTS đều diễn ra một cách logic nhất thơng qua q trình so sánh, đối
chiếu có hay khơng có sự phù hợp giữa hành vi đã thực hiện và những yếu tố
cấu thành tội LDTNCĐTS quy định tại Điều 175 BLHS theo đúng thẩm

quyền của các cơ quan có thẩm quyền định tội danh. Từ đó kết luận hành vi
đó có phải tội phạm LDTNCĐTS hay khơng, trên cơ sở đó có quyết định
đúng đắn về mặt tội danh đối với người phạm tội để đưa ra mức hình phạt hợp
lý.
Thứ hai, định tội danh Tội LĐCĐTS là quá trình phải tuân thủ nghiêm
chỉnh các quy định của BLHS cũng như các quy định của BLTTHS, là hoạt
động áp dụng pháp luật trong thực tiễn đòi hỏi khi thực hiện phải có sự hỗ trợ
tích cực từ các biện pháp nghiệp vụ cần thiết nhằm cụ thể hoá các QPPLHS
vào đời sống thực tế. Điều tất yếu của chủ thể có thẩm quyền thực hiện hoạt
động định tội danh là phải tránh sự nhầm lẫn về sự phù hợp với quy định của
pháp luật đối với các các chứng cứ, các tài liệu thu thập trong vụ sơ vụ án và
tất cả tình tiết của hành vi đã được thực hiện với những yếu tố cấu thành tội

10


phạm được quy định tại Điều 175 của BLHS nước ta. Vậy nên, cần thiết phải
có bản lĩnh tư duy về chuyên môn nghiệp vụ cùng với kinh nghiệm thực tiễn
cơng tác nghề nghiệp của chủ thể có thẩm quyền thực hiện hoạt động định tội
danh để đưa ra những quyết định kết luận chuẩn xác những hành vi nào là
hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 175 BLHS, hành vi nào chỉ là hành vi
trái pháp luật, hành vi nào chỉ là vi phạm nghĩa vụ trong các giao dịch dân sự
giữa các đương sự.
Thứ ba, phải có sự chính xác tuyệt đối nhất, khách quan nhất cho hoạt
động định tội danh. Bởi pháp luật phải được hiểu và áp dụng thống nhất.
Thông qua hoạt động định tội danh của chủ thể có thẩm quyền định tội danh
áp dụng Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự theo đúng trình tự pháp
luật hình sự quy định.
Để tránh những trường hợp sai sót dẫn tới hậu quả lớn cho cá nhân,
gia đình và xã hội, hoạt động này cần được tiến hành tuần tự theo: Bước 1,

xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội có xảy ra trên thực tế; Bước 2, áp
dụng đúng điều khoản tương ứng trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự
với các tình tiết cụ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện
trên cơ sở so sánh, đối chiếu và kiểm tra các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
này; Bước 3, đưa ra kết luận có căn cứ về sự phù hợp sức thuyết phục của
hành vi lạm dụng tín nhiệm đối với chủ sở hữu tài sản và hành vi chiếm đoạt
của người phạm tội đã được thực hiện trong thực tế khách quan với các yếu tố
cấu thành tội phạm cụ thể tại Điều 175 của BLHS thông qua việc ban hành
văn bản áp dụng pháp luật.
Thứ tư, định tội danh tội LDTNCĐTS là hoạt động của các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền được giao nhiệm vụ có tính áp đặt mệnh lệnh
phục tùng một chiều đối với đối tượng bị áp dụng.

11


Liên quan đến đặc điểm thứ tư nêu trên, học viên chia sẻ với quan
điểm cho rằng “Vì hoạt động định tội danh theo quy định của pháp luật
hình sự và pháp luật tố tụng hình sự thì chỉ có thể được tiến hành bởi các
cơ quan tiến hành tố tụng là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tịa án mà
khơng phải được tiến hành bởi bất kỳ chủ thể nào khác. Đối tượng bị áp
dụng cũng không thể lựa chọn tội danh cho mình mà chỉ có thể nhận tội
danh khi các cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh được hành vi phạm tội
của người thực hiện hành vi phạm tội đã xảy ra trên thực tế khách quan
phù hợp với các yếu tố cấu thành tội phạm tương ứng theo phần các tội
phạm quy định trong BLHL [8, tr 14 – 15].
1.1.1.3. Ý nghĩa của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản
Định tội danh tội LDTNCĐTS nếu được thực hiện đúng (chính xác) có
ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện và ngược lại. Tùy thuộc vào nhiều

yếu tố khác nhau như chất lượng quy phạm pháp luật hình sự; chất lượng của
giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật; khả năng, năng lực, trình độ chun
mơn, kinh nghiệm, phẩm chất đạo đức của người định tội danh; sự tác động từ
các tiểu môi trường xã hội đến người định tội danh…mà việc định tội danh
chính xác hoặc khơng chính xác. Định tội danh tội LDTNCĐTS, vì vậy thực
sự có ý nghĩa khi được thực hiện đúng, cụ thể là:
Thứ nhất, định tội danh tội LDTNCĐTS có ý nghĩa chính trị - xã hội
sâu sắc, thể hiện như sau:
Một là, mục đích của việc quy định tội LDTNCĐTS trong BLHS là bảo
vệ quyền lợi về mặt kinh tế, cụ thể là quyền sở hữu tài sản của công dân được
pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận. Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS
góp phần vào việc cụ thể hóa các cam kết quốc tế liên quan đến quyền con
người mà Việt Nam là thành viên đã tham gia ký kết.

12


Hai là, một ý nghĩa quan trọng của định tội danh đúng nhằm đưa pháp
luật vào cuộc sống toàn dân không thể phủ nhận là hiệu quả của đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đã được thể chế hóa cụ thể. Tồn
dân an tâm sống và làm việc theo pháp luật với niềm tin tuyệt đối vào Đảng
và Nhà nước, có niềm tin tuyệt đối vào cơ quan bảo vệ pháp luật phụng cơng
thủ pháp, chí công vô tư. Định tội danh đúng thể hiện tư duy lý luận của các
chủ thể có thẩm quyền định tội danh với hệ thống pháp luật Việt Nam có sự
đồng nhất, từ đó các nhà đầu tư nước ngồi có nhận định về hệ thống pháp
luật Việt Nam có sự hòa nhập phù hợp với pháp luật quốc tế, mang lại hiệu
quả về thu hút đầu tư nước ngoài cho nước nhà.
Thứ hai, hiệu quả to lớn mang ý nghĩa pháp lý do hoạt động định tội
danh tội LDTNCĐTS mang lại như sau:
Một là, việc xác định đúng hành vi của một chủ thể có phải là hành vi

lạm dụng tín nhiệm nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản hay khơng và hành vi
của chủ thể đó có thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm quy định tại Điều
175 BLHS hay không là tiền đề để áp dụng các quy định của pháp luật hình
sự và pháp luật tố tụng hình sự phù hợp tương ứng vào thực tiễn cuộc sống.
Điều này thể hiện sự đánh giá khách quan đúng pháp luật hình sự và pháp luật
tố tụng hình sự của chủ thể tiến hành tố tụng đối với hành vi nguy hiểm cho
xã hội đã xảy ra trong thực tế khách quan.
Hai là, định tội danh tội LDTNCĐTS một cách chính xác là cơ sở để áp
dụng đúng trình tự các thủ tục tố tụng mà các chủ thể có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải thực hiện như thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử…. đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS ở một
chừng mực nhất định đã hiện thực hóa vào thực tiễn cuộc sống tồn dân
những chính sách pháp luật mà cụ thể là thông qua Bộ luật hình sự và Bộ luật
tố tụng hình sự nhằm điều chỉnh tình hình tội phạm trong một khoảng thời

13


gian và không gian cụ thể. Tránh trường hợp định tội danh sai làm giảm hiệu
quả của công tác đấu tranh với loại tội phạm này dẫn đến vi phạm quyền
con người được quy định trong Hiến pháp, gây mất lịng tin trong nhân dân,
làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp.
Thứ ba, một hành vi LDTNCĐTS cụ thể được thực hiện trong thực tế
thông qua hoạt động định tội danh đúng của chủ thể có thẩm quyền định tội
danh sẽ là tiền đề chuẩn xác trong việc quyết định hình phạt, tổng hợp hình
phạt của một bản án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Người
phạm tội và dư luận xã hội sẽ nhận thức đầy đủ tính nghiêm minh, cơng bằng,
khách quan của pháp luật thông qua hoạt động định tội danh đúng đối với các
vụ án hình sự. Từ đó góp tăng cường hiệu quả tuyên truyền giáo dục về Tội
LDTNCĐTS cho nhân dân. Ngồi ra định tội danh tội LDTNCĐTS đúng cịn

thể hiện tư duy về lý luận định tội danh của chủ thể có thẩm quyền định tội
danh có sự đồng nhất trong việc hiểu và tuân thủ các quy định của Bộ luật
hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự mà trung tâm là Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa với bản lĩnh về chun mơn nghiệp vụ của mình tiến hành ban hành bản
án đúng pháp luật.
1.1.2. Các giai đoạn và các trường hợp định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.1.2.1. Các giai đoạn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản
Định tội danh tội LDTNCĐTS là một dạng của hoạt động thực tiễn
ADPLHS, là một quá trình nhận thức logic. Trình tự tiến hành của hoạt động
định tội danh gồm:
- Giai đoạn xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trên thực tế
khách quan là tội phạm hay không phải là tội phạm. Kết luận cuối dung của
hoạt động định tội danh phụ thuộc trực tiếp và sự thật vụ án. Một hành vi

14


được kết luận định tội danh là tội phạm hay chỉ là hành vi trái pháp luật, hành
vi vi phạm nghĩa vụ dân sự là kết quả tư duy lý luận về định tội danh của chủ
thể có thẩm quyền định tội danh bằng bản lĩnh trình độ chun mơn cùng với
kinh nghiệm thực tiễn. Do đó, trình tự thu thập tài liệu chứng cứ có trong hồ
sơ vụ án phải đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm thực hiện
đánh giá tồn diện chứng cứ của vụ án. Để thực hiện được điều đó, chủ thể
định tội danh cần xác định các dấu hiệu của tội phạm nói chung như tính nguy
hiểm cho xã hội, yếu tố lỗi và tính phải chịu hình phạt của hành vi đã thực
hiện được ghi nhận tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015.
- Giai đoạn xác định hành vi có dấu hiệu tội phạm nói chung đó thuộc
loại tội phạm nào đã được quy định trong Bộ luật hình sự hiện hành. Vấn đề

là ở chỗ, cũng có những dấu hiệu giống nhau như đối tượng tác động của tội
phạm chẳng hạn, khác nhau, nhưng hành vi cấu thành các tội phạm khác nhau
thuộc các loại tội khác nhau nằm ở các chương khác nhau thuộc phần các tội
phạm của Bộ luật hình sự. Như vậy, nhiệm vụ của giai đoạn này là xác định
hành vi đang định tội danh có cấu thành tội phạm được quy định tại Chương
XVI của Bộ luật hình sự năm 2015 về “Các tội xâm phạm sở hữu”hay
không?.
- Giai đoạn xác định hành vi đang định tội danh có cấu thành tội
LDTNCĐTS quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 hay khơng?
Nêu là tội LDTNCĐTS thì ở cấu thành tội phạm nào: cơ bản hay tăng nặng
TNHS?
Chủ thể có thẩm quyển định tội danh phải đặt các tình tiết của vụ án
trong mối quan hệ nhân quả có sự tác động qua lại trong một hoàn cảnh cụ thể
thì mới kiểm tra, phân tích, đánh giá độc lập và xác định được sự thật khách
quan của vụ án hình sự . Việc thu thập các tình tiết của vụ án phải đầy đủ,
tồn diện, chính xác, khách quan và khoa học để rút ra kết luận khái quát tổng

15


hợp chung và làm rõ chứng cứ xác định có tội, làm rõ chứng cứ khơng có tội,
tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS của người hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện hành vi phạm tội. Chủ thể định tội danh cần áp dụng
đúng nội dung của các quy định trong BLHS. Khi đã xác định được hành vi
nguy hiểm cho xã hội xảy ra trên thực tế khách quan do chủ thể có năng lực
TNHS và độ tuổi mà BLHS đã quy định khi thực hiện thì chủ thể có thẩm
quyền định tội danh cần xác định sự phù hợp giữa một hành vi được thực hiện
trên thực tế và tất cả các yếu tố CTTP được quy định tại Điều 175 BLHS năm
2015. Liên quan đến vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt đối với các
loại tội xâm phạm sở hữu thì vẫn cịn tồn tại nhiều khó khăn vướng mắc. Cụ

thể, ranh giới giữa các CTTP của tội LDTNCĐTS với CTTP của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản…hay hành vi thực hiện chỉ là vi phạm nghĩa vụ thanh toán
khi đến hạn trong giao dịch dân sự.
Để đảm bảo chính xác hoạt động định tội danh tội LDTNCĐTS, bằng
tư duy lý luận về định tội danh cùng với kinh nghiệm thực tiễn, chủ thể có
thẩm quyền định tội danh sẽ áp dụng chuẩn xác Bộ luật hình sự và Bộ luật tố
tụng hình sự nhằm đưa ra kết luận đúng cho quá trình định tội danh đối với
một vụ án hình sự. Điều tất yếu là phải so sánh đối chiếu giữa hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã thực hiện với các tình tiết khách quan đã xảy ra trên thực
tế của vụ án. Do đó, chủ thể có thẩm quyền định tội danh đã xác định được
tình tiết khách quan của vụ án thì phải đồng thời có sự đồng nhất trong tư duy
pháp luật, lựa chọn điểm, khoản, điều luật tương ứng của BLHS cho việc
quyết định ban hành văn bản áp dụng pháp luật phù hợp với hành vi phạm tội
cụ thể trong vụ án. Mặt khác, các chủ thể có thẩm quyền định tội danh phải
xem xét phân tích từng hành vi cụ thể với vai trị phân công nhiệm vụ khác
nhau trong vụ án, kiểm tra tính chất đồng phạm phân hóa trách nhiệm hình sự
nhằm đưa ra quyết định áp dụng cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng hay

16


cấu thành giảm nhẹ đối với từng hành vi cụ thể trong vụ án. Không thể bỏ qua
khâu quan trọng nhất này khi chủ thể có thẩm quyền định tội danh thực hiện
hoạt động định tội danh của mình. Tương ứng với mỗi giai đoạn tố tụng thì
chủ thể định tội danh phải đưa ra kết luận thông qua việc tiến hành ban hành
những văn bản tố tụng liên quan phù hợp với chức năng nhiệm vụ được quy
định trong Bộ luật tố tụng hình sự như Quyết định khởi tố của cơ quan điều
tra, Quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát, Quyết định áp dụng biện pháp
tạm giam của Tòa án….Kết luận về tên tội danh (điều luật cần áp dụng) và kết
luận về loại CTTP cần áp dụng gồm CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng, CTTP

giảm nhẹ cần áp dụng sẽ được chủ thể có thẩm quyền định tội danh đưa ra
đúng trình tự thủ tục pháp luật tố tụng hình sự [32, tr.29, 40, 45].
1.1.2.2. Các trường hợp định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản
- Định tội danh theo cấu thành tội phạm
Cấu thành tội phạm là mơ hình pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự
một hành vi phạm tội được quy định tại Bộ luât hình sự. Tùy thuộc vào mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhà làm luật xây dựng các cấu thành
tội phạm khác nhau cho một tội cụ thể vốn được khoa học luật hình sự gọi là
cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng, cấu thành tội phạm
giảm nhẹ. Đối với mỗi tội phạm, nhà làm luật xây dựng một cấu thành tội
phạm cơ bản, còn cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự được xây dựng tùy thuộc vào tội phạm đó có hay không.
Định tội danh không đơn thuần là hoạt động mà kết quả chỉ ra người
phạm tội phạm tội gì mà cịn phải chỉ ra tội mà người đó đã thực hiện thuộc
cấu thành tội phạm nào. Tại đây xuất hiện nhu cầu nghiên cứu định tội danh
theo cấu thành tội phạm, cụ thể là định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ
bản, định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng, định tội danh theo cấu

17


thành tội phạm giảm nhẹ. Cần lưu ý rằng, tùy thuộc các cấu thành tội phạm
được nhà làm luật xây dựng trong tội phạm cụ thể mà việc nghiên cứu định
tội danh theo cấu thành tội phạm phải tuân thủ điều đó. Đối với tội lạm dụng
tín nhiêm chiếm đoạt tài sản, điều đó cũng khơng phải là ngoại lệ. Đối với
định tội danh tội LDTNCĐTS theo cấu thành tội phạm, về mặt lý luận, học
viên chỉ đề cập đến định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản và định tội
danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng.
* Định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản

Trong q trình định tội danh, chủ thể có thẩm quyền định tội danh
phân biệt tội phạm này với tội phạm khác thông qua các dấu hiệu đặc trưng
của từng loại tội phạm phản ánh bản chất của loại tội phạm đó hay cịn gọi là
cấu thành tội phạm cơ bản. Trong đa số (hầu hết) các tội phạm của BLHS
năm 2015, nhà làm luật quy định CTTP cơ bản tại Khoản 1 của Điều luật.
Vai trò của cấu thành tội phạm cơ bản đối với định tội danh thể hiện ở chỗ, nó
cho phép khẳng định trường hợp phạm tội đó là phạm tội gì, được quy định ở
khoản 1 điều luật cụ thể nào thuộc phần các tội phạm Bộ luật hình sự.
Như vậy, đối với định tội danh tội LDTNCĐTS theo cấu thành tội
phạm cơ bản, sau khi xác định các dấu hiệu của tội phạm nói chung, xác định
các dấu hiệu loại tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, chủ thể định
tội danh tiến hành đối chiếu hành chiếm đoạt tài sản thỏa mãn đến đâu những
dấu hiệu định tội đã được nhà làm luật mơ tả tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật
hình sự năm 2015. Việc định tội danh kết thúc, nếu hành vi LDTNCĐTS
khơng có những tình tiết định khung tăng nặng, tức của các cấu thành tăng
nặng ghi nhận tại khoản 2 hoặc khoản 3 điều luật nói trên. Trường hợp chủ
thể có thẩm quyền định tội danh quyết định kết luận định tội danh tội
LDTNCĐTS theo khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 là định tội danh theo
cấu thành tội phạm cơ bản.

18


* Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng
Cấu thành tăng nặng là cấu thành nếu có một hoặc một số tình tiết khác
ngồi những tình tiết đã được quy định trong cấu thành cơ bản và những tình
tiết này làm cho tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nguy
hiểm hơn so với trường hợp khơng có tình tiết này, cấu thành tăng nặng bao
giờ cũng có khung hình phạt nặng hơn so với cấu thành cơ bản.
Muốn áp dụng đúng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được

quy định trong BLHS năm 2015 đối với người phạm tội thì khơng chỉ hiểu
đúng nội dung của các tình tiết đó, mà cịn phải có kỹ năng áp dụng mới có
thể quyết định một mức hình phạt phù hợp tương xứng với tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Như trên đã phân tích, sau khi định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ
bản, chủ thể định tội danh tiếp tục tiến hành định tội danh theo cấu thành tội
phạm tăng nặng nếu trường hợp phạm tội đó có các tình tiết cấu thành tội
phạm tăng nặng tương ứng. Trong trường hợp này, chủ thể định tội danh sử
dụng mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng để định tội danh
theo cấu thành tội phạm tăng nặng thứ nhất hoặc cấu thành tội phạm tăng
nặng thứ hai hoặc theo cấu thành tăng nặng thứ ba tùy thuộc vào các dấu hiệu
định khung tăng nặng của cấu thành tội phạm tăng nặng tương ứng.
Như vậy, định tội danh theo các cấu thành tăng nặng, tức theo tình tiết
định khung tăng nặng TNHS đối với tội LDTNCĐTS được quy định tại các
Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 175 BLHS năm 2015 của tội
LDTNCĐTS được gọi là định tội danh theo CTTP tăng nặng. Điều tất yếu là
chỉ xác định tình tiết định tội và tình tiết định khung tăng nặng TNHS chỉ giới
hạn trong phạm vi một tội phạm cụ thể bởi một vụ án có thể có một tội phạm
hay nhiều tội phạm. Đồng thời, chủ thể định tội danh cần phân biệt các tình

19


×