Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

(Luận văn thạc sĩ) bảo đảm QUYỀN bào CHỮA của bị cáo tại PHIÊN tòa sơ THẨM HÌNH sự từ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN hòa, TỈNH ĐỒNG NAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 73 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

PHAN THỊ THU HƯƠNG

BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TẠI
PHIÊN TỊA SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS NGUYỄN VĂN HIỂN

Hà Nội, năm 2021

1


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Những tài
liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, chính xác. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng trình nào
khác. Tơi xin chịu trách nhiệm về những lời cam đoan trên.
Người cam đoan

Phan Thị Thu Hương



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TẠI PHIÊN
TỊA SƠ THẨM HÌNH SỰ ...................................................................................... 9
1.1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa
sơ thẩm hình sự ........................................................................................................... 9
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền bào chữa của bị
cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự .............................................................................. 21
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ
CÁO TẠI PHIÊN TỊA SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH
PHỐ BIÊN HỊA,TỈNH ĐỒNG NAI..................................................................... 32
2.1. Khái qt tình hình xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Biên
Hòa tỉnh Đồng Nai .................................................................................................... 32
2.2. Kết quả đạt đượctrong bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm giai đoạn 2016 – 2020 trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai ................................................................................................................... 34
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong bảo đảm qùn bào chữa của bị cáo tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và nguyên
nhân ........................................................................................................................... 41
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO
CHỮA CỦA BỊ CÁOTẠI PHIÊN TỊA SƠ THẨM HÌNH SỰ ......................... 50
3.1. Yêu cầu áp dụng đúng các quy định pháp luật tố tụng hình sự về đảm bảo
quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự ......................................... 50
3.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự ........ 58
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 75



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TẠI PHIÊN TỊA
SƠ THẨM HÌNH SỰ
1.1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo
tại phiên tịa sơ thẩm hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩabảo đảm quyền bào chữa của bị
cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự
1.1.1.1. Khái niệm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ
thẩm hình sự
- Khái niệm quyền bào chữa, quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa
sơ thẩm hình sự
Trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và công cuộc
cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, vấn đề bảo đảm quyền con người,
trong đó có quyền bào chữa là một trong những nội dung quan trọng, được đặt
lên hàng đầu. Bởi vì mục tiêu của cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng
nhà nước pháp quyền là phải hướng tới việc bảo vệ một cách hữu hiệu các
quyền và tự do của con người và của công dân. Việc bảo đảm quyền bào chữa
góp phần quan trọng trong bảo đảm quyền con người.
Theo từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa thì “Bào chữa
là dùng lời lẽ, chứng cớ để bênh vực một việc”.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thơng
báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện
đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của
Bộ luật này”[20, tr 3]. Theo quy định này thì BLTTHS Việt Nam ghi nhận
quyền bào chữa đối với người bị buộc tội. Đây là lần đầu tiên, BLTTHS sử

9



dụng thuật ngữ “người bị buộc tội”. Thuật ngữ này thường chỉ được sử dụng
trong các văn bản nghiên cứu khoa học pháp lý trước đây. Trong đó, tại Điểm
đ, Khoản 1, Điều 4 BLTTHS năm 2015 thì “Người bị buộc tội gồm người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Theo đó, quyền bào chữa được xác
định là quyền không chỉ dành cho bị can, bị cáo mà cịn có người bị bắt,
người bị tạm giữ - những người chưa có quyết định khởi tố bị can hay quyết
định đưa vụ án ra xét xử. Tuy vậy, họ vẫn được quy định quyền bào chữa vì
lúc này họ cũng đã bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế của pháp luật, quyền
lợi của họ cũng đã bị hạn chế, ảnh hưởng nhất định nên cần phải được pháp
luật cho phép thực hiện những hoạt động nhất định nhằm bảo vệ quyền lợi
trước các cơ quan có thẩm quyền. Nội dung quyền bào chữa bao gồm quyền
tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa. Quy định như trên đã ghi
nhận quyền bào chữa của đầy đủ các đối tượng có khả năng bị hạn chế quyền,
lợi ích; đối mặt với sự nghi ngờ, khả năng bị buộc tội bởi các cơ quan pháp
luật Nhà nước.
Như vậy có thể đưa ra khái niệm quyền bào chữa như sau: “Quyền bào
chữa trong tố tụng hình sự là tổng hợp các hành vi tố tụng của người bị buộc
tội được pháp luật quy định cho họ nhằm đưa ra các chứng cứ để bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan tiến hành tố tụng trong
các quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự”.
Ngồi ra, theo quy định của BLTTHS năm 2015, người bị buộc tội bao
gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trong đó, “bị cáo là người
hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử” (Khoản 1, Điều 61
BLTTHS năm 2015). Đối với người này, Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử
tại phiên tòa sơ thẩm sau khi đã thụ lý và nghiên cứu hồ sơ vụ án từ Viện
kiểm sát. Khi tham gia tố tụng với tư cách bị cáo, người đó sẽ có được những
quyền nhất định để có thể góp phần làm rõ vụ án, đồng thời có thể tự bảo vệ

10



mình trước các cơ quan THTT.
Một trong những qùn đó là: quyền bào chữa, được bị cáo thực hiện
thông qua hai hình thức, đó là tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Quyền này của bị cáo được thực hiện kể từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét
xử cho đến khi bản án, quyết định của Tịa án về hành vi phạm tội của bị cáo
có hiệu lực pháp luật. Trong q trình đó, việc thực hiện quyền bào chữa tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm là hoạt động có ý nghĩa then chốt trong việc bảo vệ
quyền lợi của bị cáo cũng như góp phần quan trọng trong việc quyết định bị
cáo có tội hay khơng có tội. Bởi lẽ, tại phiên tịa xét xử sơ thẩm, Tịa án sẽ
tiến hành xem xét tồn bộ những tài liệu, chứng cứ nhằm làm rõ bản chất của
vụ án, xác định bị cáo có phải là người phạm tội hay khơng. Khi đó, việc bị
cáo thực hiện qùn bào chữa của mình khơng chỉ bảo vệ qùn và lợi ích
hợp pháp của họ mà cịn có ý nghĩa quyết định đối với tồn bộ q trình thực
hiện qùn bào chữa trong q trình TTHS, góp phần xác định bị cáo có tội
hay khơng có tội hoặc mức độ trách nhiệm hình sự mà họ phải chịu theo quy
định của pháp luật. Chính vì vậy, việc thực hiện quyền bào chữa của bị cáo tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có thể xem như là hoạt động quan
trọng nhất trong việc bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội trong quá trình
TTHS.
Việc thực hiện quyền bào chữa của bị cáo trong trường hợp này được
tiến hành thông qua các hành vi nhất định tại phiên tòa sơ thẩm. Bị cáo hoặc
người được nhờ bào chữa sẽ tiến hành những hoạt động theo quy định của
pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của bị cáo trước sự buộc tội của VKS. Theo
đó, họ sẽ chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc giảm nhẹ TNHS của bị cáo
so với cáo trạng của VKS. Đồng thời, bị cáo hoặc người bào chữa có thể đưa
ra những chứng cứ, tài liệu, đồ vật góp phần làm sáng tỏ bản chất của vụ án.

11



Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm như sau: Quyền bào
chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự là tổng hợp các hành vi tố tụng
của bị cáo được pháp luật quy định cho họ nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của họ đồng thời góp phần làm rõ bản chất vụ án hình sự trong quá
trình xét xử tại phiên tòa sơ thẩm.
- Khái niệm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm
hình sự
Trước tiên, cần tìm hiểu khái niệm về bảo đảm trong Tiếng Việt. Theo
GS.TS Hoàng Phê trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của NXB Tiếng Việt thì:
Bảo đảm là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ
những gì cần thiết, sự bảo đảm thực hiện hoặc giữ được.
Từ điển Luật học diễn giải: Nhà nước có trách nhiệm: “bảo đảm cho
các qùn cơng dân đã được ghi nhận trong các đạo luật phải được thực thi,
phải tạo điều kiện cho công dân được hưởng các quyền đó”.
Như vậy: Bảo đảm có thể hiểu một cách đơn giản nhất đó là: Trách nhiệm
của một chủ thể có thẩm qùn phải làm cho qùn và lợi ích của chủ thể bên
kia chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết để
có thể thực hiện được.
Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình
tố tụng mà ở đó Tịa án có thẩm qùn tiến hành xem xét các chứng cứ tại tòa,
ra bản án và các quyết định theo quy định của pháp luật. Đây chính là cấp xét
xử đầu tiên mà tất cả chứng cứ thu thập được trong giai đoạn điều tra cùng
với các chứng cứ mới được xem xét một cách trực tiếp, khách quan và tồn
diện. Tại phiên tịa hình sự sơ thẩm bị cáo thực hiện quyền của mình tại phiên
tịa như tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa, trình bày quan điểm gỡ tội
cho mình… Tồn bộ quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đều phải tuân thủ
các nguyên tắc được quy định trong tố tụng hình sự.


12


Với tư cách là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, nguyên tắc
đảm bảo quyền bào chữa trong tố tụng hình sự chi phối, tác động đến tồn bộ
hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Bảo đảm pháp lý
quyền con người nói chung và bảo đảm quyền bào chữa của bị can tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm nói riêng có nghĩa là từ những quy định đã có của pháp
luật về việc bảo vệ và bảo hộ quyền con người, Nhà nước làm cho những quy
định pháp luật đó trở thành hiện thực, bảo đảm quyền, lợi ích thực tế của con
người được hưởng quyền, mà cụ thể ở đây là bị cáo.
Điều 16 Bộ luật TTHS quy định: Cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng có trách nhiệm thơng báo, giải thích và bảo đảm cho người bị
buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích
hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này. Tức là: Tại phiên tòa, dù là bị
cáo hay bị hại cũng như những người có liên quan có tư cách khác nhau đều
được những người tiến hành tố tụng là HĐXX, KSV bảo vệ, giúp cho họ có
thể thực hiện được qùn bào chữa của mình như có thể tự bào chữa, nhờ
người khác bào chữa…
Tuy nhiên, để bảo đảm cho qùn bào chữa của bị cáo tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm thì phải có nghĩa vụ tương ứng của các chủ thể mà cụ thể là
Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên để tạo điều kiện cho bị cáo sử dụng qùn bào
chữa của mình. Những người này có nghĩa vụ thực hiện hoặc không thực hiện
cho bị cáo sử dụng quyền bào chữa của mình, hoặc tạo ra các điều kiện tốt
nhất hay cản trở quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
Như vậy: Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự của TAND là việc pháp luật ghi nhận quyềntự bào chữa, nhờ
người khác bào chữa của bị cáo đồng thời thông qua hoạt động của những
người tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp
luật về quyền bào chữa của bị cáo và tạo ra các điều kiện cần thiết, tốt nhất


13


để bị cáo thực hiện quyền bào chữa của bị cáo một cách đầy đủ, hiệu quả
nhất và không bị xâm phạm trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Từ những phân tích trên cho thấy rằng, bảo đảm quyền bào chữa của bị
cáo trong phiên tòa hình sự sơ thẩm có nhiều nội dung, cách thức thực hiện
khác nhau, quyền này của bị cáo có được thực thi trên thực tế hay không
không phụ thuộc vào duy nhất một cá nhân nào mà trách nhiệm thuộc về
nhiều chủ thể với những hoạt động khác nhau dựa trên những điều kiện bảo
đảm khác nhau. Việc nghiên cứu nội dung của bảo đảm quyền bào chữa của
bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
1.1.1.2. Đặc điểm của bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự
- Cơ sở của việc quy định QBC của bị cáo bắt nguồn từ việc bảo đảm thực
hiện quyền con người. Qua các thời kỳ phát triển QBC của bị cáo đã ngày
càng được mở rộng và trở thành một trong những nguyên tắc hiến định quan
trọng, một nguyên tắc cơ bản không thể thiếu được trong TTHS. Chính vì vậy,
việc bảo đảm QBC của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự là tn thủ nguyên
tắc của TTHS.Đây chính là bảo đảm cần thiết để bị cáo khi tham gia phiên tịa
hình sự sơ thẩm có thể chống lại việc buộc tội đối với mình một cách chủ
động. Bởi vì bị cáo là người bị cơ quan có thẩm quyền buộc tội nên họ tham
gia phiên tịa sơ thẩm một cách thụ động. Do đó, bảo đảm QBC giúp họ có thể
đưa ra những lý lẽ, chứng cứ bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ tội cho mình.
- Chủ thể thực hiện việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự là Tịa án và Viện kiểm sát mà trực tiếp là Hội đồng xét
xử sơ thẩm và Kiểm sát viên tham gia phiên tịa sơ thẩm hình sự. Tất cả
những nội dung liên quan đến quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ
thẩm hình sự như: Trình bày ý kiến có lợi cho mình, đưa ra các chứng cứ, đồ

vật, tài liệu có liên quan đến vụ án, tiến hành tranh tụng tại phiên tòa... Mặc

14


dù vậy, tất cả những nội dung liên quan đến quyền bào chữa của bị cáo chỉ
thực sự được bảo đảm khi các chủ thể tiến hành tố tụng là Thẩm phán, Hội
thẩm, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa hình sự sơ thẩm thực sự tuân thủ các
nguyên tắc, quy định của BLTTHS và tạo điều kiện để bị cáo thực hiện các
quyền ấy.
-Bảo đảm QBC của bị cáo góp phần giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác
định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm trong q trình xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự khơng để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm kết
quả xét xử là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo một cách thực chất, có hiệu quả sẽ
làm giảm tình trạng oan, sai trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Bởi
vì, sự thật khách quan, chân lý thực sự của vụ án hình sự sơ thẩm chỉ được
làm sáng tỏ khi có sự tranh luận công bằng giữa các bên về những quan điểm
khác nhau. Bị cáo thực hiện QBC của mình ln luôn đưa ra những quan
điểm phản biện lại sự buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trên cơ sở
tranh luận công bằng của của bên buộc tội và bên bị cáo (tự bào chữa hoặc
nhờ người bào chữa), HĐXX với tư cách là cơ quan tài phán – nhân danh Nhà
nước mới có đủ điều kiện để xác định sự thật khách quan của vụ án, ra phán
quyết về hành vi của bị cáo.
1.1.1.3. Ý nghĩa của bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa
sơ thẩm hình sự
Là một trong những ngun tắc Hiến định trong TTHS, việc bảo đảm
quyền bào chữa nói chung, bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm nói riêng có vai trị vơ cùng quan trọng trong quá trình giải
quyết VAHS. Bởi lẽ, giai đoạn xét xử vụ án khác với các giai đoạn tố tụng

trước đó vì trong giai đoạn này, bị cáo sẽ được xác định một cách chắc chắn
là có tội hay khơng cùng với mức hình phạt mà người đó phải chịu tương ứng

15


với tội phạm mà họ đã thực hiện. Điều 13 BLTTHS quy định: “Người bị buộc
tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực
pháp luật”[20, tr 5].Bên cạnh đó, những sai lầm dù là nhỏ nhất trong quá
trình điều tra, truy tố nếu khơng được phát hiện, làm rõ trong q trình xét xử
sẽ dẫn tới những hậu quả kết tội oan sai, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp
của bị cáo. Chính vì vậy, bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ
thẩm có một số ý nghĩa sau đây:
- Thứ nhất: Ý nghĩa về chính trị - xã hội:
Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc
cải cách tư pháp hướng tới một nền tư pháp hiện đại, minh bạch trong đó tơn
trọng và bảo vệ các quyền con người.
Quyền con người là một trong những quyền thiêng liêng và cao quý
nhất được pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế ghi nhận. Do đó, bảo đảm
quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm là sự thể hiện trách
nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác đối với
các quyền của bị cáo nói chung và quyền con người của bị cáo nói riêng. Bảo
đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm nhằm hướng tới
mục đích của hoạt động TTHS mà Đảng và Nhà nước ta trong cơng cuộc cải
cách tư pháp đã đề ra đó là xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật,
không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân.
Trong quan hệ pháp luật hình sự nói chung và trong hoạt động xét xử

sơ thẩm các vụ án hình sự nói riêng, quan hệ giữa bị cáo và các chủ thể đại
diện cho qùn lực nhà nước tại phiên tịa hình sự sơ thẩm là quan hệ bất bình
đẳng. Sự yếu thế thuộc về bị cáo, do đó quyền của họ dễ bị xâm phạm nếu

16


khơng được Nhà nước bảo đảm. Chính vì vậy, bảo đảm quyền bào chữa của
bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố
tụng hình sự phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đề ra.
- Thứ hai: Ý nghĩa về mặt pháp lý:
Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự góp phần giải quyết đúng đắn q trình chứng minh vụ án hình
sự, khơng bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
Hiến pháp khẳng định: Khơng ai bị coi là có tội cho đến khi có quyết
định của Tịa án có hiệu lực pháp luật. Chính vì vậy, tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm, các bị cáo chưa bị coi là tội phạm, bản thân họ có quyền đưa ra bằng
chứng, lời nói biện hộ cho hành động của mình, chứng minh hành vi của mình
có tội hay khơng có tội. Hoạt động này chính là việc bị cáo tự bào chữa cho
mình tại phiên tòa. Việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo góp phần cùng
với các cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra bản chất xác thực của vụ án để hội
đồng xét xử sơ thẩm có căn cứ chứng minh là bị cáo có tội hay khơng có tội
từ đó góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
- Thứ ba: Ý nghĩa về mặt đạo đức
Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự góp phần bảo đảm tính dân chủ, minh bạch và nhân đạo trong
hoạt động tố tụng hình sự.
Tại phiên tịa sơ thẩm vụ án hình sự, bị cáo có thể bị tun có tội hoặc
khơng có tội. Đây là quyết định tố tụng ảnh hưởng trực tiếp đến địa vị pháp lý
của bản thân bị cáo. Do đó, pháp luật quy định bị cáo có các điều kiện pháp lý

để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình liên quan đến vụ án, khơng bị
hạn chế về thời gian trình bày ý kiến của mình về vụ án. Việc trình bày của bị
cáo được thực hiện công khai trước hội đồng xét xử. Bị cáo có quyền đưa ra
những chứng cứ và đưa ra yêu cầu tranh luận tại phiên tòa. Những chứng cứ

17


hay sự tranh luận, bào chữa của bị cáo đều được hội đồng xét xử xem xét và
đánh giá khách quan, khơng thiên lệch. Từ đó bảo đảm qùn bào chữa của bị
cáo trong giai đoạn này sẽ giúp bị cáo có cơ hội trình bày, phân tích để bảo vệ
những qùn và lợi ích hợp pháp của mình nhằm loại bỏ hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự trên cơ sở tiến hành những hoạt động mà pháp luật quy định,
thể hiện tính nhân đạo trong chính sách pháp luật của nước ta khi tôn trọng
danh dự, nhân phẩm của con người.
1.1.2. Nội dung bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ
thẩm hình sự
Qùn bào chữa là một trong những quyền được Hiến pháp năm 2013
quy định nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội đồng
thời góp phần giải quyết vụ án được khách quan, đúng đắn, tránh oan sai, bỏ
lọt tội phạm, làm oan người vơ tội. Trong đó, đối với bị cáo, người đã được
Tòa án quyết định đưa ra xét xử thì việc thực hiện quyền bào chữa của họ tại
phiên tịa sơ thẩm có vai trị quyết định trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ cũng như xác định sự thật khách quan của vụ án. Do đó, bảo đảm
quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự bao gồm các nội
dung sau:
Thứ nhất, bảo đảm quyền bào chữa nói chung, quyền bào chữa của bị
cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự nói riêng là một chế định pháp lý quan
trọng, không thể thiếu được trong tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự là một lĩnh
vực đặc biệt, đặc thù, bao gồm tổng thể hoạt động của các chủ thể tiến hành tố

tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách chính xác, khách quan,
cơng bằng, góp phần vào cơng cuộc đấu tranh phịng chống và phịng ngừa tội
phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân, trong đó có qùn và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội nói
chung, bị cáo nói riêng. Theo quy định của BLTTHS, một người chỉ bị coi là

18


có tội khi có bản án kết tội của TA đối với họ có hiệu lực pháp luật. Mặc dù bị
cáo là người đang bị các cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh hành vi phạm
tội để buộc tội nhưng bị cáo vẫn chưa phải là người có tội. Do đó, việc quy
định quyền bào chữa dành cho bị cáo là một tất yếu khách quan nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, hạn chế tối đa việc xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của con người trong tố tụng hình sự nói chung, xét xử
vụ án nói riêng. Bên cạnh đó, để xác định được sự thật khách quan của vụ án,
Tòa án – nhân danh nhà nước với tư cách là cơ quan xét xử, đưa ra phán xét
cuối cùng về bị cáo và vụ án, cần thiết phải xem xét, đánh giá các chứng cứ,
tài liệu từ nhiều khía cạnh khác nhau nhằm đảm bảo quyết định đối với bị cáo
được chính xác, khách quan, tồn diện. Việc xác định sự thật khách quan của
vụ án hình sự sơ thẩm sẽ khơng thể thực hiện được hồn chỉnh nếu chỉ nghe ý
kiến từ một phía buộc tội bởi ý kiến ấy có thể sẽ mang ý chí chủ quan của
người tiến hành tố tụng nên dễ bị phiến diện. Do đó, việc bảo đảm cho các
quyền bào chữa tồn tại song song cùng sự buộc tội của chủ thể có thẩm quyền
sẽ tạo ra sự cân bằng giữa hai bên buộc tội và gỡ tội. Đồng thời, việc thực
hiện quyền bào chữa của bị cáo cũng khơng có nghĩa là những người bào
chữa được mời, thuê hay chỉ định phải bằng mọi giá để gỡ tội cho bị cáo mà
phải căn cứ trên các quy định của pháp luật nhằm làm rõ những tình tiết có lợi
cho bị cáo, đảm bảo qùn lợi chính đáng cho bị cáo. Chính vì vậy, việc đảm
bảo thực hiện quyền bào chữa cho bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm là một

u cầu tất yếu không chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi cho bị cáo mà cịn góp phần
giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án hình sự.
Thứ hai, Nhà nước tạo điều kiện để bị cáo thực hiện QBC của họ (họ có
thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa). Trong những trường hợp bị
cáo phạm tội mà tội họ phạm mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù,
tù chung thân hoặc tử hình hay trong trường hợp người bị buộc tội có nhược

19


điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi nếu bị cáo hay người thân thích
của bị cáo khơng mời người bào chữa thì Tịa án phải chỉ định người bào chữa
cho bị cáo.
Thứ ba, Nhà nước tôn trọng quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa của bị cáo.BLTTHS năm 2015 quy định về quyền của người bị buộc
tội là quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật và yêu cầu người bào chữa, có
quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật để chứng minh cho người bị
buộc tội. Đồng thời, BLTTHS năm 2015 cũng quy định một số quyền để
người bị buộc tội thực hiện việc gỡ tội cho mình như: “Bị can được quyền đề
nghị giám định, định giá tài sản; quyền được đọc, ghi chép bản sao hoặc tài
liệu liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan
đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra nếu có yêu cầu… Bị cáo cũng
được quyền đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị triệu tập người làm
chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám
định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; người tham
gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tịa;
đề nghị chủ tọa phiên tịa hỏi hoặc tự mình hỏi những người tham gia phiên
tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa; xem biên bản phiên tòa,
yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tịa…”. Các quy định
có liên quan đến quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm hình sự đều

được Hội đồng xét xử tơn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh.
Thứ tư, pháp luật TTHS của nước ta khơng chỉ quy định cho bị cáo có
QBC mà cịn giao cho VKS, TA trong q trình xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự có nhiệm vụ tôn trọng và bảo đảm cho bị cáo thực hiện QBC của họ.
Xuất phát từ quyền con người được ghi nhận trong pháp luật. QBC của
bị cáo là một trong những qùn của cơng dân, do đó qùn này phải được
tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Mặt khác, để bảo đảm việc xác định sự thật

20


của vụ án một cách chính xác khách quan, tồn diện và đầy đủ, giúp Hội đồng
xét xử ra một bản án cơng minh, đúng pháp luật thì QBC của bị cáo càng cần
phải bảo đảm thực hiện một cách triệt để.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền bào
chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự
Quy định của pháp luật về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bao gồm: bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo
trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự bằng các quy định pháp luật
và bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự thơng qua việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể, cụ thể
như sau:
1.2.1. Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự bằng các quy định pháp luật
Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự bằng các quy định pháp luật là tổng thể các hoạt động xây dựng
và ban hành các quy phạm pháp luật, tạo ra hành lang pháp lý vững chắc để
ghi nhận, tôn trọng, tạo điều kiện tốt nhất để cho bị cáo sử dụng các quyền
bào chữa của mình trong q trình xét xử sơ thẩm. Có thể khẳng định bảo
đảm quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án

hình sự bằng pháp luật được thể hiện ở cách thức ghi nhận của pháp luật bảo
đảm quyền bào chữa của bị cáo. Về mục tiêu, pháp luật bảo đảm quyền bào
chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự phải có
những quy định cụ thể, khả thi để cho bị cáo sử dụng quyền bào chữa của
mình tại phiên tịa. Ở mỗi giai đoạn của tố tụng, bị cáo được pháp luật ghi
nhận có những quyền khác nhau trong đó có quyền bào chữa. Quyền bào chữa
của bị cáo có mối quan hệ chặt chẽ với các quyền khác trong TTHS. Pháp luật
về quyền bào chữa của bị cáo và bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ

21


thẩm vụ án hình sự được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật với
các cấp độ hiệu lực pháp lý khác nhau.
Hệ thống pháp luật hiện hành ghi nhận nhiều các quyền của bị cáo.
Việc ghi nhận quyền của bị cáo nói chung và quyền bào chữa của bị cáo tại
phiên tịa sơ thẩm hình sự nói riêng phải phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện của mỗi quốc gia nhưng phải phù hợp với tiến bộ xã hội và
pháp luật quốc tế. Pháp luật bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm phải phản ánh chính xác và kịp thời đường lối cải cách tư
pháp của Đảng và Nhà nước ta. Pháp luật tố tụng hình sự đảm bảo quyền bào
chữa của bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm góp phần phịng, chống oan sai,
ngăn chặn các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực TTHS, xâm phạm các quyền
khác của bị cáo.
Việc bảo đảm các quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm được ghi nhận trong các ngun tắc của BLHS, BLTTHS, Luật tổ chức
TAND, Luật tổ chức VKSND.BLTTHS 2015 đã quán triệt tinh thần Hiến
pháp năm 2013, ghi nhận các nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa, suy đốn
vơ tội và tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Theo tinh thần Hiến pháp
năm 2013, có thể nhận thấy một trong những vấn đề trọng tâm trong quá trình
sửa đổi, bổ sung BLTTHS 2003 là phải làm rõ được mơ hình và cơ chế tố

tụng hướng đến việc bảo đảm yêu cầu cấp bách, kịp thời, minh bạch, khách
quan của cơng cuộc phịng, chống tội phạm, đồng thời tôn trọng và bảo đảm
quyền con người, dân chủ hóa hoạt động TTHS và được ghi nhận là một trong
những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự tại Điều 16 BLTTHS năm 2015.
Với tư cách là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, nguyên tắc đảm
bảo quyền bào chữa trong tố tụng hình sự chi phối, tác động đến toàn bộ hoạt
động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Nội dung của nguyên
tắc được thể hiện cụ thể tại Điều 16 của BLTTHS năm 2015: “Người bị buộc

22


tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thơng báo, giải thích và
bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào
chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”. Theo
đó, để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm được
thực hiện thơng qua chính bị cáo hoặc nhờ người khác bào chữa, thể hiện ở
các nội dung sau:
Một là, bị cáo hoặc người bào chữa cho bị cáo có quyền đưa ra chứng
cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước tòa.
Bị cáo hoặc người bào chữa cho bị cáo có quyền đưa ra chứng cứ, tài
liệu, đồ vật nhằm chứng minh rằng mình khơng phạm tội hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự đối với bị cáo. Hội đồng xét xử phải kiểm tra, xác minh, đánh
giá các đồ vật, tài liệu mà bị cáo đưa ra để cân nhắc, đưa ra phán quyết. Đồng
thời, bị cáo có thể đưa ra những yêu cầu như triệu tập thêm người làm chứng;
đưa thêm vật chứng, tài liệu ra để xem xét; u cầu Tịa án hỗn phiên tịa khi
có căn cứ luật định; u cầu xem biên bản phiên tòa và ghi những sửa đổi, bổ
sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận. Hội đồng xét xử phải xem xét,
giải quyết các yêu cầu của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Mặt khác, để đảm bảo qùn lợi của mình, bị cáo có qùn trình bày ý
kiến đối với những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan được đưa ra tại phiên tòa
và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Quyền này
là cơ sở đảm bảo cho bị cáo có thể thể hiện chính kiến, nhận thức của mình về
những chứng cứ, tài liệu, đồ vật trong vụ án đồng thời, yêu cầu người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá những chứng cứ, tài liệu đó nhằm chỉ
ra những tình tiết có lợi cho bị cáo mà trước đó chưa được phát hiện.
Như vậy, từ việc cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ
án tại phiên tịa hình sự sơ thẩm, thường là những chứng cứ có lợi cho bị cáo

23


thì bị cáo hoặc người bào chữa cho bị cáo có cơ sở để bào chữa cho hành vi
phạm tội của mình. Do đó, việc Hội đồng xét xử xem xét, ghi nhận những
chứng cứ này là minh chứng cho việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo
được thực hiện một cách bình đẳng.
Hai là, bị cáo hoặc người bào chữa cho bị cáo có quyền đánh giá chứng
cứ, đưa ra các yêu cầu làm rõ các chứng cứ đã thu thập được và yêu cầu thu
thập thêm chứng cứ mới.
Bị cáohoặc người bào chữa cho bị cáo có quyền đưa ra chứng cứ, tài
liệu, đồ vật nhằm chứng minh rằng mình khơng phạm tội hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự đối với bị cáo. Hội đồng xét xử phải kiểm tra, xác minh, đánh
giá các đồ vật, tài liệu mà bị cáo đưa ra để cân nhắc, đưa ra phán quyết. Đồng
thời, bị cáo có thể đưa ra những yêu cầu như triệu tập thêm người làm chứng;
đưa thêm vật chứng, tài liệu ra để xem xét; yêu cầu Tịa án hỗn phiên tịa khi
có căn cứ luật định; yêu cầu xem biên bản phiên tòa và ghi những sửa đổi, bổ
sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận. Hội đồng xét xử phải xem xét,
giải quyết các yêu cầu của bị cáo theo quy định của pháp luật.
Mặt khác, để đảm bảo quyền lợi của mình, bị cáo có qùn trình bày ý

kiến đối với những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan được đưa ra tại phiên
tịa và u cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá.
Quyền này là cơ sở đảm bảo cho bị cáo có thể thể hiện chính kiến, nhận thức
của mình về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật trong vụ án đồng thời, yêu cầu
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá những chứng cứ, tài
liệu đó nhằm chỉ ra những tình tiết có lợi cho bị cáo mà trước đó chưa được
phát hiện.
Ba là, bị cáo hoặc người bào chữa cho bị cáo có qùn trình bày lời
khai, trình bày ý kiến, khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội trước tòa.

24


Đây là quyền quan trọng của bị cáo không chỉ nhằm bảo vệ qùn lợi
của mình mà cịn góp phần làm sáng tỏ vụ án. Vì đây là quyền của bị cáo nên
LTTHS quy định bị cáo không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc
khai nhận mình có tội, dù những điều này có thể chính là sự thật của vụ án. Tuy
nhiên, nếu bị cáo khai báo thành khẩn, đúng sự thật thì đó chính là yếu tố xem
xét giảm nhẹ TNHS khi Tòa án quyết định mức hình phạt đối với bị cáo. Việc
LTTHS quy định bị cáo có qùn trình bày lời khai là một trong những cơ sở để
bị cáo có thể thực hiện quyền bào chữa của mình một cách hiệu quả hơn tại
phiên tịa sơ thẩm, trong đó, bị cáo tự mình đưa ra những thơng tin, tình tiết về
vụ án có lợi cho bản thân khi được Hội đồng xét xử tiến hành xét hỏi.
Bốn là, bị cáo có quyền đề nghị chủ tọa phiên tịa hỏi hoặc tự mình hỏi
người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý.
Đây là một trong những quyền của bị cáo được quy định nhằm bảo đảm
quyền bào chữa của bị cáo, thể hiện vị thế cân bằng giữa bào chữa với buộc tội
trong q trình xét xử tại phiên tịa. Theo đó, khi cho rằng có tình tiết chưa rõ,
gây bất lợi cho mình thì bị cáo có qùn đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi những

người tham gia tố tụng khác để làm rõ hoặc phản bác lại những tình tiết đó.
Ngồi ra, bị cáo có qùn đưa ra những ý kiến, lập luận và đối đáp với
những ý kiến không thống nhất của các chủ thể khác nhằm bảo vệ quyền lợi
của mình. Đây là quyền quan trọng của bị cáo để có thể tạo ra sự cân bằng
giữa buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa xét xử vụ án. Khi đó, HĐXX sẽ đóng vai
trị trung gian, xem xét lý lẽ, lập luận của cả hai bên cùng hệ thống chứng cứ,
tài liệu đã được xem xét của vụ án để đưa ra phán quyết về vụ án một cách
khách quan, đúng đắn theo quy định của pháp luật.
Năm là, khi có căn cứ cho thấy người tiến hành tố tụng không vô tư,
khách quan trong giải quyết vụ án thì bị cáo hoặc người bào chữa cho bị cáo
có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng.

25


Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch được sử dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố và cả trong giai đoạn
xét xử ở các cấp. Pháp luật tố tụng hình sự quy định quyền này không chỉ dành
cho bị can, bị cáo mà còn cho người bào chữa cho bị cáo. Trên thực tế khả năng
bị cáo tự thực hiện được quyền này và được Hội đồng xét xử chấp nhận là rất
thấp, do đó người bào chữa cho bị cáo thực hiện việc đề nghị thay đổi người tiến
hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch thực chất là sự hỗ trợ cho bị cáo
thực hiện quyền của mình, qua đó góp phần bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.
Việc đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch sẽ góp phần đảm bảo sự vô tư, khách quan của những người này trong hoạt
động tố tụng, đảm bảo cho những quyết định có liên quan đến lợi ích của bị cáo
được chính xác, công bằng. Sự kết hợp giữa hoạt động đề nghị thay đổi người
tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch và các hoạt động khác của
bị cáo hoặc người bào chữa cho bị cáo tạo nên cơ chế hữu hiệu giúp họ thực hiện
tốt vai trò của mình trong việc bảo vệ quyền lợi của bị cáo trong đó có việc bảo

đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
Sáu là: Về sự vắng mặt của người bào chữa cho bị cáo tại phiên tịa hình
sự sơ thẩm: Đối với trường hợp bào chữa do bị cáo hoặc thân nhân nhờ bào
chữa. Người bào chữa phải có mặt tại phiên tịa hình sự sơ thẩm để bào chữa
cho bị cáo. Trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả
kháng hoặc vì lý do trở ngại khách quan thì Tịa án phải hỗn phiên tịa, trừ
trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Nếu người bào
chữa vắng mặt khơng vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách
quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tịa án vẫn
mở phiên tịa xét xử. Đối với trường hợp chỉ định người bào chữa cho bị cáo
như bị cáo là người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự mà người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hỗn phiên tịa, trừ

26


trường hợp bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt
người bào chữa
Theo quy định trên, trong trường hợp người bào chữa vắng mặt vì lý do
bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan lần đầu tiên thì Tịa án phải hỗn
phiên tịa trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử
vắng mặt người bào chữa. Đối với trường hợp bào chữa chỉ định vắng mặt thì
Hội đồng xét xử phải hỗn phiên tịa, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại
diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa.
Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáotại phiên tịa hình sự sơ thẩm địi
hỏi Hội đồng xét xử phải có trách nhiệm giải thích cho họ biết những biện
pháp do luật định và tạo mọi điều kiện để họ có thể sử dụng các quyền nêu
trên. Nếu các cơ quan tiến hành tố tụng không đảm bảo cho bị cáo thực hiện
quyền bào chữa có nghĩa là vi phạm quy định của pháp luật tố tụng hình sự và
có thể dẫn đến việc phải điều tra lại hoặc xét xử lại để khắc phục các vi phạm

đã xảy ra.
1.2.2. Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự thơng qua việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của các
chủ thể có thẩm quyền
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, quyền bào chữa có ý nghĩa vơ
cùng quan trọng đối với người bị buộc tội nói chung, bị cáo nói riêng. Thơng
qua việc thực hiện quyền bào chữa, bị cáo có thể thực hiện các hành vi tố tụng
mà pháp luật quy định cho họ nhằm loại bỏ sự nghi ngờ, phủ nhận toàn bộ
hay một phần sự buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ
hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với họ; bảo đảm qùn và lợi ích hợp
pháp của họ. Theo đó, pháp luật TTHS quy định bị cáo hoặc người bào chữa
cho bị cáo có các quyền tố tụng nhất định để có thể thực hiện quyền bào chữa
cho bị cáo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Tuy nhiên, để quyền này

27


được thực hiện hiệu quả thì khơng thể khơng kể đến trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm cho bị cáo hoặc người bào chữa
thực hiện quyền bào chữa cho bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm. Trên thực
tế, hoạt động, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng là yếu tố có ảnh
hưởng rất lớn đến hiệu quả thực hiện quyền bào chữa của bị cáo.
Do đó, các quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa, quyền nhờ người khác
bào chữa cho bị cáo nhằm bảo đảm cho quá trình xét xử bị cáo tại phiên tịa
được khách quan, tồn diện và đúng pháp luật, tránh làm oan người vơ tội có
ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Ở mỗi giai đoạn tố tụng, trách nhiệm bảo đảm
quyền bào chữa của các cơ quan tiến hành tố tụng là khác nhau. Đối với hoạt
động xét xử bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự, trách nhiệm bảo đảm quyền
bào chữa cho bị cáo thuộc về Viện kiểm sát và Tòa án.

Đối với VKS, đây là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động TTHS nói chung, xét xử vụ án nói riêng.
Khi thực hiện chức năng của mình trong giai đoạn xét xử, VKS có trách
nhiệm tạo điều kiện cần thiết để bị cáo có thể thực hiện quyền mà pháp luật
quy định cho họ, trong đó có quyền bào chữa; tạo điều kiện để người bào
chữa thực hiện việc bào chữa của họ tại phiên tịa. Sau đó ghi nhận những lời
bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm để có căn cứ luận tội và đề ra mức
hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội.
Đồng thời, VKS cịn có trách nhiệm ngăn ngừa, hạn chế và xử lý những hành
vi gây cản trở hoặc xâm hại đến quyền bào chữa của bị cáo khi tiến hành kiểm
sát quá trình xét xử sơ thẩm VAHS.
Trách nhiệm của Tòa án: Đây là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư
pháp với hoạt động có ý nghĩa quyết định đối với quá trình TTHS là xét xử.
Trong tồn bộ q trình giải quyết vụ án, phiên tịa có ý nghĩa rất quan trọng,

28


đặc biệt là phiên tòa xét xử sơ thẩm. Tại phiên tịa, tồn bộ chứng cứ, kết quả
của q trình TTHS từ giai đoạn điều tra, truy tố được đưa ra xem xét, các
bên buộc tội và gỡ tội đưa ra các ý kiến tranh tụng để trên cơ sở đó, HĐXX
đưa ra phán quyết đối với bị cáo. Trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa của
bị cáo trong quá trình xét xử tại phiên tịa chủ yếu được thực hiện thơng qua
hoạt động xét xử của Tịa án. Trong q trình này, Tịa án phải đảm bảo cho
bị cáo, người bào chữa của bị cáo có khả năng thực hiện quyền, nghĩa vụ mà
pháp luật quy định cho họ. Trong đó, trước hết phải đảm bảo cho bị cáo cho
bị cáo có mặt tại phiên tịa: “Bị cáo phải có mặt tại phiên tịa theo giấy triệu
tập của Tịa án trong suốt thời gian xét xử vụ án; nếu vắng mặt khơng vì lý do
bất khả kháng hoặc khơng do trở ngại khách quan thì bị áp giải; nếu bị cáo
vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì phải hỗn

phiên tịa.
Nếu bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo thì Hội đồng xét
xử tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh” (Khoản 1 Điều 290
BLTTHS năm 2015). Tòa án chỉ xét xử vắng mặt bị cáo khi bị cáo trốn và
việc truy nã khơng có kết quả; bị cáo đang ở nước ngồi và khơng thể triệu
tập đến phiên tòa; bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt và được Hội đồng xét xử
chấp nhận; nếu sự vắng mặt của bị cáo khơng vì lý do bất khả kháng hoặc
không do trở ngại khách quan và sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại
cho việc xét xử. Bên cạnh đó, Tịa án có nhiệm vụ giải thích quyền và nghĩa
vụ của bị cáo và bảo đảm cho họ có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó
một cách đầy đủ và hiệu quả, trong đó có quyền bào chữa.
Đối với người bào chữa, để đảm bảo quyền bào chữa cho bị cáo, nếu
người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại
khách quan thì Tịa án phải hỗn phiên tịa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét
xử vắng mặt người bào chữa. Nếu người bào chữa vắng mặt khơng vì lý do

29


bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ
lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tịa án vẫn mở phiên tịa xét xử. Trường hợp
chỉ định người bào chữa được quy định tại Điều 76 BLTTHS mà người bào
chữa vắng mặt thì HĐXX phải hỗn phiên tịa, trừ trường hợp bị cáo hoặc
người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa.
Tồ án là cơ quan đóng vai trị quyết định, trung tâm và điều khiển
phiên tồ, Tồ án phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho các bên thực hiện
quyền chứng minh của mình. Theo quy định của BLTTHS hiện hành, phiên
toà xét xử sơ thẩm chia thành những phần sau: Phần thủ tục bắt đầu phiên toà,
phần xét hỏi, phần tranh luận, phần nghị án và tuyên án. Tại phiên toà, các
chứng cứ được xem xét công khai bằng thủ tục xét hỏi; các bên tranh luận,

đưa ra quan điểm của mình về đánh giá chứng cứ được xem xét, về các điều
khoản BLHS, BLTTHS và các văn bản có liên quan khác cần áp dụng để giải
quyết vụ án và đề xuất các biện pháp cụ thể cho việc giải quyết vụ án. Trên cơ
sở phân tích, đánh giá các chứng cứ cũng như pháp luật áp dụng và kết quả
tranh tụng, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc các quan điểm, yêu cầu, đề xuất... để
ra phán quyết đúng đắn, khách quan, hợp pháp.
Như vậy, giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng
rất phức tạp, bắt đầu từ khi toà án nhận hồ sơ vụ án từ VKS, vào sổ thụ lý và
kết thúc khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Giai đoạn này không chỉ bị
quy định bởi tính phức tạp của q trình chứng minh vụ án hình sự tại phiên
tồ mà nó còn bị quy định bởi nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn xét xử là xác
định chân lý khách quan của vụ án, bao gồm: xác định có sự kiện phạm tội
hay khơng; nếu có thì ai là người thực hiện hành vi phạm tội; hành vi đó cấu
thành tội phạm nào được quy định trong bộ luật hình sự; trách nhiệm hình sự,
trách hiệm dân sự của người đã thực hiện hành vi phạm tội.Do đó, để xác định
sự thật khách quan của vụ án đòi hỏi Hội đồng xét xử tuân thủ các nguyên tắc

30


×