VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ TIẾN TRUNG
TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐINH THỊ MAI
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong Luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Tiến Trung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRANH
LUẬN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ............................. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm về tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự . 7
1.2. Mục đích, phạm vi, nội dung và chủ thể của tranh luận tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm hình sự ......................................................................................... 10
1.3. Tranh tụng và tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự ............... 12
1.4. Quy định của pháp luật về tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự.
........................................................................................................................ 16
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRANH LUẬN TẠI PHIÊN
TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC .................................................................... 23
2.1.Khái quát những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tranh luận tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm hình sự ở địa bàn thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc ....... 23
2.2.Thực trạng hoạt động tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm ở địa bàn
thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc ............................................................. 28
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ. .......... 47
3.1.Nhu cầu nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình
sự. ................................................................................................................... 47
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
hình sự ............................................................................................................ 54
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 69
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX
: Hội đồng xét xử
HSST
: Hình sự sơ thẩm
KSV
: Kiểm sát viên
PTHSST
: Phiên tòa hình sự sơ thẩm
TAND
: Tòa án nhân dân
VKS
: Viện kiểm sát
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Bảng số liệu thông kê tình hình xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án
nhân dân thành phố Vĩnh Phúc từ năm 2012 đến năm 2016…………………...30
Bảng 2.2.Số lượng và tỷ lệ % vụ án nhận được sự bào chữa của luật sư trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm từ năm 2012 đến năm 2016………..………………...35
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm (HSST) là sự biểu hiện tập trung
cao độ nhất của quá trình tranh tụng dân chủ giữa bên buộc tội và bên bào chữa,
là nội dung có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự. Tranh luận
cũng là một thủ tục bắt buộc, là phần trọng tâm của toàn bộ quá trình xét xử vụ
án hình sự, đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hành vi phạm tội của bị
cáo, tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Thông qua hoạt
động tranh luận, đối đáp được tiến hành một cách dân chủ, công khai và không
bị giới hạn về thời gian tại phiên tòa giữa các chủ thế của bên buộc tội và bên
bào chữa từ đó HĐXX có thể nhận định đúng và đầy đủ về các tình tiết khách
quan làm căn cứ để giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức và công dân.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tranh luận, tranh tụng trong
TTHS nói riêng cũng như việc cải cách tư pháp được coi là một bộ phận, một
nội dung cơ bản của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam nói chung vì thếtại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, đã
xác định:
“Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng dân sự với Luật sư, người bào chữa, và những người tham gia tố
tụng khác. Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ
yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện
các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, người làm
chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản
1
án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định.
Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá
trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân
chủ tại phiên tòa…”[12].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị “về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” tiếp tục xác định xác định một trong
những nhiệm vụ cải cách tư pháp của nước ta là “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa
xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ,
nghiêm minh; Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây
là khâu đột phá của hoạt động tư pháp…”[14].
Trước khi có Nghị quyết số 08-NQ/TW thì hoạt động thực hành quyền
công tố tại Phiên tòa HSST chỉ chủ yếu tập trung vào đọc bản cáo trạng, trình
bầy lời luận tội mà chưa chú trọng đến việc tranh luận cũng như đối đáp với bị
cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Để khác phục tình
trạng trên.BLTTHS năm 2003 đã dành hẳn một chương XXI (từ điều 217 đến
điều 221) quy định cụ thể và đầy đủ hơn về trình tự, thủ tục tranh luận tại phiên
tòa HSST. Vì vậy, hoạt động tranh luận, đối đáp tại phiên tòa nói chung và của
KSV nói riêng với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác
đã có những chuyển biến tích cực, rõ nét. Hoạt động tranh luận và đối đáp của
KSV để bác bỏ các quan điểm không có căn cứ của bị cáo, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác không chỉ góp phần làm sáng tỏ sự thật
khách quan về các tình tiết của vụ án mà còn phần nào khắc phục được tính
trạng xét xử theo kiểu “án bỏ túi” tồn tại trước đây mà dư luận xã hội đã từng
phê phán gay gắt.
Tuy nhiên, qua hơn 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003 và nhìn từ thực
tiễn xét xử các vụ án xét xử hình sự những năm gần đây đã bộc lộ một số hạn
chế nhất định, hoạt động tranh luận từ các chủ thể có quyền tranh luận vẫn còn
2
nhiều bất cập và hạn chế. Các quy định của pháp luật về trình tự thủ tục tranh
luận chưa được đảm bảo. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả
xét xử sơ thẩm về hình sự trong thời gian qua chưa cao.
Liên quan đến vấn đề tranh luận tại phiên tòa HSST đã có một số công
trình khoa học đã quan tâm nghiên cứu ở phạm vi mức độ khác nhau. Tuy nhiên,
các công trình này mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh nhất định của vấn đề
tranh luận phiên tòa HSST. Trong phạm vi luận văn tốt nghiệp, học viên chọn
nghiên cứu vấn đề này và khảo sát từ thực tiễn thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc, với đề tài “Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn
thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, đề tài tranh luận trong TTHS được rất nhiều
sự quan tâm của nhiều tác giả am hiểu về lĩnh vực TTHS nói chung và tranh
luận tại phiên tòa HSST nói riêng. Vấn đề tranh tụng, tranh luận trong TTHS là
một định hướng lớn trong chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta
đến năm 2020. Nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học pháp lý và cán bộ thực tiễn
quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau và đã có
nhiều bài viết liên quan đến nội dung này, như cuấn sách “Tranh luận tại phiên
tòa sơ thẩm” của Tiến sỹ Dương Thanh Biểu (nguyên Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao), NXB Tư pháp, năm 2007; “Vấn đề tranh tụng trong
Tố tụng hình sự” của Nguyễn Đức Mai(1996); Luận văn thạc sỹ luật học “Thủ
tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” của Nguyễn Hải Ninh,
năm 2003; Luận văn thạc sỹ luật học “Chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên
trong tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” của Hà Minh Hải, năm 2007;
Luận văn thạc sỹ luật học “Tranh tụng tại phiên tòa theo PLTTHS Việt
Nam” của Bùi Thị Hà, năm 2010; Luận văn thạc sỹ luật học “Thủ tục xét hỏi và
tranh luận tại phiên tòa hình sự” của tác giả Lê Thị Hồng Minh; Luận văn thạc
3
sỹ luật học “ xét hỏi, tranh luận và vấn đề nâng cao tính tranh tụng của phiên
tòa hình sự sơ thẩm” của tác giả Lê Đức Thọ…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu và bài viết trên đã đề cập đến rất
nhiều nội dung xung quanh vấn đề tranh luận , tranh tụng trong TTHS Việt Nam và
những bài viết, công trình nghiên cứu trên đây là những tài liệu quý giá, giúp cho
tác giả luận văn có được các ý tưởng khoa học để xây dựng và hoàn thiện đề tài
này. Tuy nhiên, vẫn chưa có tài liệu, công trình nào đi xâu nghiên cứu, đánh giá về
mặt thực tiễn tại thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc để chỉ ra các nguyên nhân,
những tồn tài, vướng mắc và những bất cập gặp phải tại địa phương.
Ngày 27/11/2015, Bộ luật TTHS năm 2015 đã được Quốc hội thông qua
(đang tạm hoãn thi hành), đã có những bổ sung, sửa đổi tiến bộ, mở rộng nguyên
tắc và quy định về trạnh tụng trong TTHS, cũng như hoạt động tranh luận tại
phiên tòa. Tuy nhiên, việc kế thừa, tiếp tục nguyên cứu có hệ thông, toàn diện ,
đầy đủ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tranh luận tại các phiên tòa HSST,
qua đó đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật TTHS và nâng cao chất
lượng tranh luận vẫn là nhiệm vụ cần thiết của khoa học luật TTHS. Vì vậy, việc
đi sâu nghiên cứu về tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn
thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt lý
luận cũng như thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về tranh luận tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự, thực trạng và những bất cập trọng tranh luận tại phiên tòa sơ
thẩm hình sự tại thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc để từ đó đề xuất đưa ra các
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cũng như hoàn thiện các quy định về tranh
luận tại phiên tòa HSST ở địa bản thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
4
- Nghiên cứu phân tích một số vấn đề lý luận về tranh luận tại phiên tòa
HSST theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam như khái niệm, đặc điểm, phạm
vi, nội dung, chức năng và vai trò của các chủ thể cũng như các yếu tố khác ảnh
hưởng đến chất lượng tranh luận tại phiên tòa HSST;
- Nghiên cứu phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về tranh luận
tại phiên tòa HSST;
- Nghiên cứu phân tích thực trạng tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
hình sự trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên, chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong
thực tiễn;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hiện
hành về tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự cũng như nâng cao chất
lượng tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung nghiên
cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề sau:
- Một số vấn đề lý luận về tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự;
- Quy định của pháp luật hiện hành về tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm hình sự;
- Thực trạng hoạt động tranh luận tại các phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự
những năm gần đây và những bất cập, vướng mắc;
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tranh luận tại phiên tòa xét xử
sơ thẩm hình sự, số liệu thực tiễn nghiên cứu trường hợp tại thành phố Vĩnh
Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, từ đó đưa ra giải pháp để nâng cao chất lượng tranh luận
tại phiên tòa sơ thẩm hình sự.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2011 đến năm 2016.
5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về cải cách tư pháp trong thời kỳ mới. Luận
văn sử dụng các phương pháp cụ thể để làm rõ những nội dung cần nghiên cứu
như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài góp phần bổ sung và hoàn thiện vấn đề lý luận về tranh luận tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm hình sự. Trên cơ sở đó tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp
luật về TTHS đối với thủ tục tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự;
giúp cho những nhà thực thi pháp luật có cái nhìn toàn diện hơn và đầy đủ hơn
về hoạt động này, từ đó nâng cao chất lượng tranh luận, giúp cho việc giải quyết
vụ án đạt hiệu quả cao nhất.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, với cơ cấu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp luật về tranh luận tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm hình sự.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
hình sự từ thực tiễn thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm hình sự.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRANH LUẬN
TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm về tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự
Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm hình sự và chưa có một khái niệm thống nhất nào.
Trước tiên chúng ta cùng tìm hiểu khái niệm về tranh luận. Theo từ điển
tiếng Việt, tranh luận được hiểu là “ Bàn cãi để tìm ra lẽ phải”[23,tr.1024]. Như
vậy từ khái niệm này, chúng ta có thể hiểu trang luận chính là sự bàn cãi, đưa ra
lý lẽ giữa các bên về một vấn đề nào đó. Từ đó, các bên bảo vệ ý kiến, quan
điểm của mình về vấn đề được tranh luận. Ở đây, việc tranh luận có thể diễn ra ở
bất cứ nơi đâu, giữa bất kỳ chủ thể nào, và về bất kỳ vấn đề gì, mà các bên cảm
thấy cần tranh luận, bàn cãi để bảo vệ quan điểm cá nhân, để tìm ra lẽ phải.
Đó là về tranh luận nói chung, còn tranh luận trong TTHS được tiến hành
theo trình tự quy định của pháp luật. Trong đó chủ thể, phạm vi, nội dung tranh
luận được pháp luật quy định cụ thể. Trước khi có được một khái niệm tổng quát
về tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự, chúng ta cần tìm hiểu khái
niệm “ phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự”.
Theo ngôn ngữ pháp lý thì phiên tòa chính là “ hình thức hoạt động xét xử
của Tòa án” [19, tr.620]. Đây là một hình thức xét xử mang tính đặc thù, được
tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Vậy phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự là như thế nào? Theo Bộ luật TTHS
hiện hành thì phiên tòa hình sự được phân thành bốn loại: phiên tòa sơ thẩm,
phiên tòa phúc thẩm, phiên tòa giám đốc thẩm và phiên tòa tái thẩm. Trong đó ,
phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm là hai cấp xét xử của tòa án, còn phiên tòa giám
đốc thẩm và tái thẩm là trình tự thủ tục đặc biệt trong TTHS.Phiên tòa xét xử sơ
thẩm hình sự là cấp xét xử thứ nhất và là trung tâm của quá trình tố tụng. Từ
7
những vấn đề đã được nêu trên ta tìm hiểu khái niệm về tranh luận tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm hình sự là như thế nào ?
Có quan điểm cho rằng Tranh luận tại phiên tòa là “ Hoạt động của
những người tham gia tố tụng(các bên ) tại phiên tòa, trong việc trao đổi, bàn
cãi các ý kiến về vụ án”[21, tr.807].
Theo tài liệu tập huấn của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về kỹ năng, đối
đáp, tranh luận của Kiểm sát viên… có đưa ra khái niệm: “ Tranh luận của Kiểm
sát viên tại phiên tòa sơ thẩm về hình sự là sự trả lời, sự bàn cãi giữa Kiểm sát
viên với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác nhằm
làm rõ sự thật khách quan về mọi tình tiết buộc tội, tăng nặng, giảm nhẹ của vụ
án, giúp cho HĐXX ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật”[42,tr.4]. Còn theo tiến sỹ Dương Thanh Biểu thì “ Tranh luận là việc các
bên (Kiểm sát viên, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác) đưa ra quan
điểm về giải quyết vụ án, nhằm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Hay nói cách
khác, tranh luận không chỉ là “được thua” mà cái quan trọng là thông qua nó
để làm rõ sự thật, làm rõ các tình tiết của vụ án”[1, tr.258].
Phân tích thêm về các chủ thể tham gia tranh luận, để được HĐXX đồng
ý với quan điểm của mình, các bên tham gia tranh luận phải đưa ra những lý lẽ,
những ý kiến, những dẫn chứng cụ thể để bảo vệ quan điểm của mình và phản
bác lại quan điểm của bên đối lập, để từ đó thuyết phục được HĐXX chấp nhận
quan điểm của mình, Căn cư vào mục đích, vai trò, địa vị pháp lý của các chủ
thể tham gia tranh luận, chúng ta có thể chia ra thành các nhóm chủ thể sau:
Thứ nhất là các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội, bao gồm: Kiểm sát
viên, người bị hại và người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của
người bị hại, nguyên đơn dân sự.
Thứ hai là các chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội, bao gồm: Bị cáo,
người gỡ tội(người bào chữa), bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của bị
cáo và bị đơn dân sự.
8
Thứ ba là đối với chủ thể thực hiện chức năng xét xử là HĐXX – gồm
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thì không thực hiện việc tranh luận mà chỉ xét
hỏi và ngồi nghe lời trình bầy của các bên cùng với những chứng cứ khác để đưa
ra phán quyết cuối cùng.
Từ những phân tích, khái quát trên có thể đưa ra khái niệm về tranh luận
tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự như sau: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm hình sự là một thủ tục tố tụng bắt buộc, được quy định trong Bộ luật TTHS
Việt Nam;Trong đó các chủ thể tham gia tranh luận đưa ra các quan điểm, lập
luận và lý lẽ của mình về việc đánh giá các chứng cứ cũng như tự đưa ra những
chứng cứ của riêng mình để đề nghị HĐXX chấp nhận quan điểm của mình và
bác bỏ quan điểm của bên đối lập về việc giải quyết vụ án giúp cho HĐXX ra
bản án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hoạt động tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự được bắt đầu bằng
việc Kiểm sát viên trình bầy lời luận tội và kết thúc trước khi bị cáo trình bầy lời
nói sau cùng.
Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự không chỉ thể hiện
tính minh bạch, công khai và dân chủ của tố tụng hình sự mà còn thể hiện bản chất
dân chủ của Nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân. Việc tranh luận, đối đáp
của KSV với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác sẽ làm
cho phiên tòa khách quan, sống động hơn nhằm nâng cao uy tín của Tòa án, Viện
Kiểm sát cũng như củng cố niềm tin của nhân dân vào công lý.
Thứ hai, Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự không phải là hoạt
động tố tụng không có giới hạn về phạm vi tranh luận. Phạm vi tranh luận tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được giới hạn về mặt không gia và thời gian. Về
mặt không gian, hoạt động tranh luận của các chủ thể tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự chỉ được thực hiện tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đó. Về
9
mặt thời gian thì thủ tục tranh luận được bắt đầu ngay sau khi Chủ tọa phiên tòa
tuyên bố kết thúc phần xét hỏi tiếp đến KSV trình bầy lời luận tội.
Thứ ba, Cũng như hoạt động tố tụng khác, tranh luận tại phiên tòa xét xử
sơ thẩm hình sự có nội dung nhất định theo quy định của pháp luật TTHS. Nội
dung tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự bao gồm toàn bộ các quan
điểm, lập luận về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án hình sự mà các chủ thể
của bên buộc tội và bên gỡ tội đưa ra tại phiên tòa đề nghi HĐXX chấp nhận
hoặc bác bỏ khi ra phán quyết về vụ án. Nội dung tranh luận của các chủ thể tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự cũng xoay quanh các vấn đề cần chứng minh
trong vụ án.
1.2. Mục đích, phạm vi, nội dung và chủ thể của tranh luận tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm hình sự
Mục đích
Mục đích của tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự là nhằm để
tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa,
trên cơ sở các chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa và các quy
định của pháp luật, các chủ thể thuộc bên buộc tội và bên gỡ tội đưa ra quan
điểm, lập luận của mình về các tình tiết khách quan và hướng giải quyết vụ án
nhằm thuyết phục HĐXX chấp nhận quan điểm của mình và bác bỏ quan điểm
của phía đối lập.
Như vậy có thể thấy rằng tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự
có ý nghĩa và vai trò rất lớn đối với quá trình xét xử vụ án thể hiện ở một số
điểm sau đây:
- Tranh luận tại phiên tòa không chỉ thể hiện tính minh bạch, công khai và
dân chủ của tố tụng hình sự mà còn thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước
XHCN của dân, do dân và vì dân.
- Việc tranh luận, đối đáp của KSV với bị cáo, người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác sẽ làm cho phiên tòa khách quan, sống động hơn
10
góp phần xóa bỏ tình trạng xét xử theo kiểu “án bỏ túi” đã tồn tại trước đây mà
dư luận xã hội đã từng lên án đồng thời nâng cao uy tín của Tòa án, Viện Kiểm
sát cũng như củng cố niềm tin của nhân dân vào công lý.
Phạm vi
Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự là hoạt động tố tụng có giới
hạn về phạm vi tranh luận. Phạm vi tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình
sự được giới hạn về mặt không gia và thời gian. Về mặt không gian, hoạt động
tranh luận của các chủ thể tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự chỉ được thực
hiện tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đó. Về mặt thời gian thì thủ tục
tranh luận được bắt đầu ngay sau khi Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần
xét hỏi tiếp đến KSV trình bày lời luận tội.
Nội dung
Cũng như hoạt động tố tụng khác, tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
hình sự có nội dung nhất định theo quy định của pháp luật TTHS. Nội dung tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự bao gồm toàn bộ quan điểm, lập luận về các
vấn đề cần thiết cho việc giải quyết vụ án mà các bên chủ thể đưa ra, để đề nghị
HĐXX chấp nhận hoặc bác bỏ khi ra phán quyết về vụ án. Tùy thuộc vào tính
chất xét xử các vụ án hình sự (sơ thẩm, phúc thẩm) mà nội dung tranh luận có
thể khác nhau. Tóm lại, nội dung mà các chủ thể tranh luận với nhau là những
vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự.
Chủ thể
Về phía các chủ thể tham gia tranh luận, để được HĐXX đồng ý với quan
điểm của mình, các bên tham gia tranh luận phải đưa ra những lý lẽ, những ý
kiến, những dẫn chứng cụ thể để bảo vệ quan điểm của mình và phản bác lại
quan điểm của bên đối lập, để từ đó thuyết phục được HĐXX chấp nhận quan
điểm của mình, Căn cư vào mục đích, vai trò, địa vị pháp lý của các chủ thể
tham gia tranh luận, chúng ta có thể chia ra thành các nhóm chủ thể sau:
11
Thứ nhất là các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội, bao gồm: Kiểm sát
viên, người bị hại và người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của
người bị hại, nguyên đơn dân sự.
Thứ hai là các chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội, bao gồm: Bị cáo, người
gỡ tội(người bào chữa), bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của bị cáo và
bị đơn dân sự.
Thứ ba là đối với chủ thể thực hiện chức năng xét xử là HĐXX – gồm
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thì không thực hiện việc tranh luận mà chỉ xét
hỏi và ngồi nghe lời trình bầy của các bên cùng với những chứng cứ khác để đưa
ra phán quyết cuối cùng.
1.3. Tranh tụng và tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự
Trong thời gian gần đây, khái niệm “tranh tụng” được nhắc đến nhiều sau
khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp đến năm 2020. Trong đó đã xác định:
“Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột
phá của hoạt động tư pháp”. Tuy đây là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng khá
phổ biến trong khoa học pháp lý. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp lý nói
chung và trong cả Bộ luật TTHS 2003 nói riêng đều không đề cập gì đến thuật
ngữ này. Vì vậy trong khoa học luật TTHS có rất nhiều quan điểm và nhận thức
khác nhau về các khái niệm “tranh luận” và “tranh tụng” tại phiên tòa. Từ những
quan điểm và nhận thức khác nhau đó có thể phân các quan điểm này thành ba
nhóm cơ bản như sau:
- Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng: “Tranh tụng là qua trình tranh luận,
trao đổi giữa các bên. Trong tranh tụng các quan điểm pháp lý khác nhau được
cọ xát và chân lý khách quan xuất hiện” [17,tr.126]. Hay “Tranh tụng là hoạt
động của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng tại
phiên tòa, tham gia vào việc làm rõ sự thật của vụ án và cơ sở áp dụng pháp
luật, làm căn cứ để HĐXX xem xét, quyết định”[42,tr.6].
12
Nhìn chung, theo các quan điểm trên thì “tranh tụng” và “tranh luận” có thể
là một, nó diễn ra giữa các chủ thể đối lập với nhau. Qua tranh luận, chân lý và
sự thật khách quan trong vụ án hình sự sẽ được làm sáng tỏ, làm cơ sở cho Tòa
án ra phán quyết về vụ án.
- Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng: “Tranh luận là một thủ tục – một
phần độc lập của phiên tòa sơ thẩm…Thủ tục tranh luận thể hiện rõ nét nhất,
tập trung nhất nội dung của nguyên tắc tranh tụng. Tranh luận có nội hàm hẹp
hơn tranh tụng, là một phần của tranh tụng” [28,tr.10].
Còn theo quan điểm của Tiến sỹ Dương Thanh Biểu: “ Tranh tụng là hoạt
động của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng tại
phiên tòa, tham gia vào việc làm rõ sự thật của vụ án và cơ sở áp dụng pháp
luật, làm căn cứ để HĐXX xem xét, quyết định”[3,tr.2].
Như vậy theo quan điểm này thì tranh tụng không chỉ là tranh luận tại
phiên tòa, mà tranh tụng còn cả ở các phần khác(xét hỏi, nghị án), tranh luận chỉ
là một phần của tranh tụng. Tranh luận công khai tại phiên tòa thể hiện một cách
tập trung và rõ nét nhất quá trình tranh tụng.
- Nhóm quan điểm thứ ba, đây là nhóm quan điểm đã được “từ điển hóa”,
cho rằng: Tranh tụng có nghĩa là: “Sự kiện cáo nhau giữa haibên (bên nguyên
và bên bị) có lập trường tương phản yêu cầu Tòa án phân xử” [23,tr.1288].
Hay “Tranh tụng là các hoạt động tố tụng được thực hiên bởi các bên tham
gia tố tụng (bên buộc tội và bên vị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong
việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ quan điểm và lợi ích của mình, phản
bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập. Tranh tụng tại phiên tòa là
những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham
gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận
điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò
trung gian, trọng tài”.[22,tr.807,808].
13
Quan điểm của tác giả Nguyễn Thái Phúc trong cuấn Dự thảo Bộ luật
TTHS (sửa đổi): “Tranh tụng là quá trình tồn tại, vận động và đấu tranh giữa
hai chức năng đối trọng nhau, có quyền ngang nhau trong việc bảo vệ ý kiến,
lập luận, lợi ích của phía bên kia: chức năng buộc tội và chức năng bào chữa”
[28,tr.7].
Có thể xem đây là quan điểm đúng nhất, đầy đủ nhất về tranh tụng. Theo
đó, quá trình tranh tụng không chỉ là tranh luận tại phiên tòa, nó được tiến hành
trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Và tại phiên tòa, tranh tụng được đặc
chưng bằng hoạt động tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Ngoài ra, tranh
tụng tại phiên tòa không chỉ thể hiện ở tranh luận, mà tranh tụng đã có từ khi
khai mạc phiên tòa cho đến khi kết thúc phiên tòa.
Còn đối với khái niệm “tranh luận” cũng đã được quy định trong BLTTHS
2015, theo đó có thể hiểu tranh luận là: “Một thủ tục độc lập của Phiên tòa xét
xử sơ thẩm hình sự, trong đó các bên buộc tội và bào chữa thông qua trình bầy
bằng lời nói của mình tổng hợp và đánh giá kết quả của phần xét hỏi, phân tích
đánh giá các chứng cứ của vụ án, đưa ra những đánh giá chính trị-xã hội và
đánh giá pháp lý đối với hành vi bị truy tố của bị cáo, đề nghị hình phạt, mức
hình phạt cùng những vấn đề liên quan mà Tòa án phải giải quyết khi nghị
án”[28,tr.18].
Từ những phân tích trên ta có thể khẳng định rằng hai khái niệm “tranh
tụng” và “tranh luận” tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự là các khái niệm
không đồng nhất nhưng giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, trong đó
“tranh tụng tại phiên tòa” là cái chung (tổng thể) và “tranh luận tại phiên tòa” là
cái riêng (bộ phận cấu thành). Vì vậy, khái niệm “tranh tụng tại phiên tòa” có
nội hàm rộng hơn bao gồm không chỉ phần tranh luận mà cả các phần khác (thủ
tục phiên tòa, xét hỏi, nghị án và tuyên án) của quá trình xét xử vụ án hình sự
còn “tranh luận tại phiên tòa” chỉ là một bộ phận cấu thành của tranh tụng và là
sự thể hiện một cách tập trung, rõ nét nhất của quá trình tranh tụng. Sự khác
14
nhau giữa hai khái niệm này được thể hiện ở ba tiêu chí: về phạm vi (giới hạn),
về chủ thể và về nội dung.
- Về phạm vi: Tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự được bắt
đầu từ thời điểm khai mạc phiên tòa và kết thúc sau khi HĐXX công bố phán
quyết về vụ án. Còn tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự được bắt đầu
bằng lời luận tội hoặc phát biểu của KSV về quan điểm giải quyết vụ án và kết
thúc trước khi bị cáo nói lời sau cùng.
- Về chủ thể: Chủ thể tranh tụng trong TTHS rất đa dạng, có thể phân
thành các nhóm chủ thể chính sau:
+ Chủ thể thực hiện chức năng trọng tài (xét xử) là Tòa án: Bao gồm Thẩm
phán, Hội thẩm.
+ Các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội, bao gồm: Thủ trưởng cơ quan
điều tra, điều tra viên; Viện kiểm sát (KSV); người bị hại; nguyên đơn dân sự và
người đại diện của người bị hại.
+ Các chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội, bao gồm: Luật sư; Người bị tình
nghi (người bị tạm giữ); bị can; bị cáo; người đại diện hợp pháp của bị can, bị
cáo chưa thành niên; bị đơn dân sự và người bào chữa cho bị đơn dân sự.
+ Cùng các chủ thể khác, bao gồm: người làm chứng; người giám định;
người định giá; nhà chuyên môn; người phiên dịch; người chứng kiến.
“Nhưng có một số quan điểm khoa học thì cho rằng chủ thể Tranh tụng chỉ
có chủ thể của bên buộc tội và chủ thể của bên gỡ tội và theo tác giả thì quan
điểm này giống với chủ thể tham gia vào quá trình tranh luận cũng như không
thể phân biệt được về tiêu chí chủ thể giữa Tranh tụng và Tranh luận”.
So với các chủ thể tham gia tranh tụng, phạm vi các chủ thể tham gia vào
quá trình tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự hẹp hơn: chỉ bảo gồm
chủ thể của bên buộc tội và chủ thể của bên gỡ tội dưới sự điều khiển của Chủ
tọa phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa và Hội thẩm (HĐXX) không tham gia vào quá
trình tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự.
15
- Về nội dung: Nội dung tranh tụng tại Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự
bao gồm tất cả các vấn đề khác nhau cần giải quyết trong toàn bộ quá trình xét
xử vụ án (từ khi khai mạc đến khi kết thúc phiên tòa) như: đưa ra chứng cứ mới
bằng cách yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, đưa ra vật chứng hoặc tài
liệu mới, thay đổi thành viên HĐXX, KSV, Thư ký Tòa án, người giám định,
người phiên dịch, xem xét giải quyết việc hoãn phiên tòa…(ở phần thủ tục phiên
tòa); HĐXX và các bên tham gia vào điều tra quá trình công khai (xét hỏi) nhằm
kiểm tra xác minh các chứng cứ và các tình tiết về vụ án dưới sự điều khiển của
chủ tọa phiên tòa (ở phần xét hỏi); các bên đưa ra quan điểm, lập luận của mình
về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án (về đánh giá chứng cứ, về tội danh, các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về áp dụng pháp luật, hình
phạt đối với bị cáo, về phần dân sự, về xử lý vật chứng…) đề nghị HĐXX chấp
nhận hay bác bỏ khi ra phán quyết về vụ án (ở phần tranh luận); Các thành viên
HĐXX thảo luận về từng vấn đề cần giải quyết trong vụ án, chấp nhận hay bác
bỏ đề nghị cụ thể của các bên và ra phán quyết về vụ án theo quyết định đa số (ở
phần nghị án).
So với tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự có nội
dung hẹp hơn rất nhiều và chỉ bao gồm các vấn đề mà các bên tranh luận, đối
đáp với nhau ở phần tranh luận: quan điểm, lập luận về các vấn đề cần giải quyết
trong vụ án (về đánh giá chứng cư, về tội danh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, về áp dụng pháp luật, hình phạt đối với bị cáo, về phần dân
sự, về xử lý vật chứng…) mà các bên đưa ra đề nghị HĐXX chấp nhận hay bác
bỏ khi ra phán quyết về vụ án.
1.4. Quy định của pháp luật về tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự
Từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến khi ban hành Bộ luật TTHS
Việt Nam đầu tiên (năm 1988), các trình tự thủ tục và hoạt động tranh luận được
quy định rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau do Nhà nước ban hành
như: Tại Điều 5 sắc lệnh số 33/SL ngày 13/09/1945 về thiết lập Tòa án quân sự
16
quy định: “Ngồi xử có Chánh án và 2 Hội Thẩm…đứng buộc tội là 1 ủy viên
quân sự hay 1 ủy viên khác của các ban trinh sát. Bị cáo có thể tự bào chữa
hoặc nhờ một người khác bênh vực cho”[4]; Hay tại Điều 2 Sắc lệnh số 7 ngày
15/01/1946 bổ khuyết Sắc lệnh ngày 13/09/1945 như sau: “Đứng buộc tội tùy
quyết định của Bộ trưởng Bộ tư pháp sẽ là một Ủy viên quân sự hay một Ủy viên
của Ban trinh sát hoặc một nhân viên của Công tố viện do ông Trưởng lý Tòa
thượng thẩm chỉ định”[5]; Còn theo Điều 41 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về
tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm phán (sửa đổi Sắc lệnh số 85/SL ngày
22/05/1950):”Sau khi nghe các bị can, các người làm chứng, các cáo trạng của
ông Công tố viên, và sau cùng, nghe lời cãi của các bị can, ông Chánh án Tòa
án nhân dân Phúc thẩm khu hoặc thành phố và các ông Hội thẩm chuyên môn,
Hội thẩm nhân dân lui vào phòng nghị sự để cùng quyết định về tất cả các vấn
đề thuộc về tội trạng, hình phạt, trường hợp tăng tội và trường hợp giảm tội…”.
Ngoài ra, Sắc lệnh còn quy định khá rõ trách nhiệm của Thẩm phán khi làm
nhiệm vụ xét xử tại tòa: “Các Thẩm phán làm đầy đủ bổn phận, dự đều các
phiên tòa, xét xử thật nhanh tróng và thật công minh”[6].
Trong Sắc lệnh số 51/ST ngày 17/04/1946 về ấn định thẩm quyền các Tòa
án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án cũng có quy định thể hiện
nội dung thủ tục tranh luận tại phiên tòa thời kỳ đó. Tại điều 26 sắc lệnh này quy
định: “Ông Công tố viên Tòa án nhân dân tỉnh hoặc thành phố bắt buộc phải có
mặt tại các phiên tòa hình và hộ. Khi ra phiên tòa, ông Công tố viên cũng như
bên bị cùng bên dân sự nguyên cáo, có quyền yêu cầu Tòa thi hành mọi phương
sách cần thiết để chứng tỏ sự thật. Khi cuộc thẩm vấn ở phiên tòa xong rồi, ông
Công tố ủy viên thay mặt xã hội buộc tội bị can. Bao giờ ông Công tố ủy viên
cũng nói sau dân sự nguyên cáo. Bên bị can được nói sau cùng, trước khi tòa
tuyên án. Tòa không bắt buộc phải xử theo lời yêu cầu của ông Công tố ủy
viên”[7]. Thủ tục tại phiên tòa còn được quy định trong Sắc lệnh số 190 ngày
01/10/1946 quy định về thẩm quyền truy tố của Tòa án; Sắc lệnh số 163 ngày
17
23/08/1946 về tổ chức Tòa án binh lâm thời; Sắc lệnh số 19 ngày 16/02/1947
quy định về tổ chức Tòa án Binh trên toàn cõi Việt Nam…
Nhìn chung, các quy phạm tố tụng trong thời kỳ này chủ yếu điều chỉnh về
quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan, vị trí của các chủ thể tiến hành tố tụng
tại phiên tòa, các quy định của pháp luật trong việc tiến hành và tổ chức các
phiên tòa…, còn quy định về thủ tục tranh luận tại phiên tòa thì chỉ mang tính
tượng trưng và chưa rõ nét.
Đến đầu những năm 1960, sau khi Hiến pháp 1959 ra đời, cùng với đó là
sự ra đời của Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 14/07/1960 đã quy định cụ thể
về chức năng và nhiệm vụ của Tòa án trong TTHS. Cụ thể như sau:
Tại Điều 1, Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1960 quy định: “Các Tòa
án nhân dân là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tòa án nhân dân xét xử những vụ án hình sự và dân sự để trừng trị những kẻ
phạm tội và giải quyết những việc tranh chấp về dân sự trong nhân dân. Mục
đích của việc xét xử là bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, trật tự xã hội, tài sản
công cộng và quyền lợi hợp pháp của nhân dân, góp phần bảo đảm cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh nhằm thực
hiện thông nhất nước nhà được tiến hành thắng lợi. Trong mọi hoạt động của
của mình, Tòa án nhân dân giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, với chế
độ dân chủ nhân dân, tôn trọng tài sản công cộng, tự giác tuân theo pháp luật,
kỷ luật lao động và quy tắc sinh hoạt xã hội. Tòa án nhân dân xử phạt về hình
sự không những chỉ trừng trị phạm nhân mà còn nhằm giáo dục và cải tạo họ;
Các Tòa án nhân dân gồm có Tòa án nhân dân Tối cao, các Tòa án nhân dân
địa phương và các Tòa án quân sự”[32].
Theo những quy định trên đã xác định, Tòa án các cấp là cơ quan xét xử
duy nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Còn tại điều 7 Luật tổ chức Tòa án năm 1981 có quy định: “Quyền bào
chữa của bị cáo được đảm bảo. Ngoài việc tự bào chữa ra, bị cáo có thể nhờ
18
Luật sư bào chữa cho mình. Bị cáo cũng có thể nhờ người công dân được đoàn
thể nhân dân giới thiệu hoặc được Tòa án nhân dân chấp nhận bào chữa cho
mình. Khi cần thiết, Tòa án nhân dân chỉ định người bào chữa cho bị cáo”[32].
Có thể thấy pháp luật nước ta thời kỳ này đã quan tâm đến quyền bào chữa của
bị cáo, nó được xem là một quyền đối trọng với quyền buộc tội của Viện kiểm
sát. Đây là những quy định làm cơ sở cho hoạt động tranh luận tại phiên tòa
HSST sau này. Trong khi đó Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 quy
định, Viện kiểm sát nhân dân được thành lập một hệ thông độc lập (thay thế
Viện công tố trước đây) để thực hiện chức năng buộc tội (truy tố và thực hành
quyền công tố).
Đến năm 1988, Bộ luật TTHS đầu tiên của nước ta ra đời và đã quy định
tương đối đầy đủ và cụ thể trình tự, thủ tục tranh luận tại phiên tòa. Tuy nhiên
sau gần 15 năm thực hiện và cũng đã được sửa đổi bổ sung 3 lần vào các năm
1990, 1992 và 2000 nhưng các quy định của Bộ luật TTHS năm 1988 nói chung
và các quy định liên quan đến tranh luận tại phiên tòa nói riêng đã bộc lộ nhiều
bất cập, hạn chế không đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp của nước ta trong
thời kỳ mới. Đến lần sửa đổi năm2003, BLTTHS năm 2003 đã dành hẳn một
chương XXI (từ điều 217 đến điều 221) quy định cụ thể và đầy đủ hơn về trình
tự, thủ tục tranh luận tại phiên tòa HSST. Vì vậy, hoạt động tranh luận, đối đáp
tại phiên tòa nói chung và của KSV nói riêng với bị cáo, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác đã có những chuyển biến tích cực, rõ nét.
1.4.1 Các quy định trong BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015(đang
tạm hoãn) liên quan đến tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự
Các qui định trong BLTTHS 2003 liên quan đến tranh luận tại phiên tòa
HSST bao gồm một số qui định mang tính nguyên tắc của TTHS, một số qui
định chung và các qui định cụ thể tại chương XXI (điều 217 – 221).
- Đối với những qui định mang tính nguyên tắc bảo đảm việc tranh luận tại
phiên tòa HSST, các nguyên tắc đó bao gồm: Bảo đảm quyền bình đẳng trước
19
Tòa án (Điều 19 BLTTHS); Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo (Điều 11 BLTTHS); Xác định sự thật của Tòa án (Điều 10
BLTTHS); Suy đoán vô tội (Điều 9 BLTTHS). Ngoài ra, các nguyên tắc khác
của TTHS (như: Bảo đảm pháp chế XHCN; Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ
bản của công dân; Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTHS;…) cũng chi phối ở phạm vi và mức độ nhất định đến quá trình xét
xử vụ án nói chung và tranh luận tại phiên tòa HSST nói riêng.
- Một số qui định chung liên quan đến việc tranh luận tại phiên tòa HSST,
các qui định này bao gồm các qui định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
tham gia tranh luận tại phiên tòa hình sự, cụ thể là những điều sau:
Điều 37 BLTTHS qui định về quyền hạn và trách nhiệm của KSV tham gia
phiên tòa…; Điều 39 và 40 qui định về quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm
phán và Hội thẩm tham gia xét xử các vụ án hình sự, tiến hành các hoạt động tố
tụng thuộc thẩm quyền của HĐXX; Các điều 50 - 54, 58 và 59 BLTTHS qui
định về quyền của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, hoặc người đại diện; Các điều 63 –
78 BLTTHS (Chứng cứ và chứng minh); Điều 98 và Điều 99 BLTTHS (án phí
và trách nhiệm án phí).
- Các qui định cụ thể tại chương XXI BLTTHS (qui định tại các điều 217 –
221), cụ thể như sau: Điều 217. Trình tự phát biểu khi tranh luận: “ 1.Sau khi kết
thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết
tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận với tội
nhẹ hơn; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố
và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội…
…,Nếu có người bảo vệ quyền lợi cho họ thì người này có quyền trình bày,
bổ sung ý kiến”; Điều 218. Đối Đáp: “Bị cáo, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của Viện kiểm sát và
đưa ra đề nghị của mình;…Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên
20