Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường gây ra thực trạng và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.31 KB, 86 trang )

Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
---

-------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO Ơ NHIỄM
MƠI TRƢỜNG, SUY THỐI MƠI TRƢỜNG
GÂY RA – THỰC TRẠNG VÀ HƢỚNG
HỒN THIỆN

SINH VIÊN THỰC HIỆN
KHỐ:

31

: LÊ THỊ HỒNG GẤM

- MSSV : 3120032

GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: Th.s VÕ

TRUNG TÍN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2010
Trang 1



Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng mình.
Các thông tin được nêu trong khoá luận này là hoàn toàn trung thực.
Những trích dẫn được tác giả sử dụng trong bài viết đều được chú
thích đầy đủ và chính xác./.
TÁC GIẢ KHOÁ LUẬN

LÊ THỊ HỒNG GẤM

Trang 2


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
--------- BLDS 2005
 BLTTDS 2004
 BTTH
 BVMT
 Luaät BVMT 2005
 ONMT
 STMT
 TAND
 TANDTC
 TN – MT
 UBND


: Bộ luật Dân sự 2005
: Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004
: Bồi thường thiệt hại
: Bảo vệ môi trường
: Luật Bảo vệ môi trường 2005
: Ô nhiễm môi trường
: Suy thoái môi trường
: Toà án nhân dân
: Toà án nhân dân tối cao
: Tài nguyên – Môi trường
: Uỷ ban nhân dân

Trang 3


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

MỤC LỤC
---------Trang
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
DO Ơ NHIỄM MƠI TRƢỜNG, SUY THỐI MƠI TRƢỜNG GÂY RA ....... 5
1.1. Khái quát về ô nhiễm môi trƣờng, suy thối mơi trƣờng ............................ 5
1.1.1. Khái niệm ONMT ..................................................................................... 5
1.1.2. Khái niệm STMT ..................................................................................... 6
1.2. Bồi thƣờng thiệt hại do ONMT, STMT gây ra ............................................. 8
1.2.1. Khái niệm BTTH do ONMT, STMT gây ra ............................................. 8
1.2.2. Phân biệt chế định BTTH với các biện pháp chế tài khác ........................17
1.2.3. Các nguyên tắc cơ bản của chế định BTTH do ONMT, STMT gây ra ....20
1.2.4. Tầm quan trọng của việc BTTH do ONMT, STMT gây ra......................26

CHƢƠNG 2: BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO Ơ NHIỄM MƠI TRƢỜNG,
SUY THỐI MƠI TRƢỜNG GÂY RA – THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
VIỆT NAM..............................................................................................................30
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về bồi thƣờng thiệt hại do ô nhiễm môi
trƣờng, suy thoái môi trƣờng gây ra ....................................................................30
2.1.1. Khái quát về chế định BTTH do ONMT, STMT gây ra ..........................30
2.1.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp BTTH do ONMT, STMT
gây ra ........................................................................................................................32
2.1.3. Pháp luật Việt Nam về BTTH do ô ONMT, STMT gây ra – Những vấn
đề còn tồn tại ............................................................................................................36
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại do ô nhiễm môi
trƣờng, suy thối mơi trƣờng gây ra tại Việt Nam .............................................46
2.2.1. Một số vụ việc BTTH môi trường đã được giải quyết tại VN ..................46

Trang 4


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

2.2.2. Một số hạn chế, bất cập thể hiện qua công tác thực thi pháp luật .............49
CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CƠ CHẾ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO Ô NHIỄM MƠI TRƢỜNG, SUY
THỐI MƠI TRƢỜNG GÂY RA TẠI VIỆT NAM ..........................................63
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật về
BTTH do ONMT, STMT gây ra ...........................................................................63
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về BTTH do ONMT, STMT gây ra .........64
3.3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật BTTH môi trƣờng ........71
KẾT LUẬN .............................................................................................................77

Trang 5



Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

LỜI MỞ ĐẦU
 Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, tình hình vi phạm pháp luật môi trường ở nước ta
diễn biến phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và ở hầu
khắp các địa bàn. Có thể kể đến một số vụ việc điển hình như vụ Cơng ty Vedan Việt
Nam, Cơng ty Tung Kuang, Nhà máy đường Quảng Ngãi... Những hoạt động vi phạm
pháp luật mơi trường đó khơng chỉ tác động xấu đến môi sinh, môi trường và sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, mà hơn hết là nó gây ra những hậu quả trực tiếp và
lâu dài đến đời sống vật chất lẫn tinh thần của nhân dân. Từ lẽ đó, thiết nghĩ, để thực
hiện tốt cơng tác phòng ngừa và xử lý vi phạm pháp luật mơi trường, bên cạnh việc
nghiêm khắc xử lý hành chính và hình sự đối với các chủ thể vi phạm, chúng ta cũng
không thể không tăng cường hiệu quả của công tác giải quyết trách nhiệm bồi thường
thiệt hại (BTTH) do ơ nhiễm mơi trường (ONMT), suy thối mơi trường (STMT) gây
ra. Bởi, một khi vấn đề BTTH được giải quyết triệt để thì nó khơng chỉ góp phần làm
tăng tính nghiêm khắc của chế tài xử lý vi phạm pháp luật mơi trường nói chung, qua
đó có tác dụng răn đe đối với các chủ thể gây ô nhiễm; mà còn nhằm khắc phục phần
nào những thiệt hại mà người dân phải gánh chịu từ hành vi gây ONMT, STMT.
Yêu cầu đòi BTTH do hành vi vi phạm pháp luật môi trường là quyền và
nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức và cộng đồng, đã được pháp luật Việt Nam thừa nhận
và quy định, đáp ứng nguyên tắc quốc tế “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Tuy
nhiên, ở Việt Nam chưa có tiền lệ rõ ràng về xử lý chủ thể gây ONMT bằng biện pháp
bắt buộc bồi thường hoặc đền bù thiệt hại cho bên bị hại do hành vi gây ô nhiễm gây
ra. Nguyên nhân của tình trạng trên là do nhận thức về mặt pháp luật của người dân
còn nhiều hạn chế, kiến thức về trình tự thủ tục giải quyết các vụ việc như trên chưa
cao, nên họ thường có tâm lý lúng túng, mơ hồ khi sự việc xảy ra. Bên cạnh đó, các
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề BTTH do ONMT, STMT gây

ra chỉ mới dừng lại ở mức chung chung, mang tính nguyên tắc, chưa thể áp dụng một
cách đầy đủ trên thực tế. Và điều đó đã làm thực tiễn giải quyết các vụ việc liên quan
đến yêu cầu đòi BTTH của nhân dân trong thời gian qua đã gặp khơng ít khó khăn khi
chưa có sự thống nhất về cách hiểu và áp dụng các quy định pháp luật về vấn đề này.
Đồng thời, khả năng giải quyết của các cấp quản lý Nhà nước về các vụ việc như thế
này còn nhiều hạn chế, do đó thường gặp lúng túng khi phải xử lý các chủ thể gây ơ
nhiễm, gây nên tình trạng khiếu kiện kéo dài, vốn là một trong những vấn đề nóng
bỏng, bức xúc và nhức nhối ở nước ta hiện nay.
Trang 6


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

Xuất phát từ thực tiễn trên, tác giả đã chọn đề tài “Bồi thường thiệt hại do ơ
nhiễm mơi trường, suy thối mơi trường gây ra - Thực trạng và hướng hoàn thiện”
để làm đề tài khoá luận tốt nghiệp với mong muốn đề tài sẽ góp phần tạo ra một cách
nhìn nhận, đánh giá sâu sắc, tồn diện hơn cũng như có được cái nhìn đúng đắn về
tầm quan trọng của vấn đề BTTH do ONMT, STMT gây ra. Qua đó, góp phần cải
thiện và nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý Nhà nước về bảo vệ mơi trường
(BVMT) nói chung và hoạt động xử lý vi phạm pháp luật mơi trường nói riêng, nhằm
đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra là phát triển
kinh tế phải đi đôi với nghĩa vụ BVMT.
 Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc trình bày tổng qt về vấn đề BTTH do ONMT, STMT gây
ra; phân tích những quy định pháp luật hiện hành về vấn đề trên và đánh giá thực
trạng thực hiện những quy định pháp luật có liên quan tại Việt Nam; tác giả chỉ ra
những điểm bất cập, thiếu sót, đồng thời đề ra hướng hoàn thiện đối với những quy
định pháp luật về BTTH trong lĩnh vực môi trường và cơ chế thực hiện chúng trong
thực tiễn.
 Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu

 Đối tượng nghiên cứu
Để đạt được mục đích như đã nêu trên, khố luận tập trung nghiên cứu những
kiến thức chung về ONMT, STMT, BTTH do ONMT, STMT gây ra và các quy định
pháp luật hiện hành của Việt Nam về vấn đề BTTH trong lĩnh vực môi trường cũng
như các quan hệ xã hội đã phát sinh trên thực tiễn, đồng thời, kết hợp sự tham khảo
các tài liệu, sách báo có liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu.
 Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi khoá luận này, tác giả sẽ tập trung vào việc tìm hiểu các quy
định pháp luật hiện hành của Việt Nam về BTTH do ONMT, STMT gây ra. Đồng
thời, về vấn đề thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này, tác giả cũng chỉ xoay
quanh thực trạng thực hiện trách nhiệm BTTH của các cơ sở sản xuất kinh doanh đã
xảy ra trong thời gian vừa qua tại Việt Nam và dẫn chứng một vài vụ việc điển hình
trong thực tiễn để làm ví dụ minh hoạ.
 Phương pháp nghiên cứu

Trang 7


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu có chọn lọc các ý kiến, quan điểm trong các tài
liệu, cơng trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề BTTH do ONMT, STMT gây ra,
khoá luận được trình bày chủ yếu dựa trên phương pháp phân tích, tổng hợp những
thơng tin thu thập được, từ đó so sánh, đối chiếu các quan điểm, ý kiến khác nhau để
đưa ra nhận xét, chính kiến riêng. Bên cạnh đó, phương pháp duy vật biện chứng dựa
trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lê cũng được sử dụng để trình bày một số vấn đề
lý luận cụ thể.
 Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian gần đây, các vấn đề liên quan đến chế định BTTH do
ONMT, STMT gây ra luôn là đề tài được nhiều người quan tâm đề cập đến. Chúng ta

có thể dẫn chứng một số bài viết như: Báo cáo về quyền khởi kiện đòi BTTH do hành
vi vi phạm pháp luật môi trường tại Việt Nam. Cơ sở pháp lý và quy trình thực hiện
(TS. Vũ Thu Hạnh và các đồng nghiệp Trường Đại học Luật Hà Nội); Bồi thường
thiệt hại do ơ nhiễm, suy thối mơi trường (TS. Vũ Thu Hạnh, đăng trên Tạp chí Khoa
học pháp lý số 03/2007); Căn cứ xác định thiệt hại về môi trường ( Th.s Nguyễn
Ngọc Anh Đào, đăng trên Tạp chí Tồ án nhân dân số 14/2009); Xâm phạm môi
trường và trách nhiệm bồi thường thiệt hại (TS. Phùng Trung Tập, đăng trên Tạp chí
Nhà nước và pháp luật số 01/2010)… Ngoài ra, về các đề tài nghiên cứu, cũng đã có
một số khóa luận tốt nghiệp đề cập đến vấn đề này. Thực tế cho thấy, những bài viết
trên đã góp phần khơng nhỏ vào việc xây dựng và hồn thiện chế định BTTH trong
lĩnh vực mơi trường ở nước ta. Và dù đây không phải là một đề tài mới, nhưng tác giả
mong rằng khoá luận có thể cùng chung tay góp sức cho việc đưa chế định này vào
thực tiễn cuộc sống một cách kịp thời và thiết thực nhất.
 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của việc nghiên cứu
Bằng việc tìm hiểu và đưa ra quan điểm cá nhân về những bất cập, thiếu sót
cũng như giải pháp hồn thiện các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng
pháp luật có liên quan đến vấn đề BTTH do ONMT, STMT gây ra tại Việt Nam, tác
giả hy vọng sẽ đóng góp một vài ý kiến cho các nhà làm luật cũng như các cơ quan
quản lý Nhà nước về thực thi pháp luật môi trường nhằm khắc phục những hạn chế,
bất cập khi giải quyết các vấn đề liên quan đến BTTH do ONMT, STMT gây ra. Qua
đó, sẽ góp phần quan trọng trong việc tạo nên những thành công cho cơng tác BVMT
mà trước hết đó là bảo vệ đời sống, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người dân trong
bối cảnh ONMT, STMT ngày một gia tăng như hiện nay.

Trang 8


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

Đồng thời, với sự nỗ lực nghiên cứu, tìm tịi, sáng tạo của mình, tác giả cũng

hy vọng khoá luận sẽ trở thành nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với những người
quan tâm đến đề tài này nói chung và các bạn sinh viên nói riêng.
 Cơ cấu của khố luận
Nội dung khóa luận gồm 3 chương:
 Chương 1: Những vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi
trường, suy thối mơi trường gây ra.
 Chương 2: Bồi thường thiệt hại do ơ nhiễm mơi trường, suy thối mơi
trường gây ra – Thực tiễn thực hiện tại Việt Nam.
 Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật về bồi
thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thối mơi trường gây ra tại Việt Nam.
Đây là lần đầu tiên tác giả được làm quen với cơng tác nghiên cứu khoa học,
nên khố luận sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì thế, tác giả rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của Quý thầy cô, bạn bè cũng như tất cả những ai quan
tâm đến đề tài để có thể rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho hoạt động nghiên
cứu và thực tiễn làm việc sau này.
Nhân đây, em xin dành lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy giáo hướng dẫn của
mình là Thạc sĩ Võ Trung Tín, người đã tận tình định hướng, chỉ dẫn cũng như ln
giúp đỡ em trong suốt q trình thực hiện khố luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn đến Quý thầy cô, bạn bè và những người đã luôn quan
tâm, động viên và giúp đỡ em hồn thành khóa luận.

Trang 9


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO Ô
NHIỄM MÔI TRƢỜNG, SUY THỐI MƠI TRƢỜNG GÂY RA

1.1. Khái qt về ơ nhiễm mơi trƣờng, suy thối mơi trƣờng
1.1.1. Khái niệm ơ nhiễm mơi trường
Ngày nay, cùng với tình trạng chất lượng mơi trường toàn cầu ngày càng biến
đổi theo chiều hướng xấu đi một cách nhanh chóng, thì ONMT trở thành một thuật
ngữ được nhắc đến nhiều nhất trong mọi xã hội dù đấy là đất nước giàu có hay một
quốc gia kém phát triển. ONMT là một khái niệm có nhiều nghĩa. Với cách hiểu
chung nhất, ONMT là sự làm thay đổi tính chất của mơi trường, vi phạm tiêu chuẩn
mơi trường, thay đổi trực tiếp hoặc gián tiếp các thành phần và đặc tính vật lý, hố
học, nhiệt độ, sinh học, chất hồ tan, chất phóng xạ…ở bất kỳ thành phần nào của
mơi trường hay tồn bộ mơi trường vượt quá mức cho phép đã được xác định [1]. Theo
đó, ONMT là hậu quả của những tác động làm thay đổi các thành phần môi trường,
thay đổi các thành phần vật lý, hoá học, làm mất cân bằng trạng thái môi trường, gây
ảnh hưởng xấu đến sinh vật và môi trường tự nhiên. Những thay đổi này của môi
trường ảnh hưởng trực tiếp đến con người thông qua đường thức ăn, nước uống và
khơng khí hoặc ảnh hưởng gián tiếp đến con người do thay đổi điều kiện vật lý, hóa
học và suy thối mơi trường.
Dưới góc độ pháp lý, do ơ nhiễm là một khái niệm rất khó định nghĩa về mặt
sinh học nên định nghĩa pháp lý về ơ nhiễm cũng rất khó được xây dựng một cách
chính xác. Pháp luật của nhiều nước đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về ONMT.
Chẳng hạn, đạo luật bảo vệ môi trường năm 1986 của bang Tây Úc định nghĩa: Ô
nhiễm là bất cứ sự thay đổi trực tiếp hay gián tiếp của môi trường theo chiều hướng
xấu đi hay sự suy thối của nó. Ngồi ra, một số hệ thống pháp luật khác cũng có
những định nghĩa về ONMT dưới những cách thức diễn đạt khác nhau [2]. Luật Bảo vệ
môi trường (Luật BVMT) được Quốc hội nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thơng qua năm 2005 định nghĩa: “Ơ nhiễm mơi trường là sự biến đổi các thành phần
môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con
người và sinh vật” (khoản 6 Điều 3 Luật BVMT 2005). Khái niệm ONMT theo Luật
BVMT được xem là căn cứ để xác định một hành vi có phải là hành vi gây ONMT
[1]


TS. Lê Thị Thanh Mai (2008), Giáo trình mơi trường và con người, Nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội, tr.121.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Môi trường, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội,
tr.129.
[2]

Trang 10


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

hay khơng. Theo đó, một hành vi bị coi là hành vi gây ONMT phải thoả mãn các dấu
hiệu nhất định và đây cũng chính là các đặc điểm cơ bản của ONMT; bao gồm:
Một là, có sự thay đổi tính chất mơi trường. Sự thay đổi tính chất mơi trường
được hiểu là tình trạng mơi trường với các chỉ số lý, hoá, sinh học thay đổi theo chiều
hướng xấu đi, vượt quá khả năng tự lọc thải của môi trường, làm đảo lộn trạng thái
cân bằng của môi trường. Lúc này, các chỉ số môi trường khơng cịn phù hợp nữa và
do đó, nó có thể dẫn đến sự thay đổi nồng độ khí ơxy, khí cácbơnic…trong khơng khí
hay sự thay đổi thành phần các chất trong nước.
Hai là, phải có sự vi phạm tiêu chuẩn mơi trường. Điều đó có nghĩa rằng,
khơng phải bất cứ hành vi nào tác động và làm thay đổi tính chất mơi trường đều bị
coi là hành vi gây ơ nhiễm, mà địi hỏi hành vi đó phải làm cho tính chất mơi trường
thay đổi theo hướng vượt q hoặc thấp hơn mức giới hạn của những thông số nhất
định về tiêu chuẩn môi trường. Theo khoản 5 Điều 2 Luật BVMT 2005, “Tiêu chuẩn
môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi trường xung
quanh, về hàm lượng chất ô nhiễm trong chất thải được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền quy định”. Như vậy, tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mực, giới hạn cho
phép được quy định để phục vụ cho hoạt động quản lý Nhà nước về môi trường. Bởi,
Nhà nước sẽ dựa trên những cơ sở khoa học nhất định để đưa ra thông số môi trường
vẫn nằm trong giới hạn an toàn nhằm bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, bảo vệ môi trường
và điều chỉnh hành vi của cơng dân khi tác động vào mơi trường. Do đó, để thực hiện

cơng tác quản lý mơi trường có hiệu quả cao, địi hỏi Nhà nước cần phải khơng ngừng
hồn thiện hệ thống tiêu chuẩn môi trường quốc gia sao cho phù hợp và đáp ứng kịp
thời xu hướng phát triển của đời sống xã hội.
1.1.2. Khái niệm suy thoái mơi trường
Cùng với ONMT thì STMT cũng là hiện tượng đang đặt ra cho toàn thể nhân
loại những thách thức to lớn trên con đường đi đến mục tiêu phát triển bền vững. Để
đáp ứng nhu cầu cuộc sống, con người đã tự tìm kiếm nguồn vật chất bằng cách tác
động vào tự nhiên, vào môi trường sinh thái chỉ với mục đích tạo ra nguồn lợi cao
nhất cho mình mà không nhận biết hoặc không cần biết hậu quả của hành vi đó sẽ gây
thiệt hại cho mơi trường như thế nào. Chính từ sự thờ ơ ấy, nhân loại đang từng ngày,
từng giờ làm cho môi trường bị thay đổi cả tính chất lẫn số lượng thành phần và dẫn
đến sự suy thoái nghiêm trọng như hiện nay. Theo khoản 7 Điều 2 Luật BVMT 2005,
“Suy thối mơi trường là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của thành phần môi
trường, gây ảnh hưởng xấu đối với con người và sinh vật”. Theo đó, một hành vi bị

Trang 11


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

coi là gây ra STMT hoặc một mơi trường bị coi là suy thối khi có đầy đủ các dấu
hiệu sau:
Một là, số lượng và chất lượng của thành phần mơi trường thay đổi. Có
nghĩa là sự thay đổi do STMT phải đồng thời là sự thay đổi cả về số lượng và chất
lượng của thành phần mơi trường. Ở đây chúng ta có thể xem môi trường như là một
dạng tồn tại của vật chất, do đó, theo quy luật vận động của tự nhiên, sự thay đổi về
lượng đến một lúc nào đó sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất và cứ thế chúng sẽ làm cho
các thành phần môi trường không ngừng thay đổi theo chiều hướng xấu đi về chất
lượng. Ví dụ, hoạt động chặt phá rừng để lấy gỗ, để làm nương rẫy của bà con đồng
bào Tây Nguyên trong những năm qua diễn ra mạnh mẽ đã làm cho hệ động, thực vật

rừng bị suy giảm nghiêm trọng, từ đó đã làm giảm chất lượng của sự đa dạng sinh
học. Tuy nhiên, không phải hiện tượng thay đổi số lượng và chất lượng nào cũng dẫn
đến STMT mà đây chỉ mới là điều kiện cần.
Hai là, gây ảnh hưởng xấu cho đời sống con người và thiên nhiên. Theo đó,
sự thay đổi chất lượng và số lượng của thành phần mơi trường phải là ngun nhân
gây ra tình trạng xấu đi cho sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. Chẳng
hạn, sự suy giảm số lượng và chất lượng nước đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực
đến sự sống của con người (như sức khoẻ, đời sống sinh hoạt và sản xuất…) và thiên
nhiên (nguồn nước ô nhiễm dẫn đến đe doạ sự sống của các loài sinh vật và việc cá
chết hàng loạt do nguồn nước trên sông Trà Khúc bị ô nhiễm như hiện nay là một ví
dụ).
Như vậy, với việc làm rõ các khái niệm, đặc điểm cơ bản như trên, chúng ta
có thể thấy được mối quan hệ mật thiết giữa ONMT và STMT. Cụ thể, một mặt cho
thấy ONMT và STMT đều là những hiện tượng làm thay đổi thành phần mơi trường,
qua đó gây ảnh hưởng xấu đến mơi trường cũng như đời sống, sức khoẻ của con
người và của cộng đồng xã hội. Mặt khác, giữa ONMT và STMT vừa có những đặc
trưng riêng để phân biệt chúng, vừa tồn tại những mối liên hệ nội tại thống nhất với
nhau. Nếu như ONMT là kết quả của hành vi loại thải những chất bẩn, chất độc hại
vào môi trường, thì STMT lại là hiện tượng sinh ra từ hoạt động khai thác quá mức,
làm suy giảm, cạn kiệt, và huỷ hoại các thành phần của môi trường. Từ sự khác nhau
về nguồn gốc phát sinh ấy dẫn đến tính chất của hai hiện tượng này cũng khơng hồn
tồn giống nhau. Bởi lẽ, STMT thường diễn biến lâu dài hơn so với ONMT, quá trình
xảy ra hiện tượng STMT địi hỏi phải có sự tích tụ qua một khoảng thời gian khá dài,
với sự tác động cộng hưởng của nhiều tác nhân khác nhau. Hay nói cách khác, trong

Trang 12


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.


nhiều trường hợp, sự tích tụ của hiện tượng ONMT lâu ngày sẽ là nguồn phát sinh
phổ biến của STMT. Chẳng hạn, hoạt động xả thải ra môi trường không qua xử lý của
các cơ sở sản xuất như hiện nay tất yếu sẽ dẫn đến ô nhiễm môi trường nước nghiêm
trọng, làm giảm số lượng giống lồi dưới nước. Lâu dần, nếu tình trạng này khơng
được khắc phục thì nó sẽ ảnh hưởng xấu đến đời sống của cộng đồng dân cư cũng như
đe doạ nguồn đa dạng sinh học dưới nước và cuối cùng là dẫn đến hiện tượng suy
thối mơi trường nước. Hơn nữa, thực tế thường cho thấy, những tác động do hiện
tượng STMT gây ra là nghiêm trọng và mang tính chất huỷ hoại nhiều hơn so với
những hậu quả mà ONMT gây ra. Bởi, như ta đã biết, STMT không chỉ bao gồm sự
thay đổi tính chất mơi trường mà còn kết hợp với sự thay đổi số lượng thành phần môi
trường nên lẽ dĩ nhiên mức độ nghiêm trọng của những hậu quả do nó gây ra sẽ rất
khó lường. Tuy nhiên, dù có những đặc trưng riêng nhưng nhìn chung, ONMT và
STMT đều gây ra những thiệt hại to lớn về người và tài sản cho toàn nhân loại, đòi
hỏi phải kịp thời ngăn chặn để đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của chính chúng ta
cũng như của thế hệ mai sau. Chính vì điều đó, ONMT và STMT ln có mối quan hệ
gắn bó với nhau và được đặt cạnh nhau khi nói đến chế định BTTH do ONMT, STMT
gây ra.
1.2. Bồi thƣờng thiệt hại do ơ nhiễm mơi trƣờng, suy thối mơi trƣờng gây ra
1.2.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm mơi trường, suy thối mơi
trường gây ra
Cùng với các quan hệ pháp luật Dân sự, trong lĩnh vực pháp luật mơi trường,
ngun tắc BTTH cũng đóng một vai trị quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các chủ thể bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây ra.
Thật vậy, trong các phương thức pháp lý để BVMT thì phương thức dân sự, cụ thể là
phương thức yêu cầu người khác phải BTTH về tài sản, tính mạng, sức khỏe, quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan, với những đặc điểm riêng, có vai trị to
lớn và được coi là có hiệu quả thiết thực nhất vì nó khơi phục lại tình trạng ban đầu về
mặt vật chất cho chủ thể bị thiệt hại. Với tư cách là một bộ phận nằm trong chế định
BTTH theo pháp luật Dân sự, thì khi muốn tìm tìm hiểu về khái niệm BTTH do
ONMT, STMT gây ra, trước tiên chúng ta hãy bắt đầu tìm hiểu bản chất của chế định

BTTH nói chung.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, trách nhiệm BTTH được
Bộ luật Dân sự (BLDS 2005) quy định tại Điều 307 về trách nhiệm BTTH nói chung
và Chương XXI về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, cả hai phần này

Trang 13


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

đều khơng nêu rõ khái niệm trách nhiệm BTTH mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách
nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm, thời hạn hưởng bồi
thường… Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý, chúng ta thấy rằng, mỗi người sống
trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, khơng thể vì lợi ích của
mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi
phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải
chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc
bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là BTTH. Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm
BTTH là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ
pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình
gây ra. Có nhiều căn cứ khác nhau để phân chia trách nhiệm BTTH, tuy nhiên, dựa
vào căn cứ phổ biến nhất là nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm BTTH được phân thành
trách nhiệm BTTH theo hợp đồng và trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà theo đó
người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người khác thì
phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. Như vậy, để phát
sinh trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng phải dựa trên cơ sở một hợp
đồng có trước, tức là giữa người được hưởng bồi thường và người gây ra thiệt hại
trước đó phải có một quan hệ hợp đồng. Nếu giữa hai bên khơng tồn tại một hợp đồng
nào thì nếu có thiệt hại xảy ra bao giờ cũng sẽ là những thiệt hại phát sinh ngoài hợp

đồng và bên gây thiệt hại chỉ có thể phải chịu trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự
mà khi một người có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngồi hợp đồng
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải BTTH do mình gây
ra. Nếu trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở một
hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng là một loại trách nhiệm
pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định
chủ yếu về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân và tổ chức khác.
Ngày nay, mơi trường được xem là một loại hàng hố đặc biệt và là tài sản
rất có giá trị, nó được xác định bởi các giá trị khoa học, kinh tế và mơi sinh. Do đó,
bất kỳ một hành vi nào gây hại đến môi trường cũng đồng nghĩa với việc gây hại đến
các giá trị nêu trên. Nếu xem xét một cách chặt chẽ, tác hại gây ra đối với môi trường

Trang 14


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

tự nhiên khơng khác gì tác hại gây ra đối với con người hay với tài sản của con người;
chính vì vậy, khi mơi trường bị xâm hại, chất lượng mơi trường bị suy giảm thì cũng
cần phải được bồi thường một cách thỏa đáng và người gây thiệt hại phải có trách
nhiệm bồi thường những tổn thất gây ra đối với môi trường. Từ ý nghĩa đó, chế định
BTTH do ONMT, STMT được ra đời và tồn tại cho đến ngày nay. BTTH do ONMT,
STMT tại Việt Nam là vấn đề còn khá mới cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, nó
được pháp luật ghi nhận lần đầu tiên tại Luật BVMT năm 1993, theo đó “tổ chức, cá
nhân gây tổn hại mơi trường do hoạt động của mình phải bồi thường thiệt hại theo
quy định của pháp luật”. Cũng giống như khái niệm BTTH trong pháp luật Dân sự,
hiện nay chưa có một tài liệu pháp lý nào đưa ra quan điểm chính thức về khái niệm

BTTH do ONMT, STMT. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành về
vấn đề này, trách nhiệm BTTH do ONMT, STMT có thể được hiểu là một quan hệ
pháp luật dân sự, theo đó người gây ra thiệt hại trong những điều kiện mà pháp luật
quy định, phải có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật
môi trường mà họ đã gây ra. Trong quan hệ nghĩa vụ này, bên bị thiệt hại được coi là
chủ thể có quyền và có quyền yêu cầu bên gây thiệt hại là người có nghĩa vụ phải bồi
thường những thiệt hại đã xảy ra. Khái niệm trên cho thấy, quan hệ pháp luật trong
lĩnh vực mơi trường có thể phát sinh giữa các chủ thể mà không cần đến các cơ sở
pháp lý làm tiền đề (như quan hệ hợp đồng hay quan hệ cơng vụ), hay nói cách khác,
nó phát sinh dưới sự tác động trực tiếp của các quy phạm pháp luật mà khơng cần có
sự thỏa thuận trước của các chủ thể. Như vậy, có thể nói, BTTH trong trường hợp vi
phạm nghĩa vụ bảo vệ mơi trường là trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng với những
đặc điểm cơ bản sau:
 Về cơ sở pháp lý: Theo nghĩa chung nhất, trách nhiệm BTTH do ONMT,
STMT là một loại trách nhiệm dân sự, nên trước tiên nó sẽ chịu sự điều chỉnh của
pháp luật Dân sự, cụ thể là các quy định trong BLDS 2005 ở Điều 307 và Chương
XXI cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS. Bên cạnh đó, do đây là một loại
trách nhiệm pháp lý có khách thể cần được bảo vệ khơng chỉ là các quyền và lợi ích
hợp pháp của con người mà còn bao gồm cả sự phát triển của môi trường tự nhiên,
nên những quy định có liên quan trong Luật BVMT, các văn bản hướng dẫn và những
văn bản pháp luật khác về lĩnh vực môi trường cũng là cơ sở pháp lý cho chế định
này. Như vậy, khi một người gây ra tổn thất cho người khác bởi hành vi xâm phạm
mơi trường thì họ phải thực hiện trách nhiệm BTTH theo sự điều chỉnh của Bộ luật
Dân sự và Luật BVMT cũng như các văn bản pháp luật có liên quan.

Trang 15


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.


 Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Xuất phát từ bản chất là một dạng của
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nên trách nhiệm BTTH do ONMT, STMT chỉ
phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là: Có hành
vi trái pháp luật, có thiệt hại xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp
luật với thiệt hại thực tế, và có lỗi của người vi phạm. Tuy nhiên, do tính chất cấp
thiết của tình trạng ONMT, STMT cũng như xuất phát từ nghĩa vụ BVMT là nghĩa vụ
pháp lý bắt buộc của mọi công dân nên trong nhiều trường hợp, trách nhiệm BTTH do
ONMT, STMT không xét đến yếu tố lỗi của chủ thể gây thiệt hại. Điều đó có nghĩa
là, dù chủ thể phải BTTH có lỗi hay khơng thì họ vẫn phải BTTH cho những hậu quả
mà mình đã gây ra. Hay nói cách khác, căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH do
ONMT, STMT có thể chỉ cần ba điều kiện đó là có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái
pháp luật, có mối quan hệ nhân quả. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, tác giả xin trình
bày khái quát về các điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do ONMT, STMT gây ra
như sau:
 Thứ nhất, có hành vi gây thiệt hại là hành vi vi phạm pháp luật môi trường.
Theo quy định tại khoản 1.2 Mục I Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày
08 tháng 07 năm 2006 thì “hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người
được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của
pháp luật”. Trong lĩnh vực mơi trường, có thể hiểu “hành vi trái pháp luật” là hành vi
vi phạm pháp luật mơi trường, hay nói cách khác, đó là hành vi gây ONMT, là những
hành vi tác động đến các yếu tố của môi trường và gây ô nhiễm các yếu tố đó, làm tổn
hại đến các yếu tố nguyên thuỷ của môi trường dẫn đến thiệt hại về tài sản, sức khoẻ,
tính mạng của người khác. Dựa trên những đặc điểm cơ bản của hành vi trái pháp luật
trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng kết hợp với những đặc thù nhất định trong
lĩnh vực môi trường, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm của hành vi gây ô nhiễm
môi trường trong BTTH môi trường như sau:
Một là, hành vi gây ơ nhiễm mơi trường có thể được thể hiện dưới dạng hành
động hoặc không hành động. Khi hành vi hành động hoặc không hành động này gây
ra những tác động đến thành phần môi trường với mức độ thường xuyên, nhanh hơn
khả năng “tự làm sạch” của mơi trường thì mới xâm hại đến con người và sinh vật.

Chẳng hạn, hành vi xả thải ra môi trường không qua xử lý của các chủ thể sản xuất
kinh doanh đã tác động tiêu cực đến môi trường khi các chất thải độc hại được loại
thải ra một cách thường xuyên và có nồng độ độc hại vượt quá khả năng “tự làm

Trang 16


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

sạch” của các mơi trường nước ven sơng. Qua đó đã gây ra thiệt hại cho người dân và
các sinh vật dưới nước.
Hai là, việc xác định “tính trái pháp luật” của hành vi dựa trên nguyên tắc
và cơ sở pháp lý do pháp luật quy định trước, các bên khơng biết và cũng khơng thể
có sự thoả thuận về vấn đề này. Cũng như trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng,
đối với chế định BTTH do ONMT, STMT, pháp luật cũng quy định những nghĩa vụ
cụ thể đòi hỏi các chủ thể phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh, nếu chủ thể nào vi
phạm nghĩa vụ của mình thì cũng đồng nghĩa với việc chủ thể đó đã có hành vi vi
phạm pháp luật mơi trường. Ví dụ, khoản 2 Điều 35 Luật BVMT quy định, tổ chức,
cá nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh có trách nhiệm “thực hiện các biện
pháp bảo vệ môi trường nêu trong báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được
phê duyệt, bản cam kết bảo vệ môi trường đã đăng ký và tiêu chuẩn môi trường”. Tuy
nhiên, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, công ty Tung Kuang đã đem
chất thải chưa qua xử lý xả thẳng ra môi trường làm cho môi trường bị ô nhiễm
nghiêm trọng và gây thiệt hại cho người dân. Như vậy, trong trường hợp này, công ty
trên đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ BVMT mà pháp luật đã quy định, hay nói cách
khác, cơng ty Tung Kuang đã thực hiện hành vi trái pháp luật - một trong số những
điều kiện làm phát sinh trách nhiệm BTTH trong lĩnh vực môi trường.
Ba là, hành vi gây ô nhiễm môi trường thường gắn với các quy định về nhóm
các tiêu chuẩn chung về mơi trường do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành. Tiêu
chuẩn môi trường vừa là công cụ kỹ thuật, vừa là công cụ pháp lý giúp Nhà nước

quản lý môi trường. Đồng thời, tiêu chuẩn mơi trường cịn có ý nghĩa đối với cá nhân,
tổ chức khi chúng giúp họ nhận biết mình được sống trong điều kiện môi trường như
thế nào, được phép tác động đến môi trường ở mức độ nào, từ đó, người dân có thể
chủ động bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi mơi trường tự nhiên bị
xâm phạm.
Như vậy, hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho môi trường là một trong
những yếu tố quan trọng cấu thành nên trách nhiệm BTTH về môi trường. Tuy nhiên,
nếu bản thân hành vi này đứng riêng lẻ thì cũng khơng thể đặt ra vấn đề bồi thường
mà địi hỏi phải có các điều kiện cần thiết khác.
 Thứ hai, có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại xảy ra là một trong những điều kiện tiền đề để xác định trách nhiệm
BTTH nói chung và BTTH trong lĩnh vực mơi trường nói riêng. Bởi, mục đích của
việc áp dụng trách nhiệm BTTH là khắc phục tình trạng tổn thất cho người bị thiệt hại
Trang 17


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Vì thế, nếu khơng có thiệt hại thì khơng thể
đặt ra vấn đề bồi thường cho dù có những điều kiện khác như có hành vi trái pháp
luật, có lỗi… Theo quy định tại Điều 131 Luật BVMT (2005), thiệt hại trong lĩnh vực
môi trường bao gồm hai loại:
- Thiệt hại đối với môi trường tự nhiên: Đó là sự suy giảm chức năng, tính
hữu ích của mơi trường, trong đó, chức năng, tính hữu ích của mơi trường là tổng hợp
những tính năng vốn có của mơi trường mà những tính năng này có thể tạo những
điều kiện thuận lợi, có ích cho sự tồn tại và phát triển của sinh vật.
- Thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi
trường gây ra. Những thiệt hại này tuy không phải là các giá trị vật chất nhất định
nhưng khi tiến hành bồi thường, chúng được quy ra một số tiền cụ thể dựa trên những

căn cứ xác định thiệt hại do pháp luật quy định.
So với thiệt hại trong lĩnh vực Dân sự nói chung, thiệt hại trong lĩnh vực bảo
vệ mơi trường có những nét đặc trưng riêng. Cụ thể như sau:
Một là, chủ thể bị thiệt hại do hành vi xâm phạm mơi trường gây ra có số
lượng đông đảo và thuộc một phạm vi ảnh hưởng rộng lớn. Thật vậy, hành vi gây
ONMT, STMT không những đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của Nhà
nước với tư cách là chủ sở hữu chính thức của nguồn tài nguyên thiên nhiên quốc gia,
mà nó cịn gây ra những hậu quả gián tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và làm đảo
lộn toàn bộ đời sống của các cá nhân, tổ chức cũng như cả cộng đồng dân cư. Chẳng
hạn, hành vi xả trực tiếp chất thải độc hại ra sông đã làm cho nước sơng bị ơ nhiễm
dẫn đến tình trạng thuỷ sản chết hàng loạt không chỉ gây thiệt hại cho tài sản quốc gia,
mà cịn gây ra khơng ít tổn thất cho những người dân nuôi trồng thuỷ sản cũng như
các chủ thể đánh bắt thuỷ sản dọc theo các con sông lớn.
Hai là, thiệt hại do môi trường bị ô nhiễm, suy thối khơng chỉ là những thiệt
hại về mặt thực tế mà còn bao gồm những nguy cơ tiềm ẩn về lâu dài. Điều đó có
nghĩa rằng, thiệt hại do môi trường bị phá vỡ do nhiễm bẫn, nhiễm độc không chỉ là
những thiệt hại xác định được ngay sau khi có hành vi xâm phạm mơi trường, mà còn
là những thiệt hại đang và sẽ diễn ra theo phản ứng dây chuyền, theo sự vận động của
môi trường tự nhiên mà con người không thể xác định được một cách đầy đủ và chính
xác. Đây chính là căn cứ để phân biệt hành vi gây thiệt hại môi trường và các hành vi
gây thiệt hại khác. Đối với các hành vi gây thiệt hại khác, thời điểm hành vi chấm dứt
trên thực tế cũng chính là thời điểm thiệt hại được xác định một cách rõ ràng và cụ
Trang 18


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

thể. Trong khi đó, hành vi gây ONMT có thể đã bị chấm dứt hồn tồn nhưng hậu quả
của hành vi đó vẫn diễn biến và có khả năng tiếp tục gây ra thiệt hại cho người khác.
Ba là, thiệt hại do ONMT, STMT gây ra có thể mang tính quốc tế. Tự thân

mơi trường là tổng hợp các yếu tố sinh vật và không sinh vật tạo thành một lực lượng
vật chất và phi vật chất tồn tại, vận động theo quy luật khách quan gắn với đời sống tự
nhiên và xã hội của con người, đồng thời là nhân tố thúc đẩy và kiềm chế sự phát triển
đời sống mọi mặt trên toàn nhân loại. Thành phần môi trường tồn tại trong phạm vi
không giới hạn và chúng có mối liên hệ gắn bó với nhau thành một thể thống nhất. Do
vậy, một hành vi xâm phạm môi trường được thực hiện tại một quốc gia nhưng vẫn có
thể làm phát sinh thiệt hại môi trường cho các quốc gia, các khu vực lân cận khác.
 Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ONMT, STMT với thiệt hại
xảy ra.
Dưới góc độ pháp lý, mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi
trái pháp luật có nghĩa là thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp
luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Theo ý nghĩa
này thì người gây thiệt hại cho môi trường chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự chỉ khi
những thiệt hại về môi trường xảy ra là kết quả của chính hành vi trái pháp luật mà
người đó đã thực hiện. Tức là hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại phải là
nguyên nhân gây ra thiệt hại cho người bị thiệt hại. Như vậy, mối quan hệ nhân quả
đóng vai trị quan trọng trong việc quy kết trách nhiệm BTTH môi trường đối với các
chủ thể gây thiệt hại. Trong lĩnh vực môi trường, để xác định mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi xâm phạm môi trường và thiệt hại xảy ra, yêu cầu chúng ta khi thực hiện
việc xác định thiệt hại môi trường cần phải đặt trong sự kết hợp chặt chẽ giữa hành vi
gây ONMT và thiệt hại xảy ra. Cụ thể, cần chứng minh hai mối quan hệ sau:
- Hành vi xâm phạm môi trường là nguyên nhân làm cho môi trường bị gây
ô nhiễm; và
- Môi trường bị ô nhiễm có mối liên hệ với thiệt hại được xác định.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
xâm phạm môi trường và thiệt hại mơi trường xảy ra là rất khó khăn, phức tạp. Bất
cập này một phần xuất phát từ sự hạn chế của chính sách pháp luật, cũng như trình độ,
năng lực của đội ngũ cán bộ chun mơn trong lĩnh vực khoa học mơi trường nói
chung và hoạt động xác định thiệt hại mơi trường nói riêng. Mặt khác, phần lớn
nguyên nhân là do xuất phát từ đặc trưng của thiệt hại môi trường là chúng thường


Trang 19


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

mang tính tiềm ẩn, phát sinh và ảnh hưởng trong khoảng thời gian lâu dài và phạm vi
không gian rộng lớn, nên việc xác định nguyên nhân gây ra thiệt hại là rất khó. Chẳng
hạn, trường hợp sức khoẻ của một người bị suy giảm, đó có thể là do ngun nhân
chủ quan từ chính người đó (như ăn uống khơng hợp vệ sinh, hoặc thể trạng yếu…)
chứ không chỉ do môi trường ô nhiễm gây ra, và trong trường hợp này, việc xác định
mối quan hệ nhân quả để quy trách nhiệm bồi thường cũng khơng phải là chuyện đơn
giản… Và đây chính là những “kẽ hở” để các chủ thể gây hại trốn tránh trách nhiệm.
 Thứ tư, có lỗi của chủ thể gây thiệt hại.
Dưới góc độ khoa học luật Dân sự nói chung, lỗi được hiểu là yếu tố chủ
quan nói lên thái độ tâm lý của con người có khả năng đánh giá và nhận thức được
hành vi của mình là đúng hay sai và hậu quả của hành vi đó. Lỗi là một trong bốn
điều kiện của trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng và có ý nghĩa quan trọng trong việc
quyết định trách nhiệm bồi thường.
Trước đây, trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng chỉ đặt ra khi có điều kiện lỗi.
Theo đó, chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến
quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Tuy nhiên, khuynh
hướng xác định trách nhiệm bồi thường dựa trên ý niệm lỗi nhiều khi không bảo đảm
được một cách hiệu quả quyền lợi cho nạn nhân trong khi việc BTTH cho người bị
thiệt hại là một đòi hỏi cấp thiết và chính đáng. Thực tế cho thấy, các thiệt hại mang
tính khách quan nhiều khi nằm ngồi sự chi phối, điều khiển của con người ngày càng
gia tăng cùng với sự phát triển của cơng nghiệp hóa, cơ giới hóa, đe dọa tới sự an tồn
về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người. Nếu trong mọi trường hợp xảy ra thiệt
hại đều buộc người bị hại dẫn chứng lỗi thì khơng khác gì gián tiếp bác bỏ quyền địi
BTTH của nạn nhân. Do đó, để bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ các chủ thể bị thiệt

hại, có quan điểm cho rằng trách nhiệm BTTH trong một số trường hợp có thể phát
sinh mà khơng cần điều kiện lỗi. Và BTTH do ONMT, STMT gây ra là một trong
những trường hợp đặc biệt đó. Điều 624 Bộ luật Dân sự 2005 quy định “Cá nhân,
pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm mơi trường
khơng có lỗi”. Trong q trình thực thi pháp luật, quy định này có ý nghĩa rất lớn đối
với việc giải quyết trách nhiệm BTTH về môi trường trong các sự cố tràn dầu từ các
phương tiện giao thông đường thuỷ xảy ra trong thời gian qua đã làm ONMT với diện
rất rộng, gây nhiều thiệt hại cho nhân dân, tổ chức ở khu vực xung quanh. Trong
những trường hợp như vậy, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu đòi bồi thường mà

Trang 20


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

khơng cần phải dẫn chứng một lỗi nào của bên gây thiệt hại cả. Theo đó, họ chỉ cần
dẫn chứng sự thiệt hại thực tế đúng là kết quả (hậu quả) của chính hành vi do phía bên
kia đã gây ra.
Ngồi ra, theo ngun tắc chung của trách nhiệm dân sự ngồi hợp đồng, thì
trong lĩnh vực BTTH mơi trường, hình thức lỗi sẽ khơng ảnh hưởng tới mức độ và
trách nhiệm bồi thường của người đó. Người gây thiệt hại dù có lỗi cố ý hay có lỗi vơ
ý khi gây thiệt hại cho người khác thì người đó cũng phải bồi thường tồn bộ thiệt hại
do hành vi của mình gây ra, và khơng vì người gây thiệt hại có lỗi vơ ý hoặc cố ý
trong khi gây thiệt hại mà mức bồi thường tăng hay giảm tương ứng.
 Về hậu quả: cũng như các loại trách nhiệm BTTH thông thường khác, trách
nhiệm BTTH do ONMT, STMT luôn mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho
người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người tác động vào môi trường và gây ra tổn thất
cho người khác thì tổn thất đó phải có thể tính tốn được hoặc ln được pháp luật
quy định là một đại lượng vật chất nhất định để có thể quy ra trách nhiệm bồi thường

sao cho tương ứng với mức thiệt hại đã phát sinh. Do đó, những thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ do ONMT, STMT gây ra mặc dù khơng thể tính tốn được nhưng
cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị
thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi thường trong trường hợp
này sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại, qua đó bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp cho các chủ thể, trong đó có “quyền được sống trong mơi trường
trong lành” – một quyền năng quan trọng được pháp luật môi trường thừa nhận rộng
rãi.
 Về mức bồi thường: Cùng với BTTH ngoài hợp đồng, BTTH do ONMT,
STMT về nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong trường hợp đặc biệt đó là người gây thiệt hại có
lỗi vơ ý và thiệt hại xảy ra q lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của
họ. Theo đó, các loại thiệt hại do ONMT, STMT gây ra không chỉ là thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ và tài sản của tổ chức, cá nhân mà còn bao gồm những thiệt hại xảy
ra đối với môi trường tự nhiên. Tuy nhiên, mức thiệt hại này trên thực tế rất khó xác
định đầy đủ, và do những hạn chế pháp lý về các căn cứ để xác định thiệt hại do
ONMT, STMT gây ra nên hầu như trong các vụ việc xảy ra vừa qua cho thấy các chủ
thể gây hại chỉ bồi thường một phần thiệt hại so với những tổn thất xảy ra trên thực tế.
Tóm lại, với tính chất là một dạng của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng,
trách nhiệm BTTH do ONMT, STMT vừa mang những đặc điểm cơ bản của trách

Trang 21


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

nhiệm BTTH ngồi hợp đồng nói chung, mặt khác vừa thể hiện được những nét đặc
trưng vốn có của mình liên quan đến yếu tố mơi trường tự nhiên. Những đặc điểm của
chế định BTTH do ONMT, STMT như trên đã phân tích là những cơ sở quan trọng
giúp chúng ta hiểu rõ hơn bản chất của chế định và có khả năng phân biệt chế định đó

với các chế định khác có liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật mơi trường. Qua đó,
giúp cho các cơ quan chức năng vận dụng có hiệu quả hơn các chế tài pháp lý trong
từng trường hợp cụ thể.
1.2.2. Phân biệt chế định bồi thường thiệt hại với các biện pháp chế tài khác được
áp dụng đối với hành vi gây ơ nhiễm mơi trường, suy thối môi trường
Như trên đã đề cập, việc phân biệt chế định BTTH với các biện pháp chế tài
khác được áp dụng cho hành vi gây ONMT, STMT có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong
cơng tác BVMT nói chung và hoạt động xử lý vi phạm pháp luật môi trường nói
riêng. Theo các quy định pháp luật mơi trường hiện hành, thì hành vi vi phạm pháp
luật mơi trường ngồi việc bị áp dụng trách nhiệm BTTH, có thể bị áp dụng các loại
trách nhiệm pháp lý sau: trách nhiệm Hành chính, trách nhiệm Hình sự và trách nhiệm
áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét các biện pháp
chế tài trên trong mối liên hệ với trách nhiệm BTTH do ONMT, STMT gây ra.
1.2.2.1. Đối với trách nhiệm Hành chính và trách nhiệm Hình sự được áp dụng
cho hành vi vi phạm pháp luật mơi trường
Chúng ta có thể dễ dàng thấy được rằng, trách nhiệm BTTH và trách nhiệm
Hành chính, trách nhiệm Hình sự đều là những chế tài mang tính chất bắt buộc đối với
hành vi xâm hại đến môi trường. Qua đó, chúng đều nhằm mục đích ngăn chặn, trừng
phạt đối với hành vi trái pháp luật, hướng đến mục tiêu BVMT và phát triển bền vững
đất nước. Tuy nhiên, xuất phát từ bản chất khác nhau, tồn tại ở các ngành luật khác
nhau mà giữa chúng có những điểm khác nhau rất cơ bản:
Về cơ sở pháp lý: là một dạng của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nên
trách nhiệm BTTH do ONMT, STMT thuộc loại trách nhiệm Dân sự, do đó, ngồi
việc chịu sự điều chỉnh của pháp luật mơi trường, trách nhiệm BTTH cịn tn theo
các quy định pháp luật Dân sự. Trong khi đó, trách nhiệm Hành chính và trách nhiệm
Hình sự đều là những biện pháp cưỡng chế Nhà nước và phải chịu sự điều chỉnh của
pháp luật Hành chính và pháp luật Hình sự.
Về căn cứ phát sinh: Cũng như trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, trách
nhiệm BTTH do ONMT, STMT gây ra phát sinh khi có các căn cứ luật định: Có thiệt


Trang 22


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp
luật và thiệt hại thực tế, có lỗi của người vi phạm. Cịn trách nhiệm Hành chính và
trách nhiệm Hình sự phát sinh dựa trên cơ sở quyết định của cá nhân, cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền trong từng trường hợp cụ thể.
Về chủ thể áp dụng: chủ thể yêu cầu BTTH là chính các tổ chức, cá nhân bị
thiệt hại bởi hành vi xâm phạm môi trường thông qua quyền đàm phán, thương lượng
mức bồi thường với bên gây thiệt hại và về cơ bản, họ cũng chính là chủ thể có quyền
áp dụng trách nhiệm BTTH. Nếu các bên khơng thoả thuận được thì sẽ yêu cầu Toà
án giải quyết, lúc này Toà án là cơ quan có thẩm quyền áp dụng và quyết định các vấn
đề liên quan đến trách nhiệm BTTH. Đối với trách nhiệm Hình sự cũng như trách
nhiệm Hành chính, thì do bản chất đây là những biện pháp cưỡng chế Nhà nước nên
trong mọi trường hợp các loại trách nhiệm này sẽ được áp dụng bởi các cá nhân và cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền. Và cũng xuất phát từ bản chất khác nhau của hai
nhóm trách nhiệm pháp lý trên mà phương thức giải quyết chúng cũng hồn tồn
khơng giống nhau. Cụ thể, trách nhiệm BTTH trong lĩnh vực môi trường cho phép các
bên được thoả thuận mức bồi thường với nhau mà về nguyên tắc, Nhà nước khơng hề
có sự can thiệp nào. Theo đó, phương thức thoả thuận được ưu tiên hàng đầu, chỉ khi
nào sự thoả thuận khơng đạt được thì lúc đó theo yêu cầu của một trong các bên, cơ
quan có thẩm quyền mới can thiệp. Cịn trong trách nhiệm Hình sự và trách nhiệm
Hành chính, đây là một biện pháp cưỡng chế, bắt buộc chủ thể vi phạm phải tuân theo
mà khơng có sự lựa chọn nào khác, đồng thời, trong trường hợp này, sự tham gia của
chủ thể bị thiệt hại là không thường xuyên.
Về khách thể: BTTH do ONMT, STMT chủ yếu hướng đến bảo vệ các
quyền, lợi ích về tính mạng, sức khoẻ và tài sản của các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại.
Trong khi đó, khách thể trực tiếp của trách nhiệm Hành chính và trách nhiệm Hình sự

là các thành phần mơi trường bị ơ nhiễm, suy thối. Do vậy, trên thực tế sẽ có những
trường hợp ngay cả khi hành vi vi phạm pháp luật mơi trường khơng gây ra thiệt hại
gì cho tính mạng, sức khoẻ và tài sản của con người nhưng nếu chúng thoả mãn đầy
đủ các dấu hiệu cấu thành theo quy định pháp luật liên quan thì trách nhiệm Hành
chính hay trách nhiệm Hình sự vẫn được đặt ra đối với hành vi ấy.
Về mục đích: mặc dù cả hai nhóm trách nhiệm trên đều hướng đến mục tiêu
sâu xa là BVMT, ngăn ngừa hiện tượng ONMT, STMT nhưng giữa chúng cũng tồn
tại những điểm khác nhau nhất định. Nếu như việc BTTH nhằm mục đích trực tiếp là
bồi hồn lại những thiệt hại đã gây ra thơng qua việc buộc bên gây thiệt hại phải bồi

Trang 23


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

thường bằng tiền hoặc giá trị vật chất khác cho bên bị thiệt hại tương ứng với mức tổn
thất mà họ phải gánh chịu; thì mục đích trước tiên mà trách nhiệm Hành chính và
trách nhiệm Hình sự đặt ra là nhằm trừng phạt và răn đe đối tượng vi phạm bằng
những biện pháp chế tài phù hợp, qua đó nhằm ngăn ngừa và hạn chế tình trạng vi
phạm pháp luật mơi trường.
1.2.2.2. Đối với biện pháp khắc phục hậu quả do ONMT, STMT gây ra
Do tính chất quan trọng của mơi trường nên khi hành vi xâm phạm mơi
trường xảy ra thì trách nhiệm BTTH đặt ra vẫn là chưa đủ mà đòi hỏi phải có những
hành động thiết thực nhằm khắc phục hậu quả xảy ra do môi trường bị xâm phạm
như: phục hồi sản xuất, vệ sinh mơi trường, khơi phục tình trạng mơi trường sạch sẽ
như ngun trạng…Và từ đó, biện pháp khắc phục hậu quả ra đời và trở thành một
trong những biện pháp chế tài được áp dụng đối với hành vi vi phạm pháp luật môi
trường. Theo quy định của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính, ngồi các hình thức
xử phạt chính, “cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi
trường cịn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:

a) Buộc thực hiện biện pháp giảm thiểu tiếng ồn, độ rung, xử lý chất thải đạt tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường; b) Buộc phục hồi môi trường; buộc thực hiện
các biện pháp khắc phục tình trạng ơ nhiễm, lây lan dịch bệnh và các biện pháp bảo
vệ môi trường khác theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường…”(khoản 3
Điều 3 Nghị định 117/2009/NĐ-CP). Như vậy, quy định trên đã cho thấy, khắc phục
hậu quả là biện pháp chế tài bổ trợ được áp dụng kèm theo chế tài trách nhiệm Hành
chính. Vì vậy, về ngun tắc, mối tương quan so sánh giữa trách nhiệm BTTH trong
lĩnh vực môi trường với biện pháp chế tài bổ sung này cũng sẽ có sự tương tự về
những điểm giống nhau và khác biệt giữa trách nhiệm BTTH và trách nhiệm Hành
chính như trên đã phân tích. Do đó, ở đây chúng ta sẽ không đi sâu vào việc so sánh
hai chế định mà chỉ đề cập đến mối liên hệ chặt chẽ giữa trách nhiệm BTTH và biện
pháp khắc phục hậu quả do ONMT, STMT gây ra.
Thông thường, trong các quan hệ pháp lý khác có liên quan đến BTTH,
người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra và được giải
phóng khỏi quan hệ với người bị hại. Nhưng trong lĩnh vực môi trường, người làm
ONMT gây ra thiệt hại thường phải thực hiện đồng thời cả hai biện pháp đó là khắc
phục tình trạng mơi trường bị ô nhiễm và BTTH về môi trường. Tác dụng chính của
biện pháp khắc phục hậu quả là hạn chế, ngăn chặn phạm vi ảnh hưởng, khả năng lây
lan ONMT, đồng thời làm giảm nhẹ những thiệt hại do ONMT gây ra. Tác dụng của

Trang 24


Bồi thường thiệt hại do ONMT, STMT gây ra –Thực trạng & hướng hoàn thiện.

BTTH là bù đắp những tổn thất về người, tài sản và những giá trị sinh thái đã bị mất.
Bên cạnh đó, hai loại trách nhiệm này cịn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và trong
một số trường hợp, chúng có thể thay thế (chuyển hóa) cho nhau, đặc biệt là khi chỉ
xuất hiện thiệt hại đối với môi trường tự nhiên mà không xuất hiện thiệt hại đối với
tính mạng, sức khỏe, tài sản của tổ chức, cá nhân. Đối với những trường hợp này, do

mức thiệt hại được xác định chỉ là những tổn thất đối với môi trường tự nhiên nên
mức BTTH cho hành vi xâm phạm môi trường là chi phí khơi phục mơi trường như
hiện trạng ban đầu. Do vậy, nếu việc khắc phục tình trạng mơi trường bị ơ nhiễm, suy
thối do chính người bị thiệt hại tiến hành thì những chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn
chế và khắc phục thiệt hại sẽ được tính trong tổng giá trị thiệt hại để đòi bồi thường.
Còn trong trường hợp người có trách nhiệm BTTH đã tự mình thực hiện các biện
pháp khắc phục tình trạng mơi trường bị ơ nhiễm thì họ sẽ được giải phóng hoặc giảm
trách nhiệm BTTH về môi trường. Như vậy, đến đây chúng ta đã thấy được mối quan
hệ mật thiết giữa BTTH về môi trường và biện pháp khắc phục hậu quả mơi trường,
có những trường hợp chúng sẽ bổ trợ cho nhau trong việc xử lý hành vi trái pháp luật,
và cũng có những lúc chúng được chuyển hố cho nhau nhằm giúp cho hoạt động xử
lý vi phạm pháp luật môi trường trở nên linh hoạt và hiệu quả hơn.
Nhìn chung, qua phân tích những điểm tương đồng và khác biệt cũng như
mối liên hệ giữa các biện pháp chế tài trong lĩnh vực môi trường, cho thấy, mặc dù
mang bản chất khác nhau nhưng giữa chúng luôn luôn tồn tại song hành nhau để bổ
trợ, chuyển hoá cho nhau nhằm nâng cao tính nghiêm khắc của hệ thống chế tài pháp
luật môi trường nước ta và hướng đến mục tiêu BVMT một cách hữu hiệu nhất.
1.2.3. Các nguyên tắc cơ bản của chế định bồi thường thiệt hại do ơ nhiễm mơi
trường, suy thối mơi trường gây ra
Mỗi ngành luật trong tồn hệ thống pháp luật đều có những nguyên tắc đặc
trưng nhằm thể hiện được phương hướng, mục tiêu vận hành của nó, và Luật Mơi
trường cũng không là một ngoại lệ. Theo cách tiếp cận chung, nguyên tắc của LMT là
những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo toàn bộ các chế định, các quy phạm pháp luật môi
trường, được ghi nhận trong Luật BVMT và trong các văn bản có liên quan. Theo đó,
với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật môi trường, chế định
BTTH do ONMT, STMT gây ra cũng có những nguyên tắc đặc trưng riêng. Sau đây
tác giả sẽ trình bày một số nguyên tắc cơ bản nhất của chế định, bao gồm: nguyên tắc
khuyến khích các bên tranh chấp thương lượng và hoà giải tại cấp cơ sở, nguyên tắc
bồi thường toàn bộ và kịp thời, nguyên tắc Nhà nước ghi nhận và bảo vệ quyền con


Trang 25


×