TẠP CHÍ KHPL SỐ 3(40)/2007
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO Ơ NHIỄM,
SUY THỐI MƠI TRƯỜNG
VŨ THU HẠNH*
*TS. Luật học, Đại học Luật Hà Nội
Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thối mơi trường được pháp luật ghi nhận
lần đầu tiên tại Luật Bảo vệ môi trường (Luật BVMT) năm 1993, theo đó “tổ
chức, cá nhân gây tổn hại mơi trường do hoạt động của mình phải bồi thường
thiệt hại theo quy định của pháp luật”. Nhưng phải đến khi Luật BVMT (2005)
được ban hành, vấn đề này mới được đề cập một cách rõ ràng hơn. Với việc dành
riêng 5 điều cho các quy định về bồi thường thiệt hại do ơ nhiễm, suy thối mơi
trường (từ Điều 131 đến Điều 135, Mục 2), Luật BVMT (2005) đã thể hiện một
bước tiến đáng kể trong q trình “hiện thực hóa” nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền - một nguyên tắc được xem là đặc trưng của lĩnh vực mơi trường.
Tuy nhiên, để có thể áp dụng được trách nhiệm này một cách đầy đủ trên thực tế,
pháp luật môi trường cần phải quy định rõ ràng, cụ thể hơn nữa việc xác định các
thiệt hại do ô nhiễm, suy thối mơi trường gây nên [1], trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về mơi trường.
I. THIỆT HẠI DO Ơ NHIỄM, SUY THỐI MƠI TRƯỜNG
1. Quan niệm về thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường
Trên phạm vi thế giới, hiện đang tồn tại song song 2 quan niệm khác nhau về
thiệt hại do ơ nhiễm, suy thối mơi trường:
Một là, thiệt hại do ơ nhiễm, suy thối mơi trường chỉ gồm thiệt hại đối với các
yếu tố môi trường tự nhiên, như hệ động vật, thực vật, đất, nước, khơng khí... mà
khơng bao gồm thiệt hại đối với tính mạng, sức khỏe và tài sản của con người. Cụ
thể:
Trong một số điều ước quốc tế về môi trường có liên quan đến nội dung này,
thiệt hại về mơi trường được xác định bao gồm: i) Động vật, thực vật, đất, nước
và các yếu tố khí hậu; ii) Tài sản vật chất (kể cả di sản khảo cổ và văn hóa); iii)
Cảnh quan; iv) Mối quan hệ tương hỗ giữa các yếu tố trên. Những định nghĩa hợp
pháp nhất về thiệt hại do ơ nhiễm, suy thối mơi trường gây nên không bao gồm
con người và tài sản của họ[2]. Tương tự, Cộng đồng chung châu Âu quan niệm
thiệt hại trong lĩnh vực môi trường là sự thay đổi bất lợi về tài nguyên thiên nhiên
hoặc cản trở đáng kể đến các dịch vụ mơi trường có thể xảy ra một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp và chúng thường biểu hiện dưới các dạng sau: i) Thiệt hại đối với
các lồi và mơi trường sống tự nhiên của chúng; ii) Thiệt hại đối với môi trường
nước; iii) Thiệt hại về đất (tức là bất kỳ sự ô nhiễm đất nào gây ra nguy cơ đáng
kể cho sức khỏe con người, bị ảnh hưởng bất lợi do kết quả của việc đưa trực tiếp
hoặc gián tiếp các chất, sản phẩm pha chế, các sinh vật hoặc vi sinh vật vào đất
hoặc lịng đất)[3].
Tại Kazakhstan, thiệt hại mơi trường được đề cập gồm thiệt hại gây ra đối với tài
nguyên sinh học từ các hồ, sông, đầm lầy; thiệt hại về đất, mơi trường xung quanh
và số lượng các lồi. Tại Kyrgystan, thiệt hại về môi trường bao gồm nước (cung
cấp nước sạch, thốt nước mưa, nước thải); khơng khí (ơ nhiễm khơng khí); đất
(chơn lấp rác thải và đất trồng); thủy sản; cây cối; rừng; nguồn tài nguyên khoáng
sản. Tại Phần Lan, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đặt ra đối với những
thiệt hại về môi trường gây nên bởi các hoạt động trong một khu vực nhất định và
là kết quả từ ơ nhiễm đất, nước, khơng khí. Tại Canada, thiệt hại về môi trường
gồm hệ sinh thái nước ngọt và hệ sinh thái ven bờ; khơng khí, đất, nước do thải
các chất độc hại, hóa chất, các yếu tố vật chất khác và tràn dầu; nước biển, hệ
động vật và thực vật biển[4]. Tại Hàn Quốc, thiệt hại mơi trường là tình trạng gây
ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với những chức năng vốn có của mơi trường
tự nhiên do săn bắt quá mức động vật hoang dã hoặc thu hoạch quá mức tài
nguyên sinh vật, phá hủy nơi sinh sống của chúng, làm xáo động trật tự của hệ
sinh thái và làm tổn hại đến cảnh quan thiên nhiên[5]...
Quan niệm chung của các quốc gia nêu trên là thiệt hại về mơi trường có thể
được nhận dạng theo nhiều cách phân tầng khác nhau, từ rộng đến hẹp, từ tổng
hợp đến hợp phần, từ môi trường chung đến từng thành phần môi trường cụ thể,
song cho dù là tiếp cận ở góc độ và cấp độ nào thì thiệt hại về môi trường đều
không bao gồm thiệt hại đối với con người hoặc tài sản, mặc dù chúng có thể là
hậu quả trực tiếp của thiệt hại về môi trường[6].
Hai là, thiệt hại về môi trường không chỉ bao gồm các thiệt hại đến chất lượng
mơi trường mà cịn cả thiệt hại về sức khỏe, tài sản của cá nhân do ô nhiễm môi
trường gây nên. Cụ thể:
Tại Cộng hòa liên bang Nga, định nghĩa về thiệt hại do ô nhiễm, suy thối mơi
trường gồm thiệt hại về sức khỏe cá nhân bị gây ra một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp từ ô nhiễm môi trường[7]. Tại Nhật bản, thiệt hại về môi trường được phân
chia thành nhiều loại, như thiệt hại đối với sức khỏe và tính mạng của con người
(do cơ thể con người hấp thụ hoặc bị tác động bởi các chất độc hại mà sinh ra
bệnh tật hoặc các thương tổn khác); thiệt hại về tài sản (do môi trường sống của
hệ sinh vật bị ô nhiễm, suy thối, từ đó làm giảm năng suất cây trồng, vật nuôi
như: cá, tôm bị chết do ô nhiễm nguồn nước, lúa, hoa màu, cây cối bị chết do ô
nhiễm đất, ơ nhiễm khơng khí...); thiệt hại đối với các nguồn tài nguyên thiên
nhiên và hệ sinh thái (do tài nguyên thiên nhiên bị khai thác một cách quá mức
như rừng bị tàn phá, nguồn nước bị cạn kiệt, động, thực vật quí hiếm bị sát hại, bị
tuyệt chủng, nguồn lợi thủy sinh và các loài nhạy cảm bị hủy diệt, suy giảm đa
dạng sinh học, cân bằng sinh thái bị phá vỡ...); thiệt hại do mất hoặc giảm giá trị
cảnh quan (do cảnh quan thiên nhiên bị phá vỡ, danh lam thắng cảnh bị tàn phá,
di tích lịch sử bị hủy hoại như khu du lịch, khu vui chơi, giải trí bị thu hẹp, nhiễm
bẩn, ơ uế, có mùi hơi thối, khu di tích bị lấn chiếm, phá dỡ...). Đặc biệt, tại
Australia, ngồi những thiệt hại kể trên, các lợi ích về văn hóa, lợi ích về tình
cảm, trí tuệ, lợi ích thẩm mỹ, giải trí (gọi chung là lợi ích phi vật chất) cũng được
coi là một loại thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra [8], trong đó lợi ích văn hóa
bị xâm phạm thường phát sinh khi có các dự án phát triển được xây dựng trên
những vùng đất có hoạt động tơn giáo, tín ngưỡng - những vùng đất được coi là
thiêng liêng đối với các cộng đồng dân tộc, đặc biệt là dân tộc ít người, thổ dân.
Quốc gia này cho rằng bên cạnh khả năng xâm phạm đến chất lượng môi trường
sống của cộng đồng, những cơng trình như thế cịn ảnh hưởng rất lớn đến tình
cảm, tín ngưỡng, văn hóa của người dân sở tại. Tương tự, sự phiền toái và bức
bối của người dân do hàng ngày phải chịu tiếng ồn, độ rung quá mức từ các
phương tiện giao thông hay tâm trạng buồn rầu trĩu nặng do khung cảnh thiên
nhiên thân thuộc bị tàn phá... cũng được xem là những lợi ích về tình cảm và trí
tuệ bị xâm phạm do ơ nhiễm, suy thối mơi trường gây nên.
Như vậy, theo cách quan niệm này thì thiệt hại về mơi trường khơng chỉ bao gồm
thiệt hại đối với môi trường tự nhiên mà còn bao gồm cả thiệt hại đối với sức
khỏe và tài sản của con người. Tuy nhiên, khi đề cập đến những loại lợi ích nêu
trên, pháp luật của các nước cũng giới hạn rất rõ ràng quyền khởi kiện của người
bị hại. Chẳng hạn, tại Australia, chỉ riêng lợi ích thẩm mỹ, giải trí bị xâm hại thì
không được coi là cơ sở khởi kiện các vụ án về môi trường mà chúng phải được
đặt trong mối quan hệ với một yếu tố môi trường cụ thể nào đó bị xâm hại.
Tại Việt Nam, tính từ thời điểm Luật BVMT (2005) được ban hành, thiệt hại do ô
nhiễm, suy thoái môi trường được xác định theo quan niệm thứ hai. Theo quy
định tại Điều 131 Luật BVMT (2005), có 2 loại thiệt hại:
Thứ nhất, thiệt hại đối với mơi trường tự nhiên. Đó là sự suy giảm chức năng,
tính hữu ích của mơi trường, trong đó chức năng, tính hữu ích của mơi trường
được thể hiện qua các phương diện chính như sau: 1) Mơi trường là không gian
sinh tồn của con người; 2) Môi trường là nơi cung cấp các nguồn tài nguyên thiên
nhiên và đa dạng sinh học (kể cả vật liệu, năng lượng, thông tin cần thiết cho
cuộc sống và hoạt động của con người); 3) Môi trường là nơi chứa đựng và tiêu
hủy chất thải do con người thải ra trong các hoạt động của mình. Như vậy, có thể
hiểu sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của mơi trường xảy ra khi: Một là, chất
lượng của các yếu tố môi trường sau khi bị tác động thấp hơn so với tiêu chuẩn về
chất lượng môi trường; hai là, lượng tài nguyên thiên nhiên bị khai thác, sử dụng
lớn hơn lượng được khôi phục (đối với tài nguyên tái tạo) và/hoặc lớn hơn lượng
thay thế (đối với tài nguyên không tái tạo được); ba là, lượng chất thải thải vào
môi trường lớn hơn khả năng tự phân hủy, tự làm sạch của chúng.
Thứ hai, thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích
của mơi trường gây ra. Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của con người được thể
hiện qua các chi phí để cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi các chức năng
bị mất của người bị hại và các khoản thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do bị
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe có ngun nhân từ ơ nhiễm, suy thối môi
trường. Thiệt hại về tài sản được thể hiện qua những tổn thất về cây trồng, vật
ni, những khoản chi phí cho việc sửa chữa, thay thế, ngăn chặn và phục hồi tài
sản bị thiệt hại do ơ nhiễm, suy thối mơi trường gây nên. Cịn thiệt hại đến lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được thể hiện qua sự tổn hại về lợi ích vật
chất, sự giảm sút về thu nhập chính đáng mà nguyên nhân là do sự suy giảm chức
năng, tính hữu ích của mơi trường.
Trong mối quan hệ với loại thiệt hại thứ nhất, loại thiệt hại thứ hai luôn được
xem là thiệt hại gián tiếp (còn gọi là thiệt hại phái sinh hay thiệt hại thứ sinh) thiệt hại chỉ xảy ra khi đã có loại thiệt hại thứ nhất. Tuy nhiên, cần lưu ý là giữa
thiệt hại đối với môi trường tự nhiên và thiệt hại đối với tài sản, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân khơng phải ln ln và hồn tồn tách biệt. Trong một số
trường hợp thiệt hại về môi trường tự nhiên tại một khu vực nhất định cũng đồng
thời là thiệt hại về tài sản, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tại khu vực đó.
Ví dụ, sự suy giảm nguồn lợi thủy sinh tại một vùng biển bị ô nhiễm cũng đồng
thời là sự giảm sút về thu nhập của ngư dân ở khu vực đó. Điều này thiết nghĩ
cần được lưu ý để tránh sự trùng lặp khi xác định các loại thiệt hại cụ thể do ô
nhiễm, suy thoái môi trường gây nên.
2. Xác định thiệt hại do ơ nhiễm, suy thối mơi trường
Xác định thiệt hại do ơ nhiễm, suy thối mơi trường là vấn đề không đơn giản
ngay cả ở những nước phát triển, nơi mà lý thuyết về lượng giá các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, các yếu tố môi trường đã được định hình và củng cố. Theo
các nghiên cứu chung của Chương trình mơi trường Liên Hiệp quốc năm 2000
(UNEP), các cách thức xác định thiệt hại môi trường hiện được chia thành các
nhóm sau:
Một là, việc xác định giá trị tổn thất đối với mơi trường được thực hiện bởi tịa án
hoặc các chuyên gia trong lĩnh vực môi trường. Tại Italia, tịa án có nhiệm vụ xác
định thiệt hại mơi trường (cịn gọi là đánh giá tổn thất mơi trường) [9]. Cịn nếu
trong trường hợp khơng thể định lượng được một cách chính xác những tổn thất
thì thiệt hại sẽ được ấn định bằng một khoản tiền hợp lý có tính đến mức độ
nghiêm trọng của sự thiếu cẩn trọng của con người, chi phí phục hồi và những lợi
nhuận mà những người làm hại môi trường có được. Tại New Zealand, tịa án
phải xem xét tất cả những nhân tố thích hợp bao gồm cả những chi phí phát sinh
trong q trình phục hồi những thiệt hại đối với mơi trường để tính tốn khoản
bồi thường hoặc tiền phạt[10]...
Hai là, xác định thiệt hại theo phương thức quy ra một khoản tiền cố định. Cách
thức này được áp dụng tại các nước Tây Ban Nha, Hungary, Mơng Cổ và các
nước châu Mỹ La tinh. Ví dụ: tại Tây Ban Nha, giá trị của một loại động vật
được định giá từ 2500 peseta lên đến 1,5 triệu pesets (đối với các động vật có
nguy cơ bị tuyệt chủng như gấu, mèo rừng Iberia); cá nước ngọt có giá từ
100.000 đến 500.000 peseta...; tại Hungary, người vi phạm có thể phải trả gấp 10
lần giá trị của những động thực vật đang được bảo vệ đặc biệt bị hủy hoại.
Ba là, giao cho các viên chức hành chính hoặc chính quyền địa phương xác định
thiệt hại. Tại Australia (các bang New South Wales và Victoria), các tổ chức quần
chúng trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường có thể được giao xác định mức độ thiệt hại
môi trường.
Bốn là, các phương thức đánh giá khác, điển hình là phương pháp Koch (được sử
dụng rộng rãi tại Cộng hòa Liên bang Đức trong việc xác định những tổn thất được
bồi hoàn đối với cây cối bị hủy hoại). Theo phương pháp này, chi phí bồi thường
thiệt hại mơi trường bao gồm: i) Chi phí (giá mua) thay thế cây mới; ii) Chi phí
trồng và chăm sóc ban đầu; iii) Chi phí phịng chống cho cây khỏi bị nguy cơ bật
gốc; iv) Chi phí chăm sóc thường xun; v) Tiền lãi từ những số tiền chi phí nêu
trên theo quy tắc kế toán kinh doanh. Phương pháp này cũng được áp dụng phổ
biến tại Bỉ[11].
Tại Việt Nam, cả từ phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy sự mờ nhạt về
mảng kiến thức này. Hiện tại, chúng ta mới chỉ đúc rút được đôi chút kinh
nghiệm từ thực tiễn tự phát giải quyết các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại về sức
khỏe, tài sản do ô nhiễm môi trường gây nên. Việc xác định thiệt hại đối với môi
trường tự nhiên trong một số lần sự cố tràn dầu vẫn phải nhờ đến tư vấn, giúp đỡ
của các chuyên gia quốc tế. Để Việt Nam có thể tự chủ trong việc xác định thiệt
hại do ơ nhiễm, suy thối mơi trường gây nên, đặc biệt là thiệt hại đối với môi
trường tự nhiên, những nội dung sau đây cần phải được làm sáng tỏ trong các văn
bản pháp luật hướng dẫn việc xác định thiệt hại về môi trường.
Một là, thành phần môi trường được xác định thiệt hại.
Về lý thuyết, thiệt hại đối với môi trường tự nhiên được hiểu là thiệt hại đối với
tất cả các yếu tố vật chất tạo thành mơi trường, như đất, nước, khơng khí, âm
thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác. Tuy nhiên,
tại thời điểm này việc xác định thiệt hại đối với tất cả các thành phần môi trường
nêu trên là điều không hiện thực. Qua khá nhiều cuộc tranh luận khoa học (ở cả
cấp quốc gia và quốc tế), việc xác định thiệt hại đối với môi trường tự nhiên chỉ
nên bao gồm thiệt hại đối với đất, nước, khơng khí và đa dạng sinh học. Ngay cả
việc có xem mơi trường khơng khí là đối tượng thiệt hại được tính bồi thường
hay khơng cũng là vấn đề chưa hoàn toàn đạt được sự thống nhất ý kiến. Do đặc
tính khuếch tán của mơi trường khơng khí nên khó có thể tính tốn được thiệt hại
đối với yếu tố môi trường này như các yếu tố môi trường khác. Tương tự, thiệt
hại đối với đa dạng sinh học cũng cần phải giới hạn ở những thiệt hại về hệ sinh
thái, lồi sinh vật do ơ nhiễm, suy thối mơi trường gây nên, để phân biệt với
thiệt hại về đa dạng sinh học do hành vi trực tiếp xâm hại đến các giống loài sinh
vật, hệ sinh thái, mà về bản chất pháp lý những thiệt hại đó là hậu quả của hành
vi vi phạm các quy định của pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học chứ không
phải là hành vi vi phạm pháp luật môi trường.
Hai là, mức độ thiệt hại được xác định.
Hiện tại, Luật BVMT (2005)xác định có 3 mức độ của sự suy giảm chức năng,
tính hữu ích của mơi trường, đó là: i) có suy giảm, ii) suy giảm nghiêm trọng, iii)
suy giảm đặc biệt nghiêm trọng (khoản 1 Điều 131). Nhiệm vụ của văn bản
hướng dẫn là phải lượng hóa được một cách đầy đủ hơn 3 mức độ suy giảm nêu
trên, làm căn cứ cho việc xác định các mức độ thiệt hại.
Cả từ phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy khó có thể đo, đếm được sự
suy giảm thực tế về chức năng, tính hữu ích của mỗi thành phần mơi trường khi
chúng bị ơ nhiễm, suy thối. Trong trường hợp này chúng ta cần phải vận dụng
phương pháp suy đốn lơgíc, theo đó nếu một thành phần mơi trường bị ơ nhiễm
ở các mức có ơ nhiễm, ơ nhiễm nghiêm trọng, ơ nhiễm đặc biệt nghiêm trọng thì
cũng có nghĩa là thành phần mơi trường đó đã bị sự suy giảm tương ứng về chức
năng, tính hữu ích của nó. Điều đó cũng có nghĩa là thiệt hại đối với mơi trường
tự nhiên có thể được chia làm 3 cấp độ tương ứng với 3 mức suy giảm chức năng,
tính hữu ích của môi trường. Luật BVMT (2005)một lần nữa lại thể hiện sự phát
triển đáng ghi nhận khi căn cứ vào tiêu chuẩn mơi trường để lượng hóa ở mức có
thể nhận diện được các cấp độ ô nhiễm môi trường (Điều 92).
Tương tự như vậy cũng có thể xác định các cấp độ suy giảm chức năng, tính hữu
ích của mơi trường căn cứ vào các mức độ suy thối mơi trường. Do mức độ suy
thối mơi trường cũng có thể được xác định dựa trên cơ sở số lượng của thành
phần môi trường bị khai thác, sử dụng quá mức so với trữ lượng tự nhiên của nó;
dựa vào mức độ khan hiếm của thành phần môi trường trên thực tế hay mức độ
ưu tiên của Nhà nước trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển mỗi thành phần môi
trường... Tuy nhiên, hiện tại pháp luật chưa có các quy định để lượng hóa các
mức độ suy thối mơi trường nên việc xác định mức độ suy giảm chức năng, tính
hữu ích của mơi trường do mơi trường bị suy thối mới chỉ dừng lại ở các mức
định tính.
Để việc bồi thường thiệt hại mang tính khả thi chúng tơi cho rằng thiệt hại được
tính để đòi bồi thường chỉ nên bao gồm sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của
mơi trường ở 2 cấp độ: nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Với mức thiệt hại
không đáng kể, việc xác định thiệt hại đối với môi trường, cũng như việc giải
quyết bồi thường thiệt hại chỉ làm gia tăng sự bất hợp lý giữa lợi ích xã hội cần
phải được bảo vệ với chi phí xã hội phải bỏ ra để bảo vệ lợi ích đó.
Ba là, các căn cứ để xác định mức độ thiệt hại.
Xác định mức độ thiệt hại môi trường thông qua việc xác định phạm vi, giới hạn
môi trường bị suy giảm chức năng, tính hữu ích có lẽ là quy định bất cập nhất
trong số các quy định về thiệt hại môi trường. Theo khoản 2 Điều 131, việc xác
định phạm vi, giới hạn môi trường bị suy giảm chức năng, tính hữu ích gồm có: i)
Xác định giới hạn, diện tích của khu vực, vùng lõi bị suy giảm nghiêm trọng và
đặc biệt nghiêm trọng; ii) Xác định giới hạn, diện tích vùng đệm trực tiếp bị suy
giảm; iii) Xác định giới hạn, diện tích các vùng khác bị ảnh hưởng từ vùng lõi và
vùng đệm. Việc sử dụng các thuật ngữ vùng lõi, vùng đệm để chỉ mức độ khác
nhau của sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của mơi trường rất có thể sẽ gây
cho người đọc sự nhầm lẫn giữa nội dung pháp lý của những thuật ngữ này với
thuật ngữ vùng lõi, vùng đệm trong các văn bản pháp luật về bảo vệ và phát triển
rừng, bảo tồn đa dạng sinh học.
Để hạn chế sự nhầm lẫn khơng đáng có, thuật ngữ vùng lõi, vùng đệm sử dụng
trong Luật BVMT (2005) cần phải được đổi thành thuật ngữ vùng hay khu vực
trung tâm ô nhiễm (khu vực bị thiệt hại nặng), vùng hay khu vực cận kề ô nhiễm
(khu vực bị thiệt hại nhẹ hơn so với khu vực trung tâm) để chỉ các mức độ khác
nhau của thiệt hại môi trường.
Số lượng thành phần mơi trường, loại hình hệ sinh thái, giống loài bị suy giảm,
và mức độ thiệt hại của từng loại cũng là một trong những căn cứ để xác định
mức độ thiệt hại đối với môi trường (khoản 3 Điều 131). Thực tế cho thấy một
hành vi làm ơ nhiễm mơi trường có thể gây thiệt hại cùng một lúc hai hoặc nhiều
thành phần môi trường. Mức độ thiệt hại đối với môi trường trong trường hợp
này sẽ phụ thuộc vào số lượng nhiều hay ít các yếu tố môi trường bị suy giảm. Số
lượng thành phần mơi trường bị xâm hại càng lớn thì thiệt hại gây ra sẽ càng
nặng nề. Tương tự, mức độ thiệt hại đối với mơi trường sẽ phụ thuộc vào giống,
lồi động thực vật bị thiệt hại. Nếu giống loài bị thiệt hại có mức độ đe dọa, q
hiếm càng cao thì có nghĩa là thiệt hại gây ra đối với môi trường càng lớn. Trong
trường hợp này, Danh mục các loài động, thực vật hoang dã, quý hiếm sẽ là một
trong những cơ sở pháp lý giúp cho việc xác định mức độ thiệt hại đối với môi
trường được dễ dàng hơn.
Ngoài ra, đối với các vùng, khu vực khác nhau nhưng có cùng mức độ suy giảm
chức năng, tính hữu ích của mơi trường có thể dùng hệ số (k) để xác định thiệt
hại, trừ trường hợp trong các tiêu chuẩn môi trường đã xác định giá trị hệ số
vùng, khu vực.
Bốn là, các căn cứ để tính tốn thiệt hại.
Trong số 4 căn cứ để tính tốn thiệt hại thì căn cứ vào chi phí xử lý, cải tạo phục
hồi mơi trường và chi phí giảm thiểu hoặc triệt tiêu nguồn gây thiệt hại (điểm b, c
khoản 4 Điều 131) được xem là có tính khả thi trong việc xác định thiệt hại, cũng
như cho việc áp dụng trách nhiệm bồi thường. Các căn cứ còn lại, như tính tốn
chi phí thiệt hại trước mắt và lâu dài do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của
các thành phần mơi trường; hay thăm dị ý kiến các đối tượng liên quan (điểm a,
d khoản 4 Điều 131) được xem là còn khá mơ hồ và khó áp dụng trong điều kiện
hiện tại của Việt Nam.
Tính tốn thiệt hại thơng qua chi phí giảm thiểu hoặc triệt tiêu nguồn gây thiệt hại
được hiểu là thiệt hại gây ra cho mơi trường được tính bằng tổng chi phí cho các
nguồn gây ơ nhiễm để đạt ở mức được thải ra môi trường mà không gây ô nhiễm.
Khi cơ sở đầu tư để xử lý chất thải thì sẽ không gây ô nhiễm môi trường, và tất
nhiên sẽ không gây thiệt hại đối với môi trường. Như vậy, nếu mơi trường bị ơ
nhiễm, số thiệt hại ít nhất sẽ bằng tổng số chi phí để lắp đặt hệ thống xử lý khí
thải, xử lý nước thải, để giữ cho môi trường ở mức bằng hoặc dưới mức tiêu chuẩn
về chất lượng mơi trường.
Tính tốn thiệt hại mơi trường thơng qua chi phí xử lý, cải tạo, phục hồi môi
trường được hiểu là bên gây ô nhiễm môi trường phải bồi thường một khoản
bằng chi phí bỏ ra để xử lý ô nhiễm, để loại bỏ các yếu tố độc hại có trong thành
phần mơi trường, như chi phí để xử lý, cải tạo đất bị ô nhiễm, để phục hồi độ phì
nhiêu của đất; chi phí để nạo vét kênh rạch, sông, hồ, làm sạch môi trường
nước...
II. TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO Ơ NHIỄM, SUY
THỐI MƠI TRƯỜNG
Trên phạm vi thế giới cũng như tại Việt Nam, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
ơ nhiễm, suy thối môi trường được tiếp cận và được pháp luật ghi nhận với những
nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, môi trường cần được xem là một loại “tài sản đồng nhất” [12], được xác
định bởi các giá trị khoa học, kinh tế và môi sinh. Gây hại đối với mơi trường
chính là gây hại đến các giá trị nêu trên. Nếu xem xét một cách chặt chẽ tác hại
gây ra đối với môi trường tự nhiên không khác gì tác hại gây ra đối với con người
hay với tài sản của con người thì chất lượng mơi trường bị suy giảm, bị xâm hại
cũng cần phải được bồi thường một cách thỏa đáng. Người gây thiệt hại phải có
trách nhiệm bồi thường những tổn thất gây ra đối với môi trường. Trách nhiệm
này trước hết được hiểu là trách nhiệm đối với cộng đồng, với xã hội của người
gây hại cho mơi trường vì họ đã xâm hại tới các điều kiện sống chung của con
người. Tiếp đến mới là trách nhiệm đối với các tổ chức, cá nhân cụ thể là nạn
nhân của sự xâm hại đó, thể hiện qua việc bồi thường thiệt hại đối với tính mạng,
sức khỏe, tài sản của người bị hại. Hai khía cạnh trên của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về môi trường được xác định bởi yếu tố khách thể của quan hệ pháp luật
môi trường. Trong các quan hệ pháp luật mơi trường, lợi ích mà các bên tham gia
quan hệ hướng tới vừa có tính chất cơng (lợi ích cơng) vừa có tính chất tư (lợi ích
tư). Trong mọi trường hợp lợi ích cơng cộng, lợi ích cộng đồng phải được ưu tiên
bảo vệ. Điều này cũng có nghĩa là cần phải có sự phân định giữa trách nhiệm bồi
thường thiệt hại đối với môi trường tự nhiên với trách nhiệm bồi thường thiệt hại
đối với tính mạng, sức khỏe, tài sản con người. Sự phân định này nên được thể
hiện qua các quy định về mức bồi thường, hình thức và phương thức bồi thường.
Chẳng hạn như đối với những thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của con người, tài
sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do gây ô nhiễm, suy thối mơi
trường, giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có thể thỏa thuận về mức bồi
thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường. Còn thiệt hại đối với
môi trường tự nhiên, người gây thiệt hại chỉ được lựa chọn các mức bồi thường,
hình thức bồi thường và phương thức bồi thường theo quy định của pháp luật
Thứ hai, do quan hệ pháp luật trong lĩnh vực mơi trường có thể phát sinh giữa
các chủ thể mà không cần đến các cơ sở pháp lý làm tiền đề (như quan hệ hợp
đồng hay quan hệ công vụ), nên bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm
nghĩa vụ bảo vệ môi trường là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Đây là loại trách nhiệm phát sinh dưới sự tác động trực tiếp của các quy phạm
pháp luật mà khơng cần có sự thỏa thuận trước của các chủ thể. Sự trùng hợp về
một số nội dung có liên quan đến quyền và nghĩa vụ bảo vệ môi trường trong các
thỏa thuận hay cam kết không làm ảnh hưởng đến căn cứ áp dụng trách nhiệm
bồi thường thiệt hại về môi trường theo luật định.
Thứ ba, mơi trường có thể bị xâm hại từ 2 nhóm nguyên nhân: Một là, các
nguyên nhân khách quan tác động đến môi trường không phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của con người, như bão, lũ lụt, động đất, hạn hán... Những trường hợp
này không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường đối với
bất cứ tổ chức, cá nhân nào[13]; hai là, các yếu tố chủ quan do hoạt động của con
người gây ra từ việc khai thác, sử dụng các yếu tố môi trường hay từ các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khác [14]. Đối với những trường hợp này, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về mơi trường phát sinh khi có đủ các dấu hiệu cấu
thành trách nhiệm pháp lý dân sự. Thậm chí loại trách nhiệm này cịn phát sinh
ngay cả khi người gây thiệt hại khơng có lỗi. Điều 624 Bộ luật Dân sự (2005) quy
định “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt
hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây
ô nhiễm mơi trường khơng có lỗi”. Tại nhiều nước “trách nhiệm dân sự tuyệt
đối” là loại trách nhiệm được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực môi trường[15].
Thứ tư, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về mơi trường có mối quan hệ nhất định
với trách nhiệm khắc phục tình trạng mơi trường bị ô nhiễm. Thông thường,
trong các quan hệ pháp lý khác có liên quan đến bồi thường thiệt hại, người gây
thiệt hại chỉ phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra và được giải phóng
khỏi quan hệ với người bị hại. Nhưng trong lĩnh vực môi trường, người làm ô
nhiễm môi trường gây thiệt hại thường phải thực hiện đồng thời cả hai biện pháp:
i) Khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm; và ii) Bồi thường thiệt hại về mơi
trường. Tác dụng chính của biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường là hạn chế,
ngăn chặn phạm vi ảnh hưởng, khả năng lây lan ô nhiễm môi trường, đồng thời
làm giảm nhẹ những thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra. Tác dụng của bồi
thường thiệt hại là bù đắp những tổn thất về người, tài sản và những giá trị sinh
thái đã bị mất. Trách nhiệm áp dụng các biện pháp khắc phục ô nhiễm mơi
trường mang tính chất là một biện pháp cưỡng chế hành chính, do người có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính quyết định, cịn bồi thường thiệt hại lại là một
loại trách nhiệm dân sự có thể thỏa thuận và xác lập theo ý chí của các bên. Tuy
nhiên, trong lĩnh vực môi trường hai loại trách nhiệm có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau và trong một số trường hợp có thể thay thế (chuyển hóa) cho nhau, đặc
biệt là khi chỉ xuất hiện thiệt hại đối với môi trường tự nhiên mà không xuất hiện
thiệt hại đối với tính mạng, sức khỏe, tài sản của tổ chức, cá nhân. Nếu việc khắc
phục tình trạng mơi trường bị ơ nhiễm, suy thối do chính người bị hại tiến hành
thì những chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại sẽ được
tính trong tổng giá trị thiệt hại để đòi bồi thường. Còn trong trường hợp người có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã tự mình thực hiện các biện pháp khắc phục
tình trạng mơi trường bị ơ nhiễm thì họ sẽ được giải phóng hoặc giảm trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường.
Thứ năm, nhiều người cùng gây thiệt hại cũng là tình trạng khá phổ biến trong
lĩnh vực mơi trường. Luật BVMT (2005) quy định trong trường hợp có nhiều tổ
chức, cá nhân cùng gây ơ nhiễm mơi trường thì cơ quan quản lý nhà nước về bảo
vệ môi trường có trách nhiệm phối hợp với các bên liên quan để làm rõ trách
nhiệm của từng đối tượng trong việc khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường.
Tuy nhiên, trên thực tế khơng dễ dàng xác định chính xác mức độ gây hại đến
môi trường của từng đối tượng. Bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau là giải
pháp đã được pháp luật dân sự tính đến trong trường hợp này. Tuy nhiên, để đảm
bảo sự công bằng trong áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường
chúng tôi cho rằng nếu người gây thiệt hại chứng minh được mức độ mà mình
gây thiệt hại đối với mơi trường là khơng đáng kể thì họ chỉ phải bồi thường thiệt
hại theo phần tương ứng với mức độ gây hại đó. Nghĩa vụ chứng minh thuộc về
đối tượng gây thiệt hại sẽ giúp các tổ chức, cá nhân nâng cao hơn trách nhiệm
bảo vệ môi trường cũng như nâng cao năng lực tự bảo vệ mình trong lĩnh vực
này. Ngồi ra, cũng cần tính đến tình huống khơng áp dụng được trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho các đối tượng chỉ vì đơn giản thiệt hại mơi trường là kết quả
của hiện tượng tích tụ và cộng dồn các ảnh hưởng tới môi trường, trong khi từng
đối tượng lại tác động không quá mức giới hạn tới môi trường[16].
Thứ sáu, thời hạn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực mơi
trường cũng là vấn đề cịn nhiều tranh cãi. Thiệt hại phải được bồi thường toàn
bộ và kịp thời đã trở thành nguyên tắc luật định, song trong lĩnh vực môi trường,
do giá trị của các thiệt hại về mơi trường thường rất lớn và khó xác định nên
trong tuyệt đại đa số các trường hợp việc áp dụng trách nhiệm bồi thường toàn bộ
và kịp thời các thiệt hại là điều khó có thể thực hiện được. Pháp luật cần có các
quy định mang tính linh hoạt hơn trong lĩnh vực này. Chẳng hạn như người gây
thiệt hại đối với mơi trường có thể bồi thường một lần hoặc nhiều lần trong
khoảng thời gian tối đa một số năm nhất định nào đó kể từ ngày áp dụng trách
nhiệm bồi thường thiệt hại.
Bên cạnh đó, cũng cần cân nhắc đến các quy định về thời hiệu khởi kiện yêu cầu
bồi thường thiệt hại. Theo bộ Luật dân sự thì thời hạn này là hai năm kể từ ngày
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm.
Song cũng cần tính đến trong lĩnh vực môi trường, ngày quyền và lợi ích hợp
pháp bị xâm hại khơng hồn tồn trùng khít với ngày phát sinh thiệt hại trên thực
tế. Thiệt hại đối với người bị nhiễm chất phóng xạ, nhiễm hóa chất độc hại là
những ví dụ điển hình. Nên chăng pháp luật môi trường cần hướng tới việc quy
định thời hiệu khởi kiện gắn với ngày mà thiệt hại thực tế xảy ra và cần có
khoảng thời gian dài hơn 2 năm.
Thứ bảy, khi áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường, Việt Nam
không thể không xem xét đến các cam kết quốc tế về vấn đề này. Ngày 17/6/2004
Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu 1992 có
hiệu lực tại Việt Nam (International Convention on Civil Liability for Oil
Pollution Damage - viết tắt là CLC 92). Đây sẽ căn cứ pháp lý quan trọng để phía
Việt Nam yêu cầu các đối tượng gây ô nhiễm môi trường từ sự cố tràn dầu phải
bồi thường thiệt hại về môi trường một cách thỏa đáng. Một số nội dung sau đây
thể hiện bước phát triển của Công ước CLC 92. Một là, khi xảy ra ơ nhiễm dầu
thì chủ sở hữu của tàu không chỉ phải đền bù thiệt hại do ảnh hưởng đến mơi
trường mà cịn phải đền bù các thiệt hại về kinh tế do ô nhiễm dầu gây nên; hai
là, mức bồi thường ngoài căn cứ vào lượng dầu tràn còn căn cứ vào trọng tải của
tàu. Ví dụ, đối với tàu chở dầu có tổng dung tích dưới 5.000 tấn trọng tải mức bồi
thường cao nhất đến 3 triệu SDR (tương đương 3,8 triệu USD); đối với những tàu
chở dầu từ 5.000 tấn đến 140.000 tấn thì ngồi 3 triệu SDR, mỗi tấn tính thêm
538 USD nữa; đối với tàu 140.000 tấn trở lên phải bồi thường tối đa là 76,5 triệu
USD. Ba là, phạm vi khu vực bị ơ nhiễm được tính bồi thường bao gồm cả vùng
đặc quyền kinh tế thay vì là chỉ trong phạm vi lãnh hải của quốc gia bị ô nhiễm.
Thiết nghĩ cách tiếp cận nêu trên, đặc biệt là việc ấn định một mức bồi thường
thiệt hại căn cứ vào lượng dầu tràn, loại dầu tràn, trọng tải của phương tiện trở
dầu, đặc điểm hệ sinh thái vùng tràn dầu... cần được Việt Nam tham khảo trong
quá trình ban hành các quy định về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thối
mơi trường.
Tóm lại, bồi thường thiệt hại do ơ nhiễm, suy thối mơi trường tại Việt Nam là vấn
đề còn rất mới cả từ phương diện lý luận và thực tiễn. Nhận thức một cách đầy đủ
về những nội dung liên quan tới thiệt hại về môi trường, bồi thường thiệt hại về
môi trường là yếu tố quan trọng cho việc ban hành và áp dụng trách nhiệm này
trong tương lai. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng cho dù chế định này có phát triển
đến mức nào, chi phí bỏ ra để xử lý, cải tạo mơi trường có lớn đến đâu cũng khơng
thể khắc phục được hết những hậu quả do ơ nhiễm, suy thối mơi trường gây ra.
Do vậy, xác định thiệt hại đối với môi trường và áp dụng trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về môi trường trong mọi trường hợp đều không phải là mong muốn hàng
đầu được áp dụng trong lĩnh vực môi trường.