BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
XA KIỀU OANH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
XA KIỀU OANH
CĂN CỨ TỪ CHỐI, THAY ĐỔI
NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
KHÓA 23
TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CĂN CỨ TỪ CHỐI, THAY ĐỔI
NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TIẾN
Học viên: XA KIỀU OANH
Lớp: Cao học luật khóa 23
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tơi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Tiến. Luận văn
đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu
tham khảo. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả
Xa Kiều Oanh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT ĐẦY ĐỦ
1
BLTTDS
Bộ luật Tố tụng dân sự
2
Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP
ngày 03/12/2012 của Hội đồng
Thẩm phán TAND tối cao hướng
dẫn thi hành một số quy định trong
phần thứ nhất “Những quy định
chung” của Bộ luật Tố tụng dân sự
Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP
đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật Tố tụng dân sự
3
TAND
Tòa án nhân dân
4
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CĂN CỨ TỪ CHỐI, THAY ĐỔI
NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM ...7
1.1. Khái niệm, vai trò của ngƣời tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự ..........7
1.1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự ..................................7
1.1.2. Vai trò của người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự ..............................10
1.2. Khái niệm, cơ sở, ý nghĩa của căn cứ từ chối, thay đổi ngƣời tiến hành tố
tụng trong tố tụng dân sự .......................................................................................12
1.2.1. Khái niệm từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng ......................................12
1.2.2. Cơ sở của căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân
sự ...............................................................................................................................15
1.2.3. Ý nghĩa của căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng
dân sự ........................................................................................................................17
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về căn cứ từ chối, thay
đổi ngƣời tiến hành tố tụng ....................................................................................20
1.3.1. Căn cứ chung về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng ............................20
1.3.2. Căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng đối với các trường hợp cụ
thể ..............................................................................................................................28
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ TỪ CHỐI, THAY ĐỔI NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ
TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM ...............................................37
2.1. Về khái niệm “ngƣời thân thích” ....................................................................37
2.2. Về căn cứ cho rằng ngƣời tiến hành tố tụng có thể khơng vô tƣ khi làm
nhiệm vụ ...................................................................................................................39
2.3. Về từ chối, thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân theo căn cứ tại khoản
3 Điều 53 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015..................................................................52
2.4. Về khái niệm “trong cùng vụ án” tại Điều 52, Điều 53, Điều 54, Điều 60 Bộ
luật Tố tụng dân sự 2015 ........................................................................................56
2.5. Bổ sung quy định về căn cứ từ chối, thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng trong
pháp luật tố tụng dân sự .........................................................................................59
KẾT LUẬN ..............................................................................................................66
1
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Nâng cao trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân, bảo đảm hiệu quả hoạt
động và tính độc lập của các cơ quan tư pháp; bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân là những đòi hỏi
quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay.
Đặc biệt, trong tố tụng dân sự, nơi mà hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng
mang tính quyền lực nhà nước rất cao, mọi hoạt động chính đều liên quan đến
quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì việc quy định người tiến hành tố
tụng khơng được tiến hành tố tụng nếu có lý do xác đáng cho rằng họ có thể khơng
vơ tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn có ý nghĩa rất quan trọng. Điều này
không chỉ đảm bảo quá trình giải quyết vụ án dân sự được khách quan, cơng bằng,
đúng pháp luật mà cịn góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động tố tụng.
Bộ luật Tố tụng dân sự được Quốc hội khố XIII thơng qua ngày 25/11/2015
tiếp tục quy định về căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trên cơ sở kế
thừa Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Luật số 65/2011/QH12 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật Tố tụng dân sự và có sự sửa đổi cho phù hợp quy định của Hiến
pháp 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014. Tuy nhiên, bên cạnh mặt đã đạt được, dưới góc độ lý luận cũng
như thực tiễn thì các quy định về căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng
vẫn còn tồn tại một số bất cập cần phải khắc phục, chẳng hạn như quy định về căn
cứ cho rằng người tiến hành tố tụng có thể khơng vơ tư trong khi làm nhiệm vụ, căn
cứ thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân...
Bên cạnh đó, theo tìm hiểu của tác giả, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có
cơng trình nào nghiên cứu về căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong
tố tụng dân sự.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Căn cứ từ chối, thay đổi
người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học
của mình.
2
Tình hình nghiên cứu
Theo tìm hiểu của tác giả thì cho đến thời điểm hiện tại, chưa có cơng trình
nào chọn căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự làm
đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng
trong tố tụng dân sự cũng đã được nhắc đến trong một số cơng trình nghiên cứu
dưới khía cạnh là một vấn đề của cơng trình đó hoặc có một số cơng trình đề cập
đến nhưng chỉ dừng lại ở việc trình bày quy định của pháp luật và chưa phân tích
sâu.
Thứ nhất, các cơng trình đề cập đến căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố
tụng với vị trí là một trong các vấn đề của ngành luật tố tụng dân sự.
Trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 ban hành, có các cơng trình sau đây:
Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh (2012); Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học
Luật Hà Nội (2012); Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi của các tác
giả Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (2012); Bình luận khoa
học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã sửa
đổi, bổ sung 2011 của Viện Nhà nước và Pháp luật (2012); Luật Tố tụng dân sự Việt
Nam - Nghiên cứu so sánh của tác giả Tống Cơng Cường (2007).
Các cơng trình này đề có phạm vi nghiên cứu là tổng thể các quy định pháp
luật của ngành luật tố tụng dân sự chứ không tập trung vào các căn cứ từ chối, thay
đổi người tiến hành tố tụng. Do đó, mặc dù có đề cập đến, nhưng hầu hết các cơng
trình chỉ dừng lại ở việc nêu tên các căn cứ và phân tích mang tính khái qt. Ngồi
ra, những cơng trình này đều được biên soạn trước thời điểm ban hành Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015 nên một số điểm mới trong quy định về căn cứ từ chối, thay đổi
người tiến hành tố tụng chưa được đề cập đến (ví dụ căn cứ từ chối, thay đổi Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân; thay đổi Thẩm tra viên, Kiểm tra viên).
Sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 ban hành, một số công trình nghiên cứu
về pháp luật tố tụng dân sự ra đời như: Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2017); Giáo trình Luật Tố tụng
dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội (2017); Bình luận khoa học Bộ
3
luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 của
tác giả Trần Anh Tuấn (2017); Bình luận những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 của tác giả Nguyễn Thị Hồi Phương (2016); Bình luận khoa học
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 của tác giả Bùi Thị Huyền (2016).
Những điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về căn cứ từ chối, thay đổi
người tiến hành tố tụng đã được đề cập trong các công trình nghiên cứu nói trên.
Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của các cơng trình này là tổng thể các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự nên các căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng
chỉ được đề cập đến và chưa đi sâu vào phân tích.
Thứ hai, các cơng trình có đối tượng nghiên cứu là người tiến hành tố tụng,
thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự. Cụ thể:
Tác giả Nguyễn Thị Hoài Trâm với đề tài Người tiến hành tố tụng trong tố
tụng dân sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2016). Trong cơng trình này, tác giả tập
trung nghiên cứu về người tiến hành tố tụng trong thủ tục sơ thẩm vụ án dân sự, đặc
biệt là các quy định mới về người tiến hành tố tụng. Tác giả đưa ra khái niệm, phân
tích đặc trưng của người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự; nghiên cứu nhiệm
vụ, trách nhiệm, quyền hạn của người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự; trình
bày căn cứ, thủ tục, thẩm quyền thay đổi người tiến hành tố tụng. Qua đó, tác giả
đánh giá thực tiễn về hoạt động của người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự,
chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự; đồng thời
đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định về người tiến hành tố tụng trong tố
tụng dân sự. Phạm vi nghiên cứu của đề tài khá rộng nên vấn đề căn cứ từ chối, thay
đổi người tiến hành tố tụng chưa được tác giả phân tích sâu.
Tác giả Nguyễn Thị Thủy với bài viết “Một số vấn đề bàn về Điều 47 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)” đăng trên Tạp chí Tịa án
nhân dân (2012). Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một số bất cập về căn cứ
từ chối, thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân tại Điều 47 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2004, được sửa đổi, bổ sung năm 2011. Phạm vi nghiên cứu của bài viết chưa
4
bao quát hết những căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó,
căn cứ này đã được sửa đổi tại Điều 53 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 nên có những
nội dung khơng phù hợp.
Tác giả Vũ Việt Hùng với bài viết “Về việc từ chối hoặc thay đổi người tiến
hành tố tụng” đăng trên Tạp chí Kiểm sát (2005). Trong bài viết, tác giả đã nêu ra
những bất cập về việc từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng và đề xuất kiến
nghị hoàn thiện quy định này. Tuy nhiên, bài viết ra đời trước thời điểm ban hành
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 nên có những nội dung khơng phù hợp.
Nhìn chung, trong những cơng trình nghiên cứu trên, việc nghiên cứu về căn
cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự hầu như chỉ được
nhắc đến trong các cơng trình nghiên cứu về pháp luật tố tụng dân sự nói chung.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Tác giả lựa chọn đề tài “Căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong
tố tụng dân sự” với đối tượng nghiên cứu là những căn cứ từ chối, thay đổi người
tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Tác giả mong muốn làm
sáng tỏ những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về những căn cứ từ chối,
thay đổi người tiến hành tố tụng. Trên cơ sở so sánh với các quy định pháp luật tố
tụng dân sự trước đây, quy định pháp luật nước ngồi để thấy những điểm tiến bộ,
những điểm cịn hạn chế. Từ đó, tác giả đề xuất giải pháp nhằm triển khai và hiện
thực hóa những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Để hoàn thành được mục đích nêu trên, tác giả thực hiện các nhiệm vụ cụ thể
sau:
Về mặt lý luận: Phân tích và tổng hợp một số vấn đề lý luận về căn cứ từ chối,
thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự.
Về mặt pháp luật thực định: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các căn cứ từ
chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự, so sánh với pháp luật
nước ngoài, đồng thời đối chiếu những quy định pháp luật này dưới góc độ thực
tiễn, tác giả mong muốn góp phần đưa ra kiến nghị hiệu quả để khắc phục những
5
thiếu sót, vướng mắc của các quy định pháp luật về căn cứ từ chối, thay đổi người
tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự.
Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở xem xét thực tiễn giải quyết vụ án dân sự tại Tịa
án, chủ yếu là phân tích, bình luận những bản án, quyết định, thông báo, biên bản
phiên tịa của Tịa án, tác giả mong muốn đóng góp một số kiến nghị về căn cứ từ
chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong thực tiễn nhằm góp phần giúp cho thực
tiễn áp dụng đúng pháp luật, hiệu quả.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015,
bao gồm: Căn cứ chung về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng; căn cứ từ chối,
thay đổi người tiến hành tố tụng đối với các trường hợp cụ thể.
Trong Luận văn, tác giả cũng sẽ tìm hiểu quy định pháp luật của một số quốc
gia trên thế giới (Trung Hoa, Liên bang Nga, Pháp, Đức, Liên minh châu Âu) về
vấn đề căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự, so sánh
và rút ra bài học kinh nghiệm cho pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện Luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu là
phương pháp phân tích, bình luận, so sánh, tổng hợp, cụ thể như sau:
Trong Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để làm rõ
những khái niệm, cơ sở, ý nghĩa và một số vấn đề lý luận khác liên quan đến căn cứ
từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự. Bên cạnh đó, tác giả
sử dụng phương pháp phân tích, bình luận, tổng hợp quy định pháp luật về căn cứ
từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự. Tác giả sử dụng
phương pháp luật học so sánh để trên cơ sở phân tích các căn cứ từ chối, thay đổi
người tiến hành tố tụng trong pháp luật tố tụng dân sự của một số quốc gia trên thế
giới, so sánh đối chiếu với quy định của pháp luật Việt Nam nhằm rút ra bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam.
6
Trong Chương 2, tác giả cũng sử dụng phương pháp phân tích, bình luận
những vấn đề pháp lý phát sinh trong thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về
căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự. Tác giả sử
dụng phương pháp luật học so sánh để đối chiếu với quy định của pháp luật Việt
Nam. Trên cơ sở đó, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để rút ra được những
bất cập, vướng mắc và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật.
Bố cục của Luận văn
Nội dung của Luận văn sẽ được trình bày cụ thể thông qua hai chương, bao
gồm:
Chương 1. Những vấn đề chung về căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố
tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về căn cứ từ
chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
7
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CĂN CỨ TỪ CHỐI, THAY ĐỔI NGƢỜI
TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, vai trò của ngƣời tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt, “tiến hành” có nghĩa là làm, thực hiện việc đã định
1
trước , còn “tố tụng” là việc thưa kiện tại Tòa án (xét xử các việc tố tụng) 2. Như
vậy, có thể hiểu, người tiến hành tố tụng là những người thực hiện công việc giải
quyết vụ thưa kiện tại Tòa án. Tuy nhiên, nếu hiểu khái niệm người tiến hành tố
tụng bằng cách ghép từ trong Từ điển tiếng Việt thì sẽ khơng có cái nhìn tồn diện
về người tiến hành tố tụng dân sự. Bởi lẽ, theo khái niệm của Từ điển tiếng Việt,
người tiến hành tố tụng chỉ bao gồm những thành viên của Hội đồng xét xử, tức
những người trực tiếp thực hiện công việc xét xử và kết luận về vụ án mà chưa đề
cập những chủ thể khác cũng đóng vai trị quan trọng trong q trình giải quyết vụ
án như Chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án,
Kiểm tra viên, Thẩm tra viên.
Từ điển Luật học cũng không đề cập đến khái niệm người tiến hành tố tụng
mà chỉ liệt kê những ai được xem là người tiến hành tố tụng bao gồm: Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa 3. Mặc dù khơng
nói rõ nhưng các chủ thể được liệt kê trong Từ điển Luật học sẽ thích hợp hơn khi
dùng để chỉ người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, cịn nhiều quan điểm khác nhau về người tiến
hành tố tụng.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
được hiểu là những người trực tiếp triển khai và thực hiện những nhiệm vụ quyền
hạn cụ thể của TAND và VKSND để giải quyết vụ án dân sự. Nhóm tác giả của
quan điểm này xác định phạm vi của hoạt động tố tụng dân sự chỉ dừng lại ở việc
giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án, không bao gồm giai đoạn thi hành án dân sự. Do
1
Viện ngôn ngữ học Việt Nam (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 986.
2
Viện ngôn ngữ học Việt Nam, tlđd (1), tr. 986.
Nguyễn Hữu Đắc, Ngô Văn Thâu, Lê Kim Quế, Nguyễn Hữu Viện, Lê Đức Tiết (1999), Từ điển Luật học,
3
Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr. 347.
8
đó, những người thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng
tại TAND, VKSND để giải quyết, xét xử các vụ án dân sự hoặc kiểm tra, giám sát
việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ hoạt động tố tụng dân sự là người tiến hành
tố tụng4.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Hoạt động tố tụng dân sự khơng chỉ bao gồm các
trình tự, thủ tục trong giải quyết vụ án dân sự mà còn bao gồm các trình tự, thủ tục
trong thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Trên cơ sở cách hiểu về phạm vi
hoạt động tố tụng dân sự như trên, nhóm tác giả của quan điểm này đưa ra khái
niệm về cơ quan tiến hành tố tụng dân sự “là cơ quan Nhà nước thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn trong việc giải quyết vụ án dân sự, thi hành án dân sự hoặc kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự”5. Theo đó, cơ quan tiến hành tố tụng dân
sự gồm có: TAND, VKSND, Cơ quan thi hành án dân sự. Vì vậy, những người thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng là TAND, VKSND, Cơ
quan thi hành án dân sự để giải quyết vụ án dân sự, kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự và thi hành án là người tiến hành tố tụng.
Liên hệ với quy định của BLTTDS 2004, BLTTDS 2004 và Luật số
65/2011/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (BLTTDS 2004 sửa đổi,
bổ sung 2011), BLTTDS 2015 thì cũng không nêu khái niệm người tiến hành tố
tụng trong tố tụng dân sự mà chỉ dừng lại ở việc liệt kê thành phần người tiến hành
tố tụng6. Bên cạnh đó, từ hai quan điểm như trên thì quan điểm thứ nhất phù hợp
hơn với quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể:
Thứ nhất, cơ quan tiến hành tố tụng dân sự đã được xác định rõ ràng trong
BLTTDS 2004 cho đến BLTTDS 2015 bao gồm: TAND và VKSND. Nghĩa là về
4
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr. 65.
5
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.
83.
6
Khoản 2 Điều 39 BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung 2011:
“2. Những người tiến hành tố tụng gồm có:
a) Chánh án Tồ án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án;
b) Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên.”
Khoản 2 Điều 46 BLTTDS 2015:
“2. Những người tiến hành tố tụng dân sự gồm có:
a) Chánh án Tịa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án;
b) Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên.”
9
mặt văn bản pháp luật, chỉ thừa nhận TAND và VKSND là cơ quan tiến hành tố
tụng, còn hoạt động thi hành án dân sự chỉ là “dạng hoạt động mang tính hành chính
– tư pháp”7. Bên cạnh đó, các quy định về thi hành án dân sự đã được quy định cụ
thể tại Luật Thi hành án dân sự 2008 được Quốc hội khóa XII thơng qua ngày
14/12/2008, có hiệu lực từ ngày 01/7/2009, được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Theo
các quy định này, hoạt động thi hành án dân sự đã được tách riêng và quy định tại
luật chuyên ngành về thi hành án dân sự. Việc xác định Cơ quan thi hành án dân sự
là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng dân sự là khơng thực sự phù hợp.
Thứ hai, q trình tố tụng tại Tòa án được xác định bắt đầu từ thời điểm thụ
lý vụ việc dân sự cho đến khi kết thúc bằng việc tuyên các bản án hoặc quyết định
có hiệu lực thi hành8. Ở Việt Nam, Tịa án là cơ quan duy nhất được Hiến pháp trao
cho chức năng xét xử (khoản 1 Điều 102 Hiến pháp 2013). Do đó, chỉ có Tịa án
mới có quyền nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để ban hành
bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Khi có bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án là vụ án đã được giải quyết. Sau khi có bản án, quyết định, nếu
người được thi hành án và người phải thi hành án không yêu cầu Cơ quan thi hành
án tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án (trừ các trường hợp pháp luật quy
định Cơ quan thi hành án phải chủ động ra quyết định thi hành án) thì giai đoạn thi
hành án của Cơ quan thi hành án sẽ khơng phát sinh. Vì vậy, cơ quan tiến hành tố
tụng dân sự bao gồm: TAND và VKSND. Và, những người thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng là TAND, VKSND để giải quyết vụ án
dân sự, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là người tiến hành tố
tụng.
Từ những phân tích trên, có thể khái qt về người tiến hành tố tụng trong tố
tụng dân sự như sau:
“Người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự là chủ thể được bầu hoặc bổ
nhiệm theo quy định của pháp luật, có nhiệm vụ, quyền hạn tiến hành các hoạt động
tố tụng theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định để giải quyết vụ
việc dân sự và kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà
7
Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (2012), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự
sửa đổi, Nxb. Lao động – Xã hội, tr. 41 - tr. 42.
8
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr. 22.
10
nước, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”.
1.1.2. Vai trò của người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Theo khoản 2 Điều 46 BLTTDS 2015, người tiến hành tố tụng dân sự gồm:
Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên,
Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên. So với quy định tại
BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung 2011 thì thành phần người tiến hành tố tụng trong
BLTTDS 2015 được tăng thêm, cụ thể là Thẩm tra viên và Kiểm tra viên. Bởi vì,
thực tiễn giải quyết vụ án dân sự cho thấy, Thẩm tra viên và Kiểm tra viên cũng là
những người tham gia trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, đặc biệt có vai trị
quan trọng trong công tác giám đốc thẩm, nhưng trước đây họ lại chưa được ghi
nhận là người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự9. Do đó, BLTTDS 2015 bổ
sung Thẩm tra viên và Kiểm tra viên vào người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân
sự để phù hợp với quy định của Luật Tổ chức TAND 2014, Luật Tổ chức VKSND
2014 và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn pháp lý.
Đối với từng người tiến hành tố tụng cụ thể, ở từng giai đoạn khác nhau của
quá trình giải quyết vụ án dân sự họ sẽ có từng quyết định tố tụng khác nhau. Mọi
hoạt động của người tiến hành tố tụng đều tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá
trình giải quyết vụ án dân sự, có vai trị quyết định đối với hoạt động của cơ quan
tiến hành tố tụng.
Thứ nhất, hoạt động của người tiến hành tố tụng nhằm bảo vệ công lý. Trong
xã hội chủ nghĩa, TAND là nơi mà mọi người tìm đến lẽ phải, tìm đến cơng lý; hoạt
động của TAND nói chung và người tiến hành tố tụng nói riêng cung cấp cho xã hội
những phương thức hữu hiệu để xác định sự thật và lẽ công bằng trong các quan hệ
giữa các chủ thể. Trước yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, công lý và bảo vệ công lý đã trở thành một trong những mục tiêu cơ
bản, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và là một giá trị tiến
bộ, bền vững được toàn xã hội thừa nhận và hướng tới. Khi xã hội ngày càng phát
triển, các quan hệ dân sự ngày càng đa dạng, phức tạp thì hoạt động của người tiến
hành tố tụng với mục đích giải quyết các tranh chấp, xác định sự thật khách quan là
điều cần thiết. Chân lý khách quan bao giờ cũng được xác định thông qua hoạt động
9
Báo cáo Tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự của TAND tối cao tại Hội thảo sửa đổi
Bộ luật Tố tụng dân sự.
11
giải quyết tranh chấp, hoạt động xét xử của người tiến hành tố tụng. Các đương sự
cần sự giải quyết của người tiến hành tố tụng để hy vọng và mong muốn sự thật,
công bằng được làm sáng tỏ. Do đó, người tiến hành tố tụng có nhiệm vụ phải tìm
ra sự thật khách quan, khẳng định cho tồn xã hội biết rằng công lý được thực thi10.
Thứ hai, hoạt động của người tiến hành tố tụng góp phần bảo vệ quyền con
người. Hiến pháp 2013 đã có một bước tiến vượt bậc so với Hiến pháp 1992 khi quy
định cụ thể về quyền con người; coi quyền con người là quan điểm, nội dung xuyên
suốt trong toàn bộ Hiến pháp. Hiến pháp 2013 đã ghi nhận TAND trước hết phải có
nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân.
Việc giải quyết các vụ án dân sự tại Toà án là công cụ bảo vệ quyền con người
thông qua hoạt động xét xử độc lập, khách quan, công bằng bởi thủ tục tố tụng chặt
chẽ, minh bạch, tạo thuận lợi cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, cũng như hạn chế được việc lợi dụng tiến hành tố tụng xâm phạm quyền con
người của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì lẽ đó, việc bảo đảm quyền con người
trong tố tụng dân sự đòi hỏi phải được tiếp cận trong tổng thể quyền dân sự của con
người, gắn với tồn bộ q trình tố tụng dân sự. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên phải thực hiện đúng các quy trình, thủ tục khi giải
quyết các tranh chấp dân sự; nếu họ giải quyết thiếu khách quan, tùy tiện thì quyền
con người trong tố tụng dân sự sẽ bị xâm phạm. Việc quy định Kiểm sát viên tiến
hành kiểm sát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành tố
tụng của Tòa án khi giải quyết vụ án dân sự cũng là một cơ chế nhằm bảo đảm việc
tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng; góp phần bảo vệ quyền con
người, quyền công dân.
Thứ ba, hoạt động của người tiến hành tố tụng góp phần bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa. Bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ quan trọng trong quá
trình xây dựng và hồn thiện bộ máy Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Trong đó, hoạt động mang tính trọng tâm chính là hoạt động tổ chức thực
hiện pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực thi thống nhất và hiệu quả trên
thực tế. Trong tố tụng dân sự, người tiến hành tố tụng của TAND sẽ tiến hành thụ lý
10
Nguyễn Đăng Dung, Đặng Phương Hải (2016), “Tòa án thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân”.
ngày 26/08/2018.
12
và giải quyết vụ án dân sự bằng cách ban hành bản án hoặc các quyết định có ý
nghĩa đối với việc giải quyết vụ án dân sự theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định. Việc hồn thành nhiệm vụ của người tiến hành tố tụng không chỉ bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể liên quan, mà còn bảo vệ trật tự
pháp luật, tăng cường chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao uy tín của bộ máy Nhà
nước.
Thứ tư, hoạt động của người tiến hành tố tụng góp phần duy trì trật tự xã hội,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; đồng thời, tạo môi
trường ổn định cho các mối quan hệ xã hội góp phần phát triển kinh tế, hội nhập
quốc tế. Nhiệm vụ chính của người tiến hành tố tụng là giải quyết các vụ án dân sự
với các đương sự là chủ thể trong tranh chấp về dân sự, kinh doanh, thương mại, lao
động, hơn nhân và gia đình. Các chủ thể khi có tranh chấp, khi nhận thấy quyền và
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm có quyền khởi kiện, u cầu Tịa án giải
quyết. Do đó, hoạt động tố tụng dân sự của người tiến hành tố tụng có ảnh hưởng
quan trọng đối với sự ổn định, phát triển của nhiều mối quan hệ xã hội. Đồng thời,
thông qua hoạt động xét xử, giải quyết tranh chấp, người tiến hành tố tụng sẽ thực
hiện việc giáo dục pháp luật đối với các đương sự. Qua đó, người tiến hành tố tụng
góp phần phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; giáo
dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng đạo đức, lẽ phải trong
cuộc sống và có ý thức phòng ngừa vi phạm pháp luật.
Như vậy, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người tiến hành tố
tụng có vai trị quan trọng trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công
dân; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và giữ vững an ninh, trật tự an tồn xã hội; bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
tạo môi trường ổn định cho các mối quan hệ trong xã hội. Hoạt động của người tiến
hành tố tụng có vai trị, ý nghĩa quyết định trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
1.2. Khái niệm, cơ sở, ý nghĩa của căn cứ từ chối, thay đổi ngƣời tiến hành tố
tụng trong tố tụng dân sự
1.2.1. Khái niệm từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng
13
Từ chối tiến hành tố tụng
Theo Từ điển tiếng Việt, “từ chối” là không nhận, không chịu nhận cái được
cho hoặc được yêu cầu11. Khái niệm “từ chối” (“refusal”) này tương đồng với cách
giải thích tại Black’s law dictionary12. Như vậy, “từ chối” có nghĩa là tự bản thân
một người sẽ không đảm nhận nhiệm vụ hoặc làm một việc gì đó khi được u cầu
vì những ngun nhân khác nhau.
Trong tố tụng dân sự, có thể hiểu từ chối tiến hành tố tụng là việc những người
tiến hành tố tụng nhận thấy bản thân có thể sẽ khơng vơ tư, khách quan khi tham gia
giải quyết vụ án dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật nên tự nguyện đề
nghị người có thẩm quyền quyết định khơng đưa họ vào tham gia giải quyết vụ án
dân sự.
Việc pháp luật tố tụng dân sự đưa ra quy định từ chối tiến hành tố tụng là điều
hợp lý bởi vì hơn ai hết, chính bản thân những người tiến hành tố tụng là người biết
rõ và sớm nhất là mình có thể vơ tư, khách quan hay khơng khi làm nhiệm vụ.
Trong khi đó, những chủ thể khác khơng phải lúc nào cũng nhận biết được người
tiến hành tố tụng có thể khơng vơ tư, khách quan hoặc phải trải qua một thời gian
thì mới phát hiện. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên có liên
quan trong vụ án dân sự. Nếu những người tiến hành tố tụng tuân thủ triệt để quy
định của pháp luật về từ chối tiến hành tố tụng sẽ đảm bảo tính khách quan, đúng
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, củng cố niềm tin của người dân vào hoạt
động xét xử của Tòa án.
Thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng
Theo Từ điển tiếng Việt thì “thay đổi” có nghĩa là thay cái này bằng cái khác,
đổi khác đi, trở nên khác trước13. Thay đổi người tiến hành tố tụng là đưa một người
tiến hành tố tụng này vào “thay thế” một người tiến hành tố tụng khác nhằm làm
“khác đi” tình trạng có khả năng không vô tư của người tiến hành tố tụng trước đó.
Trong tố tụng dân sự, thay đổi người tiến hành tố tụng là việc người có thẩm
quyền quyết định thay thế người tiến hành tố tụng đã được phân công khi có những
căn cứ theo quy định của pháp luật. Theo đó, khi có yêu cầu thay đổi người tiến
11
Viện ngôn ngữ học Việt Nam (2006), tlđd (1), tr. 1072.
12
Bryan A. Garner (ed.), Black’s Law Dictionary, 9th ed. (St. Paul, MN: 2001) at 1394: “The denial or
rejection of something offered or demanded”.
13
Viện ngôn ngữ học Việt Nam (2006), tlđd (1), tr. 918.
14
hành tố tụng hay khi người có thẩm quyền phát hiện người tiến hành tố tụng có
những biểu hiện mà có đủ căn cứ để cho rằng người tiến hành tố tụng có thể khơng
vơ tư khi làm nhiệm vụ thì người có thẩm quyền cũng sẽ ra quyết định thay đổi
người tiến hành tố tụng đã được phân công. Điều đó có nghĩa, nếu phát hiện một
trong những căn cứ luật định có khả năng làm cho người tiến hành tố tụng không vô
tư, khách quan khi làm nhiệm vụ thì người có thẩm quyền sẽ phải thay đổi họ trong
bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng.
Việc từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự có một số
đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, người tiến hành tố tụng mới được thay thế và người tiến hành tố
tụng bị thay thế có nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng ngang bằng nhau. Việc từ chối,
thay đổi người tiến hành tố tụng dựa trên yêu cầu giải quyết vụ án dân sự một cách
khách quan, công bằng, bảo đảm quyền và lợi ích của các bên đương sự. Do đó,
việc từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng không làm thay đổi nhiệm vụ, quyền
hạn của người tiến hành tố tụng mới được thay thế so với người tiến hành tố tụng bị
thay thế. Người tiến hành tố tụng mới được thay thế hay người tiến hành tố tụng bị
thay thế đều có các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm theo quy định của pháp
luật. Các nhiệm vụ, quyền hạn đó chỉ phục vụ cho mục đích giải quyết vụ án dân sự
hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Thứ hai, việc từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng dẫn đến hậu quả người
tiến hành tố tụng mới được thay thế sẽ tiếp tục thực hiện các hoạt động giải quyết
vụ án dân sự, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong trường hợp cụ thể; còn người
tiến hành tố tụng bị thay thế sẽ khơng cịn tham gia vào các hoạt động tố tụng dân
sự trong vụ án đó nữa. Quy định này khơng chỉ bảo đảm cho việc giải quyết vụ án
dân sự được khách quan, vô tư mà cịn tạo uy tín cho cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng đối với đương sự nói riêng và người dân nói chung; tạo
niềm tin của người dân đối với những người thực hiện quyền lực Nhà nước, bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Thứ ba, việc từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng phải tuân theo các căn
cứ, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Bất kì hoạt động nào trong quá trình giải
quyết vụ án dân sự cũng phải tuân theo các trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân
sự quy định và việc từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng cũng không ngoại lệ.
15
Việc từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng sẽ được xem xét khi có các căn cứ
cho rằng người tiến hành tố tụng đang giải quyết vụ án đó khơng vơ tư, khách quan
khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Khi người có thẩm quyền nhận thấy các căn cứ
thay đổi người tiến hành tố tụng là chính xác thì phải tiến hành việc thay đổi người
tiến hành tố tụng theo đúng các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Bên cạnh đó,
việc thay đổi người tiến hành tố tụng cần bảo đảm rằng người tiến hành tố tụng mới
được thay thế khơng có căn cứ phải thay đổi, vô tư, khách quan khi giải quyết vụ án
dân sự đó, nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án dân sự được nhanh chóng, chính
xác. Người có thẩm quyền thay đổi người tiến hành tố tụng cũng không được tùy
tiện thay đổi người tiến hành tố tụng khi chưa đủ các căn cứ hay tiến hành việc thay
đổi trái với trình tự, thủ tục đã quy định.
1.2.2. Cơ sở của căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân
sự
Xét xử công bằng, không thiên vị là giá trị phổ biến được các quốc gia cam kết
tôn trọng và được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng như Điều
10 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông
qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại Paris, Pháp có quy định: “Mọi người đều có
quyền được phân xử cơng khai và cơng bằng, trước một Tịa án độc lập và vơ tư để
được phán quyết về các quyền và nghĩa vụ của mình”. Bên cạnh đó, Điều 6 Cơng
ước bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản được các nước thành viên của
Ủy hội châu Âu thông qua ngày 04 tháng 11 năm 1950 tại Roma có nêu rõ: “Mọi
người đều có quyền được xét xử cơng bằng bởi một Tịa án độc lập và khơng thiên
vị”.
Ở nhiều nước châu Âu, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của Thẩm phán được ghi
nhận trong Hiến pháp và được coi như thành tố cấu thành của Nhà nước pháp
quyền. Cũng như vậy, hầu hết các văn bản pháp luật quốc tế và văn bản pháp luật
của Liên minh châu Âu đều thống nhất rằng nguyên tắc độc lập, vô tư là các thành
tố quan trọng cấu thành nên nền tư pháp14. Ngồi ra, Điều 14 Cơng ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày
16 tháng 12 năm 1966 tại trụ sở của Liên Hiệp Quốc, New York cũng quy định:
14
Nguyễn Hoàng Anh, Trần Thu Hạnh (2014), “Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của thẩm phán trong pháp luật
Liên minh châu Âu và một số quốc gia châu Âu”, Tạp chí Luật học, số 02, tr. 61.
16
“Việc xét xử phải công khai và công bằng. Công bằng ở đây phải thể hiện rõ ràng
trên hai khía cạnh là công bằng trong việc xem xét, giải quyết vụ án được công khai
và công bằng trong thủ tục tố tụng, tức khơng được có ảnh hưởng bởi một phía nào,
dù nhằm bất cứ mục đích nào đối với việc xét xử”.
Pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận nguyên tắc vơ tư trong xét xử và đây chính
là sự là bảo đảm đầu tiên, căn bản của mọi quá trình tố tụng15. Do đó, để bảo đảm
vụ án dân sự được giải quyết đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, pháp luật quy định người tiến hành tố tụng phải từ chối hoặc bị thay
đổi nếu họ thuộc trường hợp có thể khơng vô tư, không khách quan khi tiến hành tố
tụng. Quy định này đã được kế thừa, phát triển từ Sắc lệnh số 13/SL ngày
24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa về việc tổ
chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán16, Pháp lệnh số 27-LCT/HĐNN8 ngày
07/12/1989 của Hội đồng Nhà nước về Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 17, Lệnh
số 31-L/CTN ngày 29/3/1994 của Chủ tịch nước công bố Thủ tục giải quyết các vụ
án kinh tế18, Lệnh số 48-L/CTN ngày 11/4/1996 của Chủ tịch nước công bố Thủ tục
giải quyết các tranh chấp lao động19, BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung 201120 và hiện
nay là BLTTDS 201521. Qua mỗi giai đoạn, pháp luật quy định về căn cứ từ chối,
thay đổi người tiến hành tố tụng ngày càng hoàn thiện hơn, đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
BLTTDS 2015 đã dành hẳn một chương để quy định về cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và các căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng
giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có đầy đủ cơ sở pháp lý
thực hiện các hoạt động tố tụng dân sự. Nội dung của những điều luật về căn cứ từ
chối, thay đổi người tiến hành tố tụng nhằm loại bỏ những điều kiện khách quan và
15
Điều 16 BLTTDS 2015, Điều 21 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Điều 14 Luật Tố tụng hành chính 2015.
16
Điều 20, Điều 21, Điều 65, Điều 66 Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời
Việt Nam dân chủ cộng hòa về việc tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán.
17
Điều 17, Điều 18 Pháp lệnh số 27-LCT/HĐNN8 ngày 07/12/1989 của Hội đồng Nhà nước về Thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự.
18
Điều 18 Lệnh số 31-L/CTN ngày 29/3/1994 của Chủ tịch nước công bố Thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế.
19
Điều 17 Lệnh số 48-L/CTN ngày 11/4/1996 của Chủ tịch nước công bố Thủ tục giải quyết các tranh chấp
lao động.
20
Điều 46, Điều 47, Điều 48, Điều 49 BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung 2011.
21
Điều 52, Điều 53, Điều 54, Điều 60 BLTTDS 2015.
17
chủ quan tác động tiêu cực đến người tiến hành tố tụng, góp phần tạo điều kiện cho
người tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định
của pháp luật. Nếu người tiến hành tố tụng có những biểu hiện khơng vơ tư, khách
quan, bị chi phối bởi những lợi ích cá nhân mà làm sai lệch sự thật vụ án thì buộc
phải thay đổi, khơng thể để họ có điều kiện thực hiện hành vi vi phạm pháp luật,
giúp họ giữ được uy tín, phẩm chất đạo đức và nâng cao chất lượng công tác từ
những hoạt động đúng đắn của họ.
Bên cạnh đó, căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng là điều kiện đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự. Người có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng có thể đề
nghị thay đổi bất kì người tiến hành tố tụng nào khi họ cho rằng người tiến hành tố
tụng đó không vô tư, khách quan, gây thiệt hại đến lợi ích của người tham gia tố
tụng ở bất kì giai đoạn tố tụng nào.
Như vậy, việc từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng xuất phát từ nguyên
tắc bảo đảm sự vô tư, khách quan của người tiến hành tố tụng và các nguyên tắc
khác của BLTTDS nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần củng cố việc
tuân thủ pháp luật. Việc tuân thủ pháp luật triệt để không chỉ là thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật mà còn là việc thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn này vô tư, khách quan, không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác.
1.2.3. Ý nghĩa của căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng
dân sự
Người tiến hành tố tụng là những chủ thể có vai trị quyết định, ảnh hưởng
trực tiếp đến kết quả giải quyết vụ án dân sự. Do đó, khi có căn cứ cho rằng người
tiến hành tố tụng có thể khơng vơ tư khi làm nhiệm vụ, việc từ chối, thay đổi họ có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thứ nhất, việc từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm sự tuân
thủ pháp luật của các chủ thể tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Pháp luật tố tụng dân sự quy định chặt chẽ cách thức, trình tự, thủ tục nhằm
giải quyết vụ án dân sự được nhanh chóng, khách quan, chính xác. Bất cứ sự vi
phạm nào về các quy định của pháp luật cũng đều ảnh hưởng đến kết quả giải quyết
vụ án và có tác động xấu về mặt xã hội, làm cho người dân mất lòng tin vào pháp
luật cũng như các cơ quan cơng quyền. Chính vì thế, để đảm bảo những người tiến
18
hành tố tụng tuân thủ các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án
dân sự thì Điều 3 BLTTDS 2015 đã quy định: “Mọi hoạt động tố tụng dân sự của
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải tuân theo các quy định của Bộ luật này”.
Người tiến hành tố tụng dân sự là những người có nhiệm vụ, quyền hạn trong
việc giải quyết vụ án dân sự, kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Tất cả những quyết
định, hành vi tố tụng của những chủ thể này đều có tác động trực tiếp tới các đương
sự trong vụ án. Do đó, nếu những người tiến hành tố tụng khơng vơ tư, khách quan
thì có thể dẫn đến vì lợi ích cá nhân hoặc một số chủ thể khác mà đưa ra các phán
quyết cũng như thực hiện các hoạt động tố tụng trái pháp luật. Bên cạnh đó, pháp
luật yêu cầu người tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án phải trung lập, chỉ hành xử
trên cơ sở các sự kiện có thật, theo quy định của pháp luật mà không được làm lợi
hay gây bất lợi cho một hoặc các bên trong vụ án. Người tiến hành tố tụng phải thật
sự là những đại diện của cơng lý, khơng được vì những lợi ích hoặc những định
kiến mà làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án, làm cho bản chất của vụ án
không được phản ánh một cách đầy đủ.
Ngoài ra, trong trường hợp có căn cứ theo quy định pháp luật mà người tiến
hành tố tụng không từ chối hoặc không bị thay đổi thì bị coi là có vi phạm nghiêm
trọng về thủ tục tố tụng và bản án, quyết định của Tịa án sẽ bị hủy để xét xử lại22.
Chính vì thế, các quy định của pháp luật về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng
góp phần bảo đảm sự tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, loại
bỏ những yếu tố có thể ảnh hưởng đến tính vơ tư, khách quan của người tiến hành
tố tụng khi thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, điều này sẽ đảm bảo cho việc xây dựng
nền tư pháp trong sạch, nâng cao vị thế của cơ quan tiến hành tố tụng trong bộ máy
cơ quan Nhà nước và trong toàn xã hội.
Thứ hai, việc từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm sự vô tư,
khách quan, đúng pháp luật của người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án dân sự.
Người tiến hành tố tụng trong một số trường hợp có thể có lợi ích vật chất,
tinh thần từ việc giải quyết vụ án hoặc có những định kiến nhất định trong việc đưa
22
Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2017), tlđd (8), tr. 130.
19
ra quyết định hoặc thực hiện các hoạt động tố tụng (như đã tham gia vào việc giải
quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án
dân sự và đã ra bản án sơ thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, thân thích với người tiến
hành tố tụng khác...). Những yếu tố này có thể làm cho người tiến hành tố tụng
không vô tư, khách quan khi tham gia giải quyết vụ án dân sự.
Yếu tố vật chất, tinh thần ln có những tác động đáng kể đến hành vi và xử
sự của con người. Không phải bất kỳ người tiến hành tố tụng nào cũng công tâm, đủ
bản lĩnh để vượt qua được sự cám dỗ của các yếu tố vật chất, tinh thần. Họ có thể vì
những lợi ích đó mà làm sai lệnh kết quả vụ án, làm cho bản chất của vụ án khơng
được phản ánh đầy đủ.
Bên cạnh đó, nếu người tiến hành tố tụng đã có những định kiến trong việc
đưa ra quyết định hoặc thực hiện các hoạt động tố tụng thì họ đã thể hiện quan
điểm, lập trường, nhận thức và cả thái độ của mình đối với việc giải quyết vụ án.
Nếu những người tiến hành tố tụng này tiếp tục tiến hành tố tụng dù không phải với
tư cách ban đầu, dù muốn hay khơng thì họ cũng bị chi phối bởi các định kiến trước
đó. Như thế quá trình giải quyết vụ án dân sự sẽ khơng đảm bảo được tính vơ tư,
khách quan và khoa học.
Sự không vô tư của những người tiến hành tố tụng sẽ có thể dẫn đến việc đưa
ra các phán quyết không đúng pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên và
lòng tin của nhân dân vào pháp luật cũng như các cơ quan cơng quyền. Chính vì
thế, pháp luật đã quy định người tiến hành tố tụng cần phải từ chối, thay đổi trong
những trường hợp như vậy nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách
quan, công bằng.
Thứ ba, việc từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng nhằm bảo vệ tốt nhất
quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong tố tụng dân sự.
Quyền và lợi ích của các bên có liên quan trong vụ án dân sự có được đảm bảo
hay không phụ thuộc vào quyết định giải quyết vụ án của những người tiến hành tố
tụng cũng như việc thực hiện các hoạt động tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của
họ. Người tiến hành tố tụng có định kiến, lợi ích liên quan đến vụ án thì họ sẽ khó
vơ tư, khách quan khi giải quyết vụ án.
Hơn nữa, việc pháp luật quy định về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng