Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

thực tiễn việc thay đổi người tiến hành tố tụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.36 KB, 26 trang )

Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh
Khoa Quản trị
Lớp Quản trị - Luật K35
Bài tiểu luận môn:
TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Chủ đề:
Thực tiễn việc thay đổi người THTT
GV hướng dẫn: Lê Thị Thùy Dương

Năm học 2012 - 2013
1
LỜI MỞ ĐẦU:
Nâng cao trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân; bảo đảm hiệu quả hoạt động và
tính độc lập của các cơ quan tư pháp; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, công dân… là những đòi hỏi quan trọng của việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Đặc biệt, trong hoạt động tư pháp hình sự, nơi mà hoạt động của cơ quan tiến hành tố
tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) mang tính quyền lực nhà nước rất cao, nơi
mà mọi hoạt động chính đều liên quan lớn đến quyền, lợi ích của công dân thì việc quy
định rõ ràng, cụ thể nhũng trường hợp bắt buộc phải thay đổi người tiến hành tố tụng, có
ý nghĩa rất quan trọng không chỉ trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng, mà còn
đảm bảo cho nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án được tôn trọng, đặc biệt là
bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng trong khi làm nhiệm vụ.
Trong nhiều năm qua, pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) nước ta đã có nhiều tiến bộ
trong việc quy định về việc thay đổi người tiến hành tố tụng (THTT). Đó là cơ sở pháp lý
cho hoạt động TTHS đạt hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều quy định còn bất cập; một số quy
định còn vướng mắc trong triển khai thực hiện trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện nay.
I. Những vấn đề chung về thay đổi người THTT trong pháp luật TTHS VN:
1. Một số khái niệm liên quan:
a. Khái niệm người tiến hành tố tụng:
Tố tụng là toàn bộ những hoạt động của các cơ quan THTT, người THTT, các cơ


quan Nhà nước khác và những công dân có liên quan nhằm giải quyết đúng đắn những vụ
án theo quy định của pháp luật. Trong quá trình tố tụng, người THTT giữ vai trò rất quan
trọng, họ là những người tìm ra sự thật khách quan của vụ án.
Người THTT là những người nhân danh Nhà nước tiến hành các hoạt động tố
tụng nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức và công dân. Người THTT có trong nhiều lĩnh vực tố tụng khác nhau như hành
chính, dân sự, thương mại, lao động….trong đó có cả hình sự. Người THTT trong TTHS
là những chủ thể theo quy định của pháp luật TTHS có quyền hạn và nhiệm vụ áp dụng
pháp luật để giải quyết các vụ án hình sự (VAHS) theo những trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định nhằm bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN.
Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) không đưa tra khái niệm về người THTT mà
chỉ liệt kê những chủ thể là người THTT tại khoản 2 Điều 33 BLTTHS, bao gồm:
+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên;
+ Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên;
+ Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án
2
Có thể thấy rằng, người THTT có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết
VAHS. Người THTT mang tính chất quyết định đối với việc giải quyết một VAHS. Do
đó, khi có những căn cứ cho rằng họ không vô tư, khách quan theo quy định của BLTTHS
thì chính những nguời THTT phải từ chối THTT hoặc bị đề nghị thay đổi để đảm bảo cho
quá trình giải quyết VAHS một cách khách quan.
b. Khái niệm căn cứ thay đổi người THTT:
• Khái niệm thay đổi người THTT:
Thay đổi người THTT là việc đưa một người THTT này vào “thay thế” cho
một người THTT khác nhằm làm “khác đi” tình trạng có khả năng không vô tư, khách
quan của người THTT đó và người thay thế phải đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy
định của pháp luật hình sự và TTHS, người THTT phải đảm bảo nguyên tắc xác định sự
thật vụ án, đảm bảo vô tư khách quan trong suốt quá trình THTT. Điều đó có nghĩa là khi
phát hiện Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra (CQĐT), Điều tra viên; Viện

trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát (VKS), Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án
Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án không đảm bảo sự vô tư, khách quan khi
tiến hành các hoạt động tố tụng thì phải thay đổi họ trong bất kỳ giai đoạn nào của quá
trình tố tụng.
Như vậy, thay đổi người THTT để đảm bảo mục đích chung của TTHS, để
củng cố niềm tin trong nhân dân về sự công minh của cơ quan bảo vệ pháp luật, tin tưởng
vào những người bảo vệ chân lý. Tất cả mọi hoạt động của người THTT đều liên quan
trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đặc biệt là bị can, bị
cáo, để đảm bảo pháp chế XHCN trong TTHS cần có các căn cứ thay đổi người THTT.
• Khái niệm căn cứ thay đổi người THTT:
Như đã phân tích ở trên, người THTT là cán bộ Nhà nước với những chức
danh khác nhau thực hiện nhiệm vụ, chức năng của các cơ quan THTT nhằm bảo vệ chế
độ XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý kiên quyết và triệt để
mọi hành vi phạm tội.
Trong quá trình THTT, nếu có một lý do cho rằng người THTT có khả năng
làm ảnh hưởng đến việc bảo đảm giải quyết VAHS một cách đúng đắn, toàn diện, khách
quan thì buộc phải thay đổi. Người THTT thuộc những trường hợp, có thể bị tác động bởi
những yếu tố bên ngoài hoặc do chính bản thâm, khiến họ có thể có những hành vi là sai
lệch đi sự thật vụ án thì buộc họ phải thay đổi.
Người THTT không bị thay đổi một cách ngẫu nhiên mà cần phải có những
căn cứ cụ thể, rõ ràng. Căn cứ thay đổi người THTT là cơ sở đề người THTT phải tự mình
từ chối THTT hoặc là cơ sở để đề nghị thay đổi người THTT của những chủ thể có quyền
đề nghị theo quy định của pháp luật.
3
Điều 42, 44, 45, 46, 47 BLTTHS đã liệt kê các căn cứ làm cơ sở cho việc
thay đổi người THTT, theo đó, người THTT sẽ bị thay đổi khi có nhưng căn cứ sau:
Thứ nhất: họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người
thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo.
Thứ hai: họ đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng,

người giám định, người phiên dịch trong vụ án đó.
Thứ ba: đã THTT trong vụ án đó với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát
viêm, Thẩm phán, Hội thẩm hoặc Thư ký Tòa án. Đối với Thẩm phán và Hội thẩm cùng
trong một HĐXX và là người thân thích với nhau hoặc đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc
phúc thẩm hoặc THTT trong vụ án đó với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thư ký
TA.
Thứ tư: có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi
làm nhiệm vụ.
Như vậy, khi người THTT thuộc một trong các căn cứ thay đổi người THTT
trên thì việc thay đổi người THTT trong trường hợp này là cần thiết, một mặt nhằm đảm
bảo sự khách quan, vô tư của người THTT, nhằm đảm bảo cho nguyên tắc xác định sự
thật khách quan của vụ án được tôn trọng và bảo đảm pháp chế XHCN trong TTHS. Mặt
khác, việc xây dựng các căn cứ thay đổi người THTT là một bước dự liệu phòng ngừa
những hành vi vi phạm pháp luật của người thực hiện quyền lực Nhà nước, tạo môi
trường pháp lý trong sạch, củng cố niềm tin của nhân dân vào cơ quan bảo vệ pháp luật,
vào chế độ XHCN.
2. Mục đích, ý nghĩa của việc thay đổi
a. Mục đích:
Nhằm loại bỏ những điều kiện khách quan và chủ quan tác động đến người
THTT, tạo điều kiện cho người THTT hoàn thành tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo
quy định của pháp luật. Nếu người THTT có biểu hiện không vô tư khách quan, bị chi
phối bởi những lợi ích cá nhân mà làm sai lệch sự thật vụ án thì buộc phải thay đổi, không
thể để họ có điều kiện thực hiện hành vi vi phạm, giúp họ giữ được danh dự, uy tín, phẩm
chất đạo đức nâng cao chất lượng công tác từ hoạt động đúng đắn của họ,
Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi tham gia vào quan hệ
pháp luật TTHS để họ lựa chọn những người đáng tin cậy tiến hành các hoạt động tố tụng
nhằm xác định sự thật vụ án nhằm bảo vệ lợi ích của cá nhân họ hoặc bảo vệ lợi ích cho
các chủ thể khác.
b. Ý nghĩa
4

Tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp
luật của người thực hiện quyền lực nhà nước, tránh các hiện tượng tiêu cực trong hoạt
động tư pháp do không có quy định của pháp luật điều chỉnh, tạo điều kiện để việc giải
quyết vụ án được thực hiện một cách khách quan.
Là hành lang pháp lý cho việc thực hiện dân chủ, tôn trọng và bảo đảm quyền
của công dân.
Tạo niềm tin trong nhân dân về một hệ thống pháp luật hoàn thiện, trong đó
quyền và lợi ích của họ được bảo đảm.
3. Các nguyên tắc TTHS chi phối việc quy định, áp dụng chế định thay đổi NTHTT
Việc quy định và áp dụng chế định thay đổi NTHTT chịu sự chi phối của nhiều
nguyên tắc, như: nguyên tắc pháp chế XHCN; nguyên tắc xác định sự thật vụ án; nguyên
tắc đảm bảo sự vô tư của NTHTT; nguyên tắc xác định trách nhiệm của cơ quan THTT,
người THTT; nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Tuy nhiên, nhóm xin trình bày hai nguyên tắc chính có tác động trực tiếp đến chế định
này.
• Nguyên tắc xác định sự thật vụ án:
Điều 10 BLTTHS có quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án
phải dùng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan,
toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội,
những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiêm hình sự của bị can, bị
cáo”.
Yêu cầu xác định sự thật vụ án đặt ra là sự thật vụ án phải được xác định một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Tính khách quan, toàn diện và đầy đủ là những đòi
hỏi mang tính chỉ đạo từ việc thu thập, kiểm tra đến đánh giá chứng cứ và các tình tiết
khác liên quan đến vụ án. Phải đánh giá dựa trên những cứ có thật, liên quan đến vụ án
chứ không dựa trên những suy luận chủ quan của người THTT.
Để đảm bảo xác định sự thật khách quan của vụ án đòi hỏi những người có
thẩm quyền TTHS cần phải vô tư, không để lợi ích, tình cảm cá nhân xen vào công việc.
Nếu có những căn cứ để cho thấy họ không vô tư trong khi làm nhiệm vụ thì trước hết đòi
hỏi họ phải tự giác từ chối, trong trường hợp không từ chối thì sẽ bị đề nghị thay đổi.

• Nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người THTT:
Để đảm bảo vụ án hình sự được xử lý chính xác, khách quan, góp phần vào
cuộc đấu tranh chống tội phạm có hiệu quả cũng như để bảo vệ tốt các quyền tự do, dân
chủ của công dân thì các chủ thể THTT phải vô tư, khách quan khi thực hiện nhiệm vụ.
Do đó, nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người THTT hoặc người TGTT luôn được đề cao
5
trong TTHS. Điều 14 BLTTHS quy định: “Thủ trưởng, Phó Thử trưởng cơ qun điều tra,
Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó
Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án không được tiến hành tố tụng…,
nếu có lý do xác đáng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của
mình”.
Nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người THTT hoặc người TGTT là điều kiện
để đảm bảo xác định được sự thật khách quan, giúp cho việc xử lý vụ án chính xác, công
bằng. Nếu người THTT có những biểu hiện thiên lệch, không vô tư trong THTT thì sự
thật vụ án không được phản ánh đầy đủ. Một trong những nhân tố trực tiếp tác động đến
sự vô tư của người THTT đó là tình cảm, mà cụ thể là những tình cảm xuất phát từ mối
quan hệ thân thích. Do có mối quan hệ tình cảm nên khi THTT, đánh giá một vấn đề liên
quan đến lợi ích của người thân thích người THTT chắc chắn sẽ không tránh được sự
thiên lệch, không vô tư; từ đó trong các nhận định, phán quyết không phản ánh được đầy
đủ, khách quan sự thật của vụ án và điều này dẫn đến việc áp dụng pháp luật cũng như
các phán quyết của Tòa án sẽ không đạt được mục đích.
Ngoài mối quan hệ thân thích giữa người THTT và người TGTT còn một số
quan hệ khác chi phối sự độc lập, khách quan của người THTT như: sự chịu ơn, sự cho
nhận tài sản… Nếu người THTT thực hiện nhiệm theo đúng quy định của pháp luật thì có
thể sẽ mất đi một vài quyền lợi từ phía người TGTT. Người THTT đứng trước sự lựa chọn
giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của người TGTT khác trong vụ án họ sẽ khó giữ được sự
thanh bạch mà có những hành vi làm sai lệch vụ án.
Mặt khác, một người không thể tự đưa ra những nhận định, phán xét cho chính
mình hoặc người mà mình đại diện một cách vô tư, khách quan, công bằng. Cho nên
người THTT không thể đồng thời tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS với hai tư cách tố

tụng khác nhau, vừa là người THTT vừa là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự vừa có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, là người đại diện hợp pháp, người thân
thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo. Trong trường hợp này, người THTT
phải tự từ chối khi thấy mình không thể vô tư trong quá trình giải quyết vụ án hoặc bị đề
nghị thay đổi để đảm bảo cho việc xác định sự thật khách quan của một vụ án.
Người THTT cũng phải trung thực xem xét các kết kuận của người giám định,
người phiên dịch bằng trình độ hiểu biết của mình; không được vì quen biết mà tin tưởng
hoàn toàn vào kết quả đó, không đối chứng với chứng cứ khác, những tình tiết khác có
liên quan trong vụ án để làm sáng tỏ sự thật vụ án, sẽ đi đến tình trạng oan sai, quyền và
lợi ích hợp pháp của người TGTT không được bảo đảm.
Do đó, khi người THTT rơi vào một trong những căn cứ quy định tại Điều 42
BLTTHS, người THTT không thể đảm bảo sự vô tư khi đưa ra các kết luận đúng đắn vì
6
sự thật khách quan của vụ án thì họ phải tự mình từ chối THTT, hoặc bị đề nghị thay đổi
bởi những chủ thể được quy định tại Điều 43 BLTTHS.
II. Căn cứ thay đổi người THTT trong pháp luật TTHS Việt Nam – thực tiễn áp dụng
và kiến nghị hoàn thiện:
1. Các căn cứ thay đổi:
a. Các căn cứ thay đổi:
Người THTT là chủ thể không thể thiếu trong quá trình tố tụng, người THTT
với những chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm làm sáng tỏ sự thật khách quan
của vụ án, để làm được những điều đó họ phải thực sự vô tư, khách quan trong khi THTT.
Nếu có những lí do cho rằng họ không còn vô tư, khách quan khi phán thì họ phải từ chối
hoặc bị đề nghị thay đổi. Điều 42, 44, 56, 46, 47 BLTTHS quy định các thay đổi người
tiến hành tố tụng.
Căn cứ thứ nhất, Khoản 1 Điều 42 BLTTHS quy đinh: “Họ đồng thời là
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị
can, bị cáo”.
Đồng thời có nghĩa là người THTT tham gia cùng lúc với hai tư cách tố tụng,

vừa là người THTT vừa là người TGTT. Trong trường hợp này người THTT phải từ chối
THTT hoặc bị thay đổi vì họ khó có thể khách quan khi quyết định lợi ích của chính
mình, của những người thân thích hay của những người mình đại diện.
Người bị hại là người bị thiệt hại về vật chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây
ra (khoản 1 Điều 51 BLTTHS). Nếu người THTT đồng thời là người bị hại, họ sẽ tự đưa
ra các chứng cứ rồi tự xem xét các chứng cứ mình đưa ra để buộc tội người phạm tội;
người THTT sẽ không thể vô tư khi xem xét quyền lợi cho chính mình, do đó ở những
trường hợp này nếu người THTT không tự mình từ chối thì phải bị đề nghị thay đổi bởi
những chủ thể có thẩm quyền.
Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra
và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại (khoản 1 Điều 52 BLTTHS). Không thể để người
THTT đồng thời là nguyên đơn dân sự vì lợi ích vật chất là thứ khiến con người ta dễ sa
ngã; nguyên đơn dân sự đưa ra yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại, với tư cách người THTT
tự mình phán quyết cho khoản thiệt hại mà mình được bồi thường, như vậy sẽ xâm phạm
nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người phải bồi thường thiệt hại – bị đơn dân sự.
Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu
trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra (khoản 1 Điều 53
BLTTHS). Bị đơn dân sự có thể không là người trực tiếp gây ra thiệt hại mà theo quy định
của pháp luật họ phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra, họ có thể là cha mẹ, người giám hộ nếu người gây thiệt hại là người chưa thành
7
niên hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cơ quan, tổ chức đối với trường hợp cán bộ,
nhân viên trong cơ quan, tổ chức đó gây ra thiệt hại. Nếu người THTT đồng thời là bị đơn
dân sự, họ sẽ tự xem xét tính chất, mức độ mà mình phải bồi thường, sẽ đưa ra những
chứng cứ có lợi cho mình để phải bồi thường ít hơn so với thiệt hại thực tế; điều đó có thể
gây thiệt hại cho những người có quyền và lợi ích liên quan.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người mà việc giải quyết
VAHS liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ, họ không phải là người phạm tội cũng
không phải bồi thường hay được bồi thường nhưng họ TGTT vì quyền lợi của họ bị ảnh
hưởng bởi quyết định của TA. Nếu họ đồng thời là người THTT thì chính họ sẽ là người

định đoạt tài sản của mình, như vậy không thể nào đảm bảo được người THTT đó sẽ vô
tư, khách quan.
Người đại diện hợp pháp là người nhân danh và vì lợi ích của những người nêu
trên hoặc cuả bị can, bị cáo tham gia tố tụng tại phiên tòa, gồm đại diện theo pháp luật và
đại diện theo ủy quyền. Đại diện theo pháp luật là đại diện theo quy định của pháp luật
hoặc theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, chẳng hạn cha mẹ là người đại diện cho
con chưa thành niên, người giám hộ là người đại diện cho người được giám hộ. Đại diện
theo ủy quyền là đại diện được xác lập giữa người đại diện và người được đại diện; cá
nhân hoặc người đứng đầu các cơ quan, tổ chức có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người
khác TGTT. Dù là đại diện theo pháp luật hay theo ủy quyền thì người đại diện luôn vì lợi
ích của người được đại diện. Nếu người THTT đồng thời là người đại diện, họ sẽ nghiêng
về việc bảo vệ cho quyền lợi của người mà họ đại diện, sẽ đưa ra những đánh giá, nhận
định có lợi cho người được đại diện, không đảm bảo quyền lợi cho những chủ thể khác
cùng tham gia vào vụ án, sẽ làm mất đi tính dân chủ của pháp luật.
Người thân thích là những người được xác định theo quan hệ huyết thống, được
quy định rõ ràng và chi tiết tại điểm b khoản 4 mục I Nghị quyết 03/2004 của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi quy định tại Điều 42 BLTTHS: “Người thân thích
của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án, bị can, bị cáo là những người có quan hệ sau đây với với một trong
những người này: là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; là
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; là cụ nội, cụ ngoại của
một trong những trường hợp trên đây; là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; tà
cháu mà họ là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột”.
Tại điểm b khoản 4, mục I Nghị định 03/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn Điều 42
BLTTHS có quy định: “Người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị
thay đổi, nếu họ là người thân thích của một trong những người sau đây trong vụ án hình
sự mà họ được phân công xét xử: người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; bị can, bị cáo.”
8
Người thân thích tuy không phải là người có quyền lợi trực tiếp liên quan đến

vụ án nhưng nếu người THTT đồng thời là người thân thích của những người nêu trên, họ
sẽ vì tình riêng, vì mối quan hệ thân thích mà làm sai lệch nội dung vụ án, lạm dụng
quyền lực của mình bao che, tạo điều kiện tốt nhất cho những người TGTT là người thân
thích của mình. Trong trường hợp này, người THTT phải từ chối THTT hoặc bị đề nghị
thay đổi để đảm bảo cho VAHS được giải quyết một cách đúng đắn, bảo đảm nguyên tắc
pháp chế XHCN được tuân thủ một cách triệt để.
Tuy nhiên, trường hợp người THTT là người thân thích của người đại diện hợp
pháp, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự thì pháp luật lại không quy
định có phải từ chối hay bị thay đổi hay không. Thiết nghĩ, mối quan hệ này cũng khiến
cho người THTT không thể vô tư, khách quan nên cần phải bổ sung trường hợp này người
THTT phải từ chối THTT hoặc bị thay đổi.
Căn cứ thứ hai, Khoản 2 điều 42 BLTTHS quy định: “Họ đã tham gia với tư
cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong vụ
án đó”.
Người bào chữa là người TGTT để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm
chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
giúp họ những hoạt động pháp lý cần thiết. Người bào chữa thực hiện chức năng gỡ tội
cho bị can, bị cáo chứ không thể đưa ra các chứng cứ buộc tội cho bị can, bị cáo; nếu để
họ đồng thời là người THTT đương nhiên họ sẽ không khách quan, vô tư; họ sẽ xem xét
giải quyết các vấn đề theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo không đảm nguyên tắc xác định
sự thật của vụ án. Khi người THTT đồng thời là người bào chữa thì phải từ chối THTT
hoặc bị thay đổi. Tuy nhiên, pháp luật không quy định trường hợp người THTT đồng thời
là người bảo vệ quyền lợi cho đương sự thì có phải từ chối THTT hoặc bị thay đổi hay
không. Về tư cách TGTT thì người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của đương sự là
như nhau, chỉ khác nhau ở tư cách người TGTT được họ bảo vệ. Đây là một hạn chế mà
PLTTHS cần khác phục.
Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến vụ án được
triệu tập đến làm chứng (khoản 1 Điều 55 BLTTHS). Khi TGTT người làm chứng có
nghĩa vụ khai báo trung thực tất cả các tình tiết về vụ án. Thông thường, khi chứng kiến
một vụ án, nguời làm chứng có thể sẽ hình thành định kiến với người thực hiện hành vi

phạm tội, họ sẽ có thiện cảm hơn đối với người bị hại. Do đó, khi khai báo họ có thể khai
những tình tiết không có lợi cho bị can, bị cáo. Mặt khác, pháp luật không cấm những
người thân thích với nhau không thể được ra làm chứng, nếu họ biết được tình tiết về vụ
án, được TA triệu tập thì họ vẫn có thể tham gia phiên tòa, khi đó, họ có thể sẽ khai báo
theo hướng có lợi cho người thân thích của mình. Do đó, họ không thể vừa là người đưa
ra các chứng cứ, vừa là người THTT kiểm tra tính đúng đắn, xem xét, đánh giá chứng cứ
mà mình đưa ra.
9
Người giám định là người có kiến thức cần thiết về lĩnh vực cần giám định
được Cơ quan THTT trưng cầu theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 60 BLTTHS).
Người giám định TGTT theo nghĩa vụ, họ cung cấp những kết luận về lĩnh vực mà họ
giám định cho TA. Người giám định không thể đồng thời là người THTT vì họ không thể
là người vừa đưa ra các kết quả giám định, vừa là người xem xét các kết luận giám định
mà mình đã đưa ra.
Người phiên dịch là người do Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án yêu
cầu trong trường hợp có người TGTT không sử dụng được tiếng Việt (khoản 1 Điều 61
BLTTHS). Người phiên dịch phải đảm bảo nội dung dịch trung thực, nếu có gian dối thì
người phiên dịch phải chịu trách nhiệm theo Điều 307 BLHS. Do đó, việc người phiên
dịch đồng thời là người THTT sẽ không đảm bảo tính vô tư, khách quan trong việc xem
xét tính đúng đắn lời dịch của họ, làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.
Các chủ thể nêu trên là những người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý hoặc để hỗ
trợ pháp lý cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án hoặc bị can, bị cáo. Họ không chỉ bảo vệ quyền lợi của những
người TGTT mà còn giúp cơ quan THTT làm rõ tình tiết liên quan đến vụ án. Họ không
thể đồng thời là người THTT trong vụ án, một cá nhân không thể cùng lúc đảm nhiệm hai
vị trí tố tụng khác nhau, để đảm bảo cho vụ án được giải quyết đúng đắn, khách quan.
Căn cứ thứ ba, khoản 3 Điều 42 BLTTHS quy định: “Có căn cứ rõ ràng khác
để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ”.
Tại điểm c khoản 4, mục I Nghị định 03/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn những
quy định về không vô tư khi làm nhiệm vụ như sau: Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng

họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ là ngoài các trường hợp quy định tại khoản
1, khoản 2 Điều 42 BLTTHS thì trong các trường hợp khác (như trong quan hệ tình cảm,
quan hệ thông gia, quan hệ công tác, quan hệ kinh tế…). Có căn cứ rõ ràng để có thể
khẳng định là Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án có thể không vô tư trong khi làm
nhiệm vụ.
Ví dụ: Hội thẩm là anh em kết nghĩa của bị can, bị cáo; Thẩm phán là con rể
của bị cáo; người bị hại là Thủ trưởng cơ quan, nơi vợ của Thẩm phán làm việc… Mà có
căn cứ rõ ràng chứng minh là trong cuộc sống giữa họ có mối quan hệ tình cảm thân thiết
với nhau, có mối quan hệ về kinh tế…
Cũng được coi là có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư
trong khi làm nhiệm vụ nếu cùng một phiên tòa xét xử vụ án hình sự, Kiểm sát viên,
Thẩm phán, Hội Thẩm và Thư ký là người thân thích với nhau.
Căn cứ thứ tư, “Đã THTT trong vụ án đó với một tư cách khác tư cách tố tụng
mà họ đang đảm nhiệm”. (Điểm b khoản 1 Điều 44, 45, 47, điểm c khoản 1 Điều 46
BLTTHS).
10
Tức là trong vụ án đó đã THTT với tư cách là Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội
thẩm hoặc Thư Ký Tòa án (đối với trường hợp thay đổi Điều tra viên); đã THTT với tư
cách Điều tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm hoặc Thư ký (đối với trường hợp thay đổi Kiểm
sát viên); đã THTT với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án (đối với trường hợp
thay đổi Thẩm phán, Hội Thẩm); đã THTT với tư cách Kiểm sát viên, Điều tra viên,
Thẩm phán hoặc Hội thẩm (đối với trường hợp thay đổi Thư ký Tòa án).
Tại điểm b khoản 6 mục I NQ 03/ 2004 hướng dẫn điểm c khoản 1 Điều 46
BLTTHS có quy đinh “đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc tiến hành tố tụng
trong vụ án đó” với tư cáchThấm phán, Hội thẩm; nghĩa là đã tham gia giải quyết vụ án
và đã ra bản án sơ thẩm hoặc bản án phúc thẩm hoặc quyết định đình chỉ vụ án. Nếu
Thẩm phán, Hội thẩm được phân công tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm nhưng
chỉ tham gia các quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án, hủy quyết định
đình chỉ vụ án, hoãn phiên tòa, thì vẫn được giải quyết vụ án.
Hơn nữa, pháp luật chỉ quy định trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm không được

THTT lại với cùng tư cách tố tụng trước đó (điểm c khoản 1 Điều 46 BLTTHS) chứ
không có quy định tương tự đối với các trường hợp thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thư ký Tòa án. Đây là một thiếu sót mà pháp luật TTHS cần bổ sung để hoàn thiện hơn
nữa chế định căn cứ thay đổi người THTT.
Ngoài ra, khi Thẩm phán và Hội thẩm cùng trong một Hội đồng xét xử và là
người thân thích với nhau thì cũng phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi (điểm b
khoản 1 Điều 46), đây có thể là quan hệ thân thích giữa Thẩm phán với Hội thẩm, Hội
thẩm với Hội thẩm. Việc có quan hệ thân thích giữa các thành viên HĐXX không đảm
bảo nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập theo Điều 16 BLTTHS, quyết định
của HĐXX có thể bị tác động tiêu cực bởi mối quan hệ thân thích. Nếu trong một HĐXX
có hai thành viên thân thích với nhau thì chỉ cần một người bị thay đổi cũng đủ làm triệt
tiêu quan hệ thân thích trong tố tụng, do đó, khi hai người thân thích với nhau, thì chỉ có
một người bị từ chối hoặc thay đổi.
Khoản 8 mục I NQ 03/2004 quy định việc thay đổi người THTT là Chánh án,
Phó Chánh án Tòa án: khi Chánh án, Phó Chánh án Tòa án THTT với tư cách là Thẩm
phán (chủ tọa phiên tòa hoặc là thành viên HĐXX) có nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm quy định tại Điều 39 thì sẽ từ chối hoặc bị thay đổi theo quy định tại Điều 42, Điều
46 BLTTHS. Tuy nhiên luật lại không quy định thủ tục thay đổi và những chủ thể nào sẽ
có thẩm quyền thay đổi, đây là một thiếu sót mà pháp luật TTHS cần được ghi nhận và bổ
sung.
b. Quyền đề nghị thay đổi
Theo Điều 43, những chủ thể sau có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố
tụng:
11
Thứ nhất, Kiểm sát viên.
Khi tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên đại diện cho Nhà nước, nhân danh Nhà
nước thực hiện nhiệm vụ buộc tội bị can, bị cáo, bảo vệ những lợi ích của Nhà nước và
của công dân bị tội phạm xâm hại. Ngoài ra, Kiểm sát viên có quyền kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự để đảm bảo tính khách quan, toàn diện,
đầy đủ và đúng pháp luật của các hoạt động này. Để bảo vệ được quyền lợi Nhà nước, cơ

quan, tổ chức cũng như cũng như công dân, pháp luật TTHS quy định họ được quyền đề
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng khi thấy những người THTT không khách quan, vô
tư trong khi tiến hành tố tụng. Quyền này xuất phát từ trách nhiệm của Kiểm sát viên
trong việc kịp thời phát hiện và loại trừ khả năng vi phạm pháp luật của người THTT.
Thứ hai, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và
người đại diện hợp pháp của họ.
Để đảm bảo cho những người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích của mình,
pháp luật TTHS quy định cho họ được quyền đề nghị thay đổi người THTT nếu thấy
những người THTT đó không vô tư, khách quan trong khi làm nhiệm vụ.
Bị can, bị cáo là những người có quyền và lợi ích đang bị đe dọa, bị hạn chế
hoặc tước bỏ nên pháp luật quy định cho họ quyền đề nghị thay đổi người THTT, được
lựa chọn những người THTT mà họ tin rằng sẽ khách quan, vô tư khi quyết định các vấn
đề liên quan đến quyền và lợi ích của họ, để họ tin tưởng vào sự công bằng của pháp luật,
sự quan minh của những người THTT.
Người bị hại là người bị tội phạm gây ra những thiệt hại về vật chất, tinh thần,
tài sản. Nếu phát hiện người THTT có ý bao che, gian dối trong khi thực hiện nhiệm vụ
thì người bị hại có quyền yêu cầu thay đổi để đảm bảo quyền lợi của mình được giải
quyết thỏa đáng hợp lý, công bằng trước pháp luật.
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự cũng đặt niềm tin vào những người THTT –
những người xem xét, quyết định mức độ thiệt hại và trách nhiệm bồi thường của họ.
Pháp luật quy định cho họ được quyền đề nghị thay đổi người THTT để quyền lợi của các
bên được đảm bảo, vì khi người THTT không khách quan, vô tư, cố ý bảo vệ quyền lợi
của một bên nào đó sẽ gây thiệt hại cho bên còn lại.
Khi những người nêu trên là người chưa thành niên, người có nhược điểm về
thể chất hoặc tâm thần thì khi TGTT sẽ có người đại diện hợp pháp, có thể là cha, mẹ,
anh, chị em hoặc người giám hộ, họ cũng có quyền đề nghị thay đổi người THTT. Quy
định này cũng nhằm bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, tránh những hành vi xâm phạm từ phía những người THTT khi họ là người
hạn chế khả năng nhận thức.
12

Thứ ba, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự.
Những người này có quyền đề nghị thay đổi người THTT để bảo vệ quyền lợi
của những người mà họ nhận trách nhiệm giúp đỡ khi thấy những người THTT không vô
tư, khách quan trong khi làm nhiệm vụ.
Trong quá trình TGTT, người bào chữa được tìm hiểu những tình tiết của vụ án
nhằm làm giảm nhẹ TNHS, gỡ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, qua đó kiểm tra
việc tuân thủ pháp luật của những người THTT nhằm phát hiện những người không trung
thực, khách quan, vô tư khi THTT, vì quyền lợi của người được bào chữa họ sẽ yêu cầu
thay đổi người THTT trong vụ án đó góp phần thực hiện pháp chế XHCN.
Với trình độ hiểu biết pháp luật của mình, người bảo vệ quyền lợi dễ dàng nhận
ra những thiếu sót, sai lầm và vi phạm của người THTT từ đó đề nghị thay đổi người
THTT nhằm thực hiện vai trò của mình trong quá trình tố tụng: bảo vệ quyền lợi cho
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, đảm bảo sự công minh của pháp luật,
đảm bảo quyền lợi của những người được bảo vệ công bằng giữa mức độ thiệt hại mà họ
gây ra với trách nhiệm bồi thường và hình phạt.
Ngoài các chủ thể được quy định tại Điều 43 BLTTHS, tại đoạn 2 khoản 3 Điều
306 BLTTHS quy định đại diện nhà trường, tổ chức tham gia phiên tòa khi bị cáo là
người chưa thành niên cũng có quyền đề nghị thay đổi người THTT. Tuy nhiên, luật
không quy định cụ thể những người THTT nào có thể bị thay đổi trong trường hợp này.
Nếu chỉ quy định chung chung như vậy có thể dẫn đến hiểu làm rằng họ chỉ có thể đề
nghị thay đổi những người THTT tại phiên tòa, cụ thể là Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát
viên và Thư ký Tòa án chứ không thể là Điều tra viên. Pháp luật TTHS cần có những quy
định rõ hơn ở trường hợp này.
Tuy những chủ thể này có quyền đề nghị thay đổi người THTT những họ cần
phải sử dụng quyền này một cách đúng đắn, không được lợi dụng việc này để gây khó
khăn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan THTT. Người đề nghị thay
đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên, thành viên HĐXX, Thư ký TA phải nêu rõ lý do và căn
cứ, nếu không có căn cứ rõ ràng về một trong các trường hợp phải thay đổi người THTT
theo quy định tại các Điều 42, 44, 45, 46, 47 và Điều 33 BLTTHS thì yêu cầu của họ về

việc thay đổi người THTT sẽ không được Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng VKS, Chánh án
TA và HĐXX chấp nhận. Hơn thế, “quyết định thay đổi người THTT tại phiên tòa có thể
ảnh hưởng đến uy tín của người bị thay đổi. Do đó, cần được HĐXX cân nhắc thận trọng
và theo đúng quy định cuả pháp luật TTHS”.
c. Thẩm quyền quyết định sự thay đổi:
Khi có căn cứ thay đổi người THTT mà người THTT không tự mình từ chối
THTT thì một trong những chủ thể quy định tại Điều 43 BLTTHS có quyền đề nghị thay
13
đổi người THTT. Các chủ thể có quyền đề nghị phải đưa ra yêu cầu và các chủ thể có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật sẽ quyết định chấp nhận hay không yêu cầu thay
đổi đó. Tùy thuộc vào từng thời điểm khác nhau của quá trình tố tụng mà chủ thể có thẩm
quyền quyết định sự thay đổi sẽ khác nhau.
• Trước khi mở phiên tòa
Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS), Tòa án được tổ chức theo
nguyên tắc tập trung, thống nhất quyền quản lý vào người đứng đầu – Thủ trưởng cơ quan
(Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng VKS, Chánh án Tòa án). Thủ trưởng cơ quan là người
chịu trách nhiệm chính toàn bộ hoạt động của cơ quan đó, là người phân công cán bộ
trong cơ quan tiến hành tố tụng, kiểm tra các hoạt động của cán bộ thuộc cơ quan, giải
quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan đến cán bộ được phân công đó.
Như vậy, trước khi mở phiên tòa, các cán bộ trong Cơ quan THTT chịu sự
quản lý trực tiếp của Thủ trưởng cơ quan đó, nên việc thay đổi cán bộ trong cơ quan
THTT trước khi mở phiên tòa sẽ do Thủ trưởng cơ quan đó quyết định. Các Cơ quan
THTT được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương, cơ quan cấp dưới chịu sự
quản lý của cơ quan cấp trên, nên nếu Thủ trưởng cơ quan là người phải thay đổi thì việc
thay đổi sẽ do Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp quyết định.
Cụ thể, đối với trường hợp thay đổi Điều tra viên trước khi mở phiên tòa
được quy định tại đoạn 1, 2 khoản 2 Điều 44 BLTTHS: Việc thay đổi Điều tra viên do
Thủ trưởng CQĐT quyết định; tuy nhiên luật lại không quy định chủ thể có thẩm quyền
thay đổi là ai nếu đối tượng phải thay đổi là Thủ trưởng CQĐT, đây là một kẻ hở mà pháp
luật TTHS cần phải quan tâm.

Trường hợp thay đổi Kiểm sát viên trước khi mở phiên tòa được quy định tại
đoạn 1, 2 khoản 2 Điều 45 BLTTHS: Việc thay đổi Kiểm sát viên do Viện trưởng VKS
cùng cấp quyết định. Trường hợp KSV bị thay đổi là Viện trưởng VKS thì do Viện trưởng
VKS cấp trên trực tiếp quyết định.
Trường hợp thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm trước khi mở phiên tòa được quy
định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 46 BLTTHS: Việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm do Chánh
án Tòa án quyết định, nếu Thẩm phán bị thay đổi là Chánh án thì do Chánh án Tòa án
cấp trên trực tiếp quyết định.
Trường hợp thay đổi Thư ký Tòa án trước khi mở phiên tòa được quy định
tại đoạn 1 khoản 2 Điều 47 BLTTHS: Việc thay đổi Thư ký trước khi mở phiên tòa do
Chánh án Tòa án quyết định.
• Tại phiên tòa
Một trong những nguyên tắc xét xử cơ bản của Tòa án là xét xử độc lập, khi
phiên tòa đã được mở thì việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm là độc lập, không bị chi
14
phối, ảnh hưởng bởi Chánh án Tòa án. Do đó, khi có yêu cầu thay đổi người THTT tại
phiên tòa thì HĐXX là người quyết định có chấp nhận hay không yêu cầu thay đổi này
bằng cách biểu quyết tại phòng nghị án và quyết định theo đa số.
Theo Điều 199 BLTTHS đã làm rõ thẩm quyền thay đổi Kiểm sát viên tại
phiên tòa: Quyết định về việc thay đổi Kiểm sát viên phải được thảo luận và thông qua tại
phòng nghị án và phải được lập thành văn bản để hiểu rằng HĐXX có quyền thay đổi
Kiểm sát viên tại phiên tòa. Nếu chấp nhận việc thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa thì
HĐXX phải gửi ngay quyết định hoãn phiên tòa cho VKS cùng cấp để VKS cử Kiểm sát
viên tham gia phiên tòa.
Đối với việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên tòa do HĐXX quyết
định trước khi bắt đầu xét hỏi bằng cách biểu quyết tại phòng nghị án. Khi xem xét thành
viên nào thì thành viên đó được trình ý kiến của mình, HĐXX quyết định theo đa số
(khoản 2 Điều 46 BLTTHS).
Đối với Thư ký TA “Việc thay đổi Thư ký tại phiên tòa do HĐXX quyết
định. Trong trường hợp thay đổi Thư ký tại phiên tòa thì HĐXX ra quyết định hoãn phiên

tòa (khoản 2 Điều 47 BLTTHS). Tuy tại phiên tòa, HĐXX có quyền quyết định việc thay
đổi Thư ký nhưng khi phiên tòa được hoãn, Thư ký tòa án lại chịu sự quản lý của Chánh
án tòa án nên việc cử Thư ký khác thay thế vẫn thuộc quyền của Chánh án tòa án.
Như vậy, thẩm quyền quyết định thay đổi người THTT được quy định tương
đối rõ ràng và thủ tục thay đổi tương đối đơn giản đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ
thể có quyền đề nghị thay đổi có thể sử dụng quyền năng của mình một cách tốt nhất để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
BLTTHS cũng quy định về hậu quả pháp lý của việc thay đổi người THTT
và thẩm quyền cử người THTT mới thay thế trong từng trường hợp, cụ thể, với trường
hợp thay đổi Điều tra viên là Thủ trưởng CQĐT thì việc điều tra vụ án do CQĐT cấp trên
trực tiếp tiến hành (khoản 2 Điều 44); tuy nhiên việc quy định như vậy cho thấy một thiếu
sót của các nhà làm luật khi không quy định chủ thể có thẩm quyền thay đổi đối với
trường hợp người bị thay đổi là Điều tra viên thông thường. Với trường hợp thay đổi
Kiểm sát viên tại phiên tòa thì HĐXX phải ra quyết định hoãn phiên tòa và việc cử Kiểm
sát viên khác do Viện trưởng VKS cùng cấp hoặc Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp
quyết định (khoản 2 Điều 45). Trường hợp thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên tòa thì
HĐXX ra quyết định hoãn phiên tòa, việc cử thành viên mới của HĐXX do Chánh án Tòa
án quyết định (khoản 2 Điều 46). Trường hợp thay đổi Thư ký Tòa án tại phiên tòa thì
HĐXX ra quyết định hoãn phiên tòa, việc cử Thư ký Tòa án mới do Chánh án Tòa án
quyết định (khoản 2 Điều 47).
2. Những bất cập còn tồn tại trong việc áp dụng chế định căn cứ thay đổi người
tiến hành tố tụng.
15
a. Những bất cập về mặt quy phạm
Mặc dù BLTTHS đã có những ghi nhận và bổ sung tiến bộ về các căn cứ thay đi
người THTT, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những vướng mắc nhất định. Điều này dẫn đến
các căn cứ thay đổi người THTT chưa được thực hiện một cách trọn vẹn, ảnh hưởng đến
việc thực thi nhiệm vụ chung của THHS. Qua nghiên cứu và tìm hiểu, tác giả nhận thấy
chế định căn cứ thay đổi người THTT trong BLTTHS còn có những khiếm khuyết sau:
-Về mặt nội dung các căn cứ thay đổi người THTT:

Thứ nhất, Điều 42 BLTTHS không quy định người THTT không được TGTT
nếu đã THTT với tư cách là người bảo vệ quyền lợi của đương dự là một thiếu sót trong
việc thực hiện thay đổi người THTT, làm giảm hiệu quả của TTHS.
Theo quy định tại Điều 56, 58 và 59 BLTTHS thì địa vị pháp lý, quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của đương sự là ngang nhau, tuy
nhiên pháp luật chỉ qui định những trường hợp mà người bào chữa không được là người
bào chữa nhưng lại không quy định những trường hợp mà người bảo vệ quyền lợi của
đương sự không được tham gia bảo vệ quyền lợi của đương sự. Mặt khác, Điều 56
BLTTHS quy định nhười bào chữa không được tham gia bào chữa nếu là “người thân
thích của người đã hoặc đang THTT trong vụ án đó” nhưng tại Điều 42 lại không quy
định người THTT phải từ chối THTT hoặc bị thay đổi nếu là người thân thích với người
bào chữa vì nếu người THTT là người thân thích với người bảo vệ quyền lợi của đương
sự, họ cũng không thể nào vô tư, khách quan khi giải quyết vụ án.
Hơn thế nữa, khoản 1 Điều 42 quy định người THTT không đồng thời là
người đại diện hợp pháp của đương sự, của bị can, bị cáo nhưng lại không cấm người
THTT là người thân thích với người đại diện hợp pháp, nếu có trường hợp đó xảy ra, liệu
người THTT có còn vô tư, khách quan để giải quyết vụ án một cách đúng đắn, đảm bảo
mục đích của hoạt động tố tụng.
Thứ hai, theo quy định của Điều 42 BLTTHS thì đối tượng phải từ chối hoặc
thay đổi THTT khi có những căn cứ quy định tại khoản 1, 2, 3 của điều luật này bao gồm:
Thủ trưởng CQĐT, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng
VKS, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án TA, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký TA.
Song, khi quy định căn cứ từ chối hoặc thay đổi người THTT cụ thể tại các Điều 44, 45,
46, 47 BLTTHS chỉ có các đối tượng là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội
thẩm, Thư ký Tòa án, Điều tra viên là Thủ trưởng CQĐT, Kiểm sát viên là Viện trưởng
VKS, Thẩm phán là Chánh án TA mà không có Phó Thủ trưởng CQĐT, Phó Viện trưởng
VKS, Phó Chánh án TA. Quy định này dẫn đến những cách hiểu như sau: một là, Phó Thủ
trưởng CQĐT, Phó Viện trưởng VKS, Phó Chánh án TA không là người THTT; hai là,
Phó Thủ trưởng CQĐT, Phó Viện trưởng VKS, Phó Chánh án TA nếu là người THTT khi
có những căn cứ từ chối hoặc thay đổi theo quy định quy định của pháp luật cũng không

phải từ chối hoặc thay đổi khi họ THTT; ba là, Phó Thủ trưởng CQĐT, Phó Viện trưởng
VKS, Phó Chánh án TA chỉ THTT với vai trò là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán
chứ không có vai trò Phó của người đứng đầu các cơ quan THTT. Những cách hiểu trên
16
đều không phù hợp với các quy định về người THTT tại Điều 33 BLTTHS bao gồm cả
Phó Thủ trưởng CQĐT, Phó Viện trưởng VKS, Phó Chánh án TA và Điều 42 BLTTHS
“người THTT phải từ chối THTT hoặc thay đổi, nếu…”. Như vậy, đã không có sự đồng
nhất giữa các điều luật trong BLTTHS dẫn đến những cách hiểu khác nhau, khó áp dụng
trong thực tiễn và quan trọng hơn là làm cho vụ án không được giải quyết một cách khách
quan khi Phó Thủ trưởng CQĐT, Phó Viện trưởng VKS, Phó Chánh án TA có những căn
cứ phải từ chối hoặc thay đổi THTT mà không phải từ chối THTT hoặc bị thay đổi.
Thứ ba, nếu Điều tra viên là Thủ trưởng CQĐT, Kiểm sát viên là Viện trưởng
VKS, Thẩm phán là Chánh án TA khi có các căn cứ thay đổi THTT do các cơ quan THTT
cấp trên trực tiếp tương ứng quyết định (khoản 2 Điều 44, 45, 46 BLTTHS). Tuy nhiên,
những người đứng đầu cơ quan THTT lại có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án
và do vậy dù họ có bị thay đổi với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán thì
ảnh hưởng của họ cũng tác động nhiều đến quá trình giải quyết vụ án. Có thể khắc phục
hạn chế này bằng cách pháp luật cần quy định chặt chẽ vị trí độc lập của Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký TA khi THTT, hạn chế sự tác động của
những người đứng đầu các cơ quan THTT.
Thứ tư, việc quy định Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT; Viện trưởng, Phó
Viện trưởng VKS; Chánh án, Phó Chánh án TA là người THTT của BLTTHS 2003 là
điểm mới nhất so với BLTTHS 1988 nhằm nâng cao cao chất lượng hoạt động và đề cao
trách nhiệm của người THTT khi giải quyết vụ án theo tinh thần Nghị quyết số 08 –
NQ/TW của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trong tâm trong công tác tư pháp thời gian
tới”. Tại khoản 1 Điều 33 BLTTHS quy định cơ quan THTT bao gồm: CQĐT, VKS, TA
với các quyền hạn và trách nhiệm tố tụng tương ứng với chức năng của các cơ quan này
trong quá trình THTT. Khi thực hiện các quyền và trách nhiệm tố tụng của mình, các cơ
quan này phải thông qua người đại diện đó là người đứng đầu. Vì vậy, cần phải xác định
Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng VKS, Chánh án TA là đại diện cơ quan THTT do mình

quản lý. Rất tiếc, BLTTHS không có quy định này mà chỉ quy định Thủ trưởng CQĐT,
Viện trưởng VKS, Chánh án TA là người THTT với các quyền hạn, trách nhiệm trong lĩnh
vực quản lý và tố tụng. Những quy định này của BLTTHS 2003 đã dẫn đến sự không rõ
ràng về trách nhiệm giữa người đại diện của cơ quan THTT với trách nhiệm của người
đứng đầu CQĐT, VKS, TA khi THTT với tư cách là người THTT. Chính sự không rõ ràng
này đã ảnh hưởng đến sự vô tư của họ trong quá trình giải quyết vụ án. Vì vậy, ngoài
quyền hạn và trách nhiệm của người THTT thì BLTTHS 2003 cần bổ sung quy định Thủ
trưởng CQĐT, Viện trưởng VKS, Chánh án TA người đại diện cho cơ quan THTT có
trách nhiệm thực thi các quyền hạn, trách nhiệm uca3 cơ quan THTT do họ quản lý.
Thứ năm, theo Điều 111 BLTTHS Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm,
lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân
được gia nhập tiến hành một số hoạt động điều tra với các quyền hạn, trách nhiệm trong
quá trình giải quyết vụ án. Những cơ quan này tham gia vào quá trình tố tụng ở gia đoạn
17
đầu nhằm phát hiện tội phạm và thu thập củng cố chứng cứ về tội phạm và người phạm
tội cũng như các tình tiết khác của vụ án có liên quan làm cơ sở cho việc điều tra, truy tố,
xét xử của các cơ quan THTT trong các giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng. Do vậy,
cán bộ của các cơ quan này thực chất đã làm những công việc của người THTT và họ
cũng phải tuân theo nguyên tắc “bảo đảm sự vô tư” khi THTT. Nếu ở những người này có
căn cứ sẽ không vô tư khi thực hiện nhiệm vụ họ cũng phải có trách nhiệm từ chối hoặc
thay đổi. Có như vậy, tính khách quan trong quá trình THTT mới được giải quyết trọn vẹn
ngay từ đầu. Với lập luận này thì BLTTHS còn thiếu quy định về việc từ chối hoặc thya
đổi người tiến hành một số hoạt động tố tụng ở các cơ quan Bộ đội biên phòng, Hải quan,
Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội
nhân dân, BLTTHS cần khắc phục hạn chế này.
Thứ sáu, về quyền đề nghị thay đổi người THTT trong vụ án, Điều 43 không
quy định cho người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện của họ có
quyền đề nghị thay đổi người THTT là một hạn chế người có quyền và nghĩa vụ bảo vệ
tốt lợi ích của mình. Người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án là một trong những
chủ thể có quyền và lợi ích bị ảnh hưởng bởi phán quyết của TA, nhưng họ lại không

được đề nghị thay đổi người THTT khi họ phát hiện ra những căn cứ cho rằng người
THTT đ1o không khách quan, vô tư. Nếu phán quyết của TA ảnh hưởng đến quyền lợi
của mình, người có quyền và nghĩa vụ chỉ có thể bảo vệ quyền và lợi ích của mình bằng
thủ tục kháng cáo, nhưng thủ tục này lại rất phức tạp, tại sao không quy định cho họ và
người đại diện hợp pháp của họ có quyền đề nghị thay đổi người THTT ngay từ đầu để
không phải kéo dài thời gian xét xử vụ án.
Thứ bảy, BLTTHS quy định Thẩm phán, Hội thẩm đã tham gia xét xử sơ thẩm
hoặc phúc thẩm thì không được THTT trong vụ án đó nữa nhưng không quy định quy
định đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa. Như vậy, có thể hiểu những
người đó có quyền THTT trong vụ án đó với cùng tư cách tố tụng trước đây. Quy định
này là một thiếu sót vì Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thư ký TA có những quyền năng nhất
định có thể gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người TGTT.
-Về trình tự, thủ tục thay đổi người THTT:
Thứ nhất, khoản 2 Điều 44 BLTTHS quy định “Việc thay đổi Điều tra viên
do Thủ trưởng CQĐT quyết định”, như vậy chỉ quy định một chiều. Bản chất của pháp
luật là phải rõ ràng, dễ hiểu để áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ quốc gia. Đã quy
định thẩm quyền quyết định việc thay đổi của Điều tra viên mà không quy định thẩm
quyền cử Điều tra viên mới thay thế. Theo logic ta có thể hiểu, Thủ trưởng CQĐT là
người quyết định thay đổi Điều tra viên thì sẽ có người có thẩm quyền cử Điều tra viên
khác thay thế. Tuy nhiên, nên quy định cụ thể việc cử Điều tra viên khác là do Thủ trưởng
CQĐT cùng cấp quyết định, không nên để những người áp dụng pháp luật phải suy luận,
tránh sự áp dụng không thống nhất các QPPL.
“Nếu Điều tra viên là Thủ trưởng CQĐT mà thuộc một trong các trường hợp
quy định khoản 1 Điều 44 BLTTHS thì việc điều tra vụ án do CQĐT cấp trên trực tiếp
18
tiến hành”. Đối với Điều tra viên là Thủ trưởng CQĐT lại càng không rõ ràng, chỉ quy
định chuyển việc điều tra lên cho CQĐT cấp trên trực tiếp tiên hành điều tra mà không
quy định thẩm quyền quyết định thay đổi và cử Điều tra viên khác thay thế nếu Điều tra
viên là Thủ trưởng CQĐT. Trong trường hợp này, Thủ trưởng CQĐT cấp trên trực tiếp sẽ
là người quyết định có chấp nhận có hay không đề nghị thay đổi Điều tra viên là Thủ

trưởng CQĐT, nếu chấp nhận sẽ cử Điều tra viên khác thay thế. Như vậy, tính khách
quan, vô tư khi xem xét yêu cầu đề nghị thay đổi người THTT sẽ được bảo đảm. việc thay
đổi sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín và thanh danh của người THTT, không thể để cho một
người tự định đoạt cho uy tín của chính bản thân mình.
Thứ hai, về thủ tục thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa. Pháp luật quy định
“trong trường hợp phải thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa thì HĐXX ra quyết định hoãn
phiên tòa”. Việc quy định không rõ ràng này đã dẫn đến nhiều tranh cãi khi áp dụng pháp
luật. có ý kiến cho rằng Kiểm sát viên chịu sự quản lý của Viện trưởng VKS nên việc
chấp nhận đề nghị thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa sẽ do Viện trưởng VKS quyết
định, nếu Viện trưởng Viện kiểm sát chấp nhận thay đổi Kiểm sát viên thì HĐXX sẽ hoãn
phiên tòa. Nhưng cách hiểu này đã không đúng như mong muốn của nhà làm luật vì khi
phiên tòa được xét xử thì HĐXX là người có quyền quyết định mọi sự việc diễn ra tại
phiên tòa. Nếu dẫn chiếu theo Điều 199 BLTTHS “quyết định về việc thay đổi Kiểm sát
viên,…phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Việc quy định rời rạc này đã dẫn đến nhiều sai phạm trong quá trình áp dụng pháp luật.
Tác giả cho rằng nên quy định cụ thể HĐXX có quyền quyết định thay đổi Kiểm sát viên
tại phiên tòa như đã quy định đối với thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký TA để tạo
sự thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật.
Thứ ba, các điều luật từ Điều 42, 45, 46, 47 đều quy định Kiểm sát viên,
Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký TA có nghĩa vụ từ chối THTT nếu thuộc một trong những
trường hợp luật quy định. Trong trường hợp đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử mà
Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký TA từ chối THTT thì phải xem xét quyết
định thay đổi đó. Tuy nhiên, BLTTHS chưa quy định thủ tục Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
hỏi những người THTT xem có ai từ chối THTT không. Thiết nghĩ quy định là cần thiết
vì sự minh bạch của người THTT trước phiên tòa là điều quan trọng, những người THTT
tại phiên tòa được hỏi có từ chối THTT hay không, nếu bản thân họ thấy rằng họ không
vô tư, khách quan thì họ sẽ tự mình từ chối THTT mà không cần đến yêu cầu của người
TGTT. Như vậy, uy tín của người đó không bị ảnh hưởng mà còn được những người
TGTT cũng như những người THTT khác tôn trọng.
-Về cơ chế bảo đảm thực hiện:

Thứ nhất, pháp luật chưa quy định nghĩa vụ chứng minh và xác định căn cứ
thay đổi người THTT thuộc về người đưa ra yêu cầu hay thuộc về cơ quan THTT. Điều
10 BLTTHS quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT.
Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh. Thiết nghĩ, quy định này
cũng nên được áp dụng trong chế định căn cứ thay đổi người THTT, khi người TGTT đưa
19
ra yêu cầu thì cơ quan THTT cũng sẽ là chủ thể chứng minh căn cứ đó là có cơ sở hay
không, người đưa ra yêu cầu có quyền nhưng không buộc phải chứng minh.
Để tránh trường hợp người TGTT vì muốn trì hoãn, kéo dài thời gian giả
quyết VAHS hay muốn làm ảnh hưởng đến uy tín của người THTT mà đưa ra yêu cầu
thay đổi buộc cơ quan THTT phải chứng minh, pháp luật nên quy định cả chế tài đối với
người TGTT, để họ không thể tùy tiện đưa ra yêu cầu này một cách vô căn cứ.
Như vậy, quy định chứng minh thuộc về cơ quan THTT sẽ giúp cho các yêu
cầu của người TGTT không còn bị bác bỏ vì lý do không có chứng cứ, sẽ giúp cho người
TGTT bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của mình, đảm bảo nguyên tắc dân chủ và đảm
bảo pháp chế XHCN.
Thứ hai, pháp luật chưa quy định chế tài đối với người THTT không thực
hiện nghĩa vụ từ chối THTT gây ra hậu quả pháp lý bất lợi cho người THTT.
Pháp luật quy định người THTT phải từ chối THTT nếu rơi vào một trong
những căn cứ luật định, đây là nghĩa vụ mà người THTT phải thực hiên. Một khi đã qui
định nghĩa vụ thì phải có chế tài bảo đảm thực hiện, nếu không có chế tài, người THTT
không thực hiện nghĩa vụ của mình.
Vì vậy, cần phải có chế tài cụ thể đối với người THTT nếu họ không thực
hiện nghĩa vụ của mình để đảm bảo cho người THTT giữ được sự vô tư, khách quan khi
thực hiện nhiệm vụ, đảm bảo được mục đích cũng như nhiệm vụ của hoạt động tố tụng.
Thứ ba, chưa tạo ra một môi trường thuận lợi để người THTT an tâm thực
hiện nhiệm vụ được giao. Nhiệm kì của người THTT ngắn và mức luơng còn thấp chưa
đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần trong xã hội hiện đại. Bởi lẽ, trong thời kỳ hội
nhập kinh tế như hiện nay, con người ta lại dám chà đạp lên cả đạo đức để tranh giành
quyền lợi, bất chấp hậu quả xảy ra cho chính mình, cho con cháu mình và cho người

khác. Vì lợi ích vật chất, người ta cũng có thể chà đạp lên cả thanh danh, uy tín của mình
để đổi lấy sự sung sướng về vật chất, người THTT cũng không ngoại lệ, khi mà lợi ích vật
chất chưa được đảm bảo, họ cũng nhận lợi ích vật chất từ người TGTT làm sai lệch vụ án.
Muốn người THTT toàn tâm toàn lực dốc hết sức mình cho sự nghiệp bảo vệ công lý,
trước tiên cần phải bảo đảm cho họ có đời sống vật chất phù hợp với nhu cầu.
b. Những bất cập trong việc áp dụng pháp luật:
-Về ý thức trách nhiệm của cơ quan THTT, người THTT
Việc tuân thủ pháp luật của cơ quan THTT, người THTT còn nhiều bất cập.
Kiểm sát viên tuy là người bị đề nghị thay đổi nhưng cũng là người có quyền yêu cầu
thay đổi người THTT, trong quá trình kiểm sát viên tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên phát
hiện ra người THTT không vô tư, khách quan sẽ có nhiều hướng xử lý khác nhau. Một là,
Kiểm sát viên nhắc nhở để người THTT tự mình từ chối THTT do cả nể. Hai là, do tâm lý
không muốn kéo dài thời gian giải quyết vụ án nên Kiểm sát viên không thực hiện quyền
đề nghị thay đổi người THTT đó. Ba là, vì lợi ích vật chất, Kiểm sát viên và người đó hợp
tác với nhau, Kiểm sát viên không đề nghị với người có thẩm quyền quyết định việc thay
đổi.
20
Ngoài ra, đội ngũ người THTT chứ được đào tạo chuyên sâu về mặt nghiệp
vụ, đa số những người mới vào nghề thường chưa có kiến thức sâu, được nhận vào là do
có quen biết, là “con ông cháu cha” hoặc bằng những con đường khác mà không phải
bằng con đuờng thi tuyển công chức. Chính vì thế, những người thật sự có nhiệt huyết, có
tâm với nghề thì bị loại bỏ bởi không có “dù” che đỡ hoặc không có đủ tài chính.
-Những hạn chế xuất phát từ ý thức người TGTT
Ngoài những nguyên nhân từ phía cơ quan THTT, người THTT thì một phần
không nhỏ nguyên nhân khiến người THTT chưa thực hiện tốt quyền đề nghị thay đổi
người THTT xuất phát từ chính bản thân họ. Thực tế trên xuất phát từ những nguyên nhân
chính sau:
Thứ nhất, trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân không cao dẫn đến việc
họ không hiểu hoặc không biết về những quyền pháp luật quy định cho mình. Điều này
không chỉ gây khó khăn cho bản thân người TGTT mà còn tạo khó khăn cho cơ quan

THTT tìm ra sự thật khách quan của vụ án, dẫn đến việc ra quyết định không chính xác và
hậu quả là do chính bản thân người TGTT phải gánh chịu.
Thứ hai, do công tác tuyên truyền pháp luật trên đại bàn các tỉnh chưa được
các cấp chính quyền cũng như nhân dân quan tâm, tất cả mọi người chỉ lo làm kinh tế,
đến khi có sự việc phạm tội xảy ra là nhờ luật sư mà không biết được mình có những
quyền năng gì khi TGTT. Sau khi nghe người THTT giải thích hoặc được sự hỗ trợ của
Luật sư, họ biết được mình có quyền đề nghị thay đổi người THTT khi có những căn cứ
luật định nhưng họ lại không dám đề nghị thay đổi vì tâm lý sợ sệt, sợ tạo ra ác cảm đối
với những người THTT nếu yêu cầu đề nghị thay đổi của mình không được chấp nhận.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện:
Sau đây nhóm xin đưa ra một vài kiến nghị về mặt quy phạm pháp luật để
góp phần hoàn thiện hơn chế định thay đổi người THTT này.
Thứ nhất, Điều 42 BLTTHS nên được sửa đổi, bổ sung theo hướng người
THTT phải từ chối hoặc bị thay đổi nếu:
“Họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người thân thích của
những người đó hoặc của bị can, bị cáo; người thân thích của nguời đại diện hợp pháp,
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự”. Bởi vì mối quan hệ thân thích
giữa người THTT với người đại diện hợp pháp, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến sự vô tư, khách quan của người THTT,
do đó cần phải từ chối hoặc bị thay đổi trong trường hợp này.
“Họ đã tham gia với tư cách người bào chữa, người làm chứng, người phiên
dịch, người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án đó”. Người bảo vệ quyền lợi của
đương sự là những người thu thập những chứng cứ, tài liệu có lợi nhằm bảo vệ quyền lợi
của đương sự sẽ ảnh hưởng đến nhận thức của người THTT trong khi giải quyết vụ án
21
hình sự, họ sẽ nghiêng về xem xét những chứng cứ có lợi cho đương sự, do đó sẽ không
đảm bảo được sự khách quan, vô tư.
Thứ hai, sửa đổi Điều 43 theo hướng bổ sung “người có quyền và nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ” được

quyền đề nghị thay đổi người THTT. Người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án là
những người có quyền lợi bị ảnh hưởng bởi những quyết định tố tụng của người THTT,
do đó cần quy định cho họ được quyền đề nghị thay đổi người THTT.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 44; khoản 1 Điều 45 theo hướng quy
định Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án không được THTT lại vụ án đó với tư
cách tố tụng cũ; tức không được là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án. Nếu họ
THTT với tư cách cũ sẽ không tránh khỏi những suy nghĩ, tư tưởng cũ tạo sự ù lỳ khiến
họ không hăng hái thu thập những chứng cứ mới, Thư ký Tòa án sẽ không vô tư, khách
quan khi ghi biên bản nên việc THTT lại với tư cách cũ sẽ không đảm bảo cho việc tìm ra
sự thật khách quan của vụ án, làm mất đi ý nghĩa của hoạt động xét xử lại vụ án.
Thứ tư, có quy chế rõ ràng, cụ thể về thẩm quyền quyết định thay đổi, cử
người mới thay thế.
Đối với việc quyết định thay đổi, cử Điều tra viên thay thế tại khoản 2 Điều 44
nên bổ sung theo hướng: “Việc thay đổi Điều tra viên là Thủ trưởng CQĐT do Thủ
trưởng CQĐT cấp trên trực tiếp quyết định. Việc cử Điều tra viên khác do Thủ trưởng
CQĐT cùng cấp hoặc cấp trên quyết đinh”.
Đối với việc thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa, Khoản 2 Điều 45 nên quy
định theo hướng: “Việc thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa do HĐXX quyết định trước
khi bắt đầu phiên tòa bằng cách biểu quyết tại phòng nghị án trước khi nghe Kiểm sát
viên trình bày ý kiến của mình, Hội đồng quyết định theo đa số”. Việc pháp luật quy định
rõ ràng, cụ thể sẽ tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
Thứ năm, đối với trường hợp thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nên mở rộng
phạm vi mà họ đã tham gia xét xử theo hướng: “Đã tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án đó, trừ trường hợp là thành viên của Hội đồng thẩm
phán TANDTC, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh thì vẫn được tham gia xét xử nhiều
lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm”. Việc mở rộng phạm vi mà
Thẩm phán và Hội thẩm đã tham gia xét xử không được tham gia xét xử lại vụ án đó để
đảm bảo Thẩm phán, Hội thẩm luôn vô tư, khách quan khi thực hiện nhiệm vụ xét xử, đưa
ra một bản án đúng với sự thật khách quan.
Ngoài ra, để hoạt động tố tụng được thực hiện một cách nghiêm minh, vô tư,

khách quan thì ta cần nâng cao năng lực và nhận thức của CQ THTT, người THTT,
thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn cho những người THTT những kiến thức
pháp luật, nghiệp vụ chuyên môn, đánh giá trình độ từ đó có chế độ khen thưởng, xử phạt
22
hợp lý, nâng cao ý thức trau dồi đạo đức, lối sống, tác phong làm việc nghiêm túc, sống
lành mạnh, liêm khiết… coi những chuẩn mực đạo đức là cơ sở đánh giá con người, cơ sở
bổ nhiệm, miễn nhiệm, thăng chức, tăng lương… Các căn cứ thay đổi người THTT sẽ
không được thực hiện một cách hiệu quả nếu cơ quan THTT, người THTT không có
những nhận thức đúng về nội dung, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Cơ quan THTT,
người THTT là những chủ thể trực tiếp tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của
pháp luật nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ làm sáng tỏ các yếu tố của đối
tượng chứng minh và tiến hành giải quyết vụ án trong phạm vi quyền han của mình. Do
vậy họ phải ý thức được tầm quan trọng của các trường hợp thay đổi người THTT, việc
bảo đảm cho người TGTT đề nghị thay đổi người THTT là giúp vụ án được giải quyết
một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Tuyên truyền nâng cao ý thức pháp luật cho những người tham gia tố tụng
cũng như tất cả người dân; khuyến khích cho người dân tham gia tìm hiểu pháp luật, thực
hiện những quyền năng mà pháp luật trao cho để bảo vệ quyền lợi của mình; khuyến
khích họ có ý thức tôn trọng pháp luật, không làm những gì mà pháp luật cấm.
23
KẾT LUẬN
Có thể nói, các căn cứ thay đổi người THTT theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam
là tương đối đầy đủ. Tuy vẫn còn tồn tại những bất cập trong quy định của pháp luật dẫn
đến việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất và đồng bộ. Những vướng mắc này cần sớm
được bổ sung và hoàn thiện để đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người tham gia tố tụng, có
những chuẩn mực rõ ràng để tạo sự đồng bộ trong áp dụng pháp luật từ đó có một hệ
thống pháp luật hoàn thiện hơn.
Lời cuối, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới sự giúp đỡ và hướng tận tình
của cô. Chúng em chúc cô sức khỏe và thành công trong sự nghiệp.
24

DANH MỤC THAM KHẢO
1. Bộ luật tố tụng hình sự 2003
2. Nghị quyết 03/2004/NQ – HĐTP hướng dẫn thi hành phần thứ nhất “Những quy
định chung” của BLTTHS 2003
3. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb
CAND, Hà Nội, 2005
4. Tập bài giảng Luật tố tụng hình sự - Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, 2008
5. ThS. Mai Thanh Hiếu – Thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm trong Tố tụng hình sự -
Tạp chí Luật học số 7/2008
6. Lê Hồng Trang – Thay đổi người tiến hành tố tụng trong pháp luật TTHS Việt
Nam – Luận văn cử nhân
7. Trần Thu Hương – Căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng trong PL TTHS VN –
Lý luận và thực tiễn – Luận văn cử nhân
8.
9.
10.
11.
tung/58/4645924.epi
12.
tien-hanh-to-tung
25

×