Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu theo pháp luật dân sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.92 MB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

LÊ HỮU KHANG

ĐỊI LẠI ĐỘNG SẢN
KHƠNG PHẢI ĐĂNG KÝ QUYỀN SỞ HỮU
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

ĐỊI LẠI ĐỘNG SẢN
KHƠNG PHẢI ĐĂNG KÝ QUYỀN SỞ HỮU
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên Ngành: Luật Dân Sự Và Tố Tụng Dân Sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Xuân Quang
Học viên: Lê Hữu Khang
Lớp: Cao học Luật, Khóa 2 – Bình Dương

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp và nghiên
cứu của bản thân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS.Nguyễn
Xuân Quang. Các thông tin, Bản án được trích dẫn trong Luận văn là trung thực
và chính xác, tác phẩm chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tơi xin
chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên

Lê Hữu Khang


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆC ĐỊI LẠI TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN 9
KHƠNG PHẢI ĐĂNG KÝ QUYỀN SỞ HỮU.................................................. 9
1.1. Chủ thể đòi lại tài sản ...............................................................................10
1.1.1. Chủ sở hữu tài sản .................................................................................10
1.1.2. Người chiếm hữu hợp pháp tài sản ........................................................14
1.2. Chủ thể bị đòi lại tài sản ...........................................................................15
1.2.1. Người chiếm hữu trái pháp luật (chiếm hữu khơng có căn cứ pháp
luật) ..................................................................................................................16
1.2.2. Người thứ ba ngay tình ..........................................................................17
1.3. Tài sản bị địi là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu ..............19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................22
CHƯƠNG 2. HỆ QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC ĐỊI LẠI TÀI SẢN LÀ
ĐỘNG SẢN KHƠNG PHẢI ĐĂNG KÝ QUYỀN SỞ HỮU .........................23
2.1. Người chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản ...............................23
2.1.1. Người hoàn trả tài sản ...........................................................................24
2.1.2. Đối tượng phải hoàn trả ........................................................................24
2.2. Trường hợp phải trả lại hoa lợi, lợi tức hoặc không trả lại hoa lợi, lợi

tức ......................................................................................................................26
2.3. Phải bồi hoàn lại bằng giá trị, bồi thường thiệt hại khi tài sản khơng
cịn, mất mát, hư hỏng .....................................................................................28
2.3.1. Trường hợp khi chủ sở hữu khơng được địi lại tài sản.........................28
2.3.2. Trường hợp khi chủ sở hữu được đòi lại tài sản ...................................29
2.4. Người chiếm hữu ngay tình được thanh tốn chi phí bảo quản, làm
tăng giá trị tài sản.............................................................................................30


2.5. Trường hợp không trả lại tài sản ............................................................33
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................36
KẾT LUẬN .........................................................................................................37
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền sở hữu ở nước ta được nhiều ngành luật bảo vệ như: Luật Hiến
pháp, Luật Hành chính, Luật Hình sự, Luật Dân sự v.v…Các ngành luật bảo vệ
quyền sở hữu bằng những biện pháp đặc trưng riêng của mình, chúng hỗ trợ và
bổ sung cho nhau tạo thành một hệ thống các biện pháp pháp lý giúp chủ thể có
được sự lựa chọn rộng rãi để bảo vệ một cách triệt để và có hiệu quả cao đối với
quyền sở hữu của mình. Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền sở hữu bằng luật dân sự
vẫn là giải pháp đặc biệt, phổ biến và có nhiều lợi điểm hơn cả. 1
Những lợi điểm của biện pháp bảo vệ quyền sở hữu bằng pháp luật dân sự
thể hiện ở việc đây là phương thức mang tính thực tế cao, do việc xâm phạm
quyền sở hữu thường nảy sinh hàng ngày trong đời sống xã hội, thuộc phạm vi
điều chỉnh của pháp luật dân sự. Khi bị xâm phạm quyền sở hữu thì chủ sở hữu,

người chiếm hữu hợp pháp thường muốn được trả lại ngun trạng tài sản cho
mình hoặc được bồi hồn tương xứng với tài sản hoặc phần tài sản đã bị thiệt
hại, do vậy sử dụng pháp luật dân sự để bảo vệ quyền sở hữu bảo đảm được
quyền về tài sản của các chủ thể, nó khác với việc xử lý hình sự, xử lý hành
chính chủ yếu với mục đích trừng phạt, răn đe. Mặt khác, các chủ thể có quyền
sở hữu bị xâm phạm có được sự chủ động trong việc bảo vệ quyền sở hữu của
mình bằng cách khởi kiện dân sự hoặc khi đã khởi kiện vẫn có quyền thỏa thuận
và rút lại đơn kiện. Những lợi điểm trên giúp củng cố các chế định về quyền sở
hữu trong pháp luật Việt Nam, khuyến khích người lao động sản xuất và tích lũy
tài sản vì quyền sở hữu của mình đã được pháp luật bảo vệ một cách toàn diện,
triệt để.
Xuất phát từ nguyên tắc quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và các chủ
thể khác được pháp luật công nhận và bảo vệ, Bộ luật Dân sự quy định về quyền
đòi lại tài sản, qua đó, chủ sở hữu tài sản, chủ thể có quyền khác đối với tài sản
có quyền địi lại tài sản từ người chiếm hữu, người được lợi về tài sản khơng có
căn cứ pháp luật.
1

Lê Minh Hùng (Chủ biên) (2017), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế,
Nxb.Hồng Đức, tr.145


2
Khoa học pháp lý dân sự đã phân loại người chiếm hữu tài sản khơng có
căn cứ pháp luật thành hai loại là người chiếm hữu khơng ngay tình và người
chiếm hữu ngay tình. Về nguyên tắc chung thì người chiếm hữu tài sản khơng có
căn cứ pháp luật phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu tài sản, chủ thể có quyền khác
đối với tài sản, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Do đó, người chiếm
hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật, khơng ngay tình thì buộc phải trả lại tài
sản cho chủ sở hữu trong mọi trường hợp. Tuy nhiên đối với người chiếm hữu

ngay tình thì xét về mặt ý thức chủ quan, họ đã tham gia giao dịch trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng, tuân theo các quy định của pháp luật, do vậy quyền lợi của
họ là chính đáng nhưng vì lý do nào đó, quyền lợi của họ lại đối kháng với
quyền lợi của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp mà quyền lợi của các chủ
thể này đều phải được pháp luật bảo vệ.
Từ những vấn đề thực tế nêu trên, Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015 quy
định về quyền đòi lại tài sản với nội dung: “1. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác
đối với tài sản có quyền địi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản,
người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật...”, mà trường hợp đặc biệt cụ
thể đối với người chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình được quy
định riêng tại Điều 167 quy định về “Quyền địi lại động sản khơng phải đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình”, Điều 168 quy định về “Quyền đòi
lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu
ngay tình”. Các quy định này đã thể hiện được sự mềm dẻo, linh hoạt trong việc
cân bằng lợi ích giữa các chủ thể, giữa quyền đòi lại tài sản và quyền sở hữu tài
sản trong một số trường hợp có được tài sản do chiếm hữu ngay tình, đặc biệt đã
dành một thái độ tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình, đây là
một điểm mới tiến bộ hơn hẳn so với Bộ luật dân sự năm 1995, điểm tiến bộ này
được duy trì từ Bộ luật dân sự năm 2005 đến Bộ luật dân sự năm 2015.
Tuy nhiên, Trên thực tế áp dụng quy định pháp luật nêu trên hiện nay vẫn
còn khá bất cập như:
- Một trong những ý nghĩa của việc đăng ký quyền sở hữu tài sản chính là
yếu tố quan trọng để chứng minh cho việc ai là chủ sở hữu tài sản. Vì vậy, đối
với tài sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu thì khơng có các giấy tờ, chứng thư


3
được cấp bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xác định tư cách của chủ sở
hữu. Do vậy vấn đề chứng minh tư cách chủ sở hữu tài sản trong giải quyết tranh
chấp cịn gặp nhiều khó khăn.

- Việc quy định chỉ có chủ sở hữu mà khơng quy định người chiếm hữu
hợp pháp có quyền địi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người
chiếm hữu ngay tình là bất hợp lý. Nếu chỉ quy định cho chủ sở hữu có quyền
địi lại tài sản trong trường hợp này vơ hình chung sẽ tạo ra tâm lí bất an cho
người thực hiện các giao dịch qua tay nhiều lần.
- Vấn đề về hoa lợi, lợi tức hay chi phí phát sinh trong thời gian tài sản bị
chiếm hữu không được pháp luật quy định cụ thể nên dễ dẫn đến Tịa án có
nhiều cách giải quyết khác nhau, không thống nhất, tạo ra bất cập.
Qua đó, việc nghiên cứu này nhằm làm sáng tỏ bản chất pháp lý của
“Quyền địi lại động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu”. Trên cơ sở nghiên
cứu lý luận này, luận văn vận dụng các quy định của pháp luật có liên quan và
thực tiễn áp dụng pháp luật về Quyền đòi lại tài sản. Việc nghiên cứu được thực
hiện sẽ giúp chúng ta nắm vững hơn các quy định của pháp luật, từ đó hiểu rõ
hơn những điểm tiến bộ, có ý nghĩa tích cực để phát huy, đồng thời cũng giúp
làm rõ những hạn chế của pháp luật hiện hành, bất cập trong thực tiễn về vấn đề
này, từ đó đề xuất những giải pháp khắc phục là cần thiết.
Đó cũng chính là lý do tác giả đã chọn đề tài “Đòi lại động sản không
phải đăng ký quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam” để làm đề tài luận
văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề địi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu hiện nay cũng
có một số ít nghiên cứu dưới dạng các bài viết trên tạp chí chuyên ngành luật,
các bài tham luận trong hội thảo khoa học hoặc có đề cập đến trong các giáo
trình. Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu như:
(i) Nhóm giáo trình và sách bình luận
- Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp
luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế, Nxb.Hồng Đức, Hội luật


4

gia Việt Nam (Lê Minh Hùng, CB). Nội dung của giáo trình có dành một chương
để viết về bảo vệ quyền sở hữu bằng luật dân sự, trong đó có phân tích hai
trường hợp địi lại tài sản cụ thể là địi lại tài sản nơi người chiếm hữu khơng
ngay tình và địi lại tài sản nơi người chiếm hữu ngay tình đối với cả tài sản là
động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản và động sản phải
đăng ký quyền sở hữu. Tác phẩm đã nêu ra những vấn đề mang tính chất giáo
khoa về bảo vệ quyền sở hữu và quyền đòi lại tài sản, là nguồn tư liệu quan trọng
để triển khai một số vấn đề cần nghiên cứu trong luận văn.
- Nguyễn Minh Tuấn (CB) (2014), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Nxb.Tư pháp. Nội dung có bình
luận, giải thích các điều luật có liên quan trong Bộ luật dân sự năm 2005 như:
quyền đòi lại tài sản (điều 256), quyền địi lại động sản khơng phải đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình (điều 257). Nội dung đi sâu vào góc
độ giải thích điều luật, mang tính chất lý luận chung.
- Đỗ Văn Đại (CB) (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ
luật dân sự năm 2015, Nxb.Hồng Đức. Nội dung có một chương riêng nói về
quyền đối với tài sản, trong đó nêu những vấn đề về nguyên tắc bảo vệ quyền sở
hữu, về việc đòi lại tài sản từ người chiếm hữu ngay tình nhưng khơng có đề cập
sâu về việc địi lại tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu.
(ii) Nhóm bài viết nghiên cứu, bài báo trên tạp chí:
- Phùng Trung Tập (2007), Kiện địi lại động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình, Khoa Luật Dân sự, Đại học Luật Hà
Nội. Ở bài viết này, tác giả đã nêu lên những điều kiện để thực hiện quyền đòi lại
động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình, có chỉ
ra những hạn chế trong quy định của pháp luật như không nêu rõ trong trường
hợp động sản không phải đăng ký của chủ sở hữu, do người chiếm hữu ngay tình
sử dụng, khai thác thu được những lợi ích nhất định trong thời gian chiếm hữu,
trong trường hợp chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp địi lại được tài
sản, thì người chiếm hữu ngay tình có phải hồn trả lại những lợi ích vật chất đó
cho chủ sở hữu hay khơng? Hoặc trường hợp động sản là tài sản thuê nhưng bị

người khác chiếm hữu, sử dụng mà người thuê tài sản đó vẫn phải có nghĩa vụ


5
trả tiền thuê tài sản nhưng không khai thác được tài sản thì khoản chi phí đó
được giải quyết như thế nào? Bài viết chỉ nêu ra những vấn đề bất cập nhưng
khơng có đề xuất hướng giải quyết các bất cập đó.
- Trần Thị Huệ, Chu Thị Lam Giang (2015), Một số bất cập trong quy
định tại điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015 về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba
ngay tình khi giao dịch dân sự vơ hiệu, Tạp chí Tịa án nhân dân số 13, kỳ 1,
tháng 7 năm 2016. Bài viết có phân tích về sự xung đột về lợi ích của chủ sở hữu
tài sản và lợi ích của người thứ ba ngay tình và quyền lợi của người thứ ba ngay
tình được bảo vệ khi chủ sở hữu đòi lại tài sản.
- Nguyễn Minh Tuấn (2008), Bảo vệ quyền sở hữu bằng phương thức kiện
đòi tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam và pháp luật dân sự của một số
nước, Tạp chí Luật học số 4/2008. Trong bài viết có phân tích về vấn đề của
pháp luật dân sự không những bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu mà cịn bảo vệ
lợi ích của người thứ ba ngay tình trong giao dịch và các quan hệ dân sự khác.
Các bài viết nêu trên đã gợi mở những vấn đề về mặt pháp lý, thực tiễn và
những bất cập xảy ra trong việc thực hiện quyền đòi lại động sản không phải đăng
ký quyền sở hữu, tuy nhiên đây chưa phải là những cơng trình nghiên cứu khoa
học một cách hoàn chỉnh riêng về quyền này. Do vậy, cần phải vận dụng các quy
định của pháp luật hiện hành và những vấn đề thực tiễn để nghiên cứu, đánh giá
toàn diện trên cơ sở khoa học pháp lý dân sự để tìm ra phương hướng hồn thiện
trong tương lai, làm cơ sở giải quyết những tranh chấp phát sinh trên lĩnh vực này.
Đối với đề tài được lựa chọn là “Địi lại động sản khơng phải đăng ký
quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam” mặc dù có sự kế thừa, tham khảo
kinh nghiệm của các đề tài, cơng trình trước, nhưng đây là một đề tài nghiên
cứu chuyên sâu về vấn đề đòi lại tài sản là động sản không phải đăng ký quyền
sở hữu. Đề tài xuất phát từ việc tổng kết lý luận và thực tiễn q trình áp dụng

trong thực tế cịn có những vướng mắc nhằm kiến nghị xây dựng và hoàn thiện
quy định về vấn nêu trên.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Bộ luật dân sự năm 2015 được Quốc hội thơng qua và có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/01/2017 nhằm thay thế cho Bộ luật dân sự năm 2005, trong đó có rất


6
nhiều điểm mới, phạm vi sửa đổi, bổ sung cơ bản và toàn diện với nhiều quy định
tiến bộ. Tuy nhiên quy định về việc địi lại động sản khơng phải đăng ký quyền sở
hữu trong Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật dân sự năm 2015 không có gì thay
đổi, do vậy vẫn chưa khắc phục được những hạn chế, bất cập trong thực tiễn.
Đề tài nghiên cứu về “Địi lại động sản khơng phải đăng ký quyền sở
hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam” đặt ra những mục đích sau đây:
Thứ nhất, tìm hiểu một cách khái quát và toàn diện về cơ sở lý luận cũng
như các quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan đến quyền địi lại động
sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu.
Thứ hai, tìm ra những điểm thiếu sót và bất cập trong việc vận dụng các
quy định này vào thực tiễn, tìm hiểu các vấn đề nảy sinh trong thực tế xét xử của
Tòa án để từ đó đưa ra một số đề xuất về phương hướng xử lý, giải quyết các
tranh chấp và một số kiến nghị góp phần sửa đổi, bổ sung và hồn thiện pháp
luật hoặc xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự năm 2015 về
bảo vệ quyền sở hữu cũng như bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình từ
việc địi lại tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về văn bản: phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong các quy
định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015 và các luật
chuyên ngành có liên quan đến tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở
hữu, đồng thời, khảo sát về thực trạng áp dụng thông qua các bản án, quyết định

cụ thể.
Phạm vi về thời gian: trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến nay.
Phạm vi về lĩnh vực, vấn đề nghiên cứu: đề tài không nghiên cứu tất cả
các loại tài sản mà chỉ đi sâu nghiên cứu về tài sản là động sản không phải đăng
ký quyền sở hữu, bị chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được triển khai trên cơ sở vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp


7
nghiên cứu khoa học khác nhau như phương pháp phân tích, phương pháp diễn
giải, phương pháp so sánh, phương pháp logic pháp lý, phương pháp chứng
minh, phương pháp tổng hợp. Dựa trên kết cấu thành hai chương của đề tài là
điều kiện của việc đòi lại tài sản và hệ quả pháp lý của việc đòi lại tài sản là động
sản không phải đăng ký quyền sở hữu. Mỗi chương sẽ giải quyết dứt điểm một
vấn đề, do đó trong từng chương tác giả sẽ sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
khác nhau, cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp logic,
phương pháp chứng minh, phương pháp tổng hợp được sử dụng ở Chương 1 để:
Phân tích các quy định của các điều luật có liên quan, chỉ ra những vấn đề cịn
chưa rõ ràng, bất cập; so sánh các điều kiện đòi lại tài sản, trong đó đi sâu làm rõ
đối với tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu; dùng phương pháp
chứng minh để chứng minh cho các nhận định, lập luận của tác giả; sau cùng là
sử dụng phương pháp tổng hợp để tổng kết lại những vấn đề, lập luận mà tác giả
đã nêu tra trong các tiểu mục và toàn chương, nêu ra quan điểm cá nhân về các
vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp diễn giải, phương pháp chứng minh, phương pháp tổng
hợp, phương pháp logic pháp lý được sử dụng ở Chương 2, việc sử dụng kết hợp
tương tự như ở Chương 1, trong đó tác giả sẽ sử dụng phương pháp diễn giải khi
trình bày nội dung được nêu ra trong vấn đề cần giải quyết, diễn giải về nội dung

điều luật; sử dụng phương pháp chứng minh để chứng minh cho những điều vừa
diễn giải, chứng minh cho những lập luận, nhận định và quan điểm của tác giả;
phương pháp phân tích dùng để phân tích các nội dung của bản án, phương pháp
logic làm rõ thêm vấn đề pháp lý được nêu ra trong các dẫn chứng là các bản án
thực tế; phương pháp tổng hợp để đúc, rút lại vấn đề và đưa ra kết luận.
- Phương pháp tổng hợp để đúc kết lại các vấn đề đã giải quyết tại phần
Tổng kết Chương 1, Tổng kết Chương 2 và Tổng kết toàn luận văn.
5. Các vấn đề dự kiến cần giải quyết
- Tập hợp các quy định của pháp luật có liên quan về bảo vệ quyền sở hữu
và địi lại tài sản là động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu.


8
- Chỉ ra những sơ hở, thiếu sót, bất cập trong các quy định của pháp luật
hiện hành liên quan đến các vấn đề nêu trên.
- Tìm hiểu việc áp dụng trên thực tế và những khả năng xảy ra những vấn
đề vướng mắc khi thực hiện quyền bảo vệ tài sản thơng qua việc kiện địi lại tài
sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu.
- Đề xuất, kiến nghị các giải pháp vận dụng pháp luật hiện hành để xử lý rủi
ro, giải quyết tranh chấp và các giải pháp hoàn thiện pháp luật trong tương lai.
6. Kết cấu của luận văn
Trong Luận văn thạc sỹ này, ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và
danh mục tài liệu tham khảo thì tơi sẽ trình bày hai vấn đề lớn chia thành hai
chương với bố cục đề cương chi tiết như sau:
Chương 1: Điều kiện của việc đòi lại tài sản
Chương 2: Hệ quả pháp lý của việc đòi lại tài sản


9
CHƯƠNG 1

ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆC ĐÒI LẠI TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN
KHÔNG PHẢI ĐĂNG KÝ QUYỀN SỞ HỮU
Quyền sở hữu hiểu theo nghĩa khách quan là khái niệm dùng để chỉ tổng
hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước đặt ra để điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất và
tư liệu tiêu dùng; quyền sở hữu hiểu theo nghĩa chủ quan là một khái niệm pháp
lý chỉ mức độ được phép xử sự của người có tài sản trong việc chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình2. Pháp luật Việt Nam cũng
như pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều xác định sở hữu và quyền sở
hữu là vấn đề quan trọng nhất trong pháp luật dân sự, cần phải được bảo vệ tốt.
Định nghĩa về tài sản theo từ điển tiếng Việt thì: “tài sản là của cải, vật
chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng”3. Tài sản với tư cách là khách
thể của quyền sở hữu được quy định cụ thể tại điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015
với những vật thể được liệt kê và quyền tài sản được coi là tài sản, cụ thể như sau:
“Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và
động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành
trong tương lai”
Dựa vào đặc tính vật lý của tài sản là có thể di dời được hay không thể di
dời được mà tài sản được phân loại thành bất động sản và động sản. Để xác lập
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là bất động sản thì phải đăng ký theo
quy định tại điều 106 Bộ luật dân sự năm 2015 và pháp luật về đăng ký tài sản,
còn đối với động sản thì khơng phải đăng ký, trừ trường hợp pháp luật về đăng
ký tài sản có quy định khác 4
Quyền sở hữu là một trong những quyền cơ bản của công dân, tổ chức. Khi
xác lập quyền sở hữu về tài sản thì chủ sở hữu được pháp luật tơn trọng và bảo hộ
quyền sở hữu đó của mình. Tuy nhiên, trên thực tế đời sống xã hội, quyền sở hữu
của chủ sở hữu có thể bị xâm phạm bởi hành vi chiếm hữu, đó là việc chiếm đoạt
tài sản, ngăn cản việc thực hiện quyền sở hữu và gây thiệt hại cho tài sản. Khi đó,
2


Lê Minh Hùng (Chủ biên) (2017), tlđd (1), tr.43
Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb.VH-TT, Hà Nội, tr.1483
4
Khoản 2, điều 106 Bộ luật Dân sự 2015
3


10
chủ sở hữu có thể tự mình hoặc u cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng
các biện pháp luật định để giữ gìn quyền và các lợi ích chính đáng liên quan đến
tài sản thuộc sở hữu hoặc quyền quản lý hợp pháp của mình khỏi những hành vi
xâm phạm5. Khi tài sản bị người khác chiếm đoạt trái pháp luật thì chủ sở hữu,
chủ thể có quyền khác đối với tài sản yêu cầu người có hành vi chiếm giữ trái
pháp luật trả lại tài sản cho mình. Quyền này được hiểu là quyền địi lại tài sản.
Quyền đòi lại tài sản được quy định tại Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015
như sau: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền địi lại tài
sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản khơng
có căn cứ pháp luật. Chủ sở hữu khơng có quyền địi lại tài sản từ sự chiếm hữu
của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó”.
Việc sử dụng quyền địi lại tài sản là phương thức bảo vệ hữu hiệu nhất để
bảo vệ quyền sở hữu của chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản. Tuy
nhiên, trên thực tế thì khơng phải trường hợp nào chủ sở hữu, chủ thể có quyền
khác đối với tài sản cũng có thể địi lại tài sản, nhất là đối với tài sản là động sản
khơng phải đăng ký quyền sở hữu do cịn phải phụ thuộc vào điều kiện, hoàn
cảnh của việc xâm phạm quyền sở hữu. Do vậy, các nội dung của chương này
tập trung giải quyết vấn đề chủ thể đòi lại tài sản, chủ thể bị đòi lại tài sản và yêu
cầu về tài sản bị đòi.
1.1. Chủ thể đòi lại tài sản
1.1.1. Chủ sở hữu tài sản
Chủ sở hữu tài sản là cá nhân, tổ chức mà theo quy định của pháp luật

Dân sự, họ có các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với các tài sản hợp
pháp thuộc quyền sở hữu của họ.
Chủ sở hữu tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu có
quyền địi lại tài sản của mình, điều này được quy định tại các Điều 166, Điều
167 Bộ luật dân sự năm 2015. Tuy nhiên, để thực hiện được quyền này thì chủ
sở hữu tài sản phải chứng minh việc mình có tư cách địi lại tài sản, hay nói cách
khác là chủ sở hữu phải chứng minh tài sản đó thuộc sở hữu của mình dựa trên
các căn cứ xác lập quyền sở hữu do pháp luật quy định.
5

Lê Minh Hùng (Chủ biên) (2017), tlđd (1), tr.146


11
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2017/DS-ST của Tịa án nhân dân huyện
Bắc Tân Un, tỉnh Bình Dương6 giải quyết tranh chấp giữa nguyên đơn là bà
Ngô Thị Kim Thảo và bị đơn là ông Phạm Ngọc Hải, trong đó bà Thảo là chủ cơ
sở kinh doanh máy phát điện Thảo Phát yêu cầu ông Hải phải trả lại tài sản là
chiếc máy phát điện công nghiệp hiệu Kohler loại công suất 250 KVA. Bằng
hợp đồng cho thuê tài sản, bà Thảo chứng minh được đây là tài sản của mình đã
cho ơng Phạm Mạnh Cường th để dùng vào việc canh tác rẫy cao su, sau khi
ông Cường bán lại rẫy cao su này cho ông Hải thì ơng Hải chiếm giữ, sử dụng
ln nên bà Thảo kiện đòi tài sản. Trường hợp này xác định chủ thể kiện địi tài
sản là bà Ngơ Thị Kim Thảo là chủ sở hữu hợp pháp của tài sản, người bị kiện
địi tài sản là ơng Phạm Ngọc Hải, là người đang chiếm hữu khơng có căn cứ
pháp luật tài sản của bà Thảo, tài sản bị kiện đòi là chiếc máy phát điện cơng
nghiệp hiệu Kohler, đó là động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu. Tịa án đã
áp dụng Điều 166, Điều 167 Bộ luật dân sự năm 2015 buộc ông Hải phải trả lại
tài sản cho bà Thảo, và theo quan điểm của tác giả thì việc Tòa án áp dụng pháp
luật trong trường hợp này để phán quyết là hợp lý, thuyết phục.

Tuy nhiên, đối với tài sản là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký
quyền sở hữu thì việc chứng minh tư cách chủ sở hữu khá dễ dàng bằng việc
thông qua các chứng thư xác nhận sở hữu như giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô, xe mô tô… Còn đối với tài sản là động sản
khơng phải đăng ký quyền sở hữu thì trên thực tế việc chứng minh tư cách chủ
sở hữu khơng phải lúc nào cũng thực hiện được.
Điển hình như tại Quyết định Giám đốc thẩm số 189/2012/DS-GĐT ngày
23/4/2012 của Tòa dân sự, Tòa án nhân dân tối cao7 giải quyết vụ tranh chấp hai
con trâu giữa ông Đồng Văn Hơn và ơng Nguyễn Thanh Phong, trong đó ơng
Hơn có hai con trâu bị đi lạc, sau phát hiện được do ơng Học đang chăn thả, ơng
Học trình bày đây là trâu do ông Nguyễn Văn Phong gửi chăn. Cả ông Hơn và
ông Phong đều nhận đây là trâu của mình và có những mơ tả đặc điểm, nguồn
gốc của các con trâu này. Tuy nhiên viêc mô tả này không đủ cơ sở để khẳng
6

Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2017/DS-ST ngày 09/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh
Bình Dương (Phụ lục 1)
7
Quyết định Giám đốc thẩm số 189/2012/DS-GĐT ngày 23/4/2012 của Tòa dân sự, Tòa án nhân dân tối cao
(Phụ lục 2)


12
định ai là chủ sở hữu thật sự của trâu, do đó qua nhiều cấp, nhiều lần xét xử vẫn
khơng có kết quả cuối cùng.
Trong vụ việc này, ở Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2008/DSST ngày
11/12/2008 của Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn đã căn cứ vào sự mô tả chi tiết
đặc điểm của hai con trâu do ông Hơn đưa ra như: con trâu cái màu đen đang
chửa khoảng 11 tuổi có đặc điểm có một khoáy ở giữa trán dưới hai mắt, một u
trắng dưới cằm, mỗi bên má có hai đốm trắng, sừng dài 44 cm, có một vết lõm

gốc sừng phía trên và một con trâu nghé đực lông màu mốc khoảng hai tuổi, có
một khốy ở giữa trán dưới hai mắt, một u trắng dưới cằm, mỗi bên má có hai
đốm trắng. Qua đó cơng nhận hai con trâu có đặc điểm như ông Hơn mô tả là tài
sản của ông Hơn, buộc ông Phong phải trả lại hai con trâu đang tranh chấp cho
ơng Hơn và chịu mọi chi phí có liên quan trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, ở Bản án dân sự phúc thẩm số 02/2009/DSPT ngày 16/01/2009
của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai lại quyết định: Hủy bản án dân sự sơ thẩm số
05/2008/DSST ngày 11/12/2008 của Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn và chuyển
hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn giải quyết lại.
Kết quả giải quyết lại vụ án, Tịa án nhân dân huyện Văn Bàn lại có phán
quyết ngược lại với phán quyết trước đó của mình, tại Bản án dân sự sơ thẩm số
02/2009/DSST ngày 16/2/2009 đã tuyên bác yêu cầu của ông Đồng Xuân Hơn
về việc buộc ông Nguyễn Văn Phong phải trả lại hai con trâu cho mình và buộc
ơng Hơn phải trả lại mọi chi phí phát sinh trong q trình giải quyết tranh chấp.
Không đồng ý với kết quả giải quyết này, ông Hơn lại kháng cáo và tại
Bản án dân sự phúc thẩm số 14/2009/DSPT ngày 16/6/2009 của Tòa án nhân dân
tỉnh Lào Cai lại quyết định: Công nhận hai con trâu đang tranh chấp nêu trên
thuộc sở hữu của ông Hơn, buộc ông Phong phải trả lại tài sản và chịu chi phí
phát sinh. Do có sai sót trong bản án phúc thẩm này, ông Hơn đã khiếu nại và đề
nghị Giám đốc thẩm. Kết quả Giám đốc thẩm đã hủy tại Bản án dân sự phúc
thẩm số 14/2009/DSPT ngày 16/6/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai và
giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh lào Cai xét xử phúc thẩm lại.
Từ vụ án này, cho thấy rằng đối với tài sản là động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu thì việc chứng minh tư cách chủ sở hữu không phải dễ dàng thực


13
hiện. Ở đây các cấp xét xử chỉ dựa vào phương pháp mơ tả đặc điểm thì khơng thể
chứng minh được tư cách chủ sở hữu tài sản. Do đó qua nhiều cấp xét xử vẫn chưa
có kết quả cuối cùng, làm cho vụ việc kéo dài, trải qua nhiều lần, nhiều cấp xét xử.

Nghĩa vụ chứng minh trước hết thuộc về đương sự, tại Khoản 1, điều 91 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đương sự có u cầu Tịa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án
tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ hợp pháp…”
Nguyên đơn là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác theo quy định của Bộ lật Tố tụng Dân sự quy định khởi kiện để yêu cầu
Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị
xâm phạm. Do vậy, nguyên đơn có nghĩa vụ phải chứng minh rằng trên thực tế,
quyền và lợi ích chính đáng của mình đã bị xâm phạm. Ngược lại thì bị đơn cũng
có quyền chứng minh việc khởi kiện của nguyên đơn đối với mình là khơng
đúng, nhưng việc chứng minh của bị đơn không được coi là nghĩa vụ.
Do vậy, tác giả đề xuất Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ thể
hướng giải quyết khi có tranh chấp đối với tài sản là động sản không pháp đăng
ký quyền sở hữu thì chủ sở hữu tài sản phải sử dụng một hoặc nhiều biện pháp
có thể thực hiện được trên thực tế để có bằng chứng chứng minh tư cách chủ sở
hữu của mình, có thể là:
- Phương pháp mơ tả, nếu tài sản đó có những đặc điểm riêng, đặc biệt chỉ
có nó mới có để phân biệt với tài sản cùng loại với người khác.
- Dùng hóa đơn thanh tốn, hợp đồng mua bán, chứng từ khác.
- Dùng người làm chứng.
- Đối với tài sản là gia súc thì Tịa án chấp nhận gia súc thuộc chủ sở hữu
theo phong tục, tập quán như: tập quán theo đàn, gia súc đi về theo thói quen, sự
thân thiết, gắn bó giữa người và gia súc; hoặc có thể áp dụng biện pháp khoa học
kỹ thuật như phương pháp giám định gen .
Trong Bộ luật Dân sự năm 2015 khơng có quy định trách nhiệm cho chủ
sở hữu phải chứng minh tư cách chủ sở hữu của mình, tuy nhiên khi tham gia
vào tố tụng dân sự thì đương sự phải chứng minh. Theo quan điểm của tác giả thì


14

trong trường hợp chủ sở hữu không chứng minh được tư cách chủ sở hữu của
mình thì quyền địi lại tài sản của chủ sở hữu nên bác bỏ và như thế thì quyền lợi
của người đang chiếm hữu tài sản được bảo vệ.
Như vậy, có thể khẳng định để địi lại tài sản là động sản khơng phải đăng
ký quyền sở hữu thì chủ sở hữu tài sản phải đảm bảo điều kiện để địi lại tài sản
đó là chứng mình rằng mình là người có tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình
bằng các căn cứ xác lập quyền sở hữu theo quy định của pháp luật, bằng các
bằng chứng chứng minh mình là chủ sở hữu hợp pháp của tài sản
1.1.2. Người chiếm hữu hợp pháp tài sản
Người chiếm hữu hợp pháp tài sản là người chiếm hữu tài sản có căn cứ
pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 165 Bộ luật dân sự năm 2015 thì đó
là những người gồm: Chủ sở hữu tài sản; người được chủ sở hữu ủy quyền quản
lý tài sản; người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự
phù hợp với quy định của pháp luật; người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài
sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị
chôn, giấu, vùi, lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật
này, quy định khác của pháp luật có liên quan; người phát hiện và giữ gia súc,
gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của
Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; những trường hợp khác
do pháp luật quy định.
Người chiếm hữu hợp pháp tài sản mà không phải là chủ sở hữu là những
người đang thực hiện quyền chiếm hữu tài sản theo quy định tại Điều 187 và
Điều 188 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo các quy định này thì người chiếm hữu
hợp pháp tài sản tuy khơng phải là chủ sở hữu tài sản nhưng cũng có một số
quyền năng nhất định đối với tài sản.
Tại Điều 256 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền đòi lại tài sản:
Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu,
người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền
sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó. Tuy
nhiên tại điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015 lại quy định chủ sở hữu tài sản, chủ

thể có quyền khác đối với tài sản có quyền địi lại tài sản từ người chiếm hữu,


15
người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật. Quy
định mới này khơng đề cập đến quyền địi lại tài sản của người chiếm hữu hợp
pháp tài sản.
Theo Điều 167 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì chỉ quy định chủ sở hữu mới
có quyền địi lại động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu
ngay tình. Theo quan điểm của tác giả thì quy định này chưa hợp lý vì trong thực
tế vẫn có trường hợp giao dịch tài sản qua tay nhiều lần mà chỉ quy định có một
loại chủ thể được địi lại tài sản thì quyền lợi của những người tham giao dịch
sau khơng được bảo đảm.
Ví dụ: A cho B thuê một chiếc loa nhạc di động, trong thời gian thuê do
bất cẩn nên đã bị C trộm chiếc loa nhạc này mang bán cho D. Khi phát hiện được
D đã mua nhầm tài sản do trộm cắp mà có thì A khơng có quyền địi lại tài sản từ
D vì tài sản rời khỏi A nằm trong ý chí của A, B cũng khơng được quyền địi lại
tài sản vì B khơng phải là chủ sở hữu nhưng tài sản rời khỏi B ngồi ý chí của B.
Như vậy, nếu giải quyết vụ việc theo pháp luật dân sự thì việc B để mất trộm tài
sản mà mình đang thuê thì B có nghĩa vụ phải bồi thường cho A, cịn B khơng
được địi lại tài sản đó nên quyền lợi của B khơng được bảo đảm.
Do đó, vấn đề người chiếm hữu hợp pháp tài sản có quyền địi lại tài sản
hay khơng thì pháp luật hiện hành chưa có câu trả lời hoặc hướng giải quyết
thuyết phục.
Theo quan điểm của tác giả, khi xét xử vụ án thì Tịa án nên cơng nhận
quyền địi lại tài sản từ người chiếm hữu hợp pháp tài sản không phải là chủ sở
hữu tài sản. Hoặc khi hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự năm 2015 thì Tịa án
nhân dân tối cao nên quy định rõ quyền của người chiếm hữu hợp pháp tài sản
được đòi lại tài sản, quy định như thế sẽ giúp cho việc giải quyết tranh chấp về
tài sản khi trong trường hợp qua nhiều người chiếm hữu được nhanh chóng, hợp

lý, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
1.2. Chủ thể bị đòi lại tài sản
Người bị đòi lại tài sản là người chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người
có quyền đòi lại tài sản. Những trường hợp mà người chiếm hữu một tài sản
nhưng không phải là chủ sở hữu hoặc không chiếm hữu theo những căn cứ do


16
Bộ luật Dân sự đã quy định cụ thể tại các điều từ Điều 183 đến Điều 188. Dựa
vào ý chí của chủ thể chiếm hữu tài sản mà luật dân sự phân thành: Chiếm hữu
khơng có căn cứ pháp luật ngay tình và chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật
khơng ngay tình. Việc xác định tính chất chiếm hữu là ngay tình hay khơng ngay
tình có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết tranh chấp kiện địi lại tài sản
vì nó quyết định trường hợp nào được kiện đòi lại tài sản, kiện đòi lại từ ai và
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, trả hoa lợi, lợi tức phát sinh trong thời gian chiếm
hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật đó như thế nào.
1.2.1. Người chiếm hữu trái pháp luật (chiếm hữu khơng có căn cứ
pháp luật)
Người chiếm hữu tài sản trái pháp luật là việc chiếm hữu của một người
đối với một tài sản mà không dựa trên những căn cứ của pháp luật quy định, hay
nói cách khác là chiếm hữu khơng phù hợp với quy định của pháp luật, cụ thể là
quy định tại khoản 1 Điều 165 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Về nguyên tắc chung thì người chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp
luật phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu tài sản theo quy định tại Điều 166 Bộ luật
Dân sự năm 2015 về quyền đòi lại tài sản. Pháp luật dân sự quy định người
chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật khơng ngay tình thì phải trả lại tài sản
trong mọi trường hợp
Thực tế trong giải quyết tranh chấp, xét Quyết định Giám đốc thẩm số
17/2014/DS-GĐT ngày 15/4/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao8 lên quan đến tranh chấp đòi lại tài sản giữa bà Nguyễn Thị Mỹ với ơng

Phan Ứng Hùng. Trong đó ơng Hùng là người có cơng quản lý di sản thừa kế là
đất và căn nhà tại số 38 Nguyễn Văn Trỗi, phường 15, quận Phú Nhuận, thành
phố Hồ Chí Minh. Tháng 02/2005, những người đồng thừa kế họp, thống nhất
yêu cầu ông Hùng bán căn nhà này chia đều cho các đồng thừa kế, sau đó mỗi
người thừa kế sẽ biếu lại ơng Hùng 20 lượng vàng. Sau khi bán nhà, ông Hùng
giao lại cho bà Mỹ 266,8 lượng vàng, còn giữ của bà Mỹ 30 lượng vàng với lý
do 20 lượng vàng là bà Mỹ phải biếu lại ông Hùng theo thỏa thuận, còn 10 lượng
8

Quyết định Giám đốc thẩm số 17/2014/DS-GĐT ngày 15/4/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao (phụ lục 3)


17
vàng ông Hùng đã tự ý đưa cho anh Trường là người cùng sống trong căn nhà
trên để anh Trường đồng ý ký tên bán nhà.
Trong trường hợp này, Tòa án nhận định 10 lượng vàng mà ông Hùng đã
chuyển cho anh Trường là tài sản của bà Mỹ và do ông Hùng tự ý đưa cho anh
Trường nên cần phải buộc ông Hùng phải trả lại cho bà Mỹ và chịu án phí theo
quy định của pháp luật đối với 10 lượng vàng này. Qua vụ án này cho thấy, việc
ông Hùng tự ý sử dụng 10 lượng vàng của bà Mỹ cho dù vào mục đích gì cũng là
khơng có căn cứ pháp luật và buộc phải trả lại cho chủ sở hữu.
1.2.2. Người thứ ba ngay tình
Pháp luật dân sự Việt Nam không đưa ra định nghĩa về người thứ ba ngay
tình mà chỉ đưa ra định nghĩa “người chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình” trong Bộ luật Dân sự năm 2005, đó là “người chiếm hữu mà
khơng biết và khơng thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là khơng có căn cứ pháp
luật”. Đến khi sửa đổi và ban hành Bộ luật Dân sự năm 2015 thì định nghĩa này đã
được bỏ đi và thay vào đó là định nghĩa về việc “chiếm hữu ngay tình”. Theo Điều
180 Bộ luật dân sự năm 2015 thì “chiếm hữu ngay tình” là “việc chiếm hữu mà

người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm
hữu”. Như vậy, hiểu một cách chung nhất thì người thứ ba ngay tình là người thứ
ba trong giao dịch dân sự đã có chiếm hữu tài sản nhưng không biết hoặc không
thể biết rằng việc chiếm hữu tài sản của mình là khơng có căn cứ pháp luật. Họ
không biết rằng họ đã thực hiện giao dịch với người khơng có quyền định đoạt đối
với tài sản là đối tượng của giao dịch đó. Do vậy, trong việc địi lại tài sản, nếu có
liên quan đến người thứ ba thì phải xem xét hành vi của người thứ ba là ngay tình
hay khơng ngay tình để bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba ngay tình.
Trong giao dịch dân sự, người thứ ba ngay tình được hiểu là người chiếm
hữu khơng có căn cứ pháp luật đối với tài sản nhưng không biết và không thể
biết việc chiếm hữu tài sản đó là khơng có căn cứ pháp luật. Người thứ ba ngay
tình khi xác lập giao dịch để có được tài sản thì họ đã thể hiện ý chí ngay thẳng,
thiện chí, và vì vậy quyền lợi của họ cũng cần phải được bảo vệ. Do đó, tuy là
người chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật nhưng pháp luật dân sự quy định có
trường hợp họ phải trả lại tài sản và có trường hợp họ không phải trả lại tài sản.


18
Quyền địi lại động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu từ người thứ ba
ngay tình theo quy định của pháp luật thì khơng có sự thay đổi từ điều 257 Bộ luật
Dân sự năm 2005 đến điều 167 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, người chiếm
hữu tài sản ngay tình thơng qua giao dịch khơng có đền bù với người khơng có
quyền định đoạt tài sản thì phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Bởi vì nếu người thứ
ba ngay tình có được tài sản thơng qua hợp đồng khơng có đền bù, nếu phải trả lại
tài sản cho chủ sở hữu thì cũng khơng ảnh hưởng gì đến lợi ích của mình, vì vậy
pháp luật cho phép chủ sở hữu được đòi lại tài sản trong trường hợp này.
Ngược lại, nếu người chiếm hữu tài sản ngay tình thơng qua giao dịch có
đền bù thì khơng phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu, bởi vì theo trách nhiệm dân sự
do vi phạm nghĩa vụ, chủ sở hữu đã chuyển giao tài sản cho người khác bằng một
giao dịch thì người chiếm hữu hợp pháp phải chịu trách nhiệm theo hợp đồng với

chủ sở hữu khi chuyển giao tài sản cho người thứ ba, trong trường hợp này chủ sở
hữu tài sản có quyền kiện địi người mà mình đã giao tài sản bồi thường thiệt hại.
Trường hợp người thứ ba ngay tình phải trả lại tài sản khi chủ sở hữu đòi
lại tài sản theo quy đinh tại điều 167 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì quyền lợi của
người thứ ba ngay tình được bảo vệ như sau: Được yêu cầu bồi thường thiệt hại
từ người đã xác lập giao dịch với họ; được hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản kể từ thời điểm chiếm hữu tài sản đến khi phải trả lại tài sản; được thanh
toán những chi phí đã bỏ ra để làm tăng giá trị tài sản.
Về mặt thực tiễn xét xử, Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2017/DS-ST
của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Un, tỉnh Bình Dương9. Việc ơng Phạm
Ngọc Hải chiếm giữ, sử dụng chiếc máy phát điện mà ông Cường đã thuê của bà
Thảo, khi chuyển giao tài sản khơng có nêu rõ là ơng Cường đã bán hay cho tặng
chiếc máy phát điện này cho ông Hải. Do đó Tịa án đã xác định ơng Hải là
người thứ ba ngay tình, có được tài sản là chiếc máy phát điện thơng qua hợp
đồng khơng có đền bù với người khơng có quyền định đoạt tài sản là ông Cường,
đúng vào trường hợp chủ sở hữu được địi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình
theo quy định tại Điều 167 Bộ luật dân sự năm 2015 nên việc Tịa án buộc ơng
Hải phải trả chiếc máy phát điện cho bà Thảo là hợp lý.
9

Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2017/DS-ST ngày 09/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh
Bình Dương (Phụ lục 1)


19
Trên thực tế, do đặc điểm tài sản bị tranh chấp là động sản không phải
đăng ký quyền sở hữu nên khó có thể nhận định được người thứ ba có biết được
mình đang giao dịch với người có quyền định đoạt tài sản hay khơng. Hay nói
cách khác, để xác định người thứ ba ngay tình hay khơng ngay tình trong trường
hợp này rất khó vì nó phụ thuộc vào yếu tố ý chí của người tham gia giao dịch.

Hoặc cũng có trường hợp một người ban đầu thì ngay tình nhưng qua thời gian
sau đó có thể trở thành người khơng ngay tình như trong trường hợp ban đầu họ
khơng biết mình đang chiếm hữu tài sản đó khơng có căn cứ pháp luật, nhưng
qua thời gian chiếm giữ, sử dụng đã biết được việc chiếm hữu này là khơng có
căn cứ pháp luật nhưng do lịng tham hoặc thờ ơ, họ vẫn tiếp tục chiếm giữ, sử
dụng tài sản.
Vì vậy, theo đề xuất của tác giả, khi hướng dẫn giải quyết các vụ tranh
chấp tài sản là động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu thì Tòa án nhân dân
tối cao cần quy định rõ các căn cứ để xác định yếu tố ngay tình hay khơng ngay
tình, các trường hợp buộc người đó phải biết việc chiếm giữ của mình là có hay
khơng có căn cứ pháp luật như yêu cầu người giao tài sản phải xuất trình hóa
đơn, chứng từ hoặc các bằng chứng khác chứng minh nguồn gốc tài sản, tư cách
chủ sở hữu tài sản. Đồng thời quy định các thời điểm xác định việc ngay tình,
khơng ngay tình và hướng giải quyết các tình huống đó như thế nào. Đó là cơ sở
cho việc giải quyết các tranh chấp đòi lại tài sản là động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu được nhanh chóng, chính xác, bảo đảm bảo vệ được quyền lợi của
chủ sở hữu và cả quyền lợi của người thứ ba ngay tình.
1.3. Tài sản bị địi là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu
Tùy theo tính chất có thể di dời được hay khơng thể di dời được mà Pháp
luật Dân sự Việt Nam phân loại tài sản thành động sản và bất động sản. Đối với
động sản thì căn cứ vào đặc trưng, tính chất, giá trị tài sản, yêu cầu quản lý nhà
nước về tài sản mà pháp luật Việt Nam quy định động sản phải đăng ký quyền sở
hữu và động sản không phải đăng ký quyền sở hữu
Đăng ký quyền sở hữu tài sản là việc thực hiện thủ tục với cơ quan nhà
nước nhằm ghi nhận quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu tài sản. Đối với bất động
sản thì pháp luật bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu, còn lại Bộ luật Dân sự cũng


20
như các văn bản pháp luật hiện hành không quy định bắt buộc tất cả tài sản là

động sản phải đăng ký quyền sở hữu, tại Điều 106 Bộ luật dân sự năm 2015 quy
định: “Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là động sản không phải đăng ký,
trừ trường hợp pháp luật về đăng ký tài sản có quy định khác”. Pháp luật về đăng
ký tài sản quy định các loại động sản sau đây phải đăng ký: tàu biển; phương tiện
thủy nội địa; tàu cá; phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; xe, máy chuyên
dùng thi công đường bộ; tàu bay; phương tiện giao thông đường sắt; di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia; vũ khí, vật liệu nổ và cơng cụ hỗ trợ.10
Đối với các loại động sản khác thì khơng phải đăng ký quyền sở hữu.
Điểm khác nhau giữa động sản phải đăng ký quyền sở hữu và động sản không
phải đăng ký quyền sở hữu ở chỗ động sản phải đăng ký quyền sở hữu là các
loại tài sản có ảnh hưởng đến trật tự an tồn xã hội cần có sự quản lý của nhà
nước, hoặc là những tài sản hạn chế chủ thể có quyền sở hữu, hoặc là những tài
sản mà việc bảo đảm, bảo vệ quyền sở hữu sẽ gặp nhiều khó khăn nếu khơng
thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu.
Trong trường hợp chiếm hữu tài sản là động sản khơng phải đăng ký
quyền sở hữu thì người nhận chuyển giao không buộc phải biết người chuyển
giao tài sản đó cho mình có phải là chủ sở hữu tài sản đó hay khơng khi người đó
đang thực tế nắm giữ tài sản và khẳng định tư cách chủ sở hữu đối với tài sản đó.
Việc chuyển giao tài sản được thực hiện công khai, ngay thẳng, tài sản được
chuyển đúng giá trị.11
Trên thực tế, đối với động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu thì rất
khó để xác định tài sản đó thuộc về ai, nếu chúng khơng có những dấu hiệu đặc
biệt mà chỉ riêng vật đó mới có. Khi tham gia các giao dịch thì người thứ ba có
thể nhận được động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu từ người không phải
là chủ sở hữu đích thực, hoặc từ người khơng có quyền định đoạt tài sản mà
không biết. Do vậy, việc chiếm hữu của người thứ ba trong những trường hợp
này có thể là chiếm hữu ngay tình hoặc chiếm hữu khơng ngay tình.
10

“Quy định về các lại tài sản bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu”, trang Luật Việt Phong, đ/c:

/>11
Trần Thị Huệ, Chu Thi Lam Giang, “Một số bất cập trong quy định tại điều 133 Bộ luật Dân sự năm 2015
về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vơ hiệu”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số
13, kỳ 1, tháng 7, năm 2016.


×