Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Vai trò của luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THÙY DƯƠNG

VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THÙY DƯƠNG

VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số

: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Mạnh Thắng


HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong luận văn đảm bảo độ tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét
để cho tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Thùy Dương


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC


5

THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1.

Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự

5

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sư và nghề luật sư

5

1.1.2. Khái luận về tố tụng dân sự

11

1.1.3. Sự cần thiết tham gia và vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự

13

1.2.

Khái luận về chứng cứ trong tố tụng dân sự

17

1.2.1. Khái niệm và các thuộc tính của chứng cứ


18

1.2.2. Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

21

1.3.

Thu thập chứng cứ và hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư

23

1.3.1. Khái luận về thu thập chứng cứ và vai trò của luật sư

23

1.3.2. Hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư trong tố tụng dân sự

29

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ

34

CỦA LUẬT SƯ TRONG THU THẬP CHỨNG CỨ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

2.1.

Tổng quan về vai trò của luật sư trong việc thu thập chứng cứ


34

trong tố tụng dân sự
2.1.1. Các quy định chung về hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư

34

2.1.2. Hoạt động thu thập chứng cứ trước khi Tòa án thụ lý yêu cầu

36

2.1.3. Hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử

42

2.1.4. Hoạt động thu thập chứng cứ tại tòa án

47


2.2.

Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về vai trò của luật

49

sư trong thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam
hiện nay
2.3.


Những bất cập và nguyên nhân chủ yếu của pháp luật về vai

57

trò của luật sư trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP

63

LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU
THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ
VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN

3.1.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

63

3.2.

Kiến nghị tổ chức thực hiện

71

KẾT LUẬN

76


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

77


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Tổng hợp kinh phí Công ty TH đã bỏ ra khắc phục thiệt

56

bảng
2.1

hại do cơn bão số 1 năm 2016 gây ra


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu
Trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, cải cách tư pháp
luôn là vấn đề cấp thiết được Đảng và Nhà nước quan tâm, đặc biệt là trong
những giai đoạn gần đây, khi xu thế hội nhập kinh tế quốc tế càng đẩy mạnh
thì cải cách tư pháp là nhu cầu khách quan để đáp ứng yêu cầu trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự đang ngày càng gia tăng cả về số lượng cũng như
tính chất phức tạp của từng loại vụ việc. Trong đó việc tăng cường vai trò của

luật sư trong hoạt động tố tụng dân sự là điều hết sức cần thiết. Nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, pháp luật tố tụng dân sự đã ghi nhận
quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong quá trình tham gia tố tụng.
Do vậy, việc thu thập chứng cứ là cơ sở để tòa án đưa ra kết luận khách quan
và toàn diện về các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự, căn cứ vào đó để có
những bản án, quyết định đúng đắn phù hợp với thực tại khách quan.
Ngày 25/11/2015, Bộ luật Tố tụng dân sự số 103/2015/QH13 (sau đây
được gọi là Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015) được ban hành có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2016 với nhiều điểm mới cả về nội dung và hình thức đã
khắc phục kịp thời những hạn chế còn tồn tại của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2004 sửa đổi bổ sung năm 2011, đáp ứng tích cực yêu cầu cấp bách của công
cuộc cải cách tư pháp và hội nhập thế giới. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
với nội dung phong phú, bổ sung những quy định kịp thời, những điểm mới
quan trọng thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá khách quan, nắm bắt xu thế; trong
đó vấn đề chứng cứ, nội dung về hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng
dân sự và vai trò của luật sư là vấn đề được quan tâm sửa đổi với những điểm
mới quan trọng giúp cho việc thu thập, sử dụng, đánh giá chứng cứ của các
thẩm phán cũng như những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
khác, đặc biệt là vai trò của luật sư - một chức danh tư pháp giúp giải quyết

1


đúng đắn, triệt để những vụ việc dân sự; góp phần đảm bảo và tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân;
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; từ đó làm sáng tỏ sự thật khách quan
của vụ án, đáp ứng lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước và pháp luật.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ thuộc về các đương sự, tòa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ

trong trường hợp đương sự không tự mình thu thập được tài liệu, chứng cứ và
có đơn yêu cầu tòa án. Điều này đã giảm tải cho tòa án các công việc phải tiến
hành khi giải quyết vụ việc dân sự, trả lại đúng bản chất dân sự và đảm bảo
quyền định đoạt cho đương sự khi quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
thuộc về đương sự.
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 đã cho thấy nhiều mặt hạn chế, khiến cho hoạt động thu
thập chứng cứ của đương sự, luật sư không đạt được hiệu quả như mong
muốn, cần thiết phải tiếp tục sửa đổi bổ sung cho phù hợp, kịp thời điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Đứng trước những yêu cầu cần thay đổi phù hợp với sự
phát triển nhanh chóng của nền kinh tế hội nhập, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về chứng cứ, vai trò của luật sư trong hoạt
động thu thập chứng cứ, thực tiễn áp dụng các quy định để làm sáng tỏ về mặt
khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả trong áp
dụng các quy định của pháp luật là rất cần thiết, không chỉ có ý nghĩa lý luận,
thực tiễn mà còn có ý nghĩa pháp lý quan trọng.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Mục đích:
Mục tiêu nghiên cứu đề tài là cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
cũng như các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về

2


vai trò của luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ khi giải quyết vụ việc
dân sự, tác giả cũng phân tích các quy định của pháp luật nhằm hiểu rõ hơn
các quy định đó. Từ đó, tác giả nhận thức được vấn đề thu thập chứng cứ của
đương sự, luật sư đồng thời chỉ ra những thiếu sót, những điểm chưa hợp lý
của pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn nhằm đề ra những kiến nghị và giải

pháp góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về hoạt động thu thập
chứng cứ của luật sư khi giải quyết vụ việc dân sự.
Phạm vi nghiên cứu:
Bài viết đi sâu nghiên cứu về hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư
để giải quyết các vụ việc dân sự như: khái quát chung về chứng cứ, thu thập
chứng cứ và các biện pháp luật sư áp dụng để thu thập chứng cứ và vai trò của
luật sư trong thu thập chứng cứ, các văn bản pháp lý có liên quan đến tố tụng
dân sự. Trên cơ sở đó đề ra giải pháp cơ bản nhằm làm hoàn thiện hơn hoạt
động thu thập chứng cứ của luật sư.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận văn
phải giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất: Đưa ra các vấn đề lý luận về vai trò của luật sư trong việc
thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự.
Thứ hai: Thực hiện vai trò của luật sư trong việc thu thập chứng cứ
trong tố tụng dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
Thứ ba: Đưa ra các giải pháp và kiến nghị hoàn thiện các quy định
pháp luật về vai trò của luật sư trong việc thu thập chứng cứ trong tố tụng dân
sự và tổ chức thực hiện.
Luận văn nghiên cứu một cách hệ thống từ khái niệm, ý nghĩa, phạm
vi, đối tượng, sự phát triển quy định về vai trò của luật sư trong hoạt động thu
thập chứng cứ trong tố tụng dân sự mang tính khái quát cao, không rườm rà
nhưng vẫn làm bật lên bản chất, trọng tâm của vấn đề nghiên cứu.

3


4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên quan điểm, quan niệm về chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, tôn trọng sự thật khách quan của sự vật hiện tượng,

xem xét vấn đề một cách toàn diện; phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, nghiên cứu chuyên
sâu các vấn đề dưới góc độ pháp luật như phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh… Nhờ vậy, những vấn đề về chứng cứ, hoạt động thu thập chứng cứ
và vai trò của Luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ được xem xét, đánh
giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện, xác thực và có
tính hệ thống.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Nhận thức về vai trò của luật sư trong việc thu thập chứng
cứ trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về vai trò của luật sư trong
thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về vai trò của
luật sư trong thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự.

4


Chương 1
NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG VIỆC THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sư và nghề luật sư
1.1.1.1. Khái niệm luật sư, nghề luật sư
Ngày nay trong xu thế hội nhập và không ngừng phát triển, thuật ngữ
luật sư đã trở nên quen thuộc, đội ngũ luật sư ngày càng đóng vai trò quan

trọng trong các quan hệ xã hội, khái niệm luật sư được các nhà nghiên cứu
tiếp cận từ nhiều phương diện khác nhau. Khi nhắc đến luật sư thì có thể hiểu
đó là một danh từ chỉ người, một chức danh tư pháp độc lập, hoạt động trong
lĩnh vực pháp luật và cũng có thể hiểu luật sư là một nghề thuộc hệ thống
ngành nghề quốc gia. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quan niệm luật sư
là một nghề và yêu cầu cần thiết đối với các luật sư là có kỹ năng hành nghề
thành thục. Một luật sư cần thiết phải có nhiều kỹ năng như kỹ năng phán đoán,
kỹ năng tư duy tổng quát, kỹ năng phân tích, kỹ năng tổng hợp, kỹ năng thuyết
trình hùng biện, kỹ năng đặt câu hỏi hay kỹ năng đàm phán thương lượng.
Hiện nay ở Việt Nam vẫn còn có những cách hiểu về khái niệm luật
sư khác nhau, một số vẫn có sự nhầm lẫn giữa thuật ngữ "luật gia" và "luật
sư". Nguyên nhân của hiện tượng này một mặt là do pháp luật nói chung và
pháp luật về nghề luật sư nói riêng chưa được hoàn thiện, mặt khác do việc
dịch các thuật ngữ có liên quan từ ngôn ngữ nước ngoài chưa được chính xác.
Từ những giải thích của từ điển và qua các tài liệu pháp lý có thể hiểu luật gia
là các chuyên gia pháp lý, am hiểu các kiến thức pháp luật và làm việc trong
các lĩnh vực pháp lý. Ngoài ra có thể hiểu luật gia là tên gọi chung đại diện cho
một tầng lớp trí thức am hiểu và hành nghề pháp luật nhưng không có tiêu
chuẩn cụ thể. Họ có thể tốt nghiệp hoặc không tốt nghiệp các cấp độ đào tạo

5


chính quy về luật nhưng sau một quá trình trau dồi, tích lũy kinh nghiệm họ
đã đạt được sự am hiểu sâu sắc về một hay một số lĩnh vực pháp lý nhất định.
Khác với "luật gia", luật sư phải là người có trình độ pháp luật theo tiêu chuẩn
quy định và có kỹ năng hành nghề được cơ quan tổ chức có thẩm quyền công
nhận hoặc cấp chứng chỉ hành nghề để hành nghề chuyên nghiệp, thực hiện cung
cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Trong mối tương quan nhất định, luật sư
là một chuyên gia pháp luật, nhưng các luật gia nói chung ngoài bộ phận luật sư

còn có rất nhiều bộ phận khác như thẩm phán, kiểm sát viên, chuyên gia pháp
chế, các giảng viên luật, các cử nhân luật, các chuyên viên tư vấn pháp luật…
Luật sư ở Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài bắt đầu
từ thời kỳ Pháp thuộc. Sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công,
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã có các quy định về luật sư và tổ
chức đoàn thể luật sư. Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987 ra đời nhưng
không đưa ra định nghĩa về luật sư mà chỉ quy định muốn làm luật sư thì phải
có đủ các điều kiện theo quy định và gia nhập một Đoàn Luật sư. Đến Pháp
lệnh Luật sư năm 2001 khái niệm luật sư mới được đặt ra, theo đó luật sư là
người có đủ điều kiện hành nghề luật sư: "Luật sư là người có đủ điều kiện
hành nghề theo quy định của Pháp lệnh này và tham gia hoạt động tố tụng,
thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác nhau theo yêu cầu của cá
nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của
pháp luật" [39, Điều 1]. Người muốn hành nghề luật sư phải gia nhập Đoàn Luật
sư và có Chứng chỉ hành nghề Luật sư "Người muốn được hành nghề luật sư
phải gia nhập một Đoàn luật sư và có Chứng chỉ hành nghề luật sư" [39, Điều 7].
Tuy nhiên quy định về tiêu chuẩn hành nghề luật sư trong Pháp lệnh Luật sư
năm 2001 chủ yếu đưa ra cách hiểu thuật ngữ chứ không khái quát thành khái
niệm. Đến Luật Luật sư năm 2006, khái niệm luật sư được hoàn thiện hơn,
"Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của
Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ

6


chức (sau đây gọi chung là khách hàng)" [20, Điều 2]. Quy định tiêu chuẩn
luật sư là một điểm mới trong khái niệm luật sư của Luật Luật sư năm 2006,
"Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề
Luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề Luật sư, có sức khỏe bảo đảm

hành nghề Luật sư thì có thể trở thành Luật sư" [20, Điều 10]. Những điều
kiện này xuất phát từ tính chất đặc thù của nghề luật sư là một nghề đòi hỏi có
trình độ hiểu biết pháp luật sâu rộng, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo
đức và sự tích lũy kinh nghiệm thông qua thực tế. Về điều kiện hành nghề luật
sư, "Muốn hành nghề Luật sư phải có chứng chỉ hành nghề Luật sư và gia
nhập một Đoàn Luật sư" [20, Điều 11].
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về luật sư như sau: luật sư là người
có năng lực chuyên môn trong lĩnh vực pháp lý, có đạo đức nghề nghiệp,
được cấp Chứng chỉ hành nghề Luật sư và Thẻ Luật sư, thực hiện dịch vụ
pháp lý trong phạm vi yêu cầu của khách hàng theo quy định của pháp luật và
quy tắc đạo đức nghề nghiệp.
Theo Luật sư Phan Trung Hoài, nghề luật sư được khái quát hóa và
định nghĩa như sau: "Nghề luật sư là một nghề luật, trong đó các luật sư bằng
kiến thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động tư vấn pháp lý
và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp
luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý,
góp phần tích cực bảo vệ pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa" [9].
Với quan điểm này, tác giả cho rằng nghề với tính chất là một nghề
nghiệp và luật sư là những người đủ điều kiện hành nghề luật sư theo quy
định của pháp luật về luật sư. Theo Từ điển tiếng Việt, nghề là "công việc
chuyên làm theo sự phân công của xã hội" hoặc hiểu theo nghĩa thứ hai là
"thành thạo trong một công việc nào đó". Tác giả quan niệm nghề luật sư là

7


một nghề độc lập, tức là độc lập trong hành nghề, độc lập thực hiện các công
việc và chỉ tuân theo pháp luật và quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật
sư. Tính độc lập của luật sư trong hoạt động hành nghề không có nghĩa là tự

tách hoạt động của mình ra khỏi khuôn khổ của các hoạt động tố tụng khác,
tính độc lập đó cũng không thể đồng nghĩa với sự cô lập mà nó hòa quyện
trong trật tự của một nền pháp chế thống nhất. Cũng có cách hiểu cho rằng
nghề luật sư như một nghề tự do, tuy nhiên cách hiểu này sẽ không hoàn toàn
phản ánh đầy đủ bản chất và đặc trưng của nghề nghiệp này. Luật sư hoạt
động trong khuôn khổ của pháp luật và cùng với việc được cấp chứng chỉ
hành nghề, phải đăng ký hoạt động trong một tổ chức hành nghề luật sư nhất
định và sinh hoạt trong một tổ chức xã hội nghề nghiệp nhất định nơi địa
phương mình cư ngụ. Trong luật thực định của một số nước, luật sư được coi
là một chủ thể độc lập trong hoạt động tư pháp, nhưng họ quan niệm tính
chất của nghề nghiệp là tự do. Nói tới tính chất là nói tới thuộc tính cơ bản
của một sự vật, trong trường hợp này, luật sư là chủ thể độc lập trong hoạt
động tư pháp, là người áp dụng và truyền bá pháp luật của Nhà nước. Tính
chất độc lập được coi là thuộc tính của nghề nghiệp luật sư, còn nói tới tự do
là nói tới phương thức hành nghề tự do của luật sư, như có thời gian và không
gian hoạt động tự do, có quyền tự do lựa chọn khách hàng, không bị những
hạn chế, bó buộc.
Theo Tiến sĩ Lê Mai Anh - Nguyên Phó Giám đốc Học viện Tư pháp,
nghề luật sư được hiểu là: "Nghề luật sư là một trong số nghề luật trong đó tổ
chức hành nghề và luật sư hành nghề cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách
hàng một cách độc lập và chuyên nghiệp" [1].
Với cách hiểu trên những từ khóa về nghề luật sư đã được nêu lên,
giúp người đọc nắm được những nội dung cơ bản về nghề luật sư. Theo đó,
nghề luật sư trước hết là một nghề luật, có sự tự do trong nghề nghiệp, sự tự
do này là tự do trong phương thức hành nghề, cung cấp dịch vụ pháp lý cho

8


khách hàng một cách độc lập; nghề luật sư cũng là một nghề thuộc một ngành

dịch vụ nhưng là một ngành dịch vụ đặc biệt bởi đặc trưng của nó là ngành
nghề "kinh doanh chất xám", giúp chống bất công xã hội, tạo niềm tin vào
công lý, pháp luật. Luật sư bằng kiến thức pháp luật, kinh nghiệm tích lũy của
mình cung cấp các dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng và quy định
của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, góp phần bảo
vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.1.1.2. Đặc điểm của luật sư và nghề luật sư
- Tiêu chuẩn luật sư
Luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của
cá nhân luật sư. Nói cách khác phẩm chất và năng lực cá nhân của luật sư là
yếu tố quyết định trong nghề luật sư. Người muốn hành nghề luật sư phải
được công nhận là luật sư. Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012
quy định về tiêu chuẩn để được công nhận luật sư và được cấp chứng chỉ
hành nghề bao gồm:
Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc,
Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật,
Có phẩm chất đạo đức tốt,
Có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian
tập sự hành nghề luật sư,
Có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư.
- Khóa đào tạo nghề luật sư
Để nâng cao chất lượng của luật sư, đảm bảo năng lực pháp lý, ngoài
tiêu chuẩn về bằng cử nhân luật còn phải qua một khóa đào tạo nghề luật sư.
Thời gian của khóa đào tạo nghề luật sư theo quy định của các nước là không
giống nhau. Singapore quy định thời gian đào tạo là 5 tháng, trong khi đó
Pháp quy định thời gian của khóa đào tạo nghề luật sư là 12 tháng, còn Nhật
quy định thời gian của khóa đào tạo là 18 tháng và Đức là 2 năm [38, tr. 11].

9



Theo quy định tại Điều 12 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012
thời gian của khóa đào tạo nghề luật sư là mười hai tháng, tập trung chủ yếu
vào việc đào tạo kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp luật sư, sau khi hoàn thành
chương trình đào tạo nghề luật sư, cơ sở đào tạo nghề luật sư cấp Giấy chứng
nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư.
Trong một số trường hợp theo quy định tại Điều 13 Luật Luật sư năm
2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 thì một số người được miễn đào tạo nghề luật
sư: Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; Giáo sư, phó giáo sư chuyên
ngành luật; tiến sỹ luật; đã là thẩm tra viên cao cấp ngành Tòa án, kiểm tra
viên cao cấp ngành Kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp,
giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật; Đã là thẩm tra viên chính ngành
Tòa án, kiểm tra viên chính ngành Kiểm sát; chuyên viên chính, nghiên cứu
viên chính, giảng viên chính trong lĩnh vực pháp luật.
- Tập sự hành nghề luật sư
Thời gian tập sự của các nước quy định khác nhau. Một số quốc gia
đòi hỏi thời gian tập sự là 2 năm (như Hy Lạp, Bỉ, Italian, Anh…), một số
quốc gia khác lại chỉ quy định thời gian tập sự là 12 tháng như Thái Lan và có
nước như Singapore thì chỉ đòi hỏi thời gian tập sự là 6 tháng. Về nơi tập sự
hành nghề của luật sư, hầu hết các nước đều có quy định luật sư phải tập sự
tại văn phòng, công ty luật (Singapore, Thái Lan, Đức, Nhật bản…). Bên cạnh
việc tập sự tại các hãng luật, một số nước còn quy định cho Luật sư có thể tập
sự tại Tòa án, Viện công tố (như Đức, Thụy sĩ…) [38, tr. 11].
Điều 14 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 quy định
về tập sự hành nghề luật sư, theo đó sau khi được cấp Giấy chứng nhận tốt
nghiệp đào tạo nghề luật sư hoặc trong trường hợp được miễn đào tạo nghề
luật sư được tập sự hành nghề tại tổ chức hành nghề luật sư thì thời gian tập
sự hành nghề luật sư là 12 (mười hai) tháng được tính từ ngày đăng ký tập sự
tại Đoàn luật sư.


10


- Kỳ thi công nhận luật sư
Kỳ thi công nhận luật sư tập trung vào kiểm tra về đạo đức nghề
nghiệp và kỹ năng hành nghề của luật sư, đây là điều kiện bắt buộc để đánh
giá khả năng hành nghề của một luật sư. Khi đã hoàn thành thời gian tập sự
theo quy định, người tập sự hành nghề luật sư được tham dự kiểm tra kết quả
tập sự hành nghề luật sư, khi đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề
luật sư sẽ được Hội đồng kiểm tra cấp Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập
sự hành nghề luật sư. Sau đó, người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành
nghề luật sư có hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư gửi Ban chủ
nhiệm Đoàn luật sư.
- Hành nghề luật sư
Sau khi có Chứng chỉ hành nghề luật sư, cấp Thẻ Luật sư và gia nhập
một Đoàn luật sư, luật sư có thể lựa chọn một hình thức hành nghề được pháp
luật quy định. Trên thế giới hiện nay chủ yếu có hai hình thức tổ chức hành
nghề luật sư là văn phòng luật sư và công ty luật hợp danh để đảm bảo tính
chịu trách nhiệm vô hạn đối với hoạt động của nghề luật sư. Tại Việt Nam,
hình thức công ty luật trách nhiệm hữu hạn vẫn được chấp nhận. Ngoài ra luật
sư có thể làm thuê cho khách hàng không chuyên môn hay còn gọi là luật sư
nội bộ, tức là người chủ thuê luật sư cũng đồng thời là khách hàng duy nhất
của luật sư đó, luật sư không có khách hàng riêng nào khác.
1.1.2. Khái luận về tố tụng dân sự
Tố tụng dân sự là trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, các
vụ án dân sự tại tòa án; trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Hoạt động tố tụng
dân sự được thực hiện bởi hai loại chủ thể khác nhau, đó là người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng. Nếu thiếu một trong hai loại chủ thể nêu trên
thì sẽ không hình thành quan hệ tố tụng.
Luật tố tụng dân sự Việt Nam là một ngành luật trong hệ thống pháp

luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các

11


quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa Tòa án, Viện kiểm sát,
Cơ quan thi hành án và những người tham gia tố tụng phát sinh trong tố tụng
dân sự nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự
một cách nhanh chóng, đúng đắn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của Nhà nước.
Đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự là những quan hệ nảy
sinh giữa các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đó là các quan
hệ giữa tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, đương sự, người đại diện
của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và các
chủ thể khác như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch… nảy
sinh trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Các quan hệ thuộc đối tượng
điều chỉnh của luật tố tụng dân sự có đặc điểm chỉ phát sinh trong tố tụng, việc
thực hiện mục đích của tố tụng là động lực thiết lập các quan hệ. Ngoài ra, ở
các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự không có sự bình
đẳng giữa các chủ thể, địa vị pháp lý của các chủ thể trong tố tụng dân sự khác
nhau. Trong đó, tòa án, cơ quan thi hành án là các chủ thể có vai trò quyết
định đối với quá trình giải quyết vụ việc dân sự và tổ chức thi hành án dân sự.
Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng dân sự: Luật tố tụng dân sự
sử dụng hai phương pháp điều chỉnh là phương pháp mệnh lệnh và định đoạt.
Phương pháp mệnh lệnh thể hiện trong mối quan hệ giữa tòa án, viện kiểm
sát, cơ quan thi hành với các chủ thể khác; các quyết định của tòa án, viện
kiểm sát và cơ quan thi hành án có giá trị bắt buộc các chủ thể tố tụng khác
thực hiện nếu không sẽ bị cưỡng chế thực hiện. Phương pháp định đoạt thể
hiện ở chỗ các đương sự được tự quyết định việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình trước tòa án. Khi quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay

tranh chấp các đương sự tự quyết định việc khởi kiện, yêu cầu tòa án giải
quyết vụ việc. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân
sự, các đương sự vẫn có thể thương lượng, dàn xếp, thỏa thuận giải quyết

12


những vấn đề tranh chấp, rút yêu cầu, rút đơn khởi kiện, tự thi hành án hay
không yêu cầu thi hành án nữa.
1.1.3. Sự cần thiết tham gia và vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự
Luật sư và nghề luật sư đã ra đời và phát triển từ rất lâu khoảng thế
kỷ XII tại Đức, Pháp, tuy nhiên ở những nước mà mối quan hệ giữa con
người với con người bị chi phối, ảnh hưởng nhiều bởi tâm linh thì nghề luật
sư chậm phát triển hơn. Ví dụ như ở các nước Hồi giáo nghề luật sư ít phát
triển, thậm chí không có nghề luật sư bởi người Hồi giáo phục tùng ý chí của
đấng Allah, người duy nhất có quyền phán xử điều đúng, sai. Đạo Hồi chính
là những lời răn dạy, những giáo lý về đạo đức cũng như những quy tắc của
cuộc sống mà con người phải theo.
Nghề luật sư được coi trọng và phát triển tại các nước dân chủ, phát
triển. Để đảm bảo công lý các bên khi tham gia tố tụng đều có sự giúp đỡ từ
phía những nhà chuyên nghiệp là luật sư, thậm chí, yêu cầu có luật sư còn là
điều kiện tiên quyết khi các bên tham gia tố tụng. Theo quan điểm của luật sư
phương Tây thì luật sư khi tham gia bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, cho cá
nhân, phải đặt quyền lợi của cá nhân cao hơn hoặc bằng quyền lợi của cộng
đồng xã hội.
Nhiệm vụ của luật sư là góp phần bảo vệ pháp quyền bằng việc hướng
dẫn cho khách hàng hiểu đúng quy định và tinh thần của pháp luật, thi hành,
phục vụ công lý, bảo vệ những quyền và lợi ích của công dân đã được Hiến
pháp và pháp luật bảo vệ. Hoạt động nghề nghiệp của luật sư với tư cách là
người có kiến thức sâu rộng về pháp luật có chức năng bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tham gia tích cực trong việc bảo vệ pháp
quyền là phương tiện hữu hiệu bảo đảm tốt nhất cho quyền và lợi ích của các
cá nhân, tổ chức mà chủ yếu được diễn ra thông qua hai hình thức cơ bản là tư
vấn pháp luật và tranh tụng tại tòa… Đối với công dân, luật sư giúp công dân
thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình, nâng cao dân trí và nhận

13


thức pháp luật. Đối với các tổ chức kinh tế, luật sư đóng vai trò cố vấn pháp
luật, chỉ ra môi trường pháp luật an toàn cho các hoạt động kinh doanh, đầu tư
và giải quyết tranh chấp khi luật sư bằng kinh nghiệm, kiến thức, uy tín của
mình tham gia vào quá trình tố tụng, góp phần hỗ trợ cho hoạt động tài phán
được khách quan toàn diện và bảo đảm nguyên tắc công bằng.
Nghề luật sư là nghề luật tiêu biểu nhất, nghề luật sư thể hiện đầy đủ
nhất những đặc trưng của nghề luật. Ngoài những yêu cầu về kiến thức và
trình độ chuyên môn thì yêu cầu về việc hành nghề luật sư còn phải tuân thủ
theo quy chế đạo đức nghề nghiệp, đây là nét đặc thù riêng của nghề luật sư
có tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề nhất là kỹ năng tranh tụng của luật
sư. Xét về tính chất, có thể hiểu nghề luật sư có ba tính chất cơ bản như sau:
Thứ nhất, tính chất trợ giúp: Luật sư hỗ trợ tối đa để khách hàng đưa
ra yêu cầu và thực hiện tốt nhất các yêu cầu của khách hàng. Với vai trò đảm
bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, luật sư giúp đỡ, bênh vực
cho những người mà quyền và lợi ích hợp pháp này bị xâm phạm. Do đó, tính
chất trợ giúp thể hiện hoạt động của nghề luật sư không chỉ là trách nhiệm, là
việc thực hiện dịch vụ pháp lý mà còn thể hiện tư cách đạo đức của luật sư.
Thứ hai, tính chất hướng dẫn: luật sư còn đóng vai trò là người hướng
dẫn cho khách hàng tuân thủ quy trình, nội dung và cách giải quyết vấn đề
pháp lý của khách hàng. Bên cạnh đó luật sư giúp khách hàng hiểu đúng tinh
thần và nội dung những quy định của pháp luật cũng như tục lệ và bản sắc văn

hóa của dân tộc; biết cách tìm kiếm, thu thập và sử dụng chứng cứ để trước
hết tự mình thực hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình trước pháp luật.
Thứ ba, tính chất phản biện: tính chất phản biện trong hoạt động của
luật sư là dựa trên sự hiểu biết sâu rộng về pháp lý và đạo lý để đưa ra những
biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của người khác. Luật sư
giúp khách hàng nhìn nhận vấn đề theo nhiều góc độ để bảo vệ công lý và lợi

14


ích của khách hàng. Luật sư lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực
để xem xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ đúng sai… từ đó đề
xuất những biện pháp, quan điểm phù hợp bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công lý.
Theo quy định tại Điều 22 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung
năm 2012 của pháp luật thì nội dung của nghề Luật sư bao gồm:
Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy
định của pháp luật.
Thực hiện tư vấn pháp luật.
Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có
liên quan đến pháp luật.
Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của Luật này.
Nhìn chung, luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề

nghiệp của cá nhân luật sư - là yếu tố quyết định trong nghề luật sư. Luật sư là
một nghề góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, công dân, các tổ chức kinh tế - xã hội, góp phần xây
dựng Nhà nước pháp quyền và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hoạt động của luật sư trong tố tụng dân sự tuy không phải là hoạt
động tư pháp nhưng lại có mối liên hệ mật thiết với hoạt động tư pháp, hỗ trợ
cho mọi hoạt động tư pháp. Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự có
thể xem như một biện pháp hữu hiệu để giúp cho các cá nhân, tổ chức bảo vệ
được các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chính vì vậy trong xã hội nói
chung và trong tố tụng dân sự nói riêng, vị trí và vai trò của luật sư là rất lớn,

15


đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các quyền con người, quyền cơ bản
của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, vì một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
- Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trước Tòa: Trong tố tụng dân sự, luật sư có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bởi lẽ
khi tham gia vào các quan hệ xã hội, các cá nhân tổ chức không tránh khỏi
phát sinh những tranh chấp cần giải quyết bằng pháp luật thông qua Tòa án.
Trong khi đó trình độ nhận thức, hiểu biết về pháp luật của mỗi người là khác
nhau, kéo theo những hạn chế nhất định để có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình trước Tòa án. Do đó, họ cần sự trợ giúp của luật sư là
người có chuyên môn trong lĩnh vực pháp lý, có trình độ hiểu biết pháp luật,
có kỹ năng nghề nghiệp và kinh nghiệm tham gia tố tụng để bảo vệ tốt nhất
quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng của mình.
- Vai trò của luật sư trong việc tư vấn pháp luật góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động

tố tụng nói chung và trong tố tụng dân sự nói riêng: Luật sư là chuyên gia
pháp luật, bên cạnh việc trực tiếp tham gia tranh tụng luật sư còn đóng vai trò
tư vấn pháp luật cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức để họ nhận thức và thực
hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ pháp luật hay khi
tham gia tố tụng. Thậm chí luật sư còn được coi là người bạn đồng hành cùng
doanh nghiệp. Theo đó luật sư cùng doanh nghiệp tham gia vào "sân chơi"
kinh tế chung, để doanh nghiệp nắm vững các quy định của pháp luật tránh
vướng mắc đồng thời thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình cũng như bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp trước các chủ thể khác. Cụ thể, luật sư tư
vấn, giải đáp cho đương sự các vấn đề khúc mắc có liên quan đến vụ việc trên
cơ sở đối chiếu các quy định của pháp luật, soạn thảo các văn bản liên quan.
Việc tư vấn pháp luật của luật sư cũng góp phần giảm thiểu được những tranh

16


chấp trong xã hội, hạn chế được những vi phạm do sự thiếu hiểu biết pháp
luật của người dân gây ra.
- Vai trò của luật sư trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật: Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật là khâu đầu tiên, quan trọng để đưa pháp luật vào cuộc sống. Trong
điều kiện pháp luật được ban hành ngày càng nhiều, điều chỉnh đa dạng các
quan hệ xã hội phục vụ tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật tuy đã được thực hiện nhiều năm nhưng chưa thực sự
đáp ứng yêu cầu bức thiết của tình hình mới. Là người có kiến thức pháp luật
sâu rộng, luật sư góp phần quan trọng trong việc tuyền truyền phổ biến giáo
dục pháp luật trong cộng đồng và xã hội, xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật bằng việc phát hiện những hạn chế, thiếu sót của pháp luật trong
quá trình luật sư tham gia tố tụng.
Có thể thấy rằng, vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự là rất quan trọng nhằm giúp các đương sự hiểu đúng,
hiểu đủ quyền và nghĩa vụ của mình trước pháp luật, tránh bị các cơ quan tiến
hành tố tụng lạm quyền làm thiệt hại đến quyền và lợi ích của mình cũng như
hiểu được bản án, quyết định của các cơ quan tố tụng tuyên đối với đương sự
đã đúng pháp luật hay chưa tránh khiếu kiện, khiếu nại kéo dài làm ảnh hưởng
đến thời gian cũng như kinh tế của các đương sự. Sự tham gia của luật sư
trong tố tụng dân sự không chỉ giúp đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, mà còn góp phần trong việc xác định sự thật khách quan của
vụ việc, giúp cho việc giải quyết vụ việc được nhanh chóng, chính xác, khách
quan và toàn diện. Cùng với sự phát triển của nền tư pháp, luật sư đang từng
bước khẳng định vị trí và vai trò của mình khi tham gia tố tụng dân sự.
1.2. Khái luận về chứng cứ trong tố tụng dân sự
Trong tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
đương sự có quyền, nghĩa vụ chứng minh và để có cơ sở chứng minh cho yêu

17


cầu của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của đương sự khác đòi hỏi đương sự, luật
sư của đương sự phải cung cấp chứng cứ cho tòa án.
1.2.1. Khái niệm và các thuộc tính của chứng cứ
Khái niệm chứng cứ lần đầu tiên được ghi nhận tương đối đầy đủ tại
Điều 81 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương
sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do
Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định
mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của
đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình
tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự [19].
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đưa ra khái niệm chứng cứ tại Điều 93

quy định như sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương
sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa
án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình
tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn
cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định
yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp [27].
Việc cung cấp chứng cứ có thể được tiến hành ngay từ khi khởi kiện
và trong cả quá trình tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Luật sư khi tham gia tố
tụng dân sự với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
cũng có trách nhiệm cung cấp chứng cứ theo Khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015. Còn với tư cách là người đại diện của đương sự luật sư có
trách nhiệm cung cấp chứng cứ theo Điều 86 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Chứng cứ đóng vai trò quan trọng đối với việc giải quyết vụ việc dân
sự nhưng là phạm trù pháp lý khá phức tạp. Tuy vậy, cũng như các sự vật, sự
việc khác con người vẫn có thể nhận thức được chứng cứ thông qua các thuộc

18


tính của nó. Các thuộc tính của chứng cứ bao gồm: tính khách quan, tính liên
quan và tính hợp pháp.
Chứng cứ có tính khách quan bởi chứng cứ là cơ sở để nhận thức vụ
việc dân sự. Theo lý luận về nhận thức thì người ta chỉ nhận thức đúng bản
chất của sự vật, sự việc khi nó được phản ánh lại một cách khách quan.
Những cái có được là do sự tưởng tượng, hư cấu sẽ không bao giờ nói lên
được bản chất sự vật, sự việc và không thể làm cơ sở của nhận thức.
Tính khách quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ chứng cứ phải là cái có
thật, tồn tại ngoài ý muốn chủ quan của con người. Chứng cứ có thể là sản phẩm
của ý chí con người nhưng từ thời điểm ra đời, tính khách quan của chứng cứ đã

xuất hiện. Trong quá trình tố tụng, những người tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng không thể tạo ra chúng theo ý muốn chủ quan của họ.
Trong thực tiễn xét xử nhiều trường hợp có sự nhầm lẫn giữa sự kiện có thật và
sự kiện do con người tạo ra, do đó để đánh giá tính khách quan của những sự
kiện mang tính chất chứng cứ được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, các
sự kiện đó phải được nghiên cứu, đánh giá, phân tích, so sánh và sử dụng
chúng trong mối liên hệ giữa chúng với nhau và với sự việc. Xác định được
tính khách quan của chứng cứ tòa án loại bỏ được những cái không có thật,
không sử dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự bảo đảm cho việc
giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, theo quy định của pháp luật.
Chứng cứ có tính liên quan bởi trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự, tòa án sử dụng chứng cứ, dựa vào chứng cứ vào để giải quyết vụ việc dân
sự. Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ giữa chứng cứ và vụ việc dân
sự có mối quan hệ nhất định. Nhờ chứng cứ mà tòa án có thể công nhận hay
phủ nhận được tình tiết, sự kiện này hay tình tiết, sự kiện khác của vụ việc
dân sự hoặc đưa ra tin tức về nó; những tình tiết, sự kiện này phải đảm bảo
các điều kiện theo quy định và phải liên quan tới việc giải quyết vụ việc dân
sự thì mới được coi là chứng cứ.

19


×