Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Hoạt động thu thập chứng cứ của tòa án phúc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.45 KB, 68 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN HIỂU

HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA TỊA ÁN PHÚC THẨM TRONG Q TRÌNH
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học : GS.TS MAI HỒNG QUỲ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiêm cứu của cá nhân tác giả,
khơng hề sao chép từ luận văn của tác giả khác. Tác giả chịu trách nhiệm danh dự
về cơng trình nghiên cứu của mình.

Người viết


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BAST
BLDS
BLLĐ


BLTTDS
BPKCTT
HĐTPTANDTC
GĐT
BLDS
TTDS
BLTTDS
PLTTGQCVADS
PLTTGQCVAKT
PLTTGQCTCLĐ
QH
TAND
Tp.HCM
UBND

Bản án sơ thẩm
Bộ luật dân sự
Bộ luật lao động
Bộ luật tố tụng dân sự
Biện pháp khẩn cấp tạm thời
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Giám đốc thẩm
Bộ luật dân sự
Tố tụng dân sự
Bộ luật tố tụng dân sự
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
Quốc hội
Tòa án nhân dân

Thành phố Hồ Chí Minh
Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN
PHÚC THẨM TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ ............ 6
1.1. Khái niệm về hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án phúc thẩm trong
q trình giải quyết vụ án dân sự ......................................................................... 6
1.1.1. Tòa án phúc thẩm trong tố tụng dân sự ......................................................... 6
1.1.2. Vụ án dân sự ................................................................................................. 6
1.1.3. Hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự ....................................... 8
1.2. Đặc trưng pháp lý của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phúc thẩm
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ............................................................ 10
1.2.1. Tính quyền lực nhà nước ............................................................................. 10
1.2.2. Do Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành .................................................... 11
1.2.3. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ......................................... 11
1.2.4. Xem xét lại tính hợp pháp và có tính căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm
bị kháng cáo, kháng nghị ...................................................................................... 12
1.2.5. Bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử vụ án dân sự ................................... 12
1.2.6. Giải quyết yêu cầu kháng cáo, kháng nghị .................................................. 13
1.3. Ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án phúc thẩm trong q
trình giải quyết vụ án dân sự ............................................................................ 14
1.4. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án phúc thẩm trong q trình giải
quyết vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự của một số nước ................ 15
1.4.1. Theo pháp luật của Liên bang Nga ............................................................ 15
1.4.2. Theo pháp luật của Cộng hòa Pháp ........................................................... 17
1.4.3. Theo pháp luật của Cộng hòa liên bang Đức ............................................. 19

1.5. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hoạt động thu thập chứng
cứ của Tịa án phúc thẩm trong q trình giải quyết vụ án dân sự ................ 20
1.5.1. Thu thập chứng cứ thông qua biện pháp yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung
chứng cứ, tài liệu của Tòa án cấp phúc thẩm trong giải quyết vụ án dân sự ......... 21
1.5.2. Thu thập chứng cứ thông qua biện pháp lấy lời khai của đương sự, người làm
chứng của Tòa án cấp phúc thẩm ......................................................................... 25
1.5.3. Thu thập chứng cứ thông qua biện pháp định giá tài sản, thẩm định giá tài
sản của Tòa án cấp phúc thẩm .............................................................................. 28
1.5.4. Thu thập chứng cứ thông qua biện pháp xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa
án cấp phúc thẩm ................................................................................................ 32


1.5.5. Thu thập chứng cứ thông qua biện pháp yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức
cung cấp chứng cứ của Tòa án cấp phúc thẩm ..................................................... 34
Kết luận chương 1 .............................................................................................. 35
CHƯƠNG 2
HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA TỊA ÁN PHÚC THẨM
TRONG Q TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG ……………………………………………………………………………..38
2.1. Về trách nhiệm thu thập chứng cứ của Tòa án .......................................... 38
2.1.1. Thực tiễn thực hiện trách nhiệm thu thập chứng cứ của Tịa án ................. 38
2.1.2. Kiến nghị hồn thiện pháp luật về trách nhiệm thu thập chứng cứ ............. 46
2.2. Về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm thu thập chứng cứ của Thẩm
phán ..................................................................................................................... 47
2.2.1. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm thu thập chứng cứ
của Thẩm phán .................................................................................................... 47
2.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm thu
thập chứng cứ của Thẩm phán .............................................................................. 49
2.3. Cơ quan, tổ chức lưu giữ chứng cứ, tài liệu không thực hiện yêu cầu cung
cấp chứng cứ của Tòa án .................................................................................... 51

2.3.1. Thực tiễn thực hiện yêu cầu cung cấp chứng cứ của Tịa án …………………51
2.3.2. Kiến nghị hồn thiện pháp luật về trách nhiệm cung cấp chứng cứ ............. 54
2.4. Về thu thập chứng cứ thông qua định giá tài sản, thẩm định giá tài sản của
Tòa án phúc thẩm .............................................................................................. 55
2.4.1. Thực tiễn hoạt động thu thập chứng cứ thông qua định giá tài sản, thẩm định
giá tài sản của Tòa án phúc thẩm ......................................................................... 56
2.4.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thu thập chứng cứ thông qua định giá tài
sản, thẩm định giá tài sản của Tòa án phúc thẩm ................................................. 57
Kết luận chương 2 .............................................................................................. 58
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thủ tục tố tụng dân sự, chứng cứ có một vai trò quan trọng trong việc
chứng minh và giải quyết vụ án dân sự. Chứng cứ có thể do các đương sự thu thập
và giao nộp cho Tòa án, nhưng pháp luật cũng quy định cho Tịa án có quyền thu
thập chứng cứ trong một số trường hợp nhất định. Trong thực tế, hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án phúc thẩm rất quan trọng trong việc chuẩn bị để xử xử phúc
thẩm. Những chứng cứ do các bên đương sự cung cấp và những chứng cứ do Tòa
án cấp sơ thẩm thu thập trong nhiều trường hợp còn chưa đầy đủ, thiếu sót, chưa có
cơ sở vững chắc để phán quyết về vụ án. Có những tình tiết của vụ án cần phải được
Tòa án phúc thẩm thu thập thêm chứng cứ cần thiết để xác định, giải quyết vụ án
được đúng đắn. Việc thu thập chứng cứ của các đương sự trong nhiều trường hợp
còn gặp những trở ngại khách quan. Vì vậy, hoạt động thu thập chứng của Tòa án là
một nguồn bổ sung chứng cứ mang tính khách quan, đầy đủ và tồn diện để giải

quyết vụ án được nhanh chóng. Tuy nhiên, trong thời gian qua, những quy định về
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phúc thẩm còn nhiều bất cập, phần nào đã
làm hạn chế kết quả thu thập chứng cứ của Tịa án.
Để góp phần nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phúc thẩm, làm rõ những vướng mắc, bất
cập của pháp luật, từ đó góp phần kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phúc thẩm. Vì những lý do nêu trên, tác giả
chọn đề tài “Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phúc thẩm trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự” làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nhân dân cấp phúc
thẩm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự trong thời gian qua, đã có một số cơng
trình nghiên cứu, bài báo, bài viết có liên quan về vấn đề hoạt động thu thập chứng
cứ của Tòa án như:
* Các cơng trình nghiên cứu:
- “Chứng cứ và hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam” –
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Vũ Trọng Hiếu (1998); “Chế định chứng
minh trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn
Thị Minh Hằng (2007). Các cơng trình này, tác giả nghiên cứu khái niệm chứng cứ
và hoạt động chứng minh trong Tố tụng dân sự Việt Nam. Đây là những cơng trình
khoa học được các tác giả nghiên cứu một cách cơng phu, nhưng có giới hạn là
nghiên cứu trong thời điểm Bộ luật Tố tụng dân sự chưa được sử đổi bổ sung.


2

- “Hoạt động thu thập chứng cứ trong Tố tụng dân sự Việt Nam”, Luận văn
Thạc sĩ Luật học của tác giả Hà Thái Thơ (2013), tại cơng trình này tác giả nghiên
cứu quy định pháp luật về thu thập chứng cứ của Tố tụng dân sự Việt Nam
- “Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong quá trình giải

quyết vụ án dân sự”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Trương Việt Hồng
(2014), cơng trình này tác giả nghiên cứu hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
trong Tố tụng dân sự nhưng chỉ dùng trong Tòa án cấp sơ thẩm.
* Các bài viết:
“Trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền trong Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Hằng và Lê Thị
Hồng Nhung trong Nghề luật Học viện Tư pháp số 04 tháng 7/2014, trang 29 – 33;
“Một số ý kiến về trách nhiệm thu thập chứng cứ của Tòa án trong Tố tụng dân sự”
– Tác giả Hà Thái Thơ trong Nghề luật Học viện Tư pháp số 05 tháng 10/2013,
trang 19 – 21; “Nguyên tắc hai cấp xét xử và áp dụng nguyên tắc đó vào việc tổ
chức Tòa án các cấp” của tác giả Trần Văn Độ trong Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật (5/2007), trang 1; “ Một số vấn đề về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự 2004” của tác giả Phan Vũ Linh trong Tạp
chí Tịa án nhân dân số 05 năm 2011, trang 4 – 8; “ Phân tích số lượng và chất
lượng giải quyết xét xử các loại án của ngành Tòa án nhân dân” của tác giả
Nguyễn Quang Lộc trong Tạp chí Tịa án nhân dân số 11 năm 2009, trang 6 – 9;
“Hoàn thiện các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự trong Bộ luật tố
tụng dân sự ăm 2004” của tác giả Đồn Đức Lương trong Tạp chí Tịa án nhân dân
số 04 năm 2011, trang 6 – 9; “ Pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử” – Nhà
xuất bản hành chính quốc gia Hà Nội (2009) của tác giả Tưởng Duy Lượng; “Tiếp
cận công lý và các nguyên lý của Nhà nước pháp quyền” – Tạp chí khoa học, Đại
học quốc gia Hà Nội (2009) của tác giả Vũ Công Giao;“Chế định chứng cứ và
chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 02
năm 2004 của tác giả Nguyễn Cơng Bình; “Một vài suy nghĩ về chứng cứ trong Bộ
luật Tố tụng dân sự”, Tạp chí Tịa án số 20, 21 năm 2004 của tác giả Tưởng Duy
Lượng. Phần lớn các bài viết này tác giả cũng nghiên cứu những quy định về thu
thập chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự Việt Nam chứ không riêng chủ
thể Tịa án phúc thẩm.
Những cơng trình, bài viết trên giải quyết nhiều khía cạnh về chứng minh và
chứng cứ nhưng chưa đề cập sâu đến đề tài mà tác giả nghiên cứu. Tuy nhiên các

cơng trình nghiên cứu trên cũng là nguồn tham khảo quan trọng để tác giả có thể
hồn thành tốt phần nghiên cứu của mình. Luận văn của tác giả sẽ đi sâu phân tích
quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án cấp
phúc thẩm và so sánh một số quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật một số


3

nước, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá những hạn chế của pháp luật cũng như
thực tiễn áp dụng pháp luật và đưa ra giải pháp hoàn thiện.
3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên
cứu
- Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm hướng đến các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phúc thẩm trong Tố tụng dân sự. Thông
qua việc đánh giá, phân tích các vấn đề mang tính chất lý luận và thực tiễn về hoạt
động thu thập chứng cứ trong Tố tụng dân sự, đề xuất phương hướng hoàn thiện về
chế định này trước yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu
Đề tài chú trọng nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và
nghiên cứu, so sánh với pháp luật một số nước. Trong pháp luật Việt Nam hiện
hành, đề tài tập trung nghiên cứu những quy định cụ thể về hoạt động thu thập
chứng cứ của đối tượng chủ thể là Tòa án và ở cấp giải quyết vụ án là cấp phúc
thẩm. Đó chính là những căn cứ pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự ở cấp phúc thẩm của Tòa án nhân dân.
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Thủ tục giải quyết trong tố tụng dân sự gồm có vụ án dân sự và việc dân sự.
Trong thủ tục giải quyết việc dân sự, khơng có sự tranh chấp giữa các đương sự,
tính chất đối lập trong tố tụng giữa các bên không được thể hiện rõ ràng, hoạt động
thu thập chứng cứ của các chủ thể khơng q phức tạp. Do đó, hoạt động thu thập

chứng cứ của Tòa án trong quá trình giải quyết việc dân sự cũng khơng rõ nét bằng
vụ án dân sự. Vì vậy, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài là chỉ nghiên
cứu hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phúc thẩm đối với vụ án dân sự, không
nghiên cứu hoạt động thu thập chứng cứ trong cả quá trình tố tụng giải quyết vụ án
tại Tịa án và cũng khơng nghiên cứu hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ
thẩm.
Về phạm vi không gian và thời gian, tác giả nghiên cứu đề tài này dựa trên
cơ sở thực tiễn của Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long và trong khoảng
thời gian từ năm 2010 đến năm 2014, do bản thân tác giả vừa học vừa làm khơng có
điều kiện tiếp cận ở các địa bàn khác.
4. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của Luận văn được dựa trên cơ sở lý luận và
phương pháp luận của Đảng và Nhà nước ta trong chiến lược cải cách tư pháp. Cụ
thể trong từng chương, phương pháp nghiên cứu được vận dụng như sau:
Chương 1: Chủ yếu áp dụng phương pháp phân tích, so sánh. Phương pháp
phân tích được sử dụng trong phân tích khái niệm, đặc trưng pháp lý và các biện
pháp trong hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phúc thẩm, dựa vào các văn bản


4

pháp luật như: Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011; Bộ luật dân
sự 2005; Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 và năm 2014; Luật thi hành án
dân sự năm 2008 và năm 2014. Phương pháp so sánh được áp dụng để so sánh với
pháp luật nước ngồi trong q trình thu thập chứng cứ như: Bộ luật tố tụng dân sự
Cộng hòa Pháp (1998); Bộ luật tố tụng dân sự Liên bang Nga (2005); Bộ luật tố
tụng dân sự Cộng hòa Liên bang Đức; Bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản (1998). Sử
dụng hai phương pháp phân tích, so sánh nhằm làm rõ hơn trong việc phân tích khái
niệm Tịa án cấp phúc thẩm và sự khác nhau với Tòa án cấp sơ thẩm như các bài
viết của tác giả Trần Văn Độ (2008) phân tích khái niệm Tịa án phúc thẩm là giai

đoạn xem xét lại vụ án; Lê Thu Hà (2006) phân tích làm rõ khái niệm vụ án dân sự.
Chương 2: Ngồi hai phương pháp phân tích, so sánh, tác giả còn vận dụng
thêm phương pháp tổng hợp các cơng trình nghiên cứu và các bài viết như Luận văn
Thạc sĩ Luật học của tác giả Vũ Trọng Hiền “Chứng cứ và hoạt động chứng minh
trong tố tụng dân sự Việt Nam”; Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị
Minh Hằng (2007) “Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam”; Luận
văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Hà Thái Thơ (2013) “Hoạt động thu thập chứng
cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam”; Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Trương
Việt Hồng (2014) “Hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án cấp sơ thẩm trong q
trình giải quyết vụ án dân sự”. Bằng phương pháp phân tích, tác giả phân tích quy
định của pháp luật hiện hành về hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án phúc thẩm
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, thực trạng hoạt động thu thập chứng cứ của
Toà án phúc thẩm trong xét xử vụ án thời gian 5 năm vừa qua. Trên cơ sở thực tiễn,
tác giả đưa vào phân tích những bất cập tồn tại của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành
quy định về căn cứ để Tòa án thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự. Trên cơ sở phân tích những bất cập, vướng mắc, tác
giả đề ra một số kiến nghị nhằm khắc phục bất cập trong quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phúc thẩm. Phương
pháp tổng hợp được sử dụng song song với phương pháp phân tích để tổng hợp kết
quả nghiên cứu khái quát những kết quả nghiên cứu, phương pháp phân tích và tổng
hợp được thực hiện xuyên suốt quá trình nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
- Về lý luận: Luận văn này góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận của hoạt
động thu thập chứng cứ của Tịa án phúc thẩm trong q trình giải quyết vụ án dân
sự. Luận văn góp phần làm rõ những khái niệm, thuật ngữ, cơ sở pháp lý của việc
quy định các căn cứ quy định hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phúc thẩm.
- Về thực tiễn: Luận văn nghiên cứu khả năng vận dụng vào thực tiễn của
những quy định về hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án phúc thẩm trong q
trình giải quyết vụ án dân sự, góp phần làm rõ những bất cập, vướng mắc trong quá
trình áp dụng các quy định về thu thập chứng cứ của Tòa án nhân dân. Kết quả



5

nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho những người tiến hành tố tụng
nói chung và thẩm phán, kiểm sát viên nói riêng. Luận văn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo cho những độc giả có quan tâm và sinh viên các trường Đại học Luật hay
các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có chun ngành Luật.
6. Bố cục của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung đề tài kết cấu thành 2 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phúc thẩm
trong tố tụng dân sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phúc thẩm
trong việc giải quyết vụ án dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật.


6

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA TỒ ÁN PHÚC THẨM TRONG Q TRÌNH
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm về hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án phúc thẩm
trong q trình giải quyết vụ án dân sự
1.1.1. Tòa án phúc thẩm trong tố tụng dân sự
Khái niệm phúc thẩm gắn liền với khái niệm về cấp xét xử. Cấp xét xử “là
giai đoạn xem xét vụ án tại Toà án với thẩm quyền xác định”1 . Tuy nhiên, cấp xét
xử không chỉ đơn thuần là khái niệm tố tụng nói chung, mà “cấp xét xử là hình thức
tổ chức tố tụng thể hiện quan điểm của Nhà nước về xét xử các vụ án nhằm bảo

đảm tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Toà án, bảo vệ các quyền tự
do dân chủ của công dân”2. Cấp xét xử khác với thủ tục xét xử. Cấp xét xử là hình
thức tổ chức tố tụng, còn thủ tục xét xử là những quy định cần tuân thủ để thực hiện
việc xét xử theo từng cấp. Chính vì quan niệm về cấp xét xử như trên, ngày nay hầu
hết quốc gia có nền luật pháp tiến bộ đều áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử các vụ
án, dù hình sự hay dân sự. Để thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, hệ thống Tồ án
phải được tổ chức theo mơ hình phù hợp. Tuy nhiên, dù tổ chức hệ thống Toà án
theo mơ hình nào thì cũng bảo đảm có Tồ án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc
thẩm.
Về bản chất phúc thẩm là lần xét xử thứ hai đối với một vụ án, được tiến
hành sau thủ tục sơ thẩm. Đây là nội dung của nguyên tắc hai cấp xét xử mà hệ
thống Tòa án của Việt Nam cũng như những nước trên thế giới áp dụng nhằm đảm
bảo tính thận trọng cho các phán quyết nhân danh nhà nước.
Khái niệm về phúc thẩm chưa được đề cập chính thức trong pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam. Tuy nhiên, qua khái niệm cấp xét xử và xét xử phúc thẩm, chúng
ta có thể hiểu được khái niệm phúc thẩm trong tố tụng dân sự. Theo đó, phúc thẩm
dân sự là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án dân sự mà bản án, quyết
định của Tịa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
1.1.2. Vụ án dân sự
Đối với khái niệm VADS, trước đây trong các Tòa án dưới thời Pháp thuộc
(trước năm 1945) những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được chia
làm hai loại là việc hình và việc hộ. Theo đó, Sắc lệnh số 13-SL, ngày 24/01/1946
về tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm phán chỉ rõ việc hộ bao gồm “các việc về dân sự
1

Theo Trần Văn Độ (2007), “Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng nguyên tắc đó vào việc tổ chức Tịa
án các cấp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (5/2007), tr.1.
2
Theo Trần Văn Độ (2007), “Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng ngun tắc đó vào việc tổ chức Tịa
án các cấp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (5/2007), tr.1.



7

và thương sự” (Điều 3, Điều 17). Tại Điều 9 Sắc lệnh số 85-SL ngày 22/5/1950 về
cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng đã sử dụng thuật ngữ “việc kiện dân sự”.
Theo quy định này, thuật ngữ “việc kiện dân sự” cũng có thể được gọi là “vụ kiện
dân sự” để chỉ những tranh chấp dân sự có u cầu được Tịa án giải quyết. Từ
“việc” và “vụ” trong trường hợp này là tương đồng, có thể dùng là “việc kiện”
hoặc “vụ kiện” mà không dùng “vụ việc kiện”3. Trên cơ sở Hiến pháp 1959, Điều 1
Luật tổ chức TAND 1960 quy định: “TAND xét xử những vụ án hình sự và dân
sự…”. Từ những quy định này, thuật ngữ “vụ án” chính thức được sử dụng trong
các văn bản pháp luật. Tiếp theo đó, Thơng tư số 01-UB ngày 03/3/1969 của
TANDTC hướng dẫn việc viết bản án sơ thẩm và phúc thẩm hình sự và dân sự,
Thông tư 01/TTLT ngày 01/02/1982 của TANDTC, VKSNDTC hướng dẫn về thủ
tục giám đốc thẩm và Thông tư 02/TTLT ngày 01/02/1982 của TANDTC,
VKSNDTC hướng dẫn về thủ tục tái thẩm cũng sử dụng nhiều lần thuật ngữ “vụ
án”. Trong giai đoạn này các thuật ngữ: “việc kiện dân sự”, “tranh chấp dân sự”,
“vụ án dân sự” là những thuật ngữ cùng đồng thời được sử dụng để chỉ những loại
việc thuộc thẩm quyền giải quyết về dân sự của TAND. Chỉ đến khi có Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các VADS được ban hành ngày 29/11/1989, các loại việc thuộc
thẩm quyền xét xử về dân sự của Tòa án mới sử dụng thống nhất thuật ngữ “vụ án
dân sự”.
Khi BLTTDS ra đời, khái niệm vụ việc dân sự đã thay thế khái niệm VADS.
Điều 1 BLTTDS quy định: “BLTTDS quy định những nguyên tắc cơ bản trong
TTDS; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân
sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là
VADS) và trình tự, thủ tục u cầu để Tịa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc
dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết VADS, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc

dân sự) tại Tòa án…”. Với quy định này, đối tượng được giải quyết theo thủ tục
TTDS là vụ việc dân sự, gồm VADS và việc dân sự.
Như vậy, khi BLTTDS ra đời, lần đầu tiên khái niệm VADS được khái quát
bao gồm các “tranh chấp dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động”4. Theo BLTTDS, VADS là những việc có tranh chấp, bắt đầu từ sự mâu
thuẫn giữa các bên đương sự, trong đó có một bên u cầu Tịa án buộc bên kia phải
thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ pháp luật nêu trên.
1.1.3. Hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự

3

Lê Thu Hà (2006), “Bình luận khoa học một số vấn đề của pháp luật TTDS và thực tiễn áp dụng”, NXB Tư
pháp, Hà Nội, tr 154.
4
Nguyễn Văn Tiến – Bành Quốc Tuấn (2011), “Thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp dân sự có yếu tố
nước ngồi và việc bảo vệ quyền dân sự tại cơ quan tư pháp Việt Nam”, NXB Lao động, Tp Hồ Chí Minh, tr
7.


8

Toà án muốn giải quyết đúng đắn vụ án dân sự thì trước hết cần phải có
trong tay những giấy tờ, tài liệu hoặc thơng tin có đủ độ tin cậy để xác định sự thật
khách quan của vụ việc. Để những tài liệu hoặc thơng tin mà Tồ án thu thập được
có giá trị chứng minh, phản ánh trung thực sự việc thì việc thu thập những tài liệu,
thơng tin này phải tuân theo trình tự nghiêm ngặt mà pháp luật quy định nhằm đáp
ứng yêu cầu về tính hợp pháp của chứng cứ.
Việc luận giải và làm rõ về hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án trong tố
tụng dân sự phải được bắt đầu từ chứng cứ. Do vậy, trước tiên ta cần phải làm rõ
bản chất của chứng cứ với tư cách là đối tượng của hoạt động thu thập chứng cứ của

Tòa án.
Theo nghĩa thơng thường thì “Chứng cứ là những cái cụ thể như lời nói, việc
làm, vật làm chứng, tài liệu tỏ rõ điều đó có thật nhất”5. Chứng cứ với vai trò là nền
tảng cơ bản để giải quyết các vụ việc dân sự, là yếu tố cốt lõi của quá trình chứng
minh, do vậy trong quy định của Pháp luật Tố tụng dân sự của từng quốc gia, khái
niệm chứng cứ ln giữ một vị trí quan trọng. Theo BLTTDS Nhật Bản thì “Chứng
cứ là một tư liệu thơng qua đó một tình tiết được Tồ án cơng nhận và là một tư
liệu, cơ sở thơng qua đó Tồ án được thuyết phục là một tình tiết có tồn tại hay
không”6. Trong Điều 401 Luật Chứng cứ Mỹ quy định: “Chứng cứ là những gì mà
hàm chứa trong nó sự tồn tại của bất cứ một sự thật nào mà bản thân sự hàm chứa
đó ảnh hưởng tới việc xác định một hành động hơn hoặc kém hơn”. Khái niệm
chứng cứ cũng được thể hiện tại Điều 55 BLTTDS Liên Bang Nga. Theo đó,
“Chứng cứ trong vụ án dân sự là những gì được thu thập theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định mà Toà án căn cứ vào đó để xác định có hay khơng có các tình
tiết làm cơ sở cho những yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của các bên cũng như các
tình tiết khác có ý nghĩa để giải quyết đúng đắn vụ án”7.
Theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi năm 2011 đã mơ tả rõ hơn về
tính hợp pháp và giá trị chứng minh của chứng cứ, theo Điều 81 quy định: “Chứng
cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ
chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tịa án thu thập được theo trình tự, thủ tục
do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự
phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay khơng cũng như những tình
tiết khác cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
Như vậy, có thể thấy khái niệm chứng cứ trong hệ thống pháp luật tố tụng
dân sự Nhật Bản và Hoa Kỳ đều gặp nhau ở một điểm chung trong quy phạm định
nghĩa: Chứng cứ là cơ sở, căn cứ để Tịa giải quyết vụ án, các thuộc tính của chứng
cứ được thể hiện tương đối đầy đủ trong nội hàm của khái niệm.
5

Từ điển giải thích thuât ngữ luật học Trường Đại học Hà Nội, NXB Công an nhân dân (1999), tr.186.

Bộ Tư pháp Việt nghiên cứu và đào tạo: Luật Tố tụng dân sự Nhật Bản (1998), tr.453, 454.
7
Bộ luật Tố tụng dân sự Liên Bang Nga 2002. NXB Tư pháp, tr.79,80.
6


9

Khái niệm về chứng cứ trong BLTTDS Liên Bang Nga có sự gần gũi, tương
đồng với khái niệm chứng cứ được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam
hiện hành.
Theo quy định pháp luật Việt Nam, các tài liệu do đương sự, cá nhân, cơ
quan, tổ chức giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án tự tiến hành thu thập chỉ đươc
coi là chứng cứ khi đảm bảo được tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp.
Trong đó, tính khách quan của chứng cứ được hiểu là chứng cứ phải hình
thành và tồn tại một cách khách quan khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con
người, từ đó làm cơ sở cho việc khẳng định tồn tại hay không tồn tại những sự kiện
có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Tính liên quan làm cơ sở cho việc
khẳng định sự tồn tại của những sự kiện có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc dân
sự, đảm bảo các sự kiện, tình tiết được coi là chứng cứ khi nó chứa đựng những nội
dung gắn liền với việc giải quyết vụ án.
Tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện ở chỗ những thông tin thực tế phải
được thu thập từ nguồn hợp pháp và theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
Đây là các thuộc tính cơ bản mà chủ thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ cần
phải chú trọng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Như vậy, khi thụ lý giải quyết vụ án dân sự, Toà án phải làm sáng tỏ những
tình tiết liên quan đến vụ việc dân sự, để thực hiện được điều này Toà án phải
nghiên cứu những chứng cứ khác nhau do đương sự cung cấp cũng như những
chứng cứ tự mình thu thập được như lời khai của đương sự, những người làm
chứng, kết luận giám định, các tài liệu khác có liên quan được sử dụng làm phương

tiện chứng minh để xác định những tình tiết của vụ việc.
Có thể nhận thấy rằng, Tồ án là cơ quan bảo vệ cơng lý, có trách nhiệm chủ
yếu trong việc xác định sự thật khách quan và ra phán quyết giải quyết vụ việc nên
pháp luật cần ghi nhận một phạm vi rộng các biện pháp thu thập chứng cứ mà Tồ
án có thể tiến hành và lựa chọn tuỳ theo từng vụ việc dân sự. Tuy nhiên, để chống
lại sự tham quyền của Toà án, tránh việc làm thái quá gây tổn hại đến quyền của
đương sự, nhà lập pháp cũng có quy định rạch ròi và giới hạn các biện pháp thu
thập chứng cứ mà Tồ án có thể áp dụng cũng như những trình tự, thủ tục mà Tồ
án phải tn thủ khi tiến hành thu thập.
Thơng thường thì các biện pháp mà Tồ án có thể áp dụng để thu thập chứng
cứ gồm có: Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; đối chất; trưng cầu giám
định; quyết định định giá tài sản; yêu cầu thẩm định giá tài sản; xem xét, thẩm định
tại chỗ; uỷ thác thu nhập, xác minh tài liệu chứng cứ; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ
chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan
đến việc giải quyết vụ việc dân sự. Tuỳ trường hợp cụ thể, toà án có thể áp dụng
mơt hoặc nhiều biện pháp đó để thu thập chứng cứ.


10

Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về hoạt động thu thập chứng
cứ trong tố tụng dân sự như sau: “Hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân
sự là hành vi pháp lý, mà nghĩa vụ thực hiện thuộc về các bên đương sự. Thông qua
việc phát hiện, thu giữ, bảo quản, tập hợp các chứng cứ tạo cơ sở cho việc khởi kiện
hoặc phản đối yêu cầu của đương sự, và ra phán quyết của Toà án theo quy định
của pháp luật. Toà án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi đương sự khơng thể tự
mình thu thập được và có u cầu”.
1.2. Đặc trưng pháp lý của hoạt động thu thập chứng cứ của Tồ án
phúc thẩm trong q trình giải quyết vụ án dân sự
1.2.1. Tính quyền lực nhà nước

Đây là đặc trưng cơ bản để phân biệt với hoạt động thu thập chứng cứ của
các chủ thể tố tụng khác như: đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự. Bởi hoạt động thu thập chứng cứ của các chủ thể trên là
nhằm thu thập các chứng cứ cung cấp cho Toà án phúc thẩm để chứng minh cho
yêu cầu tố tụng của mình hay phản bác yêu cầu tố tụng của đối phương. Các hoạt
động thu thập chứng cứ này không mang tính quyền lực nhà nước như hoạt động
thu thập chứng cứ của Tồ án phúc thẩm.
Tính quyền lực nhà nước được thể hiện ở chỗ biện pháp thu thập chứng cứ
mà Tồ án phúc thẩm tiến hành có tính ràng buộc trách nhiệm với các chủ thể liên
quan, ví dụ như: đương sự, người làm chứng có nghĩa vụ phải có mặt theo triệu tập
lấy lời khai của Tồ án phúc thẩm, cơ quan hữu quan phải phối hợp với Toà án phúc
thẩm trong việc tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ; cử người tham gia Hội
đồng định giá; Tồ án nhận được uỷ thác có trách nhiệm thực hiện công việc uỷ
thác thu thập chứng cứ trong thời hạn luật định; các chủ thể đang quản lý, lưu giữ
chứng cứ phải thực hiện yêu cầu cung cấp chứng cứ của Toà án phúc thẩm đúng
thời hạn và phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi vi phạm của mình…
1.2.2. Do Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành
Có thể nhận thấy, trong bất kể một vụ án nào thì việc thu thập chứng cứ của
Tồ án cũng là cần thiết nhưng tuỳ thuộc vào đặc thù của từng loại vụ án mà vai trò
này của Tồ án nhiều hay ít. Bộ luật tố tụng dân sự được xây dựng trên tinh thần
“việc sự cốt ở đôi bên”, quyền, nghĩa vụ và điều kiện của các bên là ngang nhau nên
nghĩa vụ chứng minh là của đương sự, Toà án chỉ thu thập chứng cứ trong một số
trường hợp luật định. Trong những trường hợp quy định cụ thể, hoạt động thu thập
chứng cứ của Toà án phúc thẩm trong vụ án dân sự do Hội đồng xét xử phúc thẩm
tiến hành, thực chất là hoạt động nghiệp vụ do Hội đồng xét xử thực hiện.
Đây cũng là đặc trưng cơ bản để phân biệt với hoạt động thu thập chứng cứ
của các chủ thể khác trong tố tụng dân sự như đương sự, người đại diện, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và Viện kiểm sát. Đồng thời cũng khác
với ở Tòa án cấp sơ thẩm là do Thẩm phán tiến hành.



11

1.2.3. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Khi tham gia tố tụng, nghĩa vụ thu thập chứng cứ để chứng minh trước tiên
thuộc về đương sự. Hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án phúc thẩm chỉ mang
tính hỗ trợ cho đương sự và phục vụ cho việc làm rõ cơ sở, quyết định của Toà án
phúc thẩm, chỉ tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ khi thấy cần thiết tùy
thuộc từng trường hợp theo luật định.
Trong nhiều vụ án dân sự cấp sơ thẩm, khả năng tự bảo vệ của đương sự yếu,
đương sự khơng khơng có khả năng tự thu thập được chứng cứ, nếu đợi chứng cứ
do đương sự giao nộp, cung cấp thì vụ việc sẽ kéo dài mà khơng có hướng giải
quyết, dẫn đến tình trạng án tồn, án q hạn, án bị huỷ hoặc sửa. Chính vì vậy, hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án phúc thẩm lúc này nhằm giúp đỡ, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Ví dụ: Trong vụ việc hơn nhân gia đình, nếu các đương sự thoả thuận được
về mối quan hệ, hoặc nếu không thoả thuận được nhưng đương sự đã xuất trình đầy
đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình, nộp bản khai có nội dung
đầy đủ, rõ ràng thì Tồ án phúc thẩm không phải tiến hành thu thập chứng cứ nữa
mà chỉ căn cứ vào các chứng cứ đương sự cung cấp, đánh giá chứng cứ và ra quyết
định, bản án theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, cũng trong vụ việc hơn nhân
gia đình, nếu có tranh chấp xảy ra, các đương sự không thống nhất về việc giải
quyết một vấn đề nào đó mà lại khơng cung cấp được chứng cứ chứng minh cho
yêu cầu của mình thì Tồ án phúc thẩm phải tiến hành nhiều biện pháp thu thập
chứng cứ để giải quyết vụ án như tiến hành lấy lời khai của đương sự, xác minh, đối
chất, định giá tài sản…, từ đó mới có căn cứ để giải quyết vụ án dân sự.
1.2.4. Xem xét lại tính hợp pháp và có tính căn cứ của bản án, quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị
Như đã phân tích ở trên thì một trong những thuộc tính cơ bản của chứng cứ
là tính hợp pháp. Theo đó, những thơng tin thực tế về vụ việc dân sự phải được Hội

đồng xét xử thu thập từ các nguồn hợp pháp và theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp
luật quy định. Đặc điểm này nhằm đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ, tránh sự
lạm quyền hay tuỳ tiện của Hội đồng xét xử, ngăn ngừa các hành vi gây tổn hại đến
đương sự.
Các bản án, quyết định sơ thẩm cần phải được Hội đồng xét xử xem xét một
cách thận trọng, chặt chẽ về tính hợp pháp và tính có căn cứ; vừa đảm bảo độ tin
cậy và tính khách quan của các chứng cứ do Toà án thu thập và sử dụng để các phán
quyết của Tồ án có được sức thuyết phục cao; vừa thể hiện tính cơng bằng, nghiêm
minh của pháp luật.
Những chứng cứ trong các bản án, quyết định sơ thẩm sẽ mất giá trị nếu
trong q trình thu thập có sự vi phạm quy định của pháp luật. Chẳng hạn, khi hội
đồng Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của đương sự ngồi trụ sở Tồ án thì cần


12

phải có người làm chứng chứng kiến và ký tên vào biên bản ghi lời khai, có xác
nhận của Uỷ ban nhân dân, công an xã, phường thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
lập biên bản; nếu thiếu người làm chứng hoặc khơng có xác nhận thì biên bản đó
khơng có giá trị về mặt pháp lý và khơng được coi là chứng cứ vì vi phạm thủ tục
thu thập chứng cứ. Với cách quy định chặt chẽ về thủ tục thu thập chứng cứ như
trên sẽ hạn chế được việc lập khống các biên bản lấy lời khai hoặc giả mạo chứng
cứ, đồng thời tránh được phản bác của đương sự đối lập về tính hợp pháp của tài
liệu, chứng cứ.
1.2.5. Bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử vụ án dân sự
Thơng thường, Tồ án phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết
định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung
kháng cáo, kháng nghị. Trong đó, Tồ án cấp phúc thẩm khơng chỉ kiểm tra việc
tuân thủ pháp luật khi xét xử của Toà án cấp dưới mà cịn kiểm tra tính đúng đắn,
tính hợp pháp và có tính căn cứ của bản án, quyết định của toà án cấp sơ thẩm. Toà

án cấp phúc thẩm sẽ xác định rõ nội dung tranh chấp, sự việc liên quan, kiểm tra
xác minh chứng cứ có đầy đủ, chính xác khơng, thẩm tra xem pháp luật liên quan
được áp dụng có tính đúng đắn khơng để tòa án cấp phúc thẩm đưa ra phán quyết.
Tuy nhiên, Tồ án cấp phúc thẩm khơng bị ràng buộc, hạn chế bởi những nội
dung kháng cáo hoặc kháng nghị, mà có thể kiểm tra những vấn đề khơng có liên
quan đến kháng cáo kháng nghị, kiểm tra đối với tất cả các đương sự, kể cả những
người không kháng cáo và khơng bị kháng nghị.
Như vậy, khi xét xử Tồ án cấp phúc thẩm phải xem xét nội dung kháng cáo,
kháng nghị trước, sau đó nếu thấy cần thiết mới xem xét các phần không bị kháng
cáo, kháng nghị nhưng có liên quan đến các phần kháng cáo kháng nghị để làm
sáng tỏ vụ án. Đặc trưng này nhằm bảo đảm công bằng cho các đương sự, nhấn
mạnh và khẳng định vai trị bảo vệ cơng lý của Tịa án phúc thẩm.
1.2.6. Giải quyết yêu cầu kháng cáo kháng nghị
Phạm vi xét xử phúc thẩm chủ yếu phải căn cứ vào nội dung kháng cáo,
kháng nghị. Điều này nhấn mạnh đến việc toà án cấp phúc thẩm chỉ xem xét đến
phần của bản án, quyết định có kháng cáo, kháng nghị mà khơng nhấn mạnh đến
việc xem xét tồn diện vụ án. Phạm vi xét xử phúc thẩm có ý nghĩa quyết định đến
nội dung và giới hạn của bản án phúc thẩm. Căn cứ vào nội dung kháng cáo, kháng
nghị, toà án cấp phúc thẩm sẽ ra bản án, quyết định về nội dung mà đương sự kháng
cáo, viện kiểm sát kháng nghị. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, Tịa án cấp phúc
thẩm vẫn có thẩm quyền xem xét lại những nội dung của bản án, quyết định không
thuộc phần kháng cáo, kháng nghị nếu xét thấy cần thiết.
Phúc thẩm là xét xử lại vụ việc đã được toà án cấp sơ thẩm xét xử hoặc quyết
định trong bản án hoặc quyết định sơ thẩm, tức là những gì mà bản án hoặc quyết
định sơ thẩm đã xét xử và quyết định thì tồ án cấp phúc thẩm mới xét xử và quyết


13

định. Đây là vấn đề tưởng như đơn giản, nhưng thực tiễn xét xử khơng ít trường hợp

tồ án phúc thẩm đã vượt quá thẩm quyền xét xử và quyết định cả những vấn đề mà
toà án cấp sơ thẩm chưa xét xử và quyết định. Tuy nhiên, cần chú ý thực tiễn có
những trường hợp những vấn đề trong vụ án được toà án cấp sơ thẩm xét xử nhưng
lại không quyết định, nên sau khi xét xử sơ thẩm, nếu có kháng cáo, kháng nghị thì
Tịa án cấp phúc thẩm khơng được lấy lý do tồ án cấp sơ thẩm chưa giải quyết để
từ chối xét xử.
Toà án cấp phúc thẩm chỉ xét xử lại vụ việc trong trường hợp bản án hoặc
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu luật pháp luật. Tuy nhiên trong một số trường hợp,
việc xác định bản án hoặc quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật hay chưa
khơng phải là dễ. Bởi hầu hết những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật là những bản án hoặc quyết định sơ thẩm còn trong thời hạn kháng
cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
1.3. Ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án phúc thẩm
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự
“Các vị Thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý”8. Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án là người trực tiếp xây dựng hồ sơ vụ án và trên cơ sở hồ
sơ này để giải quyết vụ án. Q trình xác minh, thu thập chứng cứ cũng chính là quá
trình xây dựng hồ sơ vụ án dân sự. Ngoài việc phải đảm bảo việc giải quyết vụ án
dân sự khách quan, công bằng, đúng pháp luật, Thẩm phán cịn có trách nhiệm giải
quyết vụ án đúng thời hạn. Thẩm phán trực là người tiếp xúc trực tiếp với chứng cứ
và các đương sự trong vụ án dân sự, bằng sự hiểu biết pháp luật cũng như nghiệp vụ
của mình Thẩm phán hiểu rõ những vấn đề khúc mắc trong vụ án, từ đó xác định
được phương hướng, vấn đề cần chứng minh, yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ
chứng minh hoặc tự thu thập chứng cứ chứng minh. Do vậy hiệu quả chứng minh sẽ
cao hơn, tránh tình trạng thu thập chứng cứ tràn lan, khơng có trọng tâm dẫn đến
chứng cứ thu thập được khơng có giá trị chứng minh.
Mặt khác, lý luận về chứng cứ cũng cho thấy, Tồ án là cơ quan có nhiệm vụ
đánh giá toàn bộ chứng cứ để giải quyết đúng đắn vụ án. Việc đánh giá chứng cứ có
đúng đắn, khách quan và tồn diện hay khơng phụ thuộc vào việc cung cấp, thu thập
chứng cứ có đầy đủ, chính xác và đúng đắn pháp luật hay không. Để giải quyết

đúng đắn vụ án dân sự thì Tồ án phúc thẩm phải xác định xem trong vụ án dân sự
phải chứng minh, làm rõ những sự kiện, tình tiết nào, các chứng cứ, tài liệu đương
sự và những người tham gia tố tụng cung cấp có đủ để giải quyết vụ án dân sự hay
chưa.

8

Theo Điều 47 Sắc lệnh số 13 Cách tổ chức ngạch Toà án và ngạch Thẩm phán


14

Nước ta có đặc thù là nước có nền kinh tế đang phát triển, mặt bằng về kinh
tế của người dân nói chung cịn thấp, hiểu biết và sự tiếp cận pháp luật chưa cao nên
nếu đương sự tự mình thu thập tồn bộ chứng cứ thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn, đặc
biệt đối với những chứng cứ, tài liệu do cơ quan nhà nước quản lý. Đối với đương
sự ở những vùng nơng thơn và miền núi thì điều này càng trở nên phức tạp bởi họ
khơng có điều kiện mời luật sư để bảo vệ quyền lợi cho mình, khi có tranh chấp dân
sự xảy ra, họ khơng biết phải có các chứng cứ, tài liệu gì để bảo vệ quyền lợi của
mình, tìm kiếm các chứng cứ đó ở đâu, để cung cấp cho Tồ án, quyền và lợi ích
hợp pháp của họ thường bị ảnh hưởng. Trong khi đó, điều kiện phát triển kinh tế xã
hội của Việt Nam chưa cho phép chúng ta quy định việc tham gia tố tụng của luật
sư là bắt buộc, nên nếu quy định nghĩa vụ thu thập chứng cứ hồn tồn thuộc về
đương sự có thể dẫn đến tình trạng đương sự khơng có khả năng thu thập chứng cứ
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, hoạt động thu thập chứng cứ của Tồ án phúc thẩm trong vụ án dân
sự có vai trò hỗ trợ và giúp đương sự trong việc định hướng các nguồn chứng cứ;
thu thập những chứng cứ mà đương sự khơng có khả năng thu thập. Đương sự có
quyền u cầu Tồ án thu thập chứng cứ khi có căn cứ chứng minh mình khơng thể
tự thu thập được như yêu cầu Toà án phúc thẩm thu thập chứng cứ. Căn cứ theo yêu

cầu của đương sự Toà án phúc thẩm ra các quyết định như trưng cầu giám định,
định giá tài sản, yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức giao nộp chứng cứ…
Toà án Việt Nam ngoài nhiệm vụ xét xử những vụ án dân sự theo quy định
của pháp luật thì trong phạm vi chức năng của mình, Tồ án có nhiệm vụ bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân. Hơn nữa, đặc thù của tố tụng dân sự là quyền
của bên này thường tương ứng với nghĩa vụ của bên kia, lợi ích của các bên đương
sự thường đối lập nhau, dẫn đến trường hợp bên nguyên đơn cung cấp chứng cứ gây
bất lợi cho bị đơn và ngược lại, hành vi này sẽ làm sai lệch một vụ án nếu Tồ án
khơng cơng tâm, khơng có các biện pháp thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ
chính xác. Chính vì vậy, hoạt động thu thập chứng cứ của Tồ án cịn giữ vai trị
bảo vệ lẽ phải, thực hiện vai trò là cơ quan bảo vệ công lý.
1.4. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án phúc thẩm trong q trình
giải quyết vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự của một số nước
Qua nghiên cứu, so sánh hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phúc thẩm
trong giải quyết vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự của một số nước, tác giả
nhận thấy khả năng và điều kiện của mình có giới hạn, do đó tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu, so sánh pháp luật tố tụng dân sự của một số quốc gia như: pháp luật tố
tụng dân sự của Liên bang Nga, pháp luật tố tụng dân sự của Cộng hòa Pháp, pháp
luật tố tụng dân sự Cộng hòa Liên bang Đức. Bởi vì, hệ thống pháp luật tố tụng dân


15

sự của các quốc gia này có cùng nguyên tắc tố tụng, tranh tụng, xét xử tương tự như
pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam.
1.1.1 Theo pháp luật của Liên bang Nga
Bộ luật Tố tụng dân sự của Liên bang Nga được Quốc hội (Duma) thông qua
ngày 23/10/2002 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/02/2003 (sau đây gọi là Bộ luật

tố tụng dân sự Liên bang Nga). Bộ luật này được ban hành để thay thế Bộ luật Tố
tụng dân sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga năm 19649. Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2003 của Liên bang Nga có cơ cấu hoàn chỉnh với 7 phần, 47
chương, 446 điều. Sau một thời gian dài áp dụng Bộ luật Tố tụng dân sự năm 1964
của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga, các nhà lập pháp Liên bang
Nga đã nghiên cứu, phân tích, đánh giá, tổng kết và đưa ra nhiều cải tiến phù hợp
với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong giai đoạn lịch sử mới.
Ngoài sự thay đổi về số lượng như trong cơ cấu của Bộ luật thể hiện, phải nói đến
sự thay đổi về chất lượng, những nội dung mới được bổ sung hoàn toàn hoặc sửa
đổi phân lớn. Đó là những quy định về thủ tục rút gọn, quy định về thủ tục giải
quyết yêu cầu cơng nhận văn bản qui phạm pháp luật khơng có hiệu lực toàn bộ
hoặc một phần, qui định về thủ tục giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền tham gia trưng
cầu dân ý của công dân Liên bang Nga, quy định về thủ tục nhận con nuôi, quy định
về hạn chế hoặc tước quyền của người chưa thành niên từ 14- 18 tuổi trong việc tự
định đoạt thu nhập của mình, quy định về tuyên bố người chưa thành niên có năng
lực hành vi đầy đủ, bổ sung một số điểm về thủ tục ở cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm
và thủ tục thi hành bản án, quyết định của Tòa án…
Theo bộ luật tố tụng dân sự Liên bang Nga trong trường hợp đương sự đã
dùng mọi biện pháp mà khơng thu thập chứng cứ được thì Tồ án có thể giúp các
đương sự thu thập chứng cứ bằng cách yêu cầu các cá nhân cơ quan tổ chức đang
lưu giữ chứng cứ cung cấp chứng cứ cho đương sự với điều kiện đương sự phải
cung cấp đúng tên của cá nhân cơ quan, tổ chức và địa điểm lưu giữ chứng cứ cần
thu thập.
Về chứng cứ và chứng minh, được quy định tại chương VI, có 33 điều, từ điều
55 đến điều 87, quy định về chứng cứ và chứng minh, cụ thể như nghĩa vụ chứng
minh, các loại chứng cứ, thủ tục nhập, bảo toàn, đánh giá chứng cứ… Theo quy
định về chứng cứ của Bộ luật tố tụng dân sự 2003, “Chứng cứ được thu thập nhưng
vi phạm pháp luật khơng có giá trị pháp lý và không thể được sử dụng làm căn cứ
để giải quyết vụ án"10. Tòa án tại nước Nga giữ vai trò tiếp nhận, xem xét, đánh giá
chứng cứ “Tòa án quyết định những tình tiết nào có ý nghĩa đối với vụ án, bên nào


9

Là bộ luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/1064.
Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung, Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga, Nxb Tư pháp, Hà Nội
2005, khoản 2, Điều 55, tr.80.
10


16

phải có nghĩa vụ chứng minh những tình tiết nào đó và những tình tiết nào phải đưa
ra tranh luận, xem xét mặc dù các bên có thẻ khơng viện dẫn đến chúng”11.
Về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án tại nước Nga, cũng tương đồng
với những qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam. Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2003 của Liên bang Nga qui định “Tịa án có quyền u cầu những người tham
gia tố tụng xuất trình thêm chứng cứ”12. Tịa án cũng có quyền thu thập chứng cứ,
tuy nhiên cũng chỉ hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ trong những trường hợp mà
đương sự khơng thể tự mình thu thập dược, cụ thể là “Trong những trường hợp
những người tham gia tố tụng gặp khó khăn trong việc xuất trình chứng cứ, theo
u cầu của họ, Tịa án có thể giúp đỡ trong việc thu thập và yêu cầu cung cấp
chứng cứ”13.
Những biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án theo qui định của Bộ luật tố
tụng dân sự Liên bang Nga cũng khá phong phú, và có nhiều biện pháp tương tự
như thủ tục tố tụng dân sự của Việt Nam, chẳng hạn như: Xem xét và nghiên cứu
chứng cứ tại chổ: “Tịa án có thể xem xét và nghiên cứu thư chứng hoặc vật chứng
tại nơi bảo quản hoặc nơi lưu giữ chứng cứ nếu giao, nộp chúng tại Tịa án gặp khó
khăn hoặc khơng thể thực hiện được”14; Ủy thác thu thập chứng cứ: “Trong trường
hợp chứng cứ cần thu thập nằm ở những thành phố khác hoặc quận khác, Tòa án
ủy thác cho Tòa án nơi đó thực hiện những hành vi tố tụng nhất định”15; Trưng cầu

giám định: “Trong trường hợp phát sinh vấn đề cần kiến thức chuyên môn trong
lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, thủ cơng thì Tịa án trưng cầu giám định. Việc giám
định có thể do cơ quan giám định tư pháp, một hoặc nhiều người giám định khác
thực hiện”16. Ngoài ra, trong tố tụng dân sự Liên bang Nga cịn có những quy định
cụ thể hơn so với tố tụng dân sự Việt Nam như quy định về bảo tồn chứng cứ:
“Trong trường hợp có lý do cho rằng chứng cứ khó bảo tồn, những người tham
gia tố tụng có thể u cầu Tịa án áp dụng biện pháp bảo toàn chứng cứ”17; hay quy
định về xem xét và nghiên cứu ngay tại nơi lưu giữu hoặc nơi Tịa án quyết định,
sau đó vật chứng được trả lại cho người xuất trình hoặc chuyển cho tổ chức để sử
dụng vật chứng theo đúng mục đích, và trong trường hợp này người nắm giữ vật
chứng được hoàn trả vật chứng cùng loại, cùng chất lượng hoặc nhận lại giá trị bằng
tiền tương đương giá trị vật chứng”18. Những qui định trên cho thấy, pháp luật tố
tụng dân sự của Liên bang Nga có nhiều nét tương tự với pháp luật Tố tụng dân sự
Việt Nam, nhưng có nhiều quy định chi tiết và phong phú hơn.
11

Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung, tlđd 43, khoản 2, Điều 56, tr.80.
Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung, tlđd 43, khoản 1, Điều 57, tr.80.
13
Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung, tlđd 43, khoản 1, Điều 57, tr.80.
14
Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung, tlđd 43, Điều 58, tr.81
15
Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung, tlđd 43, Điều 62, tr.82
16
Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung, tlđd 43, Điều 79, tr.90
17
Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung, tlđd 43, Điều 64, tr.83
18
Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung, tlđd 43, Điều 75, tr.89

12


17

Trong Bộ luật tố tụng dân sự Liên Bang Nga quy định cụ thể chế tài xử phạt
đối với những trường hợp người được yêu cầu cung cấp chứng cứ khơng cung cấp
chứng mà khơng có lý do chính đáng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 57 Bộ luật tố
tụng dân sự Liên Bang Nga thì “những người có chức vụ hoặc cơng dân khơng có
khả năng cung cấp chứng cứ do Tồ án u cầu hoặc khơng thể cung cấp chứng cứ
trong thời hạn Toà án ấn định có nghĩa vụ trong vịng 5 ngày kể từ ngày nhận được
u cầu phải thơng báo cho Tồ án việc đó và phải nêu rõ lý do. Trong trường hợp
khơng thơng báo cho Tịa án hoặc khơng thực hiện u cầu của Tịa án mà khơng có
lý do chính đáng thì những người có chức vụ bị phạt tiền đến mức 10 lần lương tối
thiểu, công dân bị phạt tiền đến mức 5 lần lương tối thiểu, nếu không phải là người
tham gia tố tụng”19.
1.4.2. Theo pháp luật của Cộng hịa Pháp
Bộ luật tố tụng dân sự Cộng hồ Pháp quy định vai trị của Tồ án trong việc
thu thập chứng cứ là rất lớn. Điều 10, mục 4, chương 1, thiên I, quyển thứ nhất quy
định: “Thẩm phán có quyền tự mình quyết định tất cả các biện pháp thẩm cứu mà
pháp luật cho phép”. Điều 27 chương 2, thiên I, quyển thứ nhất cũng quy định “
Thẩm phán tự mình tiến hành tất cả những biện pháp thẩm cứu cần thiết, Thẩm
phán có quyền nghe lời trình bày của những người có thể làm sáng tỏ vụ việc cũng
như những người có quyền lợi liên quan bởi quyết định của thẩm phán mà không bị
lệ thuộc vào bất kì thể thức nào”.
Bộ luật tố tụng dân sự Cộng hồ Pháp cịn quy định thẩm phán có quyền điều
tra và dành 1 mục riêng với 27 điều quy định cụ thể về hoạt động này. Qua nghiên
cứu cho thấy hoạt động tố tụng theo Bộ luật dân sự pháp, Thẩm phán được quyền
chủ động trong hoạt động thu thập chứng cứ để chứng minh, phục vụ cho việc giải
quyết vụ án. Pháp luật cũng có chế tài đối với việc các bên khơng thực hiện nghĩa

vụ giúp đỡ Tồ án thu thập chứng cứ. Điều 11, mục 4, chương 1, thiên I, quy định
“các bên đương sự có nghĩa vụ giúp đỡ Thẩm phán thực hiện các biện pháp thẩm
cứu và phải chịu mọi hậu quả trong trường hợp không giúp đỡ hoặc từ chối giúp
đỡ”.
Trong tố tụng dân sự Pháp, Tòa án (mà chủ yếu là Thẩm phán) cũng có những
thẩm quyền rất rộng trong hoạt động thu thập chứng cứ khi tiến hành giải quyết vụ
án. “Thẩm phán có quyền tự mình quyết định tất cả các biện pháp thẩm cứu mà
pháp luật cho phép”20 ; hoặc “Thẩm phán tiến hành điều tra có thể tự mình hoặc
theo yêu cầu của đương sự, lấy lời khai của bất kỳ người nào xét thấy cần thiết để
xác định rõ sự thật”21.
19

BLTTDS Liên Bang Nga 2002, Nxb Tư pháp H.2005, Tr 70.
Nhà pháp luật Việt – Pháp (1998), Bộ luật Tố tụng dân sự của nước cộng hòa Pháp, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội 1998, Điều 10, tr.9
21
Nhà pháp luật Việt – Pháp, tlđd 43, Điều 218, tr.54
20


18

Đối với chứng cứ do bên đương sự khác quản lý, thì luật qui định cho Thẩm
phán được quyền yêu cầu họ cung cấp: “Nếu một bên đương sự đang nắm giữ một
yếu tố cấu thành chứng cứ thì theo yêu cầu của bên kia, Thẩm phán có thể ra lệnh
cho họ cung cấp yếu tố cấu thành chứng cứ đó, trong trường hợp cần thiết có thể áp
dụng biện pháp phạt tiền để cưỡng chế”22. Trong trường hợp chứng cứ do người
thứ ba quản lý, Thẩm phán cũng có quyền: “Theo đề nghị của một trong các bên
đương sự, Thẩm phán có thể yêu cầu hoặc quyết định buộc người thứ ba đang nắm
giữ những tài liệu liên quan phải xuất trình tất cả các tài liệu, nếu khơng có trở

ngại chính đáng. Trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng biện pháp phạt tiền để
cưỡng chế”23. Và “Trong quá trình tố tụng, một bên đương sự dựa vào một công
chứng thư hoặc tư chứng thư mà họ không tham gia hoặc một tài liệu do người thứ
ba đang giữ, họ có thể yêu cầu Thẩm phán thụ lý vụ kiện ra lệnh cấp cho họ tài liệu
hoặc bản sao tài liệu ấy”24.
Dù cho có thẩm quyền thu thập chứng cứ rộng rãi, nhưng cũng tương tự như
Tố tụng dân sự Việt Nam hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án Pháp cũng chỉ
mang tính chất hổ trợ trong những trường hợp đương sự không thể tự mình cung
cấp chứng cứ, chứ khơng thể thay thế nghĩa vụ của các bên đương sự. Tòa án “chỉ
được quyết định tiến hành biện pháp thẩm cứu đối với một sự việc mà bên đương sự
nêu ra nhưng khơng có đầy đủ các yếu tố cần thiết để chứng minh sự việc đó.
Khơng một trường hợp nào được ra lệnh thực hiện biện pháp thẩm cứu để thay thế
sự thiếu trách nhiệm của đương sự trong việc quản lý chứng cứ”25.
Về thể thức tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng
dân sự Pháp cũng có những quy định rất linh động cho Thẩm phán như: “Thẩm
phán tự mình tiến hành tất cả những biện pháp thẩm cứu cần thiết. Thẩm phán có
quyền nghe lời trình bày của những người có thể làm sáng tỏ vụ việc cũng như
những người có quyền lợi liên quan bởi quyết định của Thẩm phán mà không lệ
thuộc vào bất kỳ thể thức nào”26, hoặc “nếu xét thấy yêu cầu là chính đáng, Thẩm
phán sẽ ra lệnh cấp bản chính, bản sao hoặc trích tài liệu được yêu cầu tùy từng
trường hợp và với những bảo đảm do Thẩm phán ấn định, nếu khơng tn theo có
thể sẽ bị phạt tiền cưỡng chế thi hành nếu cần”27.
Như vậy, chúng ta thấy rằng, trong tố tụng dân sự của cộng hòa Pháp, hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án cũng có điểm tương đồng với pháp luật tố tụng
dân sự của Việt Nam như là chỉ thực hiện khi đương sự khơng tự mình thu thập
chứng cứ được. Tuy nhiên, luật quy định cho Tịa án có thẩm quyền rộng hơn qui
22

Nhà pháp luật Việt – Pháp, tlđd 43, Điều 11, tr.9
Nhà pháp luật Việt – Pháp, tlđd 43, Điều 11, tr.9

24
Nhà pháp luật Việt – Pháp 1998, tlđd 43, Điều 138, tr.38
25
Nhà pháp luật Việt – Pháp 1998, tlđd 43, Điều 145, tr.40
26
Nhà pháp luật Việt – Pháp 1998, tlđd 43, Điều 27, tr.13
27
Nhà pháp luật Việt – Pháp 1998, tlđd 43, Điều 139, tr.38
23


19

định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trong hoạt động thu thập chứng cứ về
thẩm quyền, phạm vị thu thập và cả thủ tục thu thập chứng cứ. Ngồi nguồn pháp
luật hành văn, án lệ của Tịa án Pháp cũng là nguồn bổ sung phong phú cho tố tụng
dân sự trong đó có hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án Pháp trong q trình
Thẩm phán giải quyết vụ kiện dân sự.
Bộ luật tố tụng dân sự Cộng hoà Pháp quy định, nếu trong bên đương sự nắm
giữ một yếu tố cấu thành chứng cứ thể theo yêu cầu bên kia Thẩm phán có thể ra
lệnh cho họ cung cấp yếu tố cấu thành chứng cứ đó trong tố tụng cần thiết có thể áp
dụng biện pháp phạt tiền cưỡng chế. Theo đề nghị của một trong các bên đương sự,
Thẩm phán có thể yêu cầu hoặc giả định buộc người thứ ba đang nắm giữ những tài
liệu liên quan phải xét trình tất cả các tài liệu nếu khơng có trở ngại chính đáng.
Trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng biện pháp phạt tiền để cưỡng chế như với
trường hợp trên28.
1.4.3 Theo pháp luật của Cộng hòa liên bang Đức
Trong tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Liên bang Đức, việc thu thập chứng
cứ của Tòa án cấp sơ thẩm cũng chỉ được tiến hành trong một số trường hợp hạn
chế. Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hòa Liên bang Đức quy định “Việc thu thập

chứng cứ được thực hiện trước Tòa án xét xử. Chỉ trong các trường hợp cụ thể mà
luật này qui định việc thu thập chứng cứ mới được giao cho một thành viên của Tòa
xét xử hoặc một Tịa khác thực hiện”29. Về hình thức, “nếu việc thu thập chứng cứ
cần có một thủ tục đặc biệt, thì sẽ có một quyết định về chứng cứ”30. Bộ luật tố tụng
dân sự Cộng hòa Liên bang Đức qui định “Tịa án có thể ra một quyết định về
chứng cứ trước thủ tục tranh tụng miệng”31, quyết định này có thể được thực hiện
trước khi có thủ tục tranh tụng miệng nếu trong đó qui định: “(1) thu thập chứng cứ
được thực hiện trước Thẩm phán theo ủy quyền hoặc Thẩm phán theo yêu cầu
(Thẩm phán điều tra); (2) Yêu cầu cơ quan chức năng nhà nước cung cấp thơng tin;
(3) u cầu có văn bản trả lời câu hỏi về chứng cứ; (4) Trưng cầu kết quả giám
định của giám định viên; (5) Xem xét tận nơi”32. Hoạt động thu thập chứng cứ của
Tòa án Cộng hòa liên bang Đức được giao cho một Thẩm phán của Tòa xét xử
(thẩm phán được ủy quyền) hoặc Thẩm phán của Tòa khác (Thẩm phán theo yêu
cầu) thực hiện.
Thẩm phán được ủy quyền thu thập chứng cứ trong trường hợp như sau: “(1)
Nếu việc thu thập chứng cứ sẽ do một thành viên của Tịa xét xử thực hiện thì Thẩm
phán chủ tọa công bố quyết định về chứng cứ sẽ xác định luôn Thẩm phán được bủy
quyền và thời gian thu thập chứng cứ; (2) Nếu khơng có quy định về thời gian, thì
28

BLTTDS Cộng hồ Pháp, Nxb
Điều 355 BLTTDS Cộng hòa Liên bang Đức.
30
Điều 355 BLTTDS Cộng hòa Liên bang Đức.
31
Điều 358 BLTTDS Cộng hòa Liên bang Đức.
32
Điều 358a BLTTDS Cộng hòa Liên bang Đức.
29



×