Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (859.52 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG MINH CHIẾN

HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Hà

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện độc lập và dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ luật học Lê Thị Hà.
Các kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Trong quá trình thực hiện, Luận văn có tham khảo một số chuyên đề, các bài
viết có liên quan nhưng được trích dẫn nguyên văn, nguồn tài liệu trích dẫn được nêu
ra tại danh mục tài liệu tham khảo ở phần cuối Luận văn này.
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN


HƯỚNG DẪN

Tác giả

Đặng Minh Chiến
Lớp cao học luật khóa 2014 – 2016
Trường đại học Luật Hà Nội


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT.

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng Dân sự

TTDS

: Tố tụng dân sự

HĐTP

: Hội đồng thẩm phán

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TAND

: Tòa án nhân dân


VKS

: Viện Kiểm sát

UBND

: Ủy ban nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

PLTTGQCVAKT

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

PLTTGQCVADS

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự


~MỤC LỤC~
---o0o--PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: ................................................................................................. 4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ........................................... 4
1.1. Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự ................................... 4
1.1.1. Khái niệm chứng minh và chứng cứ...................................................... 4
1.2.2. Hoạt động cung cấp chứng cứ .............................................................. 5

1.2.3. Quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong việc cung cấp chứng cứ và chứng
minh ............................................................................................................... 9
1.2. Vấn đề thu thập chứng cứ của Luật sư trong tố tụng dân sự. .......... 11
1.2.1. Luật sư và Nghề Luật sư ..................................................................... 11
1.2.2. Hoạt động thu thập chứng cứ và biện pháp thu thập chứng cứ .......... 15
1.2.3. Đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Luật
sư ................................................................................................................. 17
CHƯƠNG 2: ............................................................................................... 22
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HOẠT ĐỘNG
THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
..................................................................................................................... 22
2.1. Các quy định chung về hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư... 22
2.1.1. Quy định về nguyên tắc liên quan đến hoạt động thu thập chứng cứ của
Luật sư ......................................................................................................... 22
2.1.2. Quy định chung về các biện pháp thu thập chứng cứ của Luật sư....... 24
2.2. Hoạt động thu thập chứng cứ trước khi Tòa án thụ lý yêu cầu ........ 25
2.2.1. Thu thập thông tin, tài liệu từ khách hàng .......................................... 25
2.2.2. Hướng dẫn đương sự viết đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu độc
lập ................................................................................................................ 30
2.3. Hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử ........ 33


2.3.1. Hướng dẫn, tư vấn cho đương sự thu thập chứng cứ .......................... 33
2.3.2. Luật sư thu thập chứng cứ từ hồ sơ vụ án ........................................... 39
2.3.3. Hoạt động thu thập chứng cứ qua việc áp dụng các biện pháp thu thập
chứng cứ ...................................................................................................... 41
2.4. Hoạt động thu thập chứng cứ tại phiên tòa........................................ 52
CHƯƠNG 3: ............................................................................................... 55
THỰC TIỄN THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ ............ 55

3.1. Thực tiễn áp dụng các kỹ năng, biện pháp, và quy định của pháp luật
tố tụng dân sự về hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư qua một số
vụ án. ........................................................................................................... 55
3.2. So sánh hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư với các chủ thể
khác ............................................................................................................. 66
3.2.1. Hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư và của các cơ quan tiến hành
tố tụng. ......................................................................................................... 66
3.2.2. Hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư và của đương sự ............... 69
3.3. Đánh giá quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 về hoạt
động thu thập chứng cứ của Luật sư ......................................................... 70
3.4. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự và
một số giải pháp khác để nâng cao hiệu quả của hoạt động thu thập
chứng cứ của Luật sư trong Tố tụng Dân sự. ........................................... 78
KẾT LUẬN ................................................................................................. 86


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực
hiện chủ trương cải cách tư pháp, trong đó, việc tăng cường vai trò của Luật sư
trong hoạt động tố tụng dân sự là điều hết sức cần thiết. Với sự am hiểu pháp luật
cũng như các kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp của mình, sự tham gia của Luật
sư góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, giúp Tòa án đưa ra
phán quyết công bằng, đúng pháp luật.
Nhằm bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, pháp
luật tố tụng dân sự đã ghi nhận quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong
quá trình tham gia tố tụng. Do vậy, việc thu thập chứng cứ nói chung và việc thu
thập chứng cứ của Luật sư nói riêng góp phần rất lớn vào việc làm sáng tỏ các tình

tiết khách quan của vụ việc dân sự, đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ
việc dân sự. Kết quả của hoạt động thu thập chứng cứ ảnh hưởng trực tiếp đến sự
đúng đắn trong các phán quyết của Tòa án trên cơ sở đánh giá chứng cứ một cách
khách quan và toàn diện.
Tuy nhiên, hiện nay việc thu thập chứng cứ của đương sự, Luật sư vẫn còn
nhiều hạn chế, qua thực tiễn của hoạt động tố tụng dân sự cũng như các quy định
của pháp luật hiện hành thì hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án vẫn đóng một
vai trò chủ yếu trong giải quyết vụ việc dân sự. Các quy định của pháp luật hiện
hành về hoạt động thu thập chứng cứ của đương sự, Luật sư vẫn tồn tại nhiều hạn
chế, chưa thực sự hợp lý, thiếu tính rõ ràng và tồn tại nhiều bất cập trong thực tiễn
áp dụng. Yêu cầu đặt ra là cần sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định của pháp
luật nhằm nâng cao hơn nữa trách nhiệm, vai trò của đương sự cũng như của Luật
sư trong hoạt động thu thập chứng cứ. Đồng thời, để tăng cường hiệu quả của việc
thu thập chứng cứ cũng đòi hỏi đội ngũ Luật sư cần phải nâng cao trình độ chuyên
môn cũng như các kỹ năng nghiệp vụ chuyên sâu khi tiến hành thu thập chứng cứ.
Do vậy, việc nghiên cứu một đề tài về hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư
trong tố tụng dân sự là hết sức cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư trong tố tụng dân
sự là rất quan trọng, không chỉ có ý nghĩa trong việc cải cách tư pháp mà còn có ý
nghĩa rất lớn với chính đội ngũ Luật sư. Tuy nhiên, việc nghiên cứu mới chỉ dừng


2

lại ở một số công trình khoa học nghiên cứu trên phạm vi rộng về chứng cứ và các
hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự hoặc có liên quan về vấn đề vai trò của
Luật sư trong tố tụng dân sự. Việc nghiên cứu hoạt động thu thập chứng cứ dưới
góc độ là một gia đoạn của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự, thì tiêu biểu
như đề tài luận văn thạc sĩ năm 2002 “Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ

trong Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Hằng, hay đề tài khóa
luận tốt nghiệp năm 2010 “Thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố
tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Nhung. Hoặc có đề cập đến với tư cách là một
hoạt động của Luật sư trong tố tụng dân sự như đề tài luận văn thạc sĩ năm 2004
“Vị trí, vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự” của tác giả Trần Phương Thảo; đề
tài khóa luận tốt nghiệp năm 2011 “Luật sư trong tố tụng dân sự” của tác giả
Nguyễn Văn Minh. Ngoài ra còn có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành
có liên quan đến hoạt động thu thập chứng cứ như bài viết “Về sự tham gia của
Luật sư trong tố tụng dân sự” của tác giả Đinh Văn Thanh đăng trên tạp chí Dân
chủ và Pháp luật số 4 năm 2004; bài viết “Luật sư với việc thu thập chứng cứ và
hòa giải trong tố tụng dân sự” của tác giả Hoàng Thu Yến đăng trên tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 9 năm 2007.
Mặc dù vậy, cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu độc lập
nào nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu và toàn diện về hoạt động thu
thập chứng cứ của Luật sư trong tố tụng dân sự.
3. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
* Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận cũng như
thực tiễn của hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư trong tố tụng dân sự. Ngoài
ra việc nghiên cứ đề tài cũng so sánh, chỉ ra những điểm bất cập trong quy định của
pháp luật cũng như những hạn chế trong thực tiễn áp dụng, tìm ra các giải pháp
hoàn thiện hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư trong tố tụng dân sự. Từ đó góp
phần hiểu rõ được phần nào đó trách nhiệm chứng minh của đương sự cũng như
một phần hoạt động của Luật sư (hoạt động bổ trợ tư pháp) trong tố tụng dân sự.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là
hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự
hiện hành, và thực tiễn áp dụng. Với mục tiêu nghiên cứu nên trên, trong khuôn khổ
luận văn thạc sĩ, việc nghiên cứu chủ yếu tập trung trong giới hạn những vấn đề sau:
+ Nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động thu thập chứng cứ của
Luật sư trong tố tụng dân sự;



3

+ Nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy đủ và toàn diện các hoạt động thu thập
chứng cứ của Luật sư theo pháp luật tố tụng dân sự;
+ Nghiên cứu thực tiễn thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư trong tố
tụng dân sự và kiến nghị.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, cũng như chủ trương, chính sách về việc
xây dựng pháp luật tố tụng dân sự. Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên
ngành được sử dụng để hoàn thành luận văn bao gồm: phương pháp lịch sử, phân
tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn có ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư trong
tố tụng dân sự.
Chương 2: Các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động thu thập chứng cứ
của Luật sư trong tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư trong tố
tụng dân sự và kiến nghị.


4

CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA
LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

Luật sư có thể tham gia tố tụng dân sự với tư cách là người đại diện của
đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và cùng với
thân chủ trở thành một bên trong quan hệ tố tụng dân sự. Trong tố tụng dân sự để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đương sự có quyền, nghĩa vụ chứng
minh, và để có cơ sở chứng minh cho yêu cầu của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của
đương sự khác đòi hỏi đương sự, Luật sư của đương sự phải cung cấp chứng cứ cho
Tòa án. Chứng cứ là căn cứ quan trọng nhất để xác định sự thật khách quan của vụ
án, là cơ sở để Tòa án đưa ra phán quyết công bằng, hợp tình, hợp lý. Vì thế, để
thực hiện tốt hoạt động chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ,
Luật sư cũng có quyền, nghĩa vụ thu thập và cung cấp chứng cứ cho Tòa án.
1.1.1. Khái niệm chứng minh và chứng cứ
Theo từ điển Tiếng Việt thì cụm từ “chứng minh” dùng để chỉ dạng hoạt
động phổ biến của con người trong đời thường nhằm “làm cho thấy rõ là có thật, là
đúng bằng sự việc hoặc lý lẽ”1. Trong TTDS chứng minh cũng có nghĩa là một
dạng hoạt động, nhưng là hoạt động tố tụng, bằng việc sử dụng chứng cứ nhằm làm
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc dân sự giúp Tòa án có thể đưa ra được một
phán quyết công bằng, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
Đối với các đương sự, chứng minh là phương tiện chủ yếu để bảo vệ quyền và lợi
ích của mình. Do là một hoạt động mang tính chất pháp lý nên việc chứng minh
trong tố tụng dân sự được điều chỉnh và chi phối chặt chẽ bởi các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự và pháp luật có liên quan. Hoạt động chứng minh trong tố tụng
dân sự là một quá trình gồm hoạt động của Tòa án, viện kiểm sát và những người
tham gia tố tụng trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
làm cơ sở cho yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình và phán quyết của Tòa án trên cơ
sở quy định của pháp luật.
Khái niệm chứng cứ được luật tố tụng dân sự của nhiều nước đề cập đến. Cá
biệt còn có một số nước xây dựng luật về chứng cứ thể hiện sự quan trọng của vấn
đề này. Điều 401 Luật chứng cứ của Mỹ định nghĩa “Chứng cứ là những gì mà hàm
1


Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng, tr. 192.


5

chứa trong nó sự tồn tại của bất cứ một sự thực nào mà bản thân sự hàm chứa đó
ảnh hưởng tới việc xác định được một hành động hơn hoặc kém hơn”. Luật tố tụng
dân sự Nhật Bản định nghĩa: “Chứng cứ là một tư liệu thông qua đó một tình tiết
được Tòa án công nhận và là một tư liệu, cơ sở thông qua đó Tòa án được thuyết
phục là một tình tiết có tồn tại hay không?”2. Tại Việt Nam, Khái niệm chứng cứ
lần đầu tiên được ghi nhận tương đối đầy đủ tại Điều 81 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2004:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được
theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác
định yêu cầu hay phản đối của đương sự là có căn cứ hợp pháp hay không cũng
như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
Tiếp theo đó Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về khái niệm chứng cứ:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng
hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và
được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án
cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp
pháp.3
Tóm lại, hoạt động chứng minh là hoạt động thông qua việc sử dụng chứng
cứ để tái hiện lại sự thật khách quan của vụ án. Như vậy, chứng cứ là vấn đề mấu
chốt trong các tranh chấp dân sự, không có chứng cứ thì cũng không có hoạt động
chứng minh và đương sự không thể bảo vệ được mình, Luật sư cũng không có căn
cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ tại tòa. Việc cung cấp, sử dụng
chứng cứ đúng đắn hợp lý góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự.
1.2.2. Hoạt động cung cấp chứng cứ
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình nhận thức diễn
ra xuyên suốt vụ án dân sự, được bắt đầu khi có quyết định thụ lý đơn khởi kiện cho
đến khi Tòa án ra phán quyết. Các đương sự, cá nhân, cơ quan tổ chức đang quản

2
“Đương sự - Chủ thể đầu tiên và quan trọng nhất trong tố tụng dân sự” tại địa chỉ:
/>3
Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015


6

lý, lưu giữ chứng cứ có nghĩa vụ giao nộp cho Tòa án các chứng cứ. Việc cung cấp
chứng cứ có thể được tiến hành ngay từ khi khởi kiện và trong cả quá trình Tòa án
giải quyết vụ việc dân sự. Luật sư khi tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng có trách nhiệm cung cấp chứng cứ
theo Khoản 2 Điều 76 BLTTDS năm 2015. Còn với tư cách là người đại diện của
đương sự Luật sư có trách nhiệm cung cấp chứng cứ theo Điều 86 BLTTDS năm
2015.
Về nguyên tắc, các chứng cứ sẽ được lần lượt cung cấp cho Tòa án để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Ngay từ khi nộp đơn khởi kiện, theo
quy định tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì người khởi kiện đã có
trách nhiệm nộp kèm theo đơn khởi kiện các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho
yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp. Trách nhiệm cung cấp chứng
cứ cho Tòa án đã được quy định ngay từ khi đương sự tiến hành nộp đơn khởi kiện.
Cung cấp chứng cứ chính là hoạt động giao nộp chứng cứ vào hồ sơ vụ án, chứng
cứ nhiều hay ít sẽ giới hạn việc tranh luận giữa các bên, chứng cứ càng cụ thể, chính
xác bao nhiêu thì việc tranh luận và vai trò phân xử của Tòa án càng đơn giản bấy

nhiêu. Tuy nhiên, do bản chất việc cung cấp chứng cứ là không hề đơn giản ngay cả
khi đương sự có sự tham gia hỗ trợ của Luật sư. Bởi việc cung cấp chứng cứ còn
phụ thuộc vào yếu tố khách quan là quá trình thu thập chứng cứ cũng như yếu tố
chủ quan là mục đích sử dụng chứng cứ trong từng giai đoạn của quá trình tố tụng
dân sự. Do vậy, với việc nộp đơn khởi kiện pháp luật chỉ quy định đương sự cung
cấp kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ.
Các tài liệu, chứng cứ khác người khởi kiện phải tự mình bổ sung hoặc bổ sung theo
yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án (Điều 6 Nghị Quyết
05/2012/NQ-HĐTP). Tại phiên tòa, các đương sự cũng có quyền xuất trình bổ sung
chứng cứ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình (Khoản 3 Điều 248 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015).
Để bảo đảm quyền chứng minh của Luật sư, pháp luật Việt Nam không giới
hạn thời điểm cung cấp chứng cứ. Luật sư, đương sự có quyền cung cấp chứng cứ
từ giai đoạn nộp đơn khởi kiện cho tới giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm (Khoản 1
Điều 199 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015), giai đoạn xét sử sơ thẩm (Khoản 3
Điều 248 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015), xét xử phúc thẩm (khoản 3 Điều 302
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Điều này đồng nghĩa với việc, hoạt động thu
thập chứng cứ của Luật sư cũng được diễn ra ngay từ trước khi nộp đơn khởi kiện


7

cho đến khi xét xử phúc thẩm. Sau khi đã thu thập được các chứng cứ cần thiết Luật
sư cần tự mình hoặc hướng dẫn các đương sự cung cấp các chứng cứ cho Tòa án.
Tuy vậy, cung cấp chứng cứ nào vào thời điểm nào thì có lợi nhất là một vấn đề khó
khăn và là quyết định có tính chất chiến lược. Có những chứng cứ cần thiết phải
được cung cấp ngay cho Tòa án để nội dung của chứng cứ đó được chuyển tải cho
phía đương sự đối lập. Tuy vậy, có những chứng cứ nếu cung cấp ngay cho Tòa án
và phía đương sự khác biết được có thể gây bất lợi cho mình. Đồng thời, hiện nay
chưa có quy định nào buộc đương sự cung cấp ngay tất cả các chứng cứ đương sự

có, việc cung cấp chứng cứ hoàn toàn do đương sự chủ động. Do vậy, cần cân nhắc
kỹ cung cấp chứng cứ nào vào thời điểm nào, Luật sư sẽ đóng một vai trò rất quan
trọng trong trường hợp này. Luật sư sẽ giúp đương sự thu thập và cung cấp chứng
cứ một cách phù hợp, hiệu quả nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Để làm rõ các yêu cầu của mình và phản bác các yêu cầu của đối phương
Luật sư hướng dẫn để các đương sự chỉ cung cấp cho Tòa án các chứng cứ theo lộ
trình và mục đích đã được tính toán từ trước. Những chứng cứ chưa thực sự cần
thiết phải cho bên đối tụng biết hoặc các chứng cứ có thể gây bất lợi cho đương sự,
Luật sư nên khuyên đương sự chưa cung cấp hoặc không cung cấp cho Tòa án.
Mặt khác, với các thông tin, tài liệu đã có, Luật sư giúp đương sự phân loại
chứng cứ trước khi giao nộp cho Tòa án. Bởi lẽ, trên thực tế trong quá trình thu thập
chứng cứ sẽ có rất nhiều thông tin, tài liệu được đương sự và Luật sư thu thập, tập
hợp về. Tuy nhiên, không phải bất cứ thông tin, tài liệu nào trong đó cũng được coi
là chứng cứ và có giá trị chứng minh. Bằng kiến thức sâu rộng và trình độ hiểu biết
pháp luật cao, Luật sư sẽ giúp đương sự phân loại các thông tin, tài liệu thu thập
được dựa trên cơ sở quy định của pháp luật và sự đánh giá giá trị chứng minh của
các thông tin, tài liệu này mà Luật sư tư vấn cho đương sự cung cấp chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu của mình.
Sau khi phân loại, sắp xếp các tài liệu, chứng cứ, Luật sư tư vấn giúp đương
sự giao nộp các tài liệu, chứng cứ này theo những mục đích khác nhau. Luật sư
cũng lưu ý khách hàng khi giao nộp chứng cứ cho Tòa án cần phải được lập Biên
bản giao nhận tài liệu, chứng cứ, trong đó liệt kê đầy đủ các chứng cứ đương sự
giao nộp, và ghi rõ các tài liệu bản gốc, bản sao, thời gian giao nhận, chữ ký hoặc
điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và con dấu của Tòa án, biên
bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ án và một bản giao cho đương


8

sự nộp chứng cứ giữ để làm rõ trách nhiệm trong trường hợp thất lạc chứng cứ sau

này. Thực tiễn tham gia tố tụng cho thấy, phần lớn khi đương sự trực tiếp nộp đơn
khởi kiện đều gặp những khó khăn nhất định do đơn khởi kiện và hồ sơ kèm theo
còn nhiều thiếu sót hoặc do cán bộ Tòa án có thái độ không thiện chí khi nhận đơn.
Trong trường hợp này theo quy định tại Điều 190 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
sau khi chuẩn bị đơn khởi kiện và hồ sơ gửi kèm, Luật sư có thể hướng dẫn cho
khách hàng nộp đơn khởi kiện qua đường bưu điện hoặc bằng hình thức điện tử qua
Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Sau khi nộp đơn khởi kiện, nếu đương
sự thuộc trường hợp được miễn giảm án phí, Luật sư hướng dẫn cho đương sự làm
đơn xin miễn giảm án phí có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại
Pháp lệnh về án phí, lệ phí năm 2009. Trong trường hợp Tòa án ra thông báo sửa
đổi, bổ sung đơn khởi kiện, hoặc trả lại đơn khởi kiện, Luật sư cần xem xét lại hồ
sơ, đối chiếu với các quy định của pháp luật để giúp đương sự sửa đổi, bổ sung đơn
khởi kiện cho phù hợp. Nếu nhận thấy yêu cầu sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện hoặc
việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án không phù hợp với tình hình thực tế, không có
căn cứ pháp luật thì Luật sư giúp đương sự soạn thảo đơn khiếu nại gửi cá nhân, cơ
quan có thẩm quyền xem xét giải quyết.
Theo Điều 243; Khoản 3 Điều 248 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì tại phiên
tòa các đương sự có quyền bổ sung chứng cứ, nguyên đơn có quyền thay đổi nội
dung yêu cầu, bổ sung yêu cầu hoặc đề xuất các yêu cầu. Trong quá trình tố tụng có
thể phát sinh hoặc sáng tỏ nhiều tình tiết, sự kiện mà trước đó chưa có hoặc bị che
giấu. Đồng thời từ khi khởi kiện cho đến khi tòa án đưa vụ án ra xét xử, các bên
đương sự và Tòa án đã thu thập và bổ sung rất nhiều chứng cứ mới có thể làm thay
đổi bản chất của vụ việc hoặc tác động đến việc chứng minh yêu cầu của các bên
đương sự. Do vậy, Luật sư cần xem xét, nghiên cứu hồ sơ và tư vấn cho đương sự
thay đổi nội dung yêu cầu, bổ sung yêu cầu, hoặc đề xuất các yêu cầu sao cho phù
hợp với tình hình thực tế và chứng cứ có trong hồ sơ. Đối với các chứng cứ cung
cấp tại phiên tòa có thể là những chứng cứ mà đương sự đã có, đã thu thập được
trước đó nhưng chưa cung cấp cho Tòa án, cũng có thể là các chứng cứ mà đương
sự mới thu thập được. Việc cung cấp các chứng cứ tại phiên tòa có thể vì nhiều mục
đích khác nhau, có trường hợp đó là các chứng cứ đặc biệt cần nhấn mạnh và gây

được sự chú ý của Tòa án, Viện kiểm sát, cũng có trường hợp đó là các chứng cứ
mà khi cung cấp tại Tòa làm thay đổi cục diện vụ án giúp Tòa án nhìn nhận lại vụ
việc một cách có lợi cho khách hàng hơn.


9

Như vậy, họat động thu thập chứng cứ từ việc tiếp xúc khách hàng đóng một
vai trò quan trọng trong việc định hướng các hoạt động thu thập chứng cứ tiếp theo
và ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
nói chung. Việc thu thập chứng cứ từ khách hàng đòi hỏi Luật sư phải bảo đảm tính
chuyên nghiệp, có kỹ năng nghề nghiệp chuyên sâu, tuân thủ các quy định của pháp
luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp của mình nhằm tạo uy tín nghề nghiệp, nâng
cao vai trò, vị trí của Luật sư trong tố tụng dân sự nói riêng và trong xã hội nói
chung, góp phần quan trọng vào sự thành công trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của khách hàng.
1.2.3. Quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong việc cung cấp chứng cứ và chứng
minh
Bản chất của chứng minh trong tố tụng dân sự chính là việc cung cấp, sử
dụng chứng cứ. “Dùng chứng cứ để chứng minh không chỉ là nguyên tắc tố tụng mà
còn thể hiện sự văn minh, tính lôgic và khoa học mà con người đã đạt được trong
lĩnh vực khoa học pháp lý nói chung, khoa học xét xử nói riêng”4 . Quan điểm của
chủ nghĩa Mác LêNin nguyên tắc là kết quả cuối cùng trong sự nghiên cứu “không
phải giới tự nhiên và lịch sử loài người thích ứng với các nguyên tắc mà ngược lại,
nguyên tắc chỉ đúng khi nó phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử loài người”5. Các
nguyên tắc trong pháp luật nói chung và luật tố tụng dân sự nói riêng chỉ đúng khi
nó phù hợp với bản chất của ngành luật, với thực tế các quan hệ xã hội mà ngành
luật đó điều chỉnh.
Chương II BLTTDS năm 2015 với 23 điều quy định về các nguyên tắc của
hoạt động tố tụng dân sự. Và một trong số đó là nguyên tắc về việc cung cấp chứng

cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự “Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động
thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có
căn cứ và hợp pháp. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng
cứ, chứng minh như đương sự” (khoản 1 Điều 6 BLTTDS năm 2015). Nguyên tắc
nghĩa vụ chứng minh của đương sự là một nguyên tắc cơ bản và có tính chỉ đạo
xuyên suốt vì xuất phát từ bản chất của tố tụng dân sự là giải quyết các tranh chấp
giữa các bên trên cơ sở pháp luật, mục đích là để bảo vệ các quyền và lợi ích của
4

Hoàng Thu Yến (2006), Luật sư trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Trường đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội, tr.38;
5
Ph. Anghen, Chống Đuyrinh – NXB Sự Thật (1984), tr 56


10

mọi chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên do những hiểu biết về kiến
thức pháp luật và kinh nghiệm tham gia tố tụng của đương sự còn hạn chế, nên khi
tham gia tố tụng và đặc biệt là khi tiến hành thu thập chứng cứ đương sự cần có sự
giúp đỡ của Luật sư – những người có trình độ hiểu biết pháp luật và có chuyên
môn nghiệp vụ.
Nguyên tắc về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong BLTTDS
năm 2015 được kế thừa từ các quy định trong BLTTDS năm 2004 (Điều 6); Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 (Điều 3), Pháp lệnh thủ tục giải
quyết vụ án kinh tế năm 1994 (Điều 3) và Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp
lao động năm 1996 (Điều 2). Tuy nhiên, trước khi BLTTDS năm 2004 ra đời và sau
là BLTTDS năm 2015 thì thì vẫn tồn tại giai đoạn điều tra của Tòa án trong tố tụng
dân sự, và như vậy việc chứng minh, thu thập chứng cứ chủ yếu được tiến hành bởi

Tòa án. Hầu hết các đương sự thì hoàn toàn phụ thuộc vào việc điều tra của Tòa án,
còn các Luật sư tham gia tố tụng một cách thụ động qua việc nghiên cứu hồ sơ
tương đối hoàn chỉnh với các tài liệu, chứng cứ đã có sẵn trong hồ sơ dẫn đến hiệu
quả hoạt động chứng minh không cao. Đến khi BLTTDS năm 2004 ra đời và bỏ
quy định về giai đoạn điều tra của Tòa án trong tố tụng dân sự thì lúc này vai trò
chứng minh của Luật sư mới được khẳng định và được đề cao.
Như vậy, theo quy định của BLTTDS năm 2004 và BLTTDS năm 2015
đương sự, Luật sư là người đóng vai trò chính trong việc đi tìm và cung cấp các
chứng cứ có giá trị chứng minh cho quyền lợi của mình chứ không còn thuộc về cơ
quan tiến hành tố tụng. Luật sư với vai trò trợ giúp đương sự, cùng với đương sự trở
thành một bên trong tố tụng dân sự, nên khi tham gia tố tụng Luật sư cũng có quyền
và trách nhiệm thu thập chứng cứ, chứng minh. Cùng với sự chuyển giao trách
nhiệm thu thập chứng cứ, chứng minh cho đương sự thì đây cũng chính là nhiệm vụ
hết sức quan trọng của luật sư khi tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự. Với các quy định của BLTTDS năm 2015, do nghĩa vụ chứng minh thuộc
về đương sự nên vai trò và trách nhiệm của Luật sư trong hoạt động thu thập chứng
cứ càng trở nên quan trọng hơn, không còn bó hẹp và thụ động như trước đây. Dù
với tư cách là người đại diện cho đương sự hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự thì hoạt động thu thập chứng cứ nói riêng và hoạt động chứng
minh của Luật sư nói chung cũng ảnh hưởng và quyết định trực tiếp tới quyền lợi
của đương sự và phán quyết của Tòa án.


11

Hiện nay Tòa án chỉ còn tham gia thu thập chứng cứ trong một số ít trường
hợp như như lấy lời khai của người làm chứng khi xét thấy cần thiết (khoản 1 Điều
99 BLTTDS năm 2015), đối chất khi thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các
đương sự, người làm chứng (khoản 1 Điều 100 BLTTDS năm 2015), định giá tài
sản trong trường hợp các bên thỏa thuận mức giá thấp nhằm mục đích trốn thuế

hoặc giảm mức đóng án phí (điểm c khoản 3 Điều 104 BLTTDS năm 2015 ). Còn
lại, các biện pháp thu thập chứng cứ khác được quy định tại chương VII BLTTDS
năm 2015 – chứng minh và chứng cứ, đều thuộc về đương sự như: đương sự có
quyền được khai báo (Điều 98), yêu cầu lấy lời khai của người làm chứng (Điều
99), yêu cầu đối chất (Điều 100), giám định, giám định bổ xung (Điều 102), yêu cầu
định giá tài sản (Điều 104), yêu cầu cơ quan tổ chức, cá nhân đang nắm giữ giao
chứng cứ (Khoản 6 Điều 70).
Tóm lại, khi tham gia tố tụng dân sự Luật sư có quyền và trách nhiệm chứng
minh. Luật sư phải thực hiện hoạt động chứng minh thông qua việc cung cấp chứng
cứ, chứng minh cho yêu cầu của thân chủ là có căn cứ và hợp pháp. Và để có chứng
cứ cung cấp cho Tòa án Luật sư phải tiến hành thu thập chứng cứ.
1.2. Vấn đề thu thập chứng cứ của Luật sư trong tố tụng dân sự.
1.2.1. Luật sư và Nghề Luật sư
Khi nhắc đến Luật sư thì có thể hiểu đó là danh từ chỉ người, một chức danh
tư pháp độc lập, hoạt động trong lĩnh vực pháp luật và cũng có thể hiểu Luật sư là
một nghề thuộc các ngành dịch vụ trong hệ thống ngành nghề quốc gia. Pháp lệnh
Tổ chức Luật sư năm 1987 không đưa ra một định nghĩa về Luật sư, mà chỉ quy
định muốn làm Luật sư thì phải đủ điều kiện và gia nhập Đoàn Luật sư. Đến Pháp
lệnh Luật sư năm 2001, khái niệm Luật sư mới được đặt ra, theo đó, Luật sư là
người có đủ điều kiện hành nghề Luật sư (Điều 1 Pháp lệnh Luật sư). Người muốn
hành nghề Luật sư phải gia nhập Đoàn Luật sư và có Chứng chỉ hành nghề Luật sư
(Điều 7 Pháp lệnh Luật sư). Người được gia nhập Đoàn Luật sư, để trở thành Luật
sư phải qua tập sự và kỳ kiểm tra hết tập sự, nếu đạt yêu cầu thì được Ban chủ
nhiệm Đoàn Luật sư đề nghị Bộ Tư pháp cấp Chứng chỉ hành nghề Luật sư (Điều
13 Pháp lệnh Luật sư).Tuy nhiên, quy định về Luật sư trong Pháp lệnh Luật sư năm
2001 chủ yếu để đưa ra cách hiểu thuật ngữ chứ không hàm ý đưa ra khái niệm. Đến
Luật Luật sư năm 2006, khái niệm Luật sư được hoàn thiện hơn. Theo Điều 2 Luật
Luật sư thì: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định



12

của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức
(sau đây gọi chung là khách hàng)”. Tiêu chuẩn Luật sư là một điểm mới của Luật
Luật sư năm 2006: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào
tạo nghề Luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề Luật sư, có sức khoẻ bảo đảm
hành nghề Luật sư thì có thể trở thành Luật sư”6. Những điều kiện này xuất phát từ
tính chất đặc thù của nghề Luật sư là một nghề đòi hỏi có trình độ hiểu biết pháp
luật cao, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, và sự đúc kết kinh nghiệm thông
qua thực tế. Về điều kiện hành nghề Luật sư, Điều 11 Luật Luật sư năm 2006 quy
định: “Muốn hành nghề Luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề Luật sư và gia nhập
một Đoàn Luật sư”.
Như vậy, theo quy định của Điều 2 Luật Luật sư năm 2006 thì có thể hiểu
Luật sư là người có Chứng chỉ hành nghề Luật sư và Thẻ Luật sư, được thực hiện
dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng. Việc thực hiện dịch vụ pháp lý theo
yêu cầu của khách hàng có thể được hiểu là việc Luật sư tham gia hoạt động tố
tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân,
tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật, tất
cả được gọi chung là việc hành nghề Luật sư. Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều quan niệm Luật sư là một nghề, và yêu cầu cần thiết đối với các Luật sư
là có kỹ năng hành nghề thành thục. Một Luật sư thường phải có các kỹ năng cần
thiết như kỹ năng phán đoán, kỹ năng tư duy tổng quát, kỹ năng phân tích, tổng
hợp, đánh giá sự việc, kỹ năng thuyết trình hùng biện, nghệ thuật đặt câu hỏi, đàm
phán thương lượng...
Xét về tính chất, có thể hiểu nghề Luật sư có ba tính chất cơ bản như sau:
+ Thứ nhất, tính chất trợ giúp, hỗ trợ: Nói đến trợ giúp nghĩa là nói đến sự giúp đỡ,
bênh vực của Luật sư cho những người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm
phạm. Do đó, tính chất này thể hiện hoạt động của nghề Luật sư không chỉ là trách
nhiệm, là việc thực hiện dịch vụ pháp lý mà còn là thước đo lòng nhân ái và tư cách

đạo đức của Luật sư.
+ Thứ hai, tính chất hướng dẫn: Thông thường, Luật sư hướng dẫn cho khách hàng
hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật, biết cách tìm kiếm, thu thập và sử

6

Điều 10 Luật Luật sư năm 2006


13

dụng chứng cứ để thực hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình cũng
như bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước pháp luật.
+ Thứ ba, tính chất phản biện: Là dựa trên sự thông hiểu tường tận về pháp lý và
đạo lý để đưa ra những biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của
người khác. Luật sư lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi
khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng sai… từ đó đề xuất những
biện pháp, quan điểm phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ sai trái.
Theo quy định của pháp luật thì nội dung của nghề Luật sư bao gồm:
1. Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
2. Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật.
3. Thực hiện tư vấn pháp luật.
4. Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên
quan đến pháp luật.

5. Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của Luật này.7
Nhìn chung, Luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề
nghiệp của cá nhân Luật sư, phẩm chất và năng lực cá nhân của Luật sư là yếu tố
quyết định trong nghề Luật sư. Luật sư là một nghề góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ
pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân, các tổ chức kinh
tế - xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền và thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về Luật sư như sau: Luật sư là người có
trình độ hiểu biết và năng lực chuyên môn trong lĩnh vực pháp lý, được cấp Chứng
chỉ hành nghề Luật sư và Thẻ Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của
7

Điều 22 Luật Luật sư năm 2006


14

khách hàng. Đối với khái niệm nghề Luật sư thì có thể hiểu: Là việc Luật sư dùng
kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của mình để tham gia giải quyết các yêu
cầu của khách hàng.
Hoạt động của Luật sư trong tố tụng dân sự tuy không phải là hoạt động tư
pháp, nhưng lại có mối liên hệ gắn chặt với hoạt động tư pháp, hỗ trợ cho hoạt động
tư pháp. Sự tham gia của Luật sư trong tố tụng dân sự có thể xem như một biện
pháp hữu hiệu để giúp cho các cá nhân, tổ chức bảo vệ được các quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Chính vì vậy trong xã hội nói chung và trong tố tụng dân sự nói
riêng, vị trí, và vai trò của Luật sư là rất lớn, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo
vệ các quyền con người, quyền cơ bản của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, vì một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
* Vai trò của Luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự trước tòa. Trong tố tụng dân sự, Luật sư có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bởi lẽ trong cuộc sống,
khi tham gia các quan hệ xã hội, các cá nhân tổ chức không tránh khỏi phát sinh
những tranh chấp cần giải quyết bằng pháp luật thông qua Tòa án. Trong khi đó,
trình độ nhận thức, hiểu biết về pháp luật của mỗi người là khác nhau, kéo theo
những hạn chế nhất định để có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
trước Tòa án. Do đó họ cần sự giúp sức của Luật sư là người có trình độ hiểu biết
pháp luật, có kỹ năng nghề nghiệp và kinh nghiệm tham gia tố tụng để bảo vệ tốt
nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
* Vai trò của Luật sư trong việc tư vấn pháp luật góp phần bảo về quyền và
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng dân sự. Luật sư trước
hết phải là chuyên gia pháp luật, bên cạnh việc trực tiếp tham gia tranh tụng Luật sư
còn đóng vai trò tư vấn pháp luật cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân để họ nhận thức
và thực hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng. Cụ thể, Luật
sư tư vấn, giải đáp cho đương sự các vấn đề khúc mắc có liên quan đến vụ án trên
cơ sở đối chiếu các quy định của pháp luật, soạn thảo các văn bản liên quan. Việc tư
vấn pháp luật của Luật sư cũng góp phần giảm thiểu được những tranh chấp trong
xã hội, hạn chế được những vi phạm pháp luật do sự thiếu hiểu biết pháp luật của
người dân gây ra.
* Vai trò của Luật sư trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Là người có kiến thức pháp luật sâu rộng, thông
qua việc tham gia tố tụng dân sự Luật sư góp phần quan trọng trong việc tuyên


15

truyền phổ biến giáo dục pháp luật trong cộng đồng và xã hội. Bên cạnh đó, Luật sư
có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bằng
việc phát hiện những hạn chế, thiếu sót của pháp luật trong quá trình Luật sư tham
gia tố tụng.
* Sự tham gia của Luật sư trong tố tụng dân sự không chỉ giúp đương sự bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà còn góp phần trong việc xác định sự thật
khách quan của vụ án, giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác,
khách quan và toàn diện.
Có thể thấy rằng vai trò của Luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự là rất quan trọng nhằm giúp các đương sự hiểu đúng, hiểu đủ
quyền và nghĩa vụ của mình trước pháp luật, tránh bị các cơ quan tiến hành tố tụng
lạm quyền làm thiệt hại đến quyền và lợi ích của mình cũng như hiểu được bản án,
quyết định của các cơ quan tố tụng tuyên đối với đương sự đã đúng pháp luật hay
chưa tránh khiếu kiện, khiếu nại kéo dài làm ảnh hưởng đến thời gian, kinh tế cho
các đương sự. Cùng với sự phát triển nền tư pháp Việt Nam, Luật sư đang từng
bước khẳng định vị trí và vai trò của mình khi tham gia tố tụng dân sự.
1.2.2. Hoạt động thu thập chứng cứ và biện pháp thu thập chứng cứ
Chứng cứ cung cấp cho Tòa án có hai loại, một là các chứng cứ có sẵn và các
chứng cứ cần phải đi tìm, thu thập. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt thì “thu thập”
được hiểu là hoạt động “góp nhặt và tập hợp lại”8. Như vậy, nếu kết hợp hai định
nghĩa “thu thập” và “chứng cứ” đã nêu ở trên thì có thể hiểu một cách khái quát
khái niệm thu thập chứng cứ trong TTDS là: hoạt động tìm kiếm, tập hợp, góp nhặt
các tài liệu, các tình tiết có liên quan tới một vụ việc dân sự nhằm khôi phục lại sự
thật khách quan của vụ việc đó. Do vậy, về mặt khoa học pháp lý có thể thống nhất
với quan điểm cho rằng, “thu thập chứng cứ là việc phát hiện, tìm ra các chứng cứ,
tập hợp đưa vào hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết
vụ việc dân sự”9.
Xét trên góc độ thông tin, thì thu thập chứng cứ là quá trình thu thập thông
tin để làm căn cứ xác định sự thật của vụ án. Xem xét dưới góc độ pháp luật tố tụng
dân sự, hoạt động thu thập chứng cứ là một hoạt động tố tụng dân sự do các chủ thể
8

Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng, tr.958.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr.164.

9


16

của việc chứng minh thực hiện thông qua hoạt động tìm kiếm, phát hiện, thu lại các
thông tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan theo một trình tự thủ tục luật định nhằm
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc, và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ thể chứng minh.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về hoạt động thu thập chứng cứ của Luật
sư trong tố tụng dân sự như sau: Hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư là hoạt
động tham gia tố tụng của Luật sư bằng việc tìm kiếm, phát hiện, thu lại các thông
tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ việc nhằm làm rõ các tình tiết khách quan
của vụ việc qua đó xác định các căn cứ cần thiết trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự.
Thu thập chứng cứ là một trong những biện pháp để Luật sư bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của thân chủ khi tham gia tố tụng, đồng thời cũng là biện pháp
nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Hai yếu tố cấu thành vụ án dân
sự là yếu tố chủ quan (đương sự) và yếu tố khách quan (bao gồm đối tượng – mục
đích khởi kiện và nguyên nhân – cách thức bảo vệ quyền của các chủ thể trước Tòa
án). Hoạt động thu thập chứng cứ nói chung và của Luật sư nói riêng được xếp vào
các yếu tố thuộc mặt khách quan của vụ án. Điều này đồng nghĩa với việc các tình
tiết, yếu tố cấu thành vụ việc đã vốn có, vốn đã tồn tại, thông qua quá trình thu thập
chứng cứ, Luật sư đi tìm lại, diễn đạt lại một cách đầy đủ nhất, đúng đắn nhất về nội
dung vụ việc. Hay nói cách khác, hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư là hoạt
động thông qua việc tìm kiếm, tập hợp lại chứng cứ để tái hiện lại sự thật khách
quan của vụ án.
Và để chứng cứ có giá trị chứng minh thì việc thu thập chứng cứ phải được
thực hiện theo quy định của pháp luật thông qua các biện pháp thu thập chứng cứ
hợp pháp. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt thì “biện pháp” được hiểu là “cách làm,

cách giải quyết một vấn đề cụ thể”10. Như vậy, nếu kết hợp khái niệm “biện pháp”
và khái niệm hoạt động “thu thập chứng cứ” thì khái niệm biện pháp thu thập
chứng cứ được hiểu là: cách làm, cách thực hiện hoạt động tìm kiếm, tập hợp, góp
nhặt các tài liệu, các tình tiết có liên quan tới một vụ việc dân sự nhằm khôi phục lại
sự thật khách quan của vụ việc đó. Công tác thu thập chứng cứ là khâu quan trọng
nhất trong quá trình chứng minh, là tiền đề cho các hoạt động chứng minh còn lại
như cung cấp, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Do vậy, việc tiến hành thu thập
10

Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng, tr.64


17

chứng cứ của Luật sư cần phải đảm bảo tính hiệu quả và tính hợp pháp của chứng
cứ thu thập được. Thu thập chứng cứ vừa là hoạt động mang tính khoa học, vừa
mang tính pháp lý nên quá trình phát hiện, thu thập chứng cứ vừa phải thực hiện
theo những nguyên tắc, quy luật của nhận thức, vừa phải bảo đảm tính pháp lý, hay
nói cách khác là phải khách quan và phải tuân thủ đúng quy định về biện pháp, trình
tự, thủ tục của pháp luật. Nói cách khác để mang lại hiệu quả cao nhất cũng như bảo
đảm chứng cứ thu thập được có giá trị chứng minh trước tòa thì việc tiến hành hoạt
động thu thập chứng cứ, cần phải được Luật sư thực hiện theo những biện pháp thu
thập chứng cứ đã được pháp luật quy định tại Khoản 1 Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015.
Việc quy định tương đối cụ thể về các biện pháp thu thập chứng cứ, đã tạo cơ
sở cho hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư được tiến hành một cách chặt chẽ,
khách quan và đạt hiệu quả cao nhằm mục đích bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp
pháp của khách hàng.
1.2.3. Đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã ghi nhận quyền của người bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của đương sự trong đó có quyền: “Thu thập và cung cấp tài
liệu, chứng cứ cho Tòa án; nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp
những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109
của Bộ luật này.”11. Khác với đương sự, khi tham gia tố tụng, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền chứ không có nghĩa vụ chứng minh, do
việc chứng minh được hay không thì về mặt pháp lý là không ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích của Luật sư, và trong trường hợp này Luật sư tham gia hoạt động thu thập
chứng cứ với tư cách là chủ thể mang quyền chứ không phải nghĩa vụ. Theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, vị trí pháp lý của Luật sư không có gì
khác so với đương sự vì Luật sư cùng thuộc nhóm những người tham gia tố tụng.
Như vậy, pháp luật tố tụng dân sự đã ghi nhận quyền thu thập chứng cứ của
Luật sư khi tham gia tố tụng dân sự với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự. Đây là sự thay đổi rất lớn của Bộ luật Tố tụng dân sự so
với PLTTGQCVADS năm 1989 về quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Trước đây theo PLTTGQCVADS năm 1989 thì Luật sư hay nói
chung là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia vào quá
11

Khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015


18

trình tố tụng khi hồ sơ vụ án gần như đã hoàn tất và Luật sư chỉ tham gia bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ bằng việc đọc, sao chụp hồ sơ sẵn có để
nghiên cứu đưa ra quan điểm bảo vệ cho đương sự theo các tài liệu, chứng cứ đã có
trong hồ sơ. Do vậy, vị trí, vai trò và tầm quan trọng của Luật sư khi tham gia tố
tụng dân sự là khá mờ nhạt, không được đánh giá cao. Mãi đến năm 2004 thông qua
Bộ luật Tố tụng dân sự ra đời đã ghi nhận, khẳng định nguyên tắc tự chứng minh,

nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự. Đồng thời năm 2011, khi sửa đổi bổ sung
BLTTDS 2004, lần đầu tiên nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử được Nhà nước
ta ghi nhận trong Điều 23a của BLTTDS sửa đổi 2011 với nội dung: “Điều 23a. Bảo
đảm quyền tranh luận tố tụng dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án
bảo đảm để các bên đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
thực hiện quyền tranh luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Đây là
sự thay đổi quan trọng, mang tính đột phá trong cải cách tư pháp của nước ta. Các quy
định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sư tham ra sâu rộng vào quá trình tố
tụng dân sự, đặc biệt qua việc chủ động thu thập chứng cứ để bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng và hoạt động chứng minh. Hơn thế nữa, Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 không chỉ kế thừa Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 trong việc ghi nhận nguyên tắc
tranh tụng và quyền, nghĩa vụ chứng minh của đương sự mà còn quy định cụ thể
nguyên tắc tranh tụng và các biện pháp thu thập chứng cứ, tạo hành lang pháp lý
cho việc gỡ bỏ những khó khăn trong quá trình thu thập chứng của đương sự, Luật
sư trong quá trình thu thập chứng cứ khi áp dụng Bộ luật Tố tụng dân sự 2004.
Thông qua BLTTDS năm 2015, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng đã được quy định rõ
ràng, cụ thể hơn:
Điều 24. Bảo đảm tranh tụng trong xét xử:
1. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này.
2. Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu
thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự và có nghĩa vụ
thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát biểu
quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu,
quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của
Bộ luật này…


19


Như vậy, BLTTDS năm 2015 đã ghi nhận hoạt động thu thập chứng cứ như
một biện pháp bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Theo đó, trong tố tụng dân sự hiện
nay, vai trò và vị trí của Luật sư đang từng bước được nâng cao, là chủ thể quan
trọng trong hoạt động thu thập chứng cứ cũng như toàn bộ hoạt động tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, khi áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật
tố tụng dân sự, Luật sư cần thực hiện theo những trình tự thủ tục nhất định, nhằm
bảo đảm cho tài liệu chứng cứ thu thập được có giá trị pháp lý cao nhất trong việc
chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Về thời hạn thu thập chứng cứ của đương sự cũng như Luật sư tuy pháp luật
không quy định nhưng Tòa án vẫn thường ấn định cho đương sự một thời hạn nhất
định để họ giao nộp các chứng cứ theo thông báo của Tòa án. Điều này xuất phát từ
việc quy định quá trình tố tụng dân sự phải được diễn ra trong một khoảng thời gian
luật định. Đồng thời việc quy định thời hạn cho việc thu thập chứng cứ cũng để
tránh tình trạng kéo dài thời gian, việc thu thập chứng cứ không đi vào trọng tâm,
không bám sát các vấn đề cần chứng minh trong vụ việc dân sự. Đối với cá nhân, cơ
quan, tổ chức đang quản lý lưu giữ chứng cứ có nghĩa vụ giao nộp cho đương sự,
Tòa án khi nhận được yêu cầu của đương sự, Tòa án. Thời hạn giao nộp các chứng
cứ trong trường hợp này đã được pháp luật quy định cụ thể là 15 ngày, kể từ ngày
nhận được yêu cầu của đương sự, Tòa án Điều 106 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Tuy nhiên, hiện nay các hoạt động bổ trợ tư pháp còn nhiều hạn chế, chưa có
sự thống nhất thực hiện trên thực tế. Vai trò hỗ trợ của Luật sư chưa phát huy được
hiệu quả cao. Dẫn đến việc các tài liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình để chứng
minh cho yêu cầu của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của đương sự khác phần lớn chưa
bảo đảm về mặt thủ tục, hình thức cũng như chất lượng nội dung.
“Trong thực tiễn việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án thì tỉ lệ số vụ
việc dân sự giải quyết dựa vào chứng cứ và việc tự chứng minh của các đương sự là
rất ít, hầu hết các vụ việc dân sự được giải quyết đều do Tòa án chủ động, tích cực
xác minh, thu thập chứng cứ”12. Việc Tòa án tham gia thu thập chứng cứ là nhằm
mục đích làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc, và đưa ra được một bản án,

quyết định đúng pháp luật, phù hợp với thực tế khách quan trên cơ sở bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên đương sự. Tuy nhiên, do bản thân Tòa
án không thu thập chứng cứ với ý nghĩa là bảo vệ quyền lợi bị xâm phạm của mình
12

Nguyễn Văn Thành (2013), Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự, Luận văn
thạc sĩ, Trường đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.4


20

nên có những hạn chế nhất định về mặt khách quan cũng như chủ quan trong quá
trình thu thập chứng cứ đối với mục đích chứng minh của đương sự.
Do vậy, có thể thấy sự tham gia thu thập chứng cứ của Tòa án chỉ mang tính
chất hỗ trợ cho các đương sự, còn để bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp
của chính mình, thì đương sự cần chủ động thu thập chứng cứ. Và để mang lại hiệu
quả cao nhất trong việc thu thập chứng cứ của đương sự thì cần phải có sự tham gia,
giúp đỡ của Luật sư – những người có trình độ hiểu biết pháp luật và kinh nghiệm
tham gia tố tụng.
Hiện nay, pháp luật hiện hành quy định trách nhiệm chứng minh thuộc về
các bên đương sự, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế khi chưa tạo ra được cơ chế tốt
nhất để các bên đương sự có thể thu thập chứng cứ nhằm bảo vệ quyền lợi của mình
dẫn đến việc gặp phải rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình thu thập
chứng cứ. Đồng thời cũng do trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế mà phần lớn
đương sự khi tham gia tố tụng dân sự không thể thực hiện tốt việc thu thập, sử dụng
chứng cứ cũng như trách nhiệm chứng minh.
Với sự tham gia của Luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ sẽ bảo đảm
tính chính xác cao, có độ tin cậy gần như tuyệt đối, là căn cứ cho việc bảo vệ các
yêu cầu của đương sự hoặc bác bỏ yêu cầu của đương sự khác. Đồng thời hoạt động
thu thập chứng cứ của Luật sư cũng là căn cứ quan trọng cho việc đưa ra các kết

luận, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
Các kết luận, phán quyết của các chủ thể tiến hành tố tụng dựa trên những tài liệu,
chứng cứ do Luật sư thu thập sẽ là cơ sở khẳng định hoặc phủ định những giả thiết
đã nêu trong quá trình chứng minh.
Như đã nói đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu
cầu của mình. Căn cứ vào các chứng cứ mà đương sự cung cấp, Tòa án sẽ tiến hành
thẩm định, xác minh, phân tích để thấy rõ giá trị chứng minh cũng như tính hợp
pháp của chứng cứ. Chính vì vậy đương sự phải ý thức được trách nhiệm của mình
trong việc thu thập chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy
nhiên, không phải đương sự nào cũng dễ dàng xác định được cách thức thu thập
chứng cứ và sử dụng chứng cứ, cũng như cá nhân, cơ quan, tổ chức nào đang lưu
giữ chứng cứ đó. Do vậy, Luật sư cần sự hướng dẫn, tư vấn cho đương sự đồng thời
tự mình tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ. Với trình độ hiểu biết pháp luật
của mình, cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp, đối với mỗi yêu cầu của đương sự,
Luật sư sẽ xác định được các tài liệu chứng cứ cần phải thu thập, và thời điểm cung


×