Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Hoạt động thu thập chứng cứ của tòa án trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.96 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ HƢƠNG

HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN ANH TUẤN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Kết quả nghiên cứu trong
luận văn chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Phạm Thị Hƣơng



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Trang
1
1

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1
2

4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3

5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

4

6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THU THẬP
CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự


4

1.1.2. Đặc điểm của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự

10
14

1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định điều chỉnh hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự

17

1.3. Kinh nghiệm lập pháp một số nƣớc trên thế giới về điều chỉnh hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án
1.4. Lƣợc sử các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự
1.4.1. Giai đoạn trước năm 1945
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
1.4.3. Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
CHƢƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HOẠT
ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1. Các quy định chung về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
2.1.1. Quy định về các nguyên tắc liên quan đến hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa
án
2.1.2. Quy định chung về các biện pháp thu thập chứng cứ Tòa án

5
5
5


21
25
25
25
26
29
29
29
32


2.1.2.1. Về biện pháp yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ, tài liệu

32

2.1.2.2. Về các biện pháp nghiệp vụ của Thẩm phán trong thu thập chứng cứ

34

2.2. Quy định cụ thể về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án
2.2.1. Về biện pháp lấy lời khai của đương sự, người làm chứng

36
36

2.2.2. Về biện pháp định giá tài sản, thẩm định giá tài sản
2.2.3. Về biện pháp trưng cầu giám định
2.2.4. Về biện pháp đối chất


38
42
43

2.2.5. Về biện pháp xem xét, thẩm định tại chỗ
2.2.6. Về biện pháp ủy thác thu thập chứng cứ

44
45

2.2.7. Về biện pháp yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Thực tiễn thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự
3.2. Nguyên nhân của tồn tại, vƣớng mắc và kiến nghị về hoạt động thu thập chứng cứ
của Tòa án trong tố tụng dân sự

46
50
50
60

3.2.1. Về nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc trong hoạt động thu thập chứng
cứ của Tòa án
3.2.2. Một số kiến nghị về hoàn thiện quy định về hoạt động thu thập chứng cứ của

60

Tòa án


61

3.2.3. Về các kiến nghị khác về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án

69


1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam khóa XI thông qua ngày 15/6/2004 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2005; đã đƣợc
sửa đổi và bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tung sự, đƣợc Quốc
hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày
29/3/2011, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2012 là văn bản có tính pháp lý cao nhất quy
định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại Toà án, có nhiều sửa đổi, bổ sung quan
trọng nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự trong giai
đoạn hiện nay, trong đó có những sửa đổi, bổ sung khá quan trọng trong phần quy định về
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án.
Trong quá trình hình thành và phát triển, hoàn thiện của hệ thống pháp luật tố tụng
Việt Nam, với những đặc thù riêng về lịch sử, kinh tế, xã hội và đặc điểm lập pháp, hoạt động
thu thập chứng cứ luôn đóng một vai trò hết sức cần thiết và quan trọng. Pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam đƣợc xây dựng theo mô hình tố tụng xét hỏi, đang đƣợc thay đổi, hoàn thiện
theo hƣớng tăng cƣờng yếu tố tranh tụng theo hệ thống pháp luật án lệ, do vậy, vai trò chứng
minh của đƣơng sự ngày càng đƣợc đề cao hơn. Tuy nhiên, các quy định theo chiều hƣớng
này vẫn đang trong quá trình hoàn thiện trên cơ sở kiểm nghiệm thông qua thực tiễn áp dụng.
Trên thực tế tố tụng tại Tòa án thì hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án vẫn đang giữ một
vai trò hết sức quan trọng trong giải quyết vụ việc dân sự. BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã
khắc phục đƣợc một số tồn tại, hạn chế, của BLTTDS năm 2004 về hoạt động thu thập chứng

cứ của Tòa án. Tuy nhiên, một số quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án vẫn còn chƣa thực sự hợp lý, thiếu tính rõ ràng, cụ thể dẫn tới những
khó khăn, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng. Do vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện,
sâu sắc về hoạt động thu thập chứng cứ cả về phƣơng diện lý luận, lập pháp và thực tiễn, từ
đó đề xuất những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của hoạt động
thu thập chứng cứ của Tòa án là một việc làm cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên đây, tôi đã lựa chọn đề tài “Hoạt động thu thập chứng
cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam” làm luận văn cao học luật của mình.

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Sau khi BLTTDS có hiệu lực, cũng đã có một số công trình nghiên cứu về hoạt động
thu thập chứng cứ của Tòa án nhƣng các công trình này cũng chỉ đề cập đến hoạt động thu


2
thập chứng cứ với tƣ cách là một giai đoạn của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
nhƣ đề tài “Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ trong Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác
giả Nguyễn Minh Hằng (bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2002), đề tài “Hoạt
động chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam” cũng của tác giả Nguyễn Minh Hằng (bảo
vệ luận văn tiến sĩ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2009); hay dƣới khía cạnh là hoạt
động của Thẩm phán nhƣ đề tài.“Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong tố
tụng dân sự” của tác giả Bùi Thị Huyền (Luận văn thạc sĩ Luật học, trƣờng Đại học Luật Hà
Nội, H. 2001). Gần đây nhất là đề tài khoa học cấp trƣờng “Một số vấn đề lý luận về chứng
minh trong tố tụng dân sự” do TS. Nguyễn Công Bình làm chủ nhiệm năm 2012. Ngoài các
công trình trên cũng có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành có liên quan đến hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án. Chẳng hạn nhƣ bài viết “Vai trò của thẩm phán trong thu
thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải quyết vụ án dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Hạnh (Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp); bài viết “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” của tác
giả Hoàng Ngọc Thỉnh (Tạp chí Luật học - số đặc san góp ý dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự,
tháng 4-2004.).v.v.

Việc nghiên cứu cho thấy các công trình trên nghiên cứu với phạm vi rộng về chứng
minh, các hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự hoặc có liên quan dƣới góc độ về
nhiệm vụ, quyền hạn hay kỹ năng của Thẩm phán liên quan đến hoạt động thu thập chứng cứ,
xây dựng hồ sơ vụ án. Đề tài luận văn thạc sỹ về “Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ
trong Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Hằng có nghiên cứu về hoạt động
thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự nhƣng đƣợc thực hiện đã lâu trƣớc khi ban hành
BLTTDS 2004 và BLTTDS sửa đổi 2011. Cho đến nay, chƣa có một công trình nào nghiên
cứu một cách có hệ thống, toàn diện và chuyên sâu về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa
án trong tố tụng dân sự theo BLTTDS sửa đổi 2011.

3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
* Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ đƣợc những vấn đề lý luận cũng nhƣ nội
dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án, chỉ ra những điểm còn thiếu sót hoặc chƣa hợp lý trong các quy định
hiện hành về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng nhằm
chỉ ra những vƣớng mắc, khó khăn trên thực tế khi Tòa án thực hiện hoạt động thu thập
chứng cứ. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng hợp, Luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam đối với hoạt động thu thập


3
chứng cứ của Tòa án, đồng thời nâng cao hiệu quả của hoạt động thu thập chứng cứ trên thực
tế.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đƣợc mục tiêu này, luận văn phải hoàn thành một số nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân
sự;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về hoạt động thu thập

chứng cứ của Tòa án và thực tiễn áp dụng chúng tại các Toà án. Từ đó chỉ ra những điểm bất
cập, thiếu hợp lý trong các quy định của pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án.
- Đƣa ra một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn không nghiên cứu sâu về hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án nƣớc ngoài mà chỉ nghiên cứu các quy định của pháp luật một số nƣớc
về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nhằm so sánh tham khảo. Luận văn tập trung
nghiên cứu chủ yếu về pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện hoạt động này tại một số
Tòa án địa phƣơng. Tuy nhiên, một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động thu thập chứng cứ
của Tòa án cũng đƣợc tiến hành nghiên cứu nhằm tạo cơ sở cho việc đánh giá luật thực định
và đề xuất kiến nghị. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ đƣợc giới hạn trong phạm vi sau đây:
- Nghiên cứu về bản chất của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng
dân sự;
- Nghiên cứu lƣợc sử pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về hoạt động thu thập chứng
cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án.

4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đƣợc mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu đƣợc tiến hành dựa
trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp
luật. Ngoài ra, để giải quyết vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng
một số phƣơng pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác nhƣ phƣơng pháp phân tích hệ


4
thống; phƣơng pháp tổng hợp; phƣơng pháp so sánh; phƣơng pháp thống kê...v.v.


5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về hoạt động thu
thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam. Những đóng góp của luận văn thể
hiện trên một số phƣơng diện sau đây:
- Làm rõ đƣợc bản chất và đặc điểm cơ bản của hoạt động thu thập chứng cứ; luận
giải đƣợc cơ sở khoa học của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự.
- Là công trình nghiên cứu chuyên sâu đánh giá về các quy định hiện hành về hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án và thực tiễn thực hiện tại các Tòa án. Do vậy, Luận văn đã
chỉ ra đƣợc những hạn chế của pháp luật và bất cập trong thực tiễn thực hiện các quy định của
BLTTDS sửa đổi về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án.
- Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất những giải pháp cụ thể
nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án, nâng cao hiệu quả của
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trên thực tế.
- Luận văn đƣợc bảo vệ thành công sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho giảng viên,
sinh viên chuyên ngành luật, các cán bộ làm công tác thực tiễn liên quan đến hoạt động thu
thập chứng cứ của Tòa án. Ngoài ra, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan
lập pháp liên quan tới việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
trong tố tụng dân sự Việt Nam

6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn đƣợc kết cấu
bởi 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố
tụng dân sự.
Chương 2: Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về hoạt động thu
thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự
Chương 3: Thực tiễn thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng
dân sự và kiến nghị



5
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THU THẬP
CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của
Tòa án trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng
dân sự
Tòa án muốn giải quyết vụ án đúng đắn vụ việc dân sự thì trƣớc hết cần phải có trong
tay những giấy tờ, tài liệu hoặc thông tin có đủ độ tin cậy để xác định sự thật khách quan của
vụ việc. Để những tài liệu hoặc thông tin mà Tòa án thu thập đƣợc có giá trị chứng minh,
phản ánh trung thực sự việc thì việc thu thập những tài liệu, thông tin này phải tuân theo trình
tự nghiêm ngặt mà pháp luật quy định nhằm đáp ứng yêu cầu về tính hợp pháp của chứng cứ.
Việc luận giải và làm rõ về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân
sự phải đƣợc bắt đầu từ chứng cứ - đối tƣợng của hoạt động thu thập của Tòa án. Do vậy, để
làm rõ những vấn đề lý luận căn bản về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án thì cần phải
làm rõ bản chất của chứng cứ với tƣ cách là đối tƣợng của hoạt động thu thập.
Theo nghĩa thông thƣờng thì “Chứng cứ là những cái cụ thể như lời nói, việc làm, vật
làm chứng, tài liệu tỏ rõ điều đó có thật nhất” [46, tr 186]. Chứng cứ với vai trò là nền tảng
cơ bản để giải quyết các vụ việc dân sự, là yếu tố cốt lõi của quá trình chứng minh, do vậy
trong quy định của pháp luật tố tụng dân sự của từng quốc gia, khái niệm chứng cứ luôn giữ
một vị trí quan trọng.
Theo BLTTDS Nhật Bản thì “Chứng cứ là một tƣ liệu thông qua đó một tình tiết đƣợc
Tòa án công nhận và là một tƣ liệu, cơ sở thông qua đó Tòa án đƣợc thuyết phục là một tình
tiết có tồn tại hay không” [13, tr. 453-454]. Trong Điều 401 Luật chứng cứ của Mỹ quy định:
“Chứng cứ là những gì mà hàm chứa trong nó sự tồn tại của bất cứ một sự thực nào mà bản
thân sự hàm chứa đó ảnh hƣởng tới việc xác định một hành động hơn hoặc kém hơn”. Khái
niệm chứng cứ cũng đƣợc thể hiện tại Điều 55 Trong BLTTDS Liên bang Nga. Theo đó,
“Chứng cứ trong vụ án dân sự là những gì đƣợc thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật

quy định mà Tòa án căn cứ vào đó để xác định có hay không có các tình tiết làm cơ sở cho
những yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của các bên cũng nhƣ các tình tiết khác có ý nghĩa để
giải quyết đúng đắn vụ án” [10, tr.79-80].


6
Nhƣ vậy, có thể thấy khái niệm chứng cứ trong hệ thống pháp luật tố tụng dân sự
Nhật Bản và Hoa kỳ đều gặp nhau ở một điểm chung trong quy phạm định nghĩa: Chứng cứ
là cơ sở, căn cứ để Tòa án giải quyết vụ án. Các thuộc tích của chứng cứ đƣợc thể hiện tƣơng
đối đầy đủ trong nội hàm của khái niệm.
Khái niệm về chứng cứ trong BLTTDS Liên bang Nga có sự gần gũi, tƣơng đồng với
khái niệm chứng cứ đƣợc mô tả trong Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam và trong
BLTTDS sửa đổi năm 2011. Theo Tiến sỹ Nguyễn Công Bình thì “Chứng cứ là cái có thật,
theo một trình tự do luật định Tòa án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án”. [45. tr. 170]. Điều
81 BLTTDS sửa đổi đã mô tả rõ hơn về tính hợp pháp và giá trị chứng minh của chứng cứ.
Theo đó, “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật đƣợc đƣơng sự và cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập đƣợc theo trình tự, thủ tục
do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của
đƣơng sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng nhƣ những tình tiết khác cần thiết cho
việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
Về lý luận thì các tài liệu do đƣơng sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức giao nộp cho Tòa án
hoặc do Tòa án tự tiến hành thu thập chỉ đƣợc coi là chứng cứ khi đảm bảo đƣợc tính khách
quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Tính khách quan của chứng cứ đƣợc hiểu là chứng cứ
phải hình thành và tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con
ngƣời, từ đó làm cơ sở cho việc khẳng định tồn tại hay không tồn tại những sự kiện có ý
nghĩa cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Tính liên quan làm cơ sở cho việc khẳng định sự tồn
tại của những sự kiện có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc dân sự, đảm bảo các sự kiện, tình
tiết đƣợc coi là chứng cứ khi nó chứa đựng những nội dung gắn liền với việc giải quyết vụ án.
Tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện ở chỗ những thông tin thực tế phải đƣợc thu thập từ
nguồn hợp pháp và theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Đây là các thuộc tính

cơ bản mà chủ thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ cần phải chú trọng trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự.
Vậy xét về lý luận thì hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự
cần đƣợc hiểu nhƣ thế nào cho phù hợp. hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự
của Tòa án có phải là hoạt động chứng minh giải quyết vụ việc dân sự dân sự hay không?
Đây là vấn đề cần phải làm rõ về lý luận để tạo cơ sở cho việc đánh giá các quy định của pháp
luật về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án.
Trong thế giới khách quan luôn tồn tại nhiều sự vật, hiện tƣợng khác nhau đòi hỏi con
ngƣời phải nhận thức và đánh giá. Trong mỗi sự vật, hiện tƣợng lại có nhiều đặc tính khác


7
nhau, có những đặc tính có thể nhận biết một cách nhanh chóng, rõ ràng bằng các giác quan
nhƣng cũng tồn tại những đặc tính không thể nhận biết ngay mà phải trải qua một quá trình tƣ
duy, giải thích, móc nối các sự kiện để có thể đi đến đƣợc kết luận và việc đầu tiên là phải đƣa
ra những giả thuyết để định hƣớng tƣ duy. Quá trình giải quyết giả thuyết bằng cách tƣ duy,
móc nối các sự kiện đó chính là chứng minh. Theo Từ điển tiếng Việt thì chứng minh là
nhằm “làm cho thấy rõ là có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ” [46, tr.192].
Dƣới góc độ khoa học pháp lý thì việc nghiên cứu, tìm hiểu những dấu vết lƣu lại
trong thế giới vật chất hay trong tƣ duy có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định quan hệ đã
hình thành, hành vi đã diễn ra và các sự việc liên quan. Về lý luận thì vật chất khi đã đƣợc
sinh ra thì không bao giờ mất đi, nó chỉ có thể chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác; mọi
sự vật hiện tƣợng có mối liên hệ phổ biến. Khi một quan hệ phát luật đƣợc hình thành, quan
hệ đó phải đƣợc thể hiện dƣới những hình thức khác nhau của vật chất. Điều này có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng đối với quá trình chứng minh nói chung và đối với quá trình xác định sự
thật khách quan thông qua việc đánh giá chứng cứ của Tòa án trong quá trình giải quyết các
vụ việc dân sự nói riêng.
Khi thụ lý giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án phải làm sáng tỏ những tình tiết liên quan
đến vụ việc dân sự, để thực hiện đƣợc điều này Tòa án phải nghiên cứu những chứng cứ khác
nhau do đƣơng sự cung cấp cũng nhƣ những chứng cứ tự mình thu thập đƣợc nhƣ lời khai

của đƣơng sự, những ngƣời làm chứng, kết luận giám định, các tài liệu khác có liên quan
đƣợc sử dụng làm phƣơng tiện chứng minh để xác định những tình tiết của vụ việc. Theo
Tiến sỹ Nguyễn Công Bình thì “Chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của
các chủ thể tố tụng theo quy định của pháp luật trong việc làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ
việc dân sự” [45, tr. 134].
Tuy nhiên, để có thể làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự thì Tòa án cần
phải thu thập, nghiên cứu và đánh giá các chứng cứ liên quan để tái hiện sự thật khách quan.
Theo Tiễn sỹ Nguyễn Minh Hằng “Hoạt động chứng minh đƣợc hiểu là tổng thể các hoạt
động của Tòa án và các chủ thể tham gia tố tụng trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ nhằm mục đích sử dụng chứng cứ để xác định sự thật khách quan của vụ
việc dân sự” [26, tr. 9].
Hoạt động chứng minh đƣợc diễn ra suốt trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự,
bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các chủ thể tố tụng nhƣ cung cấp, thu thập, nghiên
cứu, đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên, xét theo nghĩa rộng thì bên cạnh các hoạt động cung cấp,


8
thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ thì hoạt động chứng minh của các chủ thể còn bao
hàm cả việc làm rõ các cơ sở pháp lý liên quan đến các yêu cầu trong vụ việc dân sự.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động mang tính chất pháp lý đặc
thù đƣợc điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật tố tụng dân sự, do các chủ thể đƣợc pháp luật
quy định thực hiện và kết quả của hoạt động này sẽ cơ sở để Tòa án ra phán quyết giải quyết
vụ việc. Chủ thể của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm đƣơng sự, ngƣời
đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và Tòa án.
Trong đó, nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu, phản đối yêu cầu thuộc về đƣơng sự, ngƣời đại
diện, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trƣớc Tòa án. Tòa án không có nghĩa vụ
chứng minh thay cho yêu cầu, phản yêu cầu của các chủ thể trên nhƣng Tòa án có trách
nhiệm xác minh, thu thập chứng cứ trong những trƣờng hợp đƣơng sự không thể tự mình thu
thập chứng cứ và có yêu cầu. Tuy nhiên, trong những trƣờng hợp ngoại lệ Tòa án có thể hỗ
trợ đƣơng sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh nhằm làm rõ những sự kiện pháp lý của vụ việc.

Đối với Tòa án, hoạt động chứng minh là công cụ để Tòa án có thể nhận thức đƣợc
chính xác sự việc đã xảy ra trên thực tế, làm cơ sở để đƣa ra phán quyết giải quyết các vụ việc
phát sinh một cách nhanh chóng, chính xác và khách quan. Đối với các đƣơng sự, hoạt động
chứng minh là phƣơng tiện duy nhất để họ có thể bảo vệ đƣợc các quyền và lợi ích của mình.
Hoạt động chứng minh đƣợc thực hiện thông qua các hoạt động cụ thể bao gồm cung
cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Trong đó, cung cấp chứng cứ là hoạt động tố
tụng của các chủ thể tố tụng trong việc đƣa lại cho Tòa án, viện kiểm sát các chứng cứ của vụ
việc dân sự. Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về các đƣơng sự, ngƣời đại diện của họ và cá
nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ. Thu thập chứng cứ là hoạt động tiếp
theo do các chủ thể chứng minh thực hiện nhằm phát hiện các chứng cứ của vụ việc dân sự.
Nghiên cứu chứng cứ là hoạt động do các chủ thể tố tụng tiến hành trong suốt quá trình tố
tụng dân sự nhằm kiểm tra các thuộc tính của chứng cứ, tài liệu thu thập đƣợc. Đây là hoạt
động có tính tiền đề, cơ sở cho hoạt động đánh giá chứng cứ. Đánh giá chứng cứ là hoạt động
cuối cùng của quá trình chứng minh do các chủ thể chứng minh thực hiện nhằm xác định giá
trị chứng minh của chứng cứ. Trong đó, việc đánh giá chứng cứ của Tòa án là quan trọng
nhất vì Tòa án là chủ thể có quyền sử dụng chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
Xét về thực chất thì thu thập chứng cứ có thể do nhiều chủ thể tố tụng tiến hành nhằm
phát hiện, tập hợp chứng cứ trong vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải
quyết vụ việc dân sự. Việc thu thập chứng cứ có ý nghĩa quan trọng đối với đƣơng sự trong
việc chứng minh bảo vệ quyền lợi của mình và có ý nghĩa đối với Tòa án trong việc làm rõ


9
đƣợc các vấn đề của vụ việc dân sự .
Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh gắn liền với chủ thể có yêu cầu, phản đối
yêu cầu trƣớc Tòa án nên đƣơng sự, ngƣời đại diện, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đƣơng sự phải tiến hành thu thập các chứng cứ nhằm cung cấp cho Tòa án để bảo vệ yêu
cầu tố tụng của mình hay phản bác yêu cầu tố tụng của đối phƣơng. Tuy nhiên, hoạt động thu
thập chứng cứ này không mang tính quyền lực nhà nƣớc nhƣ hoạt động thu thập chứng cứ
của Tòa án và Viện kiểm sát.

Với tƣ cách là cơ quan bảo vệ công lý Tòa án sẽ ghi nhận các chứng cứ, tài liệu này.
Nếu xét thấy chƣa đủ chứng cứ, tài liệu của để giải quyết vụ việc dân sự thì Tòa án có thể yêu
cầu các đƣơng sự cung cấp thêm. Tuy nhiên, để thực hiện vai trò của mình và bảo đảm việc
giải quyết đúng các vụ việc dân sự, Tòa án có thể tiến hành thu thập chứng cứ trong trƣờng
hợp đƣơng sự không có khả năng thu thập và yêu cầu Tòa án hỗ trợ hoặc trong trƣờng hợp
mà pháp luật quy định. Việc thu thập chứng cứ của Tòa án nhằm hoàn thiện hồ sơ vụ việc
dân sự thƣờng đƣợc tiến hành trƣớc khi mở phiên tòa, phiên họp, còn tại phiên tòa, phiên họp
thì Hội đồng xét xử hay Thẩm phán chủ yếu chỉ thẩm tra, đánh giá về độ tin cậy, giá trị chứng
minh của chứng cứ nên chủ thể của hoạt động thu thập chứng cứ chính là Thẩm phán đƣợc
phân công giải quyết vụ việc dân sự. Ngoài ra, trong trƣờng hợp nhất định thì việc thu thập
chứng cứ có thể đƣợc trao quyền cho Viện kiểm sát. Tuy nhiên, với tƣ cách là cơ quan kiểm
sát việc tuân theo pháp luật nên quyền năng thu thập chứng cứ của Viện kiểm sát cũng chỉ
đƣợc hạn chế trong việc thực hiện chức năng này nhằm bảo đảm cho việc thực hiện quyền
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Có thể nhận thấy rằng, Tòa án là cơ quan bảo vệ công lý, có trách nhiệm chủ yếu
trong việc xác định sự thật khách quan và ra phán quyết giải quyết vụ việc cho nên pháp luật
cần ghi nhận một phạm vi rộng các biện pháp thu thập chứng cứ mà Tòa án có thể tiến hành
và lựa chọn tùy theo từng vụ việc dân sự. Tuy nhiên, để chống lại sự lạm quyền của Tòa án,
tránh việc làm thái quá gây tổn hại đến quyền của đƣơng sự, nhà lập pháp cũng có quy định
rạch ròi và giới hạn các biện pháp thu thập chứng cứ mà Tòa án có thể áp dụng cũng nhƣ
những trình tự, thủ tục mà Tòa án phải tuân thủ khi tiến hành thu thập. Thông thƣờng thì các
biện pháp mà Tòa án có thể áp dụng để thu thập chứng cứ gồm có: Lấy lời khai của đƣơng
sự, ngƣời làm chứng; đối chất; trƣng cầu giám định; quyết định định giá tài sản; yêu cầu thẩm
định giá tài sản; xem xét, thẩm định tại chỗ; uỷ thác thu thập, xác minh tài liệu chứng cứ; yêu
cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc đƣợc, nghe đƣợc, nhìn đƣợc hoặc hiện vật
khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự. Tuỳ trƣờng hợp cụ thể, Thẩm phán có thể


10
áp dụng một hoặc nhiều biện pháp đó để thu thập chứng cứ.

Từ những phân tích trên có thể kết luận hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án là
hoạt động của Thẩm phán trong việc tiến hành các biện pháp pháp lý theo quy định của pháp
luật nhằm tập hợp các chứng cứ liên quan đến vụ việc dân sự đã đƣợc Tòa án thụ lý để xây
dựng, hoàn thiện hồ sơ, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự
thật khách quan của vụ việc dân sự. Hoạt động này thể hiện ở việc Thẩm phán yêu cầu đƣơng
sự bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét thấy các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc chƣa
đủ cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự hay tự mình thu thập chứng cứ trong các trƣờng hợp
luật định.

1.1.2. Đặc điểm của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng
dân sự
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự là hoạt động có tính
quyền lực nhà nước
Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt với hoạt động thu thập chứng cứ của các chủ thể
tố tụng khác nhƣ đƣơng sự, ngƣời đại diện, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự. Bởi vì, hoạt động thu thập chứng cứ của các chủ thể trên là nhằm thu thập các
chứng cứ cung cấp cho Tòa án để chứng minh cho yêu cầu tố tụng của mình hay phản bác
yêu cầu tố tụng của đối phƣơng. Các hoạt động thu thập chứng cứ này không mang tính
quyền lực nhà nƣớc nhƣ hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án.
Tính quyền lực nhà nƣớc đƣợc thể hiện ở chỗ biện pháp thu thập chứng cứ mà Tòa án
tiến hành có tính ràng buộc trách nhiệm với các chủ thể liên quan. Chẳng hạn, nhƣ đƣơng sự,
ngƣời làm chứng có nghĩa vụ phải có mặt theo triệu tập lấy lời khai của Tòa án, cơ quan hữu
quan phải phối hợp với Tòa án trong việc tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ; cử ngƣời
tham gia Hội đồng định giá; Tòa án nhận đƣợc ủy thác có trách nhiệm thực hiện công việc ủy
thác thu thập chứng cứ trong thời hạn luật định; các chủ thể đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ
phải thực hiện yêu cầu cung cấp chứng cứ của Tòa án đúng thời hạn và phải chịu trách nhiệm
pháp lý về hành vi vi phạm của mình...
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự do Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ việc dân sự tiến hành
Đặc điểm này là dấu hiệu để phân biệt với hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng

hình sự. Việc thu thập chứng cứ trong tố tụng hình sự là thuộc trách nhiệm của cơ quan điều
tra. Tòa án khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu xét thấy các tài liệu, chứng cứ chƣa đầy đủ thì
Tòa án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung chứ không trực tiếp thực hiện công việc thu


11
thập cứ nhƣ trong tố tụng dân sự.
Mỗi một loại tố tụng đều phải tuân thủ những nguyên tắc, đặc trƣng riêng. Trong tố
tụng dân sự ghi nhận nguyên tắc đƣơng sự có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình; tố
tụng hình sự ghi nhận nguyên tắc cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ chứng minh tội
phạm; tố tụng hành chính ghi nhận nguyên tắc đƣơng sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ, Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ và cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ. Từ những nguyên tắc trên dẫn tới mỗi hoạt động thu thập chứng cứ trong một
hoạt động tố tụng mang những đặc trƣng khác biệt.
Việc thu thập chứng cứ trong tố tụng hình sự là thuộc trách nhiệm của cơ quan điều
tra nên đƣơng nhiên cơ quan tiến hành tố tụng có quyền chủ động hoàn toàn trong quá trình tố
tụng nói chung, trong quá trình thu thập, đánh giá chứng cứ nói riêng. Trong vụ án hình sự,
vai trò thu thập chứng cứ chủ yếu thuộc về cơ quan công an điều tra. Tòa án khi nghiên cứu
hồ sơ vụ án, nếu xét thấy các tài liệu, chứng cứ chƣa đầy đủ thì Tòa án ra quyết định trả hồ sơ
để điều tra bổ sung. Tòa án chỉ thu thập chứng cứ tại phiên tòa, trong phần xét hỏi bằng hình
thức hỏi bị cáo và những ngƣời tham gia tố tụng khác. Khi có vấn đề mới phát sinh thể hiện
tại lời khai tại phiên tòa hoặc trong hồ sơ vụ án Tòa án không trực tiếp tiến hành các biện
pháp nghiệp vụ để điều tra mà chỉ có thể yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung.
Trong tố tụng hành chính, việc thu thập chứng cứ tuân thủ theo 3 nguyên tắc quy định
tại Điều 8, Điều 9 Luật Tố tụng Hành chính. Đó là các nguyên tắc: Quyền và nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ của đƣơng sự; nguyên tắc xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án và nguyên
tắc trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ cho đƣơng sự, Tòa án, Viện
kiểm sát. Theo đó thì nghĩa vụ cung cấp chứng cứ trong vụ án hành chính thuộc về đƣơng sự
- đƣơng sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng chứ chứng minh cho yêu cầu của mình.
Quy định này gần giống với quy định về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự, các bên

đƣơng sự có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc cung cấp chứng cứ bảo vệ quyền và
lợi ích của mình. Tuy nhiên do đặc thù của tố tụng hành chính là bên bị kiện là cơ quan nhà
nƣớc, bên khởi kiện là bên yếu thế hơn nên việc thu thập chứng cứ của nguyên đơn có thể gặp
khó khăn, do vậy vai trò của Tòa án trong việc xác minh, thu thập chứng cứ là rất quan trọng
và cần thiết nhằm đảm bảo việc xác định sự thật khách quan, giúp cho việc giải quyết vụ án
công bằng, minh bạch.
Có thể nhận thấy, trong bất kể một vụ án nào thì việc thu thập chứng cứ của Tòa án
cũng là cần thiết nhƣng tùy thuộc vào đặc thù của từng loại vụ việc mà vai trò này của Tòa án
nhiều hay ít. BLTTDS đƣợc xây dựng trên tinh thần “việc dân sự cốt ở đôi bên”, quyền, nghĩa


12
vụ và điều kiện của các bên là ngang nhau nên nghĩa vụ chứng minh là của đƣơng sự, Tòa án
chỉ thu thập chứng cứ trong một số trƣờng hợp luật định. Luật Tố tụng hành chính, do đặc thù
là phía bên bị kiện luôn là cơ quan nhà nƣớc nên bên khởi kiện luôn là bên yếu thế, do vậy
việc thu thập chứng cứ để cung cấp cho Tòa án phục vụ cho việc chứng minh đôi khi gặp khó
khăn, chính vì vậy vai trò thu thập chứng cứ của Tòa vẫn cần đƣợc đề cao hơn. Đối với tố
tụng hình sự thì lại hoàn toàn khác, mục đích của hoạt động tố tụng hình sự là truy tố những
hành vi vi phạm pháp luật có tính chất nguy hiểm cho xã hội để bảo vệ tính nghiêm minh của
pháp luật. Trong tố tụng hình sự, tâm lý của bị can, bị cáo hoàn toàn không muốn mình bị
khởi tố, truy tố và xét xử mà luôn muốn che dấu hành vi, trốn tránh trách nhiệm, né tránh việc
bị trừng phạt. Do vậy pháp luật tố tụng hình sự không quy định họ phải có nghĩa vụ chứng
minh, họ cũng không phải chịu tình tiết tăng nặng nếu không khai báo hoặc khai báo gian dối.
Nghĩa vụ thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm trong trƣờng hợp này thuộc về nhà nƣớc
mà vụ thể là các cơ quan tiến hành tố tụng.
Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự do Thẩm phán giải
quyết vụ việc tiến hành. Đây cũng là đặc điểm cơ bản để phân biệt với hoạt động thu thập
chứng cứ của các chủ thể khác trong tố tụng dân sự nhƣ đƣơng sự, ngƣời đại diện, ngƣời bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và Viện kiểm sát. Ngoài ra, đặc điểm “hoạt động
thu thập chứng cứ do Thẩm phán trực tiếp thụ lý giải quyết vụ việc dân sự tiến hành” là dấu

hiệu để khẳng định quyền năng của Thẩm phán trong việc thu thập chứng cứ đối với các vụ
việc dân sự. Thẩm phán đƣợc phân công trực tiếp giải quyết vụ án là ngƣời nắm rõ nội dung
vụ việc nhất, là ngƣời chịu trách nhiệm về kết quả của việc giải quyết vụ việc. Chánh án và
Phó chánh án không có vai trò trong việc thu thập chứng cứ để giải quyết vụ việc. Thƣ ký
Tòa án cũng không có quyền thu thập chứng cứ mà chỉ là ngƣời giúp việc cho Thẩm phán, hỗ
trợ Thẩm phán trong một số hoạt động thu thập chứng cứ nhƣ ghi biên bản lấy lời khai, biên
bản định giá tài sản, biên bản đối chất, nhận các tài liệu đƣơng sự giao nộp khi đƣợc Thẩm
phán đồng ý.
Do vậy hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án thực chất là hoạt động nghiệp vụ của
Thẩm phán trực tiếp thụ lý giải quyết vụ án tiến hành. Mặc dù BLTTDS quy định các đƣơng
sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để Tòa án xem xét giải quyết vụ án, nhƣng nếu “phó thác”
toàn bộ nghĩa vụ chứng minh cho các đƣơng sự để giải phóng hoàn toàn nghĩa vụ chứng
minh của Tòa án, thì sẽ không thực tế trong điều kiện hiện nay ở nƣớc ta. Vì nhƣ vậy có thể
làm cho vụ án bị giải quyết thiếu khách quan, làm lợi cho đƣơng sự này nhƣng lại xâm phạm
quyền và lợi ích chính đáng của đƣơng sự khác.


13
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án được tiến hành theo yêu cầu giải quyết vụ
việc dân sự
Khi tham gia tố tụng, các đƣơng sự có nghĩa vụ cung cấp chứng minh, do vậy họ phải
thu thập chứng cứ nộp cho Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình. Một trong các nguyên tắc
cơ bản đƣợc ghi nhận trong tố tụng dân sự là nghĩa vụ chứng minh thuộc về đƣơng sự. Vì vậy
đƣơng sự, ngƣời đại diện theo ủy quyền, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng
sự phải tiến hành thu thập chứng cứ để cung cấp cho Tòa án, nghĩa vụ thu thập chứng cứ để
chứng minh trƣớc tiên thuộc về đƣơng sự. hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án chỉ mang
tính hỗ trợ cho đƣơng sự và phục vụ cho việc làm rõ cơ sở, quyết định của Tòa án.
Không phải vụ việc dân sự nào cũng yêu cầu Tòa án tiến hành các hoạt động thu thập
chứng cứ nhƣ nhau mà tùy thuộc vào yêu cầu của từng vụ việc, Tòa án sẽ tiến hành các hoạt
động thu thập chứng cứ cần thiết, phù hợp. Trong nhiều vụ án, khả năng tự bảo vệ của đƣơng

sự yếu, chứng cứ đƣơng sự không tự thu thập đƣợc…, nếu đợi chứng cứ do đƣơng sự giao
nộp, cung cấp thì vụ việc sẽ bị kéo dài mà không có hƣớng giải quyết, dẫn đến tình trạng án
tồn, án quá hạn, án bị hủy hoặc sửa. Ví dụ: Trong vụ việc hôn nhân gia đình, nếu các đƣơng
sự thỏa thuận đƣợc về mọi mối quan hệ, hoặc nếu không thỏa thuận đƣợc nhƣng đƣơng sự đã
xuất trình đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình, nộp bản tự khai có nội
dung đầy đủ, rõ ràng thì Tòa án không phải tiến hành thu thập chứng cứ nữa mà chỉ căn cứ
vào các chứng cứ đƣơng sự cung cấp, đánh giá chứng cứ và ra quyết định, bản án theo quy
định của pháp luật. Tuy nhiên cũng trong vụ việc hôn nhân gia đình, nếu có tranh chấp xảy ra,
các đƣơng sự không thống nhất về việc giải quyết một vẫn đề nào đó mà lại không cung cấp
đƣợc chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình thì Tòa án phải tiến hành nhiều biện pháp
thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án nhƣ tiến hành lấy lời khai của đƣơng sự, xác minh, đối
chất, định giá tài sản…, từ đó mới có căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phải được tiến hành theo quy định của
pháp luật
Nhƣ đã phân tích ở trên thì một trong những thuộc tính cơ bản của chứng cứ là tính
hợp pháp. Theo đó, những thông tin thực tế về vụ việc dân sự phải đƣợc Thẩm phán thu thập
từ các nguồn hợp pháp và theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Đặc điểm này
nhằm bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ, tránh sự lạm quyền hay tùy tiện của Thẩm phán,
ngăn ngừa các hành vi gây tổn hại đến quyền của đƣơng sự.
Các sự kiện, tình tiết để trở thành chứng cứ trong vụ việc dân sự có giá trị chứng minh
cho yêu cầu hay phản đối của các bên thì cần phải đƣợc thu thập, bảo quản, củng cố, nghiên


14
cứu và đánh giá theo một thủ tục do luật định, trình tự này nhằm bảo đảm giá trị của chứng
cứ, buộc Thẩm phán tiến hành tố tụng dân sự một cách thận trọng, chặt chẽ; vừa đảm bảo độ
tin cậy và tính khách quan của các chứng cứ do Tòa án thu thập và sử dụng, từ đó các phán
quyết của Tòa án có đƣợc sức thuyết phục cao, thể hiện tính công bằng, nghiêm minh của
pháp luật. Chứng cứ sẽ mất giá trị nếu trong quá trình thu thập có sự vi phạm quy định của
pháp luật. Chẳng hạn, khi Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của đƣơng sự ngoài trụ sở Tòa án

thì cần phải có ngƣời làm chứng chứng kiến và ký tên vào biên bản ghi lời khai, có xác nhận
của UBND, công an xã, phƣờng, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản, nếu thiếu
ngƣời làm chứng hoặc không có xác nhận thì biên bản đó không có giá trị về mặt pháp lý và
không đƣợc coi là chứng cứ vì vi phạm thủ tục thu thập chứng cứ. Với cách quy định chặt chẽ
về thủ tục thu thập chứng cứ nhƣ trên sẽ hạn chế đƣợc việc lập khống các biên bản lấy lời
khai hoặc giả mạo chứng cứ, đồng thời tránh đƣợc phản bác của đƣơng sự đối lập về tính hợp
pháp của tài liệu, chứng cứ.
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án giữ vai trò là tiền đề cần thiết cho việc giải
quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ việc dân sự
Thứ nhất, hệ thống tƣ pháp Việt Nam đƣợc tổ chức và hoạt động theo truyền thống
pháp luật lục địa. Trong đó, tố tụng dân sự thể hiện tính chất pha trộn giữa tố tụng tranh tụng
và tố tụng xét hỏi nhƣng yếu tố xét hỏi nổi trội hơn. Thẩm phán đƣợc phân công giải quyết vụ
án là ngƣời trực tiếp xây dựng hồ sơ vụ án và trên cơ sở hồ sơ này để giải quyết vụ án. Quá
trình xác minh, thu thập chứng cứ cũng chính là quá trình xây dựng hồ sơ vụ án dân sự. Chính
vì vậy, hồ sơ vụ án dân sự là yếu tố có ý nghĩa hết sức quan trọng trong giải quyết vụ án.
Ngoài việc phải đảm bảo việc giải quyết vụ án dân sự khách quan, công bằng, đúng pháp luật,
Thẩm phán còn có trách nhiệm giải quyết vụ án đúng thời hạn. Mặt khác, lý luận về chứng cứ
cũng cho thấy, Tòa án là cơ quan có nhiệm vụ đánh giá toàn bộ chứng cứ để giải quyết đúng
đắn vụ án. Việc đánh giá chứng cứ có đúng đắn, khách quan và toàn diện hay không phụ
thuộc vào việc cung cấp, thu thập chứng cứ có đầy đủ, chính xác và đúng pháp luật hay
không. Trách nhiệm của Thẩm phán là phải đảm bảo trong hồ sơ vụ án có đầy đủ chứng cứ
làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án.
Do đó, mặc dù ghi nhận các đƣơng sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để Tòa án xem
xét giải quyết vụ án, nhƣng nếu “phó thác” toàn bộ nghĩa vụ chứng minh cho các đƣơng sự
để giải phóng hoàn toàn nghĩa vụ chứng minh của Tòa án, thì sẽ không thực tế trong điều kiện
hiện nay ở nƣớc ta. Vì nhƣ vậy có thể làm cho vụ án bị giải quyết thiếu khách quan, làm lợi


15

cho đƣơng sự này nhƣng lại xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của đƣơng sự khác. Tòa
án là cơ quan bảo vệ công lý, có nhiệm vụ giải quyết vụ việc dân sự. Để giải quyết đúng đắn
vụ việc dân sự thì Tòa án phải xác định xem trong vụ việc dân sự phải chứng minh, làm rõ
những sự kiện, tình tiết nào? Các chứng cứ, tài liệu đƣơng sự và những ngƣời tham gia tố
tụng cung cấp có đủ để giải quyết vụ việc dân sự chƣa?
Mặc dù đề cao vai trò chứng minh của đƣơng sự trong tố tụng dân sự, nhƣng cần phải
nhận thức rằng trong điều kiện của Việt Nam hiện nay thì hoạt động thu thập chứng cứ của
Tòa án vẫn giữ vai trò là một hoạt động tiền đề quan trọng trong quá trình chứng minh vụ
việc dân sự.
Tòa án, mà cụ thể là Thẩm phán trực tiếp thụ lý giải quyết vụ án dân sự là ngƣời tiếp
xúc trực tiếp với chứng cứ, với các đƣơng sự trong vụ án dân sự, nghe đƣơng sự trình bày yêu
cầu cũng nhƣ chứng minh cho yêu cầu của mình. Từ đó, bằng sự hiểu biết pháp luật cũng nhƣ
nghiệp vụ của mình Thẩm phán hiểu rõ những vấn đề khúc mắc trong vụ án, những vấn đề gì
đã rõ và vấn đề nào cần làm rõ, từ đó xác định đƣợc phƣơng hƣớng, vấn đề cần chứng minh,
yêu cầu đƣơng sự cung cấp chứng cứ chứng minh hoặc tự thu thập chứng cứ chứng minh. Do
vậy hiệu quả chứng minh sẽ cao hơn, tránh tình trạng thu thập chứng cứ tràn lan, không có
trọng tâm dẫn đến chứng cứ thu thập đƣợc không có giá trị chứng minh.
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án giữ vai trò hỗ trợ các đương sự trong việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình
Với đặc thù là một nƣớc có nền kinh tế đang phát triển, mặt bằng về kinh tế của ngƣời
dân nói chung còn thấp, hiểu biết và sự tiếp cận pháp luật còn chƣa cao nên mặc dù đề cao vai
trò chứng minh của đƣơng sự trong tố tụng dân sự, nhƣng vẫn chƣa thể xóa bỏ vai trò của
Tòa án trong việc chứng minh nhƣ pháp luật tố tụng dân sự một số nƣớc. Sở dĩ nhƣ vậy vì
nếu đƣơng sự tự mình thu thập toàn bộ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình thì sẽ
gặp rất nhiều khó khăn do bản thân họ hiểu biết về pháp luật có hạn, không xác định đƣợc
những chứng cứ nào cần thiết cho vấn đề mình cần chứng minh, hơn nữa có nhiều tài liệu,
chứng cứ do cá nhân, cơ quan, tổ chức quản lý nếu để tự đƣơng sự thu thập nhiều khi rất khó
khăn. Trong điều kiện hiện nay, khả năng tự bảo vệ của các đƣơng sự trong vụ án dân sự còn
rất yếu, sự hiểu biết pháp luật của họ còn hạn chế. Nhất là đƣơng sự ở những vùng nông thôn
và miền núi, họ không có điều kiện mời luật sƣ để bảo vệ quyền lợi cho mình. Do đó, khi có

tranh chấp dân sự xảy ra, họ không biết phải có các chứng cứ, tài liệu gì để bảo vệ quyền lợi
của mình, tìm kiếm các chứng cứ đó ở đâu, để cung cấp cho Tòa án. Trong khi đó, điều kiện
phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam chƣa cho phép chúng ta quy định việc tham gia tố tụng


16
của luật sƣ là bắt buộc, nên nếu quy định nghĩa vụ chứng minh hoàn toàn thuộc về đƣơng sự
có thể dẫn đến tình trạng đƣơng sự không có khả năng chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự sẽ giúp đƣơng sự trong
việc định hƣớng các nguồn chứng cứ; thu thập những chứng cứ mà đƣơng sự không có khả
năng thu thập. Bởi vậy, đƣơng sự có quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ khi có căn cứ
chứng minh mình không thể tự thu thập đƣợc nhƣ yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Căn cứ
theo yêu cầu của đƣơng sự Tòa án ra các quyết định nhƣ trƣng cầu giám định, định giá tài
sản, yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức giao nộp chứng cứ… Chính bởi vậy, hoạt động thu
thập chứng cứ của Tòa án giữ vai trò hỗ các đƣơng sự trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình.
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nhằm giúp Tòa án thực hiện vai trò là cơ
quan bảo vệ công lý
Trong nhà nƣớc pháp quyền, Tòa án luôn là ngƣời đại diện và ngƣời thực thi công lý.
Vấn đề thực thi công lý của Tòa án gắn liền với việc đảm bảo quyền tiếp cận công lý của
công dân. Công lý là một khái niệm xuất hiện trong lĩnh vực triết học từ thời Hy Lạp cổ đại
và đƣợc phát triển mạnh mẽ trong nền khoa học pháp lý ngày nay. Ngay từ khi mới hình
thành nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến nhiệm
vụ của Tòa án trong việc bảo vệ công lý. Điều 47 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 quy định
cách tổ chức ngạch Tòa án và các ngạch Thẩm phán ở Việt Nam khẳng định “Các vị Thẩm
phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý”
Ở Việt Nam mô hình xây dựng pháp luật tố tụng dân sự về căn bản là theo truyền
thống luật dân sự. Pháp luật Việt Nam đƣợc hình thành qua nhiều thời kì khác nhau, chịu sự
ảnh hƣởng của nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới, tuy vậy có thể xếp pháp luật Việt Nam

vào hệ thống pháp luật dân sự và theo thủ tục tố tụng xét hỏi. Xu hƣớng cải tổ của pháp luật
Việt Nam là kết hợp những yếu tố tranh tụng của tố tụng tranh tụng vào thủ tục xét hỏi. Tòa
án Việt Nam ngoài nhiệm vụ xét xử những vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và
các vụ án khác theo quy định của pháp luật thì trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có
nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ
của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nƣớc, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh
dự và nhân phẩm của công dân. Trong điều kiện Việt Nam là một đất nƣớc mà đa phần số
dân đều làm nông nghiệp, do vậy, việc Tòa án thu thập chứng cứ trong một số trƣờng hợp
mặc dù không có vai trò quá lớn đối với các doanh nghiệp, các thị dân thành phố nhƣng đối


17
với khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa thì đó lại là một vấn đề giữ vai trò hết sức quan
trọng. Ngƣời dân Việt Nam vốn xa lạ với việc phải tự mình tìm kiếm chứng cứ chứng minh
để bảo vệ quyền lợi của mình, sau khi nộp đơn kiện rồi thì thƣờng phó mặc cho Tòa án giải
quyết mà không biết rằng mình phải tự đi thu thập các tài liệu cần thiết để chứng minh, do
vậy nhiều khi quyền lợi chính đáng của họ sẽ bị ảnh hƣởng. Hơn nữa đặc thù của tố tụng dân
sự là quyền của bên này thƣờng tƣơng ứng với nghĩa vụ của bên kia, lợi ích của các bên
đƣơng sự thƣờng đối lập nhau nên sẽ có việc là bên nguyên đơn cung cấp chứng cứ gây bất
lợi cho bị đơn và ngƣợc lại, hành vi này nhiều khi làm sai lệch một vụ án nếu Tòa án không
công tâm, không có các biện pháp thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ chính xác, công tâm.
Chính vì vậy, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án còn giữ vai trò bảo vệ lẽ phải, thực
hiện vai trò là cơ quan bảo vệ công lý.

1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định điều chỉnh hoạt động
thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự
- Việc xây dựng các quy định điều chỉnh hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
phải xuất phát từ đường lối của Đảng về hoạt động tư pháp
Nghị quyết 49 ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng đã
xác định mục tiêu của Cải cách tƣ pháp là “Xây dựng một nền tƣ pháp trong sạch, vững

mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bƣớc hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng
sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tƣ pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử
đƣợc tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.
Mục tiêu chiến lƣợc mà Bộ chính trị đề ra là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu đòi hỏi
của một xã hội đang thực hiện đƣờng lối đổi mới một cách phù hợp, toàn diện, phù hợp với
thể chế Nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Và cũng phù hợp với trào lƣu phát
triển của đất nƣớc, của khu vực và thế giới. Nghị quyết 49 cũng đã chỉ rõ: “Đòi hỏi của công
dân và xã hội đối với cơ quan tƣ pháp ngày càng cao; các cơ quan tƣ pháp phải thực sự là chỗ
dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con ngƣời, đồng thời phải là công cụ hữu
hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa…”. Nghị quyết xác định trong cải cách tƣ
pháp, Tòa án là trung tâm, hoạt động xét xử là trọng tâm. Trƣớc yêu cầu của về cải cách tƣ
pháp mà Đảng và Nhà nƣớc đã đề ra, các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về hoạt động
thu thập chứng cứ phải đƣợc xây dựng theo định hƣớng cơ bản này. Để Tòa án thực sự là chỗ
dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con ngƣời, bảo vệ pháp luật và pháp chế
xã hội chủ nghĩa thì không thể phó mặc việc thu thập chứng cứ cho đƣơng sự mà phải có sự
kết hợp, hỗ trợ Tòa án trong hoạt động này.


18
- Việc xây dựng các quy định điều chỉnh hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
phải phù hợp với đặc điểm truyền thống, văn hóa dân tộc
Pháp luật Việt Nam đƣợc xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở vận dụng học thuyết về
nhà nƣớc pháp quyền – một học thuyết của phƣơng Tây đƣợc hình thành và phát triển trong
xã hội công nghiệp trong khi xã hội Việt Nam là xã hội phƣơng Đông vốn có truyền thống
nông nghiệp, đại đa số cộng đồng ngƣời Việt Nam là nông dân sinh sống ở nông thôn. Hai
đặc điểm khác biệt đó rất ít sự tƣơng đồng và khó dung hòa với nhau. Muốn pháp luật đi vào
cuộc sống, có tác động tích cực tới sự phát triển của xã hội thì cần phải xây dựng pháp luật
vừa phù hợp với yêu cầu của nhà nƣớc pháp quyền, vừa phù hợp với đặc điểm truyền thống,
văn hóa dân tộc bởi nếu chỉ sao chép nguyên bản các quy định của pháp luật nƣớc ngoài theo
trào lƣu hội nhập mà không xét đến gốc rễ, cội nguồn sâu xa của vấn đề trong mối liên hệ với

nền văn hóa, lịch sử của mỗi dân tộc thì các quy định đó sẽ xa lạ và không thể tồn tại lâu dài.
Các quy định điều chỉnh hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự cũng
đƣợc xây dựng xuất phát từ cơ sở đó.
Là một nƣớc nông nghiệp, văn hóa làng xã phát triển, ngƣời dân đa phần có tâm lý
duy tình hơn duy lý nên sự chủ động trong việc chứng minh bảo vệ cho quan điểm của mình
rất hạn chế nên việc quy định vai trò của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ là rất cần thiết,
giúp pháp luật tố tụng dân sự dễ đi vào cuộc sống nhờ sự phù hợp với đặc điểm truyền thống,
văn hóa của dân tộc.
- Việc xây dựng các quy định điều chỉnh hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
phải xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước
Pháp luật là một bộ phận quan trọng của cấu trúc thƣợng tầng xã hội. Nó do cơ sở hạ
tầng quyết định nhƣng có tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Nếu pháp luật phản ánh đúng
đắn các quy luật vận động và phát triển của xã hội thì sẽ có tác động tích cực đối với sự phát
triển của xã hội và ngƣợc lại. Yêu cầu đặt ra đối với bất kì một văn bản pháp luật nào là phải
vừa phản ảnh đƣợc những quy luật chung về sự phát triển của xã hội, vừa phản ánh đƣợc
những quy luật mang tính đặc thù trong từng giai đoạn, từng lĩnh vực.
Một trong những nội dung quan trọng phải đƣợc thẩm định tại Khoản 3 Điều 36 Luật
Ban hành văn bản pháp luật là “tính khả thi của dự thảo văn bản, bao gồm sự phù hợp giữa
quy định của dự thảo văn bản với yêu cầu thực tế, trình độ phát triển của xã hội và điều kiện
để đảm bảo thực hiện”. Sẽ là vô nghĩa và gây ra những tốn kém không cần thiết cả về thời
gian và tiền bạc khi cho ra đời một văn bản pháp luật xa rời thực tế.


19
Những quy định về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án xuất phát từ điều kiện
của Việt Nam với một nền kinh tế mà thành phần chủ yếu là kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khi chuyển sang kinh tế thị trƣờng, Tòa án
đứng trƣớc thực trạng là đất nƣớc đã và đang từng bƣớc quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một
xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, trình độ phát triển của lực lƣợng sản xuất rất thấp. Đất
nƣớc lại phải trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại rất nặng nề. Những tàn dƣ

thực dân phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hƣởng nặng nề của cơ chế tập trung bao cấp. Với
những đặc điểm nhƣ trên có thể nhận thấy rằng nền kinh tế nƣớc Tòa án không còn hoàn toàn
là nền kinh tế tự cấp, tự túc, nhƣng cũng chƣa phải là nền kinh tế hàng hóa theo nghĩa đầy đủ.
Mặt khác, do có sự đổi mới về mặt kinh tế nên nền kinh tế nƣớc ta khi chuyển sang nền kinh
tế thị trƣờng là nền kinh tế hàng hóa kém phát triển. Có thể nhận thấy rằng tuy chuyển đổi
nền kinh tế nhƣng các dịch vụ pháp lý của Việt Nam chƣa phát triển, sự hiểu biết pháp luật
của ngƣời dân còn hạn chế nên việc quy định vai trò của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ
là phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện tại.
Tuy nhiên, việc xây dựng các quy định về thu thập chứng cứ của Tòa án cũng phải
tính đến yếu tố hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội trong tƣơng lai. Việt Nam đang đứng
trƣớc ngƣỡng cửa của sự hội nhập mạnh, kể cả về chiều rộng lẫn chiều sau với thế giới về
kinh tế và xã hội. Theo đó, pháp luật, đặc biệt là pháp luật về tố tụng dân sự cũng phải có
những bƣớc chuyển mình để bắt kịp xu thế của thế giới. Ngoài ra, cùng với sự phát triển về
kinh tế, xã hội chắc chắn sẽ phát sinh nhiều quan hệ pháp luật mới cần điều chỉnh. Pháp luật
tố tụng dân sự đƣợc áp dụng khi giải quyết rất nhiều quan hệ pháp luật của nhiều ngành luật
nhiều luật điều chỉnh nhƣ luật dân sự, luật thƣơng mại, luật hôn nhân gia đình, luật lao
động… Các quan hệ pháp luật đang thay đổi mỗi ngày theo hƣớng ngày càng đa dạng và
phức tạp hơn. Vì thế, pháp luật tố tụng dân sự nói chung, quy định về hoạt động thu thập
chứng cứ nói chung cần hoàn thiện hơn để thích ứng đƣợc với những thay đổi của kinh tế xã
hội, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án.
- Việc xây dựng các quy định điều chỉnh hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
phải xuất phát từ việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân
Pháp luật tố tụng dân sự là một phƣơng tiện bảo đảm thực tế cho các quyền và lợi ích
về dân sự của cá nhân, tổ chức. Xuất phát từ bản chất đặc biệt của quá trình tố tụng nên những
quy định trong pháp luật tố tụng dân sự, trong đó có các quy định điều chỉnh hoạt động thu
thập chứng cứ của Tòa án phải xuất phát từ yêu cầu của hoạt động tố tụng dân sự. Hoạt động
tố tụng dân sự trong thời kỳ hiện nay phải vừa là phƣơng tiện hữu hiệu để ngƣời dân có thể sử


20

dụng trong việc bảo vệ quyền lợi cho mình, vừa là công cụ hữu hiệu để điều chỉnh các quan
hệ xã hội đã, đang và sẽ phát sinh trong cuộc sống. Muốn vậy, việc xây dựng các quy định
điều chỉnh hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phải gắn với các yêu cầu bảo vệ công lý,
bảo đảm các quyền tố tụng của đƣơng sự.
Theo kết quả nghiên cứu thì tiếp cận công lý là khả năng của công dân có thể tìm
kiếm và đạt đƣợc một sự đền bù hoặc khắc phục cho những bất công hoặc thiệt hại do cá
nhân hay chủ thể khác gây ra, thông qua các cơ chế tƣ pháp chính thống hoặc không chính
thống phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con ngƣời (Vũ Công Giao
– Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nƣớc pháp quyền – Tạp chí Khoa học Đại học
Quốc gia Hà Nội, Luật học 25/2009 188-194). Nhƣ vậy quyền tiếp cận công lý là khả năng
chủ thể yêu cầu nhà nƣớc tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để sử dụng pháp luật nhằm mục
đích bảo vệ quyền lợi của mình tại cơ quan nhà nƣớc khi có tranh chấp hoặc xử lý vi phạm
pháp luật.
Việc đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân luôn gắn với vấn đề thực thi công
lý của Tòa án. Khi có tranh chấp không tự hòa giải đƣợc, ngƣời dân phải tìm đến Tòa án để
phân giải đúng sai, khi có vi phạm thì Tòa án là nơi cuối cùng để xử lý trách nhiệm trên cơ sở
công lý. Quá trình yêu cầu Tòa án thực thi công lý chính là quá trình tiếp cận công lý của
công dân. Quá trình đó bắt đầu từ nhu cầu đƣợc tiếp cận công lý và kết thúc là phán quyết và
thực hiện phán quyết của Tòa án. Để tiếp cận đƣợc với công lý ngƣời dân phải đƣợc biết và
có khả năng để biết công lý nằm ở đâu? Đến với công lý bằng con đƣờng nào và với phƣơng
tiện gì? Muốn vậy, những quy định về hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự cần
phải tạo điều kiện để công dân biết và thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình, vừa phải tạo
điều kiện để Tòa án thu thập chứng trong các trƣờng hợp cần thiết để tìm ra sự thật khách
quan, giúp cho việc giải quyết vụ việc dân sự thực sự công bằng và thuyết phục, bảo vệ quyền
và lợi ích của công dân trƣớc những hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
- Việc xây dựng các quy định điều chỉnh hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
phải bảo đảm tính trung thực, khách quan, vô tư trong việc thu thập
Tính trung thực, khách quan, vô tƣ thể hiện ở việc tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp
luật, tiến hành công việc của mình với thái độ thực sự công tâm, khách quan, vô tƣ, không
đƣợc để những quan hệ, tình cảm cá nhân chi phối vào công việc. Không đƣợc có thái độ

thiên vị hay định kiến đối với bất kỳ ngƣời tham gia tố tụng nào, tạo điều kiện để mọi công
dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật. Pháp luật tố tụng dân sự đã quy định cụ thể những trƣờng
hợp ngƣời tiến hành tố tụng phải từ chối hoặc bị thay đổi để đảm bảo đƣợc yêu cầu trên của


21
hoạt động tố tụng dân sự, nhằm mục đích để việc thu thập chứng cứ của Tòa án có hiệu quả,
có tính thuyết phục cao. Ngoài ra, khi xây dựng các quy định về hoạt động thu thập cần cụ thể
hóa các biện pháp thu thập mà Tòa án đƣợc phép tiến hành nhằm tránh sự tùy tiện, lạm quyền
đồng thời phải thiết lập các thủ tục chặt chẽ, có cơ chế kiểm soát để bảo đảm tính khách quan,
độ tin cậy của các thông tin mà Tòa án thu thập đƣợc.

1.3. Kinh nghiệm lập pháp một số nƣớc trên thế giới về điều chỉnh hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án
Trong giai đoạn hiện nay, xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, có ảnh hƣởng
đến tất cả các mặt của đời sống xã hội đất nƣớc trong đó có cả lĩnh vực tố tụng dân sự. Vì thế,
việc xây dựng các quy định về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự
cần phải vận dụng những kinh nghiệm về lập pháp của một số nƣớc trên thế giới để pháp luật
Việt Nam có đƣợc sự tƣơng thích nhất định với pháp luật nƣớc ngoài, không bị biệt lập trong
quá trình hội nhập, học hỏi kinh nghiệm để rút ngắn đƣợc thời gian nghiên cứu cũng nhƣ áp
dụng thực tiễn áp dụng.
Nhìn trên bình diện tổng quát, mặc dù cả hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới là hệ
thống Luật Án lệ và hệ thống Luật Dân sự đều có nhiều điểm tƣơng đồng khi quy định nghĩa
vụ cung cấp chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh thuộc về các bên đƣa ra yêu cầu, tuy nhiên do
đặc trƣng của từng hệ thống pháp luật và theo đặc trƣng của từng quốc gia thì các quy định này
cũng có những điểm khác biệt nhất định. Phần lớn các nƣớc theo hệ thống Luật Án lệ hoàn toàn
không quy định vai trò thu thập chứng cứ của Tòa án, Thẩm phán không có trách nhiệm trong
việc tìm ra sự thật, theo đó thì Tòa án chỉ đƣợc coi là cơ quan trọng tài, chỉ phân xử trên cơ sở
những chứng cứ do đƣơng sự cung cấp. Việc cung cấp chứng cứ chứng minh hoàn toàn thuộc
trách nhiệm của các bên, cụ thể là của luật sƣ các bên. Vai trò của Thẩm phán ở đây là vai trò

của một trọng tài, phân xử căn cứ vào các chứng cứ mà các đƣơng sự đƣa ra tranh luận tại phiên
tòa, Thẩm phán hoàn toàn không tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ.
Ở Hoa Kỳ, một vụ kiện thƣờng bắt đầu bằng việc bên khiếu kiện đệ đơn lên thƣ ký
Tòa án quận trong đó nêu rõ yêu cầu của mình và viện dẫn những cơ sở pháp lý và thực tiễn
ủng hộ cho yêu cầu đó. Thƣ ký Tòa sẽ phát hành trát đòi hầu tòa gửi tới bị đơn kèm theo bản
sao của đơn khiếu kiện để báo cho bị đơn biết về việc họ đang bị kiện và khoảng thời gian họ
có để tìm cách bảo vệ mình. Trƣớc khi Tòa án mở phiên tòa xét xử, các bên sẽ phải trao đổi
chứng cứ và các nhận định dựa trên những gì họ dự kiến tranh luận trong phiên tòa. Phiên tòa
sẽ đƣợc tiến hành bằng cách các bên đƣa ra các chứng cứ, thẩm phán hoặc bồi thẩm sẽ dựa
hoàn toàn vào các bằng chứng đó để ra phán quyết. Tƣơng tự nhƣ vậy, ở Anh, phiên tòa xét


×