Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (766.73 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG VĂN HÙNG

KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ
TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN BÁ NGỪNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan luận văn là cơng trình nghiên cứu độc lập của tôi với
sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn khoa học. Các nội dung, số liệu nêu
trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu trong luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI
QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ .. 5


1.1. Nhận thức chung về các khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố ............................................................................................. 5
1.1.1. Khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm ........................................ 5
1.1.2. Khái niệm về kiến nghị khởi tố ........................................................ 13
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ...18
1.2. Công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác về tội phạm và kiến nghị
khởi tố ............................................................................................................ 19
1.2.1. Nhiệm vụ tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố ........................................................................... 19
1.2.2. Trình tự tiếp nhận và giải quyết tố giác tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố.................................................................................................. 23
1.3. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân đối với công tác tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ............................ 28
1.3.1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận giải quyết tố giác,tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố .................................................................. 28
1.3.2. Nội dung công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố .................................................... 34
Kết luận Chương 1 ................................................................................................. 40
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI
QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ .. 41
2.1. Thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố ..................................................................................................... 41


2.1.1. Tình hình tố giác, tin báo tội phạm và kết quả công tác kiểm sát ............ 41
2.1.2. Kết quả thực hiện nhiệm vụ kiểm sát qua một năm thực hiện Thông tư liên
tịch 6/2013/TTLT ngày 02/8/2013 ....................................................................... 44
2.2. Những tồn tại và vướng mắc, bất cập trong công tác kiểm sát việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ...................................... 46
2.2.1. Một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động kiểm sát ..................................... 46

2.2.2. Những vướng mắc, bất cập của quy định pháp luật đối với hoạt động công
tác kiểm sát .......................................................................................................... 51
2.2.3. Nguyên nhân những tồn tại, hạn chế và vướng mắc, bất cập ................... 58
2.3. Những giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện có hiệu quả cơng tác kiểm
sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ................. 61
2.3.1. Về giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác kiểm sát ..... 61
2.3.2. Các kiến nghị hoàn thiện về cơ sở pháp lý và trong công tác tổ chức thực
hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát .............................................. 64
Kết luận Chương 2 ................................................................................................. 68
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm khách thể được Bộ luật
Hình sự bảo vệ, nên khi có tội phạm xảy ra thì tất yếu phát sinh trách nhiệm của Nhà
nước trong việc phát hiện kịp thời, xử lý tội phạm và người phạm tội để bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, xã hội và công dân.
Trong đấu tranh phịng, chống tội phạm, cơng tác tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là nguồn căn
cứ để xác định có hay khơng có dấu hiệu tội phạm để xem xét quyết định việc khởi tố
hay khơng khởi tố vụ án hình sự. Nhận thức rõ tầm quan trọng của khâu công tác này
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Nghị
quyết của Quốc hội về cải cách tư pháp đều đặt ra yêu cầu phải “thực hiện tốt công
tác tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo tội phạm…”1.
Để thực hiện yêu cầu bảo đảm “Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp
thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo pháp luật”2, “Không để lọt tội phạm và
người phạm tội, khơng làm oan người vơ tội”3 thì hoạt động kiểm sát việc giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát là rất cần thiết, có
vai trị quan trọng, thực hiện tốt công tác này ngay từ khi tội phạm xảy ra nhằm góp
phần bảo đảm việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố đúng pháp luật, có căn cứ, khách quan và triệt để, khắc phục việc bỏ lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội.
Thực hiện chủ trương về cải cách tư pháp, yêu cầu phải tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra, công tác
kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã có nhiều
chuyển biến tích cực, tuy nhiên cơng tác này vẫn cịn những hạn chế và vướng mắc,
bất cập dẫn đến hiệu quả công tác chưa cao. Trong tiếp nhận, phân loại, thụ lý giải
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư
pháp trong thời gian tới”. Nghị quyết số 37/2012/QH13 về công tác phịng, chống vi phạm pháp luật và tội
phạm, cơng tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013.
2
Khoản 1, Điều 3 Bộ luật Hình sự.
3
Khoản 3, Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự.
1


2
quyết cịn vi phạm phổ biến như: khơng thụ lý đầy đủ, thực hiện khơng đúng trình tự,
thủ tục quy định, giải quyết quá hạn chiếm tỷ lệ cao; một số tố giác, tin báo về tội
phạm giải quyết không đúng thẩm quyền, giải quyết khơng chính xác, trình trạng
“khép kín” từ việc tiếp nhận thơng tin và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm vẫn
còn xảy ra, do cơ chế trách nhiệm cung cấp giữa cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp
nhận, giải quyết và Viện kiểm sát không rõ ràng, chưa đầy đủ; việc nắm, quản lý tố
giác, tin báo về tội phạm ở nhiều Viện kiểm sát là không đầy đủ, kịp thời; Viện kiểm
sát là cơ quan được giao chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp nhưng lại thiếu các cơ chế pháp luật để Viện kiểm sát thực hiện trách

nhiệm này, thiếu các cơ chế bảo đảm cho mọi yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát
về chứng minh tội phạm được thực hiện đầy đủ… từ đó chất lượng, hiệu quả cơng
tác kiểm sát còn hạn chế, chưa đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của xã hội, sự mong
đợi của nhân dân: Việc giải quyết, xử lý tin báo về tội phạm chưa kịp thời, tội phạm
còn bị bỏ lọt, chưa được phát hiện nhanh chóng, xử lý nghiêm minh.
Để góp phần khắc phục những tồn tại và vướng mắc, bất cập trong hoạt
động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm sát lĩnh vực này cần
nghiên cứu thực trạng về thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Ngành Kiểm sát, rút ra nguyên
nhân của những hạn chế, vướng mắc bất cập, từ đó đề ra những giải pháp và
kiến nghị nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ cơng tác kiểm sát trong thời
gian tới.
Từ lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài
nghiên cứu luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, theo chúng tơi được biết, đã có các bài viết đăng trên tạp chí
Kiểm sát đề cập vấn đề này, cụ thể: bài Thực trạng và kiến nghị nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến


3
nghị khởi tố của tác giả Bùi Mạnh Cường đăng trên tạp chí số 1/2011; Một số giải
pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố của tác giả Đỗ Mạnh Quang đăng trên tạp chí số 11/2011...
Ngoài ra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có các báo cáo chun đề về cơng tác này
vào năm 2010, 2014. Các bài viết, báo cáo chuyên đề đã nêu thực trạng những vướng
mắc, bất cập, những kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của
Viện kiểm sát. Tuy nhiên, chưa có luận văn nghiên cứu đề tài: "Kiểm sát việc giải

quyết việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố" để lý giải toàn
diện những vấn đề đặt ra về lý luận và thực tiễn, nên việc nghiên cứu đề tài này là vấn
đề mới có ý nghĩa thiết thực trong việc hoàn thiện về mặt lý luận, cũng như phương
diện pháp luật, giải quyết những yêu cầu thực tiễn đòi hỏi để thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của Viện kiểm sát.
3. Mục tiêu, đối tượng nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu
a. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lý luận về kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố, đồng thời làm rõ những bất cập trong áp dụng các quy
định giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ đó đề xuất kiến
nghị nhằm hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động công tác kiểm sát.
b. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài luận văn nghiên cứu về vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn hoạt động
công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của
ngành Kiểm sát nhân dân.
c. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến
nghị khởi tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, trong đó tập trung
đi sâu về kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố.


4
Về thời gian: Khảo sát thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ năm 2009 đến năm 2014 trên phạm vi toàn
quốc (Theo Báo cáo hàng năm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao).
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng, Nhà nước về đấu tranh

phòng, chống tội phạm, luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp tổng hợp;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp tiếp cận hệ thống.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ, bổ sung hồn thiện
cơ sơ lý luận, pháp lý của hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố của ngành Kiểm sát nhân dân, có thể nghiên
cứu để nhận thức và vận dụng trong hoạt động thực tiễn công tác kiểm sát
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong thời gian tới.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của luận văn
gồm hai chương, có nội dung như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2. Thực trạng thực hiện nhiệm vụ của Viện kiểm sát và những giải
pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố.


5
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI
QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
1.1. Khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là những cơ sở xác định dấu
hiệu của tội phạm, mà dấu hiệu tội phạm là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Như vậy,
tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố có vai trị đặc biệt quan trọng, nó
giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm,

đồng thời phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành chỉ quy định về nhiệm vụ giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm của các cơ quan có thẩm quyền, khơng định nghĩa thế nào là
tố giác về tội phạm, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Hiện nay, có nhiều cách
hiểu, nhận thức chưa thống nhất về các khái niệm này dẫn đến việc vận dụng vào
thực tiễn khác nhau. Do đó, việc làm rõ nội hàm và đưa ra các khái niệm “tố giác về
tội phạm”, “tin báo về tội phạm” và “kiến nghị khởi tố” có ý nghĩa về lý luận và
thực tiễn.
1.1.1. Khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm

Dưới góc độ ngơn ngữ học, thì các thuật ngữ: tố cáo, tố giác, tin báo
được hiểu là:
Tố cáo: 1. Báo cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc
hành động phạm pháp nào đó. 2. Vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho mọi
người biết nhằm lên án, ngăn chặn.
Tố giác: Báo cho cơ quan chính quyền biết người hoặc hành động phạm pháp
nào đó.
Tin: 1.Điều được truyền đi, báo đi cho biết về sự việc, tình hình xảy ra. 2.Sự
truyền đạt, sự phản ánh dưới các hình thức khác nhau, cho biết về thế giới xung
quanh và những q trình xảy ra trong nó.


6
Báo: 1.Cho biết việc gì đó đã xảy ra. 2.Cho người có trách nhiệm nào đó biết về việc
xảy ra có thể hại đến trật tự an ninh chung… là dấu hiệu cho biết trước4.
Trên bình diện pháp lý, theo quy định tại Khoản 1, Điều 2 của Luật Tố
cáo năm 2011 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2012) thì “Tố cáo là việc công dân
theo thủ tục do luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân
nào gây thiệt hại hoặc đe đọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi

ích hợp pháp của cơng dân, cơ quan, tổ chức”.
Tố cáo ở đây là khái kiện chung, là việc cơng dân thực hiện quyền của mình
báo tin về tất cả các hành vi vi phạm pháp luật nói chung cho cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền biết. Tùy theo lĩnh vực pháp luật bị vi phạm mà phân biệt các
loại tố cáo khác nhau. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tái phạm cho cơ
quan tiến hành tố tụng giải quyết theo qui định của pháp luật về tố tụng hình sự
(khoản 3 Điều 31 Luật Tố cáo). Việc tố giác và tin báo về tội phạm được thực hiện
theo qui định của pháp luật về tố tụng hình sự (Khoản 2 Điều 3 Luật Tố cáo).
Như vậy, trong tố tụng hình sự, tố cáo hành vi phạm tội được gọi là tố giác về
tội phạm. Đây chính là việc thuộc nội dung khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm.
Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật và tố giác về tội phạm có những điểm
khác biệt nhất định. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật, khơng phân biệt tính chất,
mức độ vi phạm, cịn tố giác về tội phạm chỉ bao gồm hành vi vi phạm pháp luật có
dấu hiệu tội phạm, có thể cấu thành tội phạm đã được qui định trong Bộ luật hình sự.
Do đó, có thể nói, khái niệm tố cáo rộng hơn và cơ bản đã bao hàm cả khái niệm tố
giác tội phạm theo luật tố tụng hình sự. Điểm khác biệt cơ bản giữa hai khái niệm này
là: Tố cáo là quyền cơng dân, cịn tố giác về tội phạm vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ
của công dân. Quan hệ pháp luật về tố cáo hành vi vi phạm pháp luật chỉ phát sinh
sau khi công dân thực hiện quyền tố cáo, còn quan hệ pháp luật về tố giác tội phạm
thì phát sinh ngay sau khi cơng dân biết về tội phạm. Cơng dân có quyền quyết định
việc mình sẽ tố cáo hay khơng một hành vi vi phạm pháp luật, nhưng bắt buộc phải tố
4

Hoàng Phê (Chủ biên) (1992), Từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thơng tin, Hà Nội.


7
giác nếu đã biết rõ về một tội phạm đang chuẩn bị hoặc sẽ được thực hiện. Cơng dân
có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Khơng tố giác tội phạm” theo qui định
tại Điều 314 Bộ luật hình sự, nếu biết mà khơng tố giác tội phạm.

Khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm, theo từ điển luật học giải thích: “Tố
giác về tội phạm là báo cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền biết hành vi phạm tội
của một người nào đó”5; “Tin báo về tội phạm là thông tin về tội phạm do cơ quan, tổ
chức cung cấp dùng làm cơ sở để khởi tố vụ án hình sự”6.
Thực trạng lập pháp tố tụng hình sự qui định về tố giác, tin báo về tội phạm từ
năm 1988 đến nay cho thấy:
Theo Điều 83 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và Điều 100 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 qui định: Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định dấu hiệu
tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây: 1.Tố giác
của công dân; 2. Tin báo của cơ quan, tổ chức; 3.Tin báo trên các phương tiện thông
tin đại chúng…”, tại Điều 101 Bộ luật Tố tụng hình sự qui định: “Cơng dân có thể tố
giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác,
tổ chức… cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được đơn tố giác của công dân
phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra…”
Tại Thông tư liên ngành số 03/TT-LN ngày 15/5/1992 của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao - Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) - Bộ Quốc phòng - Bộ
lâm nghiệp - Tổng cục Hải Quan. (Sau đây viết tắt là Thông tư liên ngành số
03) hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Tố tụng hình sự về tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đã nêu:“Tin báo và tố giác về tội phạm
là những thông tin về tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự do cơng
dân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (gọi tắt là người, cơ
quan, tổ chức) cung cấp cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết;
do các phương tiện thông tin đại chúng nêu lên hoặc cho người phạm tội tự
thú”. Khái niệm này có những điểm chưa phù hợp, chưa nêu và phân biệt giữa
5
6

Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 785 và 765.
Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 785 và 765.



8
tố giác và tin báo về tội phạm. Trong khi đó, Bộ luật Tố tụng hình sự hiện
hành khơng quy định thế nào là tố giác, tin báo về tội phạm.
Đến khi liên ngành Trung ương ban hành Thông tư liên tịch số
06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNN-VKSNDTC ngày 02/8/2013 của Bộ
Công an, Bộ Quốc phịng, Bộ Tài chính, Bộ Nơng nghiệp và phát triển nông thôn,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (sau
đây gọi tắt là Thông tư liên tịch 06/2013/TTLT), tại Điều 3 về giải thích từ ngữ, các
khái niệm tố giác về tội phạm và tin báo về tội phạm được hiểu như sau:
1- Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do
cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm
tiếp nhận giải quyết.
2- Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên
các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan,
cá nhân có trách nhiệm giải quyết.
Từ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự, có thể thấy rằng về
hình thức của khái niệm tố giác về tội phạm, tin báo về tội phạm đều là những
nguồn thông tin thuộc một trong những nội dung quan trọng để xác định dấu
hiệu tội phạm, mà các cơ quan tiến hành tố tụng nắm được thông tin qua các
chủ thể khác nhau. Chúng còn giống nhau ở chỗ đều là những nguồn thông tin
ban đầu về tội phạm mang tính chủ quan theo suy nghĩ của chủ thể đưa ra
thông tin, tức là họ cho rằng, có hành vi nào đó đã xảy ra, đang xảy ra, sắp
xảy ra có dấu hiệu tội phạm, hay có người nào đó đã thực hiện, đang thực
hiện hoặc sẽ thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm. Những nguồn thông tin
này hầu hết chưa được kiểm chứng về tính xác thực và khách quan, những
chứng cứ đưa ra chưa mang tính pháp lý, cần phải qua q trình tiến hành
kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ của cơ quan có thẩm quyền thì mới có
cơ sở kết luận hành vi nào có dấu hiệu tội phạm và người thực hiện hành vi

đó có dấu hiệu phạm tội hay khơng, hay chỉ là quan hệ hành chính, quan hệ


9
kỷ luật hoặc quan hệ dân sự. Ngoài ra, tố giác và tin báo về tội phạm đều có
chung trình tự, thủ tục giải quyết theo Điều 103, Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vậy, vì sao Bộ luật Tố tụng hình sự lại đặt tên gọi khác nhau và phân biệt thành
các khái niệm khác nhau là dựa vào tiêu chí nào và nhằm mục đích gì?
Một là, tiêu chí để phân biệt khái niệm tố giác về tội phạm và tin báo về tội
phạm là yếu tố chủ thể.
Về khái niệm “tố giác tội phạm” chủ thể của tố giác là “công dân” (Khoản
1, Điều 100 và Điều 101 Bộ luật Tố tụng hình sự), nhưng tại Khoản1, Điều 103 và
Khoản 3, Điều 108, Bộ luật Tố tụng hình sự thì lại qui định là “cá nhân”. Theo chúng
tơi thì luật cần phải qui định thống nhất bởi hai khái niệm này có nội hàm khác nhau,
khái niệm “cơng dân” theo Hiến pháp và Luật Quốc tịch là người có quốc tịch Việt
Nam, cịn khái niệm “cá nhân” tuy chưa định nghĩa trong văn bản quy phạm pháp
luật nhưng theo cách hiểu truyền thống và trong giáo trình giảng dạy mơn Luật Hành
chính của các cơ sở đào tạo luật trong nước, cũng như trong các văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành đều hiểu và sử dụng khái niệm “cá nhân” theo nghĩa bao gồm:
cơng dân (người có quốc tịch Việt Nam), người nước ngồi (người khơng có quốc
tịch Việt Nam, nhưng có một hoặc nhiều quốc tịch nước khác), người khơng quốc
tịch (khơng có quốc tịch bất cứ một nước nào). Như vậy, khái niệm “cá nhân” có nội
hàm rộng hơn khái niệm “cơng dân”, ở Việt Nam, ngồi cơng dân Việt Nam, cịn có
cả người nước ngồi, người khơng quốc tịch sinh sống, học tập và làm việc, họ cũng
có quyền phát hiện và tố giác những hành vi vi phạm pháp luật mà họ cho là dấu hiệu
tội phạm để bảo vệ quyền và lợi ích của chính mình, cũng như của các chủ thể khác.
Do đó, luật nên sử dụng khái niệm “cá nhân” là hợp lý nhất, tránh tình trạng có ý kiến
cho rằng chỉ có “cơng dân” tức người có quốc tịch Việt Nam mới có quyền tố giác tội
phạm. Có thể khẳng định, chủ thể của “tố giác tội phạm” chỉ là “cá nhân”; người tố
giác về tội phạm có thể với bất cứ cơ quan, tổ chức nào; việc tố giác có thể thực hiện

bằng miệng (trong trường hợp này cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản có
chữ ký người tố giác), qua điện thoại, mạng Internet hoặc gởi đơn thư dưới dạng trình
báo, phản ánh, phát giác…


10
Về khái niệm “tin báo về tội phạm” theo quy định tại Khoản 23 Điều 100 Bộ
luật Tố tụng hình sự thì chủ thể của tin báo về tội phạm chỉ là “cơ quan, tổ chức” mà
không quy định cá nhân là chủ thể của tin báo về tội phạm, mặc dù trong thực tiễn cá
nhân vẫn có thể cung cấp thông tin dưới dạng là tin báo cho cơ quan pháp luật hoặc
cơ quan nhà nước khác, nhưng ở đây cần hiểu bản chất của tin báo do cá nhân cung
cấp là tố giác tội phạm. Như trên đã nêu, chủ thể của tin báo về tội phạm là “cơ quan,
tổ chức”; “cơ quan, tổ chức” ở đây cần được hiểu là bất cứ cơ quan, tổ chức nào, có
thể là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp …;
chủ thể là cơ quan, tổ chức có thể trực tiếp phát hiện tội phạm hoặc việc tiếp nhận tố
giác của cá nhân và phải báo tin đến Cơ quan điều tra theo hai hình thức: bằng văn
bản (Đoạn 2 Điều 101 Bộ luật Tố tụng hình sự) hoặc có thể đăng tải trên các phương
tiện thông tin đại chúng nếu là cơ quan báo chí.
Theo quy định tại Khoản 4, Điều 7 Thơng tư liên tịch số 06/2013/TTLT thì các
cơ quan, tổ chức gồm: Công an xã, phường, thị trấn, đồn, trạm Cơng an; Tịa án; Cơ
quan báo chí; các cơ quan tổ chức khác sau khi nhận được tố giác về tội phạm có
trách nhiệm báo ngay tin đã nhận được cho Cơ quan điều tra bằng văn bản. Trường
hợp khẩn cấp có thể báo tin trực tiếp hoặc qua điện thoại và các hình thức liên lạc
khác nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản.
Như vậy, đối với tin báo được các cơ quan báo chí đăng tải trên các phương
tiện thơng tin đại chúng do có nhược điểm là không phải lúc nào Cơ quan điều tra
cũng biết được, nếu biết thì cũng khơng thể hoặc khơng buộc phải thụ lý, giải quyết
vì chưa thể xác định đây có phải là tin báo về tội phạm hay không, hay chỉ là những
bài báo phản ánh các vụ việc trong xã hội nói chung; trừ trường hợp cơ quan báo chí
chủ động liên hệ với Cơ quan điều tra cung cấp thơng tin về vụ việc có tội phạm thì

những thơng tin là tin báo về tội phạm và cơ quan điều tra buộc phải thụ lý giải quyết.
Hai là, mục đích của việc phân biệt trên là để xác định rõ quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm pháp lý của các chủ thể tương ứng với mỗi khái niệm.
Tố giác tội phạm vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ buộc phải thực hiện của bất cứ
công dân hoặc cá nhân nào, có nghĩa là, khi cơng dân hoặc cá nhân biết rõ hành vi


11
hoặc người thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì khơng ai có quyền cấm họ
khơng được tố giác, nhưng nếu họ không thực hiện nghĩa vụ tố giác thì có thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội “không tố giác tội phạm” theo Điều 314, Bộ luật Hình
sự. Người tố giác tội phạm có quyền khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án của
Cơ quan điều tra (Khoản 2, Điều 108 Bộ luật Tố tụng hình sự); người tố giác tội
phạm khơng đúng sự thật cũng không phải chịu trách nhiệm pháp lý, tức là họ có thể
báo những thơng tin chủ quan, nhất thời, thiếu căn cứ, thậm chí là thơng tin thất thiệt,
nhưng pháp luật không buộc họ phải chịu trách nhiệm.
Gửi tin báo vê tội phạm là nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức (Điều 101 Bộ luật Tố
tụng hình sự), nhưng nếu cơ quan, tổ chức không thực hiện nghĩa vụ này thì luật chưa
quy định trách nhiệm pháp lý mà các chủ thể này phải gánh chịu. Chỉ riêng đối với
chủ thể là cơ quan nhà nước thì “Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm
về việc không thông báo hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong lĩnh vực
quản lý của mình” (Khoản 1, Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự). Đây là quy định
chung mang tính nguyên tắc, cơ quan, tổ chức báo tin về tội phạm cũng có quyền
khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án (Khoản 2, Điều 108 Bộ luật Tố tụng hình
sự).
Ba là, xét về bản chất, tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo
hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền, tin báo về tội phạm là việc
cơ quan, tổ chức thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm với các cơ quan có thẩm
quyền hoặc cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận được các thông tin về tội phạm từ các
phương tiện đại chúng. Như vậy, tố giác và tin báo về tội phạm đều là những hành vi,

việc làm mang tính tích cực của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, thể hiện trách nhiệm
của các chủ thể trong đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm, khơng thể xem đây là
những “thông tin đơn thuần” theo Điều 3 Thông tư liên tịch 06/2013/TTLT giải thích
tố giác về tội phạm và tin báo về tội phạm đều là những thông tin về hành vi có dấu
hiệu tội phạm”, nên chưa nêu rõ bản chất hành vi của các chủ thể thực hiện việc tố
giác, tin báo về tội phạm. Đối với khái niệm tố giác về tội phạm thông tư quy định
điều kiện về chủ thể thực hiện là “cá nhân đối với danh tính, địa chỉ rõ ràng” điều này


12
có thể hiểu đối với cá nhân mà khơng có ghi danh tính, địa chỉ rõ ràng thì những
thơng tin của họ về hành vi có dấu hiệu tội phạm thì khơng được xem là tố giác về tội
phạm. Việc quy định này tạo nên cách hiểu máy móc trong thực tiễn, không phù hợp
và tương đồng với nhiều đạo luật khác, khi quy định việc thực hiện quyền của cá
nhân thì khơng có quy định về các điều kiện mang tính hạn chế việc thực hiện quyền
của chủ thể.
Từ những phân tích trên, chúng tơi đưa ra khái niệm về tố giác và tin báo về tội
phạm như sau:
-Tố giác tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội
phạm hoặc người phạm tội với cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự.
-Tin báo về tội phạm là việc cơ quan, tổ chức thơng tin về hành vi có dấu hiệu
tội phạm với cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết hoặc cơ quan có thẩm
quyền tiếp nhận được các thơng tin về tội phạm từ các phương tiện thông tin đại
chúng.
Ngồi ra, cần phải phân biệt nguồn thơng tin về tội phạm và nguồn tố giác tin
báo về tội phạm. Trong tố tụng hình sự, những thơng tin về tội phạm được tiếp nhận,
thu thập ở các giai đoạn từ các nguồn và bằng những biện pháp theo luật định.
Nguồn tố giác, tin báo về tội phạm là một trong những nguồn thơng tin chính, đầu
tiên về tội phạm được một quy định là cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án. Trên cơ sở, các

đặc điểm của tố giác, tin báo về tội phạm đã phân tích, theo chúng tơi, có thể xác định
các nguồn thơng tin về tội phạm sau đây được gọi là nguồn tố giác, tin báo về tội
phạm: 1- Do cá nhân trực tiếp đến Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra để tố giác và báo
tin về tội phạm, 2- Tin báo của cơ quan nhà nước, tổ chức; 3- Tin báo qua phản ánh
trên các thông tin đại chúng như báo, đài …; 4- Người phạm tội tự thú.
Đối với nguồn thông tin về tội phạm, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án,
Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan
khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm, theo chúng tôi, đây chính


13
là nguồn thơng tin về tội phạm nói chung và cũng là một trong những nguồn thông
tin đầu tiên về tội phạm được quy định là cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án. Nguồn thơng
tin này thường có tính chất bí mật nghiệp vụ, thuộc về các chuyên án của Cơ quan
điều tra trong giai đoạn chưa phá án (nhất là loại án an ninh quốc gia, ma túy,…) cho
nên, Viện kiểm sát phải phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra để kiểm sát việc xử lý
thơng tin này, đảm bảo việc chuyển hóa các tài liệu trong giai đoạn điều tra trinh sát,
bí mật sang tài liệu, chứng cứ của giai đoạn điều tra công khai đúng luật định. Việc
phân biệt như trên có ý nghĩa quan trọng trong công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
1.1.2. Khái niệm kiến nghị khởi tố

Dưới góc độ ngơn ngữ học, thuật ngữ “kiến nghị” được hiểu là: “nêu ý kiến đề
nghị một việc chung để cơ quan có thẩm quyền xét”; “yêu cầu” là: “nêu ra điều gì với
người nào đó, tỏ ý muốn người ấy làm, biết rằng đó là việc thuộc nhiệm vụ, trách
nhiệm hoặc quyền hạn, khả năng của người ấy”7. Hai thuật ngữ này đều có chung là
đề nghị một cơ quan, một người nào đó làm một việc thuộc nhiệm vụ và trách nhiệm,
khả năng của họ.
Trên bình diện pháp lý, khái niệm kiến nghị khởi tố mới được quy định

trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, mà trước đó pháp luật tố tụng hình
sự chưa đề cập. Theo chúng tơi, kiến nghị khởi tố là quyền của cơ quan nhà
nước, tổ chức thể hiện bằng văn bản kiến nghị gửi đến Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát, yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để điều tra, xử lý tội phạm và
người phạm tội nào đó. Kiến nghị khởi tố là một dạng đặc biệt của tin báo về
tội phạm (tuy nhiên kiến nghị khởi tố không quy định là cơ sở xác định dấu
hiệu tội phạm tại Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự). Bộ luật Tố tụng hình sự
quy định tất cả cơ quan nhà nước đều có quyền kiến nghị khởi tố: “Các cơ
quan Nhà nước phải thường xuyên kiểm tra, thanh tra viên thực hiện chức
năng, nhiệm vụ được giao; phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật
để xử lý và phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mọi
7

Hoàng Phê (Chủ biên) (1992), Từ Điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thơng tin, Hà Nội.


14
hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong việc quản lý của mình; có
quyền kiến nghị và gửi các tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát xem xét, khởi tố đối với người có hành vi “phạm tội” (Khoản 1, Điều
26 Bộ luật tố tụng hình sự).
Về chủ thể của quyền kiến nghị khởi tố hiện nay có những quan điểm khác
nhau. Có quan điểm cho rằng: “kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước qua
công tác kiểm tra, thanh tra phát hiện có hành vi phạm tội, hành vi có dấu hiệu tội
phạm và có văn bản, kèm theo tài liệu liên quan, kiến nghị đến cơ quan có thẩm
quyền để xem xét, khởi tố đối với người có hành vi phạm tội”8. Quan điểm này xác
định chủ thể của kiến nghị khởi tố là tất cả cơ quan nhà nước và qua công tác kiểm
tra, thanh tra phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm mới có kiến nghị khởi tố. Quan
điểm khác cho rằng: Ngồi cơ quan nhà nước thông qua công tác kiểm tra, thanh tra,
cịn cơ quan Tịa án thơng qua cơng tác xét xử cũng có quyền kiến nghị khởi tố9; bởi

vì đối với Tòa án kiến nghị khởi tố được thể hiện bằng văn bản “Yêu cầu khởi tố”
của Hội đồng xét xử. Khoản 1, Điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Hội
đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự
nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội
mới cần phải điều tra”. Quy định này là sự thay đổi cách xử lý thông tin của cơ quan
xét xử, thể hiện ở chỗ khơng phải Tịa án nói chung mà chính là Hội đồng xét xử
thơng qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện tội phạm thì có hai cách xử lý: ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự.
Thơng tư liên tịch số 06/2013/TTLT ngày 2/8/2013 về hướng dẫn thi hành quy
định Bộ luật tố tụng hình sự , tại Khoản 3, Điều 3 quy định như sau: kiến nghị khởi tố
là việc các cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát hiện sự việc có
dấu hiệu tội phạm và có văn bản kiến nghị Cơ quan điều tra xem xét khởi tố vụ án
hình sự”. Theo quy định này thì xác định chủ thể của thực hiện việc kiến nghị khởi tố
Quyết định số 116/2011/QĐ-VKSTC-C6 ngày 14/4/2011 của Viện trưởng VKSNDTC ban hành Quy chế
tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều
tra VKSNDTC.
9
Lê Ra (2012), “Cần thống nhất nhận thức về các khái niệm tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”,
Tạp chí Kiểm sát, (20), tr36.
8


15
là tất cả cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát hiện sự việc có dấu
hiệu tội phạm thì có quyền kiến nghị khởi tố vụ án hình sự.
Theo quan điểm chúng tơi cho rằng, căn cứ quy định tại Khoản 1 và Khoản 3
Điều 103 Bộ luật Tố tụng hình sự thì chủ thể có quyền kiến nghị khởi tố là “cơ quan
nhà nước”, nhưng khơng phải cơ quan nhà nước nào cũng có quyền này, đây chỉ là
một quy định mang tính nguyên tắc chung. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 26 Bộ
luật Tố tụng hình sự và Thơng tư liên tịch số 03/2006/TTLT-VKSTC-TTrCP-BCABQP ngày 23/5/2006 giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra Chính phủ, Bộ

cơng an và Bộ quốc phịng, Thơng tư này hiện nay được thay thế bằng Thông tư số
02/2012/TTLT-VKSTC-TTCP-BCA-BQP ngày 22/3/2012, quy định về mối quan
hệ phối hợp giữa Cơ quan thanh tra, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc
phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu hiệu tội phạm do Cơ quan thanh tra kiến
nghị khởi tố (Sau đây gọi tắt là Thơng tư liên tịch số 03) thì chỉ có cơ quan thanh tra
trong các cơ quan nhà nước mới có quyền “kiến nghị khởi tố”. Sở dĩ luật quy định
như vậy là vì quyền thơng tin về tội phạm theo kiến nghị khởi tố của cơ quan thanh
tra thường là có cơ sở hơn, do đã qua quá trình xác minh, làm rõ theo những trình tự,
thủ tục, chặt chẽ của pháp luật về thanh tra; chính vì thế mà đối với “kiến nghị khởi
tố”, ngồi những quy định mang tính nguyên tắc chung về nhiệm vụ giải quyết theo
Điều 103 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì cịn được quy định riêng trong Thơng tư liên
tịch về mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan có thẩm quyền trong việc phát hiện, điều
tra, xử lý các vụ có dấu hiệu tội phạm cho Cơ quan thanh tra kiến nghị khởi tố. Như
vậy, những kiến nghị xử lý về tội phạm của các “cơ quan nhà nước” mà không phải
là trên cơ sở do hoạt động thanh tra việc thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao mà
phát hiện các hành vi có dấu hiệu tội phạm và kiến nghị Cơ quan có thẩm quyền xử
lý thì không phải là “kiến nghị khởi tố”, mà được coi là việc báo tin về tội phạm và
được hiểu đồng nghĩa với khái niệm “lên báo về tội phạm”. Điều này cho phép phận
định rõ chủ thể của kiến nghị khởi tố là cơ quan nhà nước trong tố tụng hình sự.
Kiến nghị khởi tố là quyền và nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước; trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra mà phát hiện dấu hiệu tội phạm thì cơ quan đó


16
phải kiến nghị khởi tố, nếu khơng thực hiện thì Thủ trưởng cơ quan, Trưởng đoàn
thanh tra hoặc Thanh tra viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật (Điều 7, Luật
Thanh tra), đây là quy định mang tính nguyên tắc; nếu không đồng ý với quyết định
không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, thì cơ quan thanh tra có quyền kiến
nghị lên Viện kiểm sát cấp trên (Khoản 1, Điều 6 Thông tư liên tịch 2).
Ngồi cơng tác thanh tra trong các cơ quan nhà nước, thì cơng tác kiểm tra việc

thực hiện nhiệm vụ trong mỗi cơ quan nhà nước và tổ chức là việc làm thường
xuyên, nên khi phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm qua kiểm tra kết luận thì Thủ
trưởng cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét,
xử lý theo pháp luật.
Về lý luận, cần phải phân biệt chủ thể của quyền kiến nghị khởi tố và tin báo về
tội phạm. Chủ thể của quyền kiến nghị khởi tố không phải bất kỳ là các cơ quan nhà
nước và tổ chức nói chung đều có quyền kiến nghị khởi tố, bởi vì các cơ quan nhà
nước, tổ chức có thể là chủ thể của tin báo về tội phạm hoặc của kiến nghị khởi tố10,
cần phân biệt là: cơ quan nhà nước, tổ chức là chủ thể của kiến nghị khởi tố trong
trường hợp qua công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
giao phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì thu thập hồ sư, tài liệu liên quan, kèm
theo văn bản kiến nghị khởi tố gởi đến Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp đề nghị khởi tố vụ án, cơ quan nhà nước là chủ thể tin báo về tội phạm
trong trường hợp thông qua công tác quản lý hoặc cơng tác khác, phát hiện vi
phạm có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực mình quản lý thì cung cấp thơng tin
cho cơ quan có thẩm quyền để xem xét giải quyết.
Sự phân biệt này là tương đối rõ ràng, có căn cứ thuyết phục bởi lẽ các
tiêu chí đưa ra với nội hàm, mang tính chất cụ thể. Do đó, phân biệt trường
hợp nào cơ quan nhà nước, tổ chức là chủ thể kiến nghị khởi tố, trường hợp
nào là chủ thể của tin báo về tội phạm. Điều này cũng phù hợp theo Điều 26
Bộ luật Tố tụng hình sự, về sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các cơ
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Báo cáo công tác kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối
với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, tr.9.
10


17
quan tiến hành tố tụng quy định: “Cơ quan nhà nước phải thường xuyên kiểm
tra, thanh tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, phát hiện kịp
thời các hành vi vi phạm pháp luật để xử lý và phải thông báo ngay cho Cơ

quan điều tra, Viện kiểm sát mọi hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và
trong lĩnh vực quản lý của mình, có quyền kiến nghị và gửi các tài liệu có liên
quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xem xét, khởi tố đối với người có
hành vi phạm tội”. Quy định này phân biệt trường hợp nào cơ quan nhà nước
là chủ thể của kiến nghị khởi tố và trường hợp nào là chủ thể của tin báo về
tội phạm.
Theo sự phân tích trên, chúng ta thấy pháp luật quy định cơ quan nhà
nước có quyền kiến nghị khởi tố là một quy định mang tính ngun tắc chung,
mà chỉ có cơ quan nhà nước, tổ chức qua công tác kiểm tra, thanh tra việc
thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao mà phát hiện kết luận có các hành vi
vi phạm pháp luật thì có quyền kiến nghị khởi tố và gửi các tài liệu có liên
quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xem xét, khởi tố đối với người có
hành vi phạm tội. Đối với cơ quan Tòa án “yêu cầu khởi tố vụ án” của Hội
đồng xét xử không được xem là văn bản kiến nghị khởi tố của cơ quan Tịa án
thơng qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện tội phạm hoặc người phạm tội
mới cần phải điều tra. Ngoài ra, hiện nay Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản
pháp luật khác chưa có quy định rõ ràng, đầy đủ thế nào là kiến nghị khởi tố, phân
biệt giữa “kiến nghị khởi tố” và “yêu cầu khởi tố”. Theo chúng tôi, Bộ luật Tố tụng
cần xác định tên gọi là “kiến nghị khởi tố” đối với chủ thể là cơ quan nhà nước, tổ
chức, vì đây là văn bản pháp lý mang tính pháp lý, có tính về lợi ích chung, về việc
chung của cơ quan, tổ chức, còn đối với cá nhân, khi có ý kiến đề nghị khởi tố thì
được gọi là văn bản “yêu cầu khởi tố”, như vậy thì phù hợp với quy định tại Điều 105
Bộ luật Tố tụng hình sự khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại.
Như vậy, kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước, tổ chức qua
công tác kiểm tra, thanh tra, phát hiện và kết luận về hành vi vi phạm pháp
luật có dấu diệu tội phạm và ban hành văn bản kiến nghị kèm theo hồ sơ, tài


18
liệu liên quan gởi cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền yêu cầu

xem xét, xử lý.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Nguồn thông tin về tội phạm có thể hiểu là phương tiện chứa đựng, cung
cấp thông tin về tội phạm. Tố giác, tin báo về tội phạm thể hiện bằng các hình
thức thơng tin, được gọi là các nguồn tố giác, tin báo về tội phạm.
Theo quy định Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng Hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2003, các nguồn thông tin về tội phạm bao gồm:
-Do cá nhân trực tiếp tố giác và báo tin về tội phạm (trường hợp người bị hại
gửi đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự cũng thuộc hình thức tố giác về tội phạm).
-Tin báo của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
-Tin báo qua phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài
truyền hình, báo điện tử,…
-Do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm,
lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân
dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu
hiệu tội phạm (những thông tin về tội phạm được phát hiện thông qua các hoạt động
của cơ quan có thẩm quyền như: khám nghiệm hiện trường - tử thi; thông qua cơ sở
của Cơ quan điều tra như mạng lưới bí mật …về bản chất, đây chính là nguồn thơng
tin về tội phạm do chính các cơ quan này thơng qua hoạt động của mình mà trực tiếp
phát hiện tội phạm.)
-Người phạm tội tự thú (sự tự thú của người phạm tội là một thông tin về tội
phạm và cũng là cơ sở để khởi tố vụ án. Sự tự thú này về bản chất chính là báo tin
của một người về tội phạm do chính người đó gây ra).
Trong các nguồn thơng tin nêu trên, tố giác, tin báo về tội phạm có ý nghĩa hết
sức quan trọng, bởi vì đây là nguồn thơng tin phổ biến nhất, và nó cũng rất quan trọng
bởi xuất phát từ tính chất, đặc điểm của cuộc đấu tranh chống tội phạm. Tố giác, tin
báo về tội phạm thường là những thông tin ban đầu, là cơ sở để khởi các hoạt động tố
tụng hình sự.



19
Do đặc điểm của cuộc đấu tranh chống tội phạm là cuộc đấu tranh quyết
liệt, phức tạp, lâu dài. Những người có hành vi phạm tội là những người “dám
đứng lên” chống lại lợi ích của xã hội, hơn nữa cuộc đấu tranh chống tội
phạm là cuộc chiến đấu không chiến tuyến, kẻ phạm tội ln là chủ động “ẩn
mình trong bóng tối”. Do đó, dù các cơ quan tố tụng được tăng biên chế rất
nhiều chăng nữa, trang bị phương tiện khoa học kĩ thuật tối tân thì cũng
khơng thể một mình phát hiện đầy đủ thơng tin về tội phạm. Bác Hồ đã từng
dạy: chiến sĩ cán bộ cơng an dù có hai tai, hai mắt, quần chúng nhân dân có
trăm tai nghìn mắt, cho nên dựa vào quần chúng, được quần chúng nhân dân
ủng hộ thì cuộc đấu tranh chống tội phạm mới có hiệu quả.
Tố giác, tin báo về tội phạm là những nguồn tin ban đầu, mang tính chất thời sự
nóng bỏng về tội phạm nếu các cơ quan chức năng xử lý không đứng đắn, ém nhẹm
thông tin này sẽ gây tác hại hết sức lớn, vụ án hình sự sẽ khơng bị khởi tố, không điều
tra xử lý theo pháp luật, người phạm tội coi thường luật pháp, quần chúng nhân dân
thiếu tin tưởng đối với cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng và làm uy tín của Đảng và
Nhà nước. Tố giác, tin báo về tội phạm không được xử lý đúng luật, đương nhiên sẽ
triệt tiêu tinh thần đấu tranh chống tội phạm của quần chúng nhân dân, quần chúng sẽ
không tiếp tục cung cấp tin tức về tội phạm cho các cơ quan chức năng. Chính vì vậy,
kiểm tra giám sát tố giác, tin báo về tội phạm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nâng
cao trách nhiệm, tránh tùy tiện trong việc xử lý thông tin về tội phạm. Đây chính là
thể hiện cụ thể rõ nét nhất vai trò của Viện kiếm sát trong kiểm sát hoạt động tư pháp,
thể hiện hiện rõ mối quan hệ phối hợp và chế ước giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
1.2. Công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tình báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố
1.2.1. Nhiệm vụ tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố

Hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo về tội phạm phải tuân thủ

đúng các quy định của pháp luật, trong đó trước hết cần phải quán triệt các
nguyên tắc cơ bản trong tồn bộ q trình tiếp nhận, giải quyết đó là:


20
-Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải
tuân thủ theo quy định của pháp luật khơng được vì bất cứ lý do gì mà từ chối việc
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
-Chỉ những cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố mới tiến hành giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố. Người làm trái pháp luật trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố tùy theo tính chất, mức vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
-Khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, cá nhân, đơn
vị tiếp nhận không được tiết lộ nội dung,tiếp nhận được cho cá nhân, cơ quan, tổ
chức khơng có thẩm quyền.
-Cơ quan tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
có trách nhiệm trả lời cho cơ quan, tổ chức đã báo tin, kiến nghị khởi tố hoặc người
đã tố giác tội phạm. Cơ quan tiếp nhận, giải quyết phải giữ bí mật cho cơ quan, tổ
chức, người cung cấp tin và hướng dẫn họ biện pháp, cách thức giữ bí mật những
thơng tin đã cung cấp, tố giác.
-Trường hợp xét thấy cần thiết, cơ quan tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố có trách nhiệm áp dụng hoặc đề nghị áp dụng các biện
pháp cần thiết để bảo đảm an tồn về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài
sản cho cơ quan, tổ chức đã báo tin, kiến nghị khởi tố, người đã tố giác tội phạm và
những người thân tính của họ.
-Mọi trường hợp không làm hoặc làm trái các quy định về tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố dẫn đến không kịp thời ngăn chặn, khắc phục
hậu quả của hành vi phạm tội, người phạm tội bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, xóa
dấu vết phải bị xử lý theo pháp luật.

Với những nội dung các nguyên tắc cơ bản, yêu cầu các cơ quan, tổ chức cá
nhận có trách nhiệm, thẩm quyền phải quán triệt sâu sắc và tn thủ thực hiện đúng
đắn trong tồn bộ q trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố.


21
Về trách nhiệm tiếp nhận người tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố, theo quy định Điều 103 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định “Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân,
cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm
sát có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho cơ quan điều tra có thẩm quyền”.
Quy định này chưa bao quát đầy đủ các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, do đó Thơng tư liên tịch
06/2013/TTLT quy định trách nhiệm tiếp nhận đối với tố giác, tin báo về tội phạm
gồm các cơ quan, tổ chức như sau:
a. Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân;
b. Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân;
c. Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
d. Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát Quân sự Trung ương;
đ. Bộ đội biên phòng;
e. cơ quan Hải quan;
g. cơ quan Kiểm lâm;
h. lực lượng Cảnh sát biển;
i. Các cơ quan khác của Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra;
k- Các cơ quan khác của Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra;
l- Viện kiểm sát;

m- Công an xã, phường, thị trấn, đồn, trạm Cơng an;
n-Tịa án;
p- Cơ quan báo chí;
g- Các cơ quan, tổ chức khác.
Đối với kiến nghị khởi tố, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận bao gồm:
a- Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân;


×