Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Mối quan hệ giữa luật đầu tư 2005 và luật doanh nghiệp 2005 về điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 83 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
HỆ CHÍNH QUY
KHĨA 34 (KHĨA HỌC 2009 - 2013)

MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT ĐẦU TƢ 2005
VÀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 VỀ ĐIỀU
CHỈNH HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ ĐẦU TƢ
NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

SVTH

ĐẶNG THỊ VÂN

MSSV

0955030211

Lớp

CLC34

GVHD

Ths. NGUYỄN HOÀNG THÙY TRANG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


NĂM 2013


LỜI CAM DOAN
Tơi xin cam đoan Khóa luận “Mối quan hệ giữa Luật Đầu tư 2005 và Luật Doanh
nghiệp 2005 về điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngồi tại Việt Nam” là
cơng trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ
Nguyễn Hồng Thùy Trang. Các số liệu và thơng tin trong Khóa luận là trung
thực, các dữ liệu, quan điểm được trích dẫn đầy đủ, nếu khơng thuộc ý tưởng hoặc
kết quả tổng hợp của chính bản thân tơi.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 7 năm 2013
TÁC GIẢ

Đặng Thị Vân


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Công ty trách nhiệm hữu hạn: CTTNHH
Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài: DNĐTNN
Đầu tư nước ngoài: ĐTNN
Đầu tư nước ngoài trực tiếp: FDI
Giáo sư-Tiến sĩ khoa học: GS-TSKH
Giấy chứng nhận đầu tư: GCNĐT
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: GCNĐKKD
Luật Đầu tư 2005: LĐT
Luật Doanh nghiệp 2005: LDN
Nhà đầu tư nước ngoài: NĐTNN
Nhà đầu tư trong nước: NĐTTN
Nghị định: NĐ
Quyết định: QĐ

Thông tư: TT
Tổ chức kinh tế thế giới: WTO
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế: OECD


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chƣơng 1: Tổng quan về mối quan hệ giữa Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật
Đầu tƣ 2005 về điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài ...................... 5
1.1 Khái quát về pháp luật điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam ........................................................................................................................ 5
1.1.1Khái quát về đầu tư ........................................................................................... 5
1.1.2Nhà đầu tư nước ngoài và các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động của nhà
đầu tư nước ngồi ....................................................................................................... 8
1.2 Vai trị của Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005 trong việc điều
chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.................................. 16
1.3 Những tiêu chí đánh giá mối quan hệ giữa Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư
trong việc điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. ....... 18
1.3.1Sự thống nhất giữa Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư trong việc điều chỉnh
hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài ....................................................................... 19
1.3.2Sự minh bạch, hợp lý và khả thi giữa Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư
trong việc điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài .................................... 25
1.3.2.1Sự minh bạch giữa Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư trong việc điều
chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài ............................................................. 25
1.3.2.2 Hợp lý và khả thi giữa Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư trong việc điều
chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài ............................................................. 28
1.3.3Sự phù hợp giữa Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế ......................................................................................................... 30

Chƣơng 2: Đánh giá mối quan hệ giữa Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật đầu
tƣ 2005 trong việc điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt
Nam và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam ............................. 33
2.1 Vấn đề xác định tư cách của nhà đầu tư nước ngoài .......................................... 34


2.2Vấn đề điều chỉnh địa vị pháp lý của doanh nghiệp con ..................................... 40
2.3 Về lựa chọn lĩnh vực đầu tư ................................................................................ 41
2.4 Về vấn đề góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài ............................. 44
2.5Vấn đề về thủ tục đầu tư ...................................................................................... 47
2.6Vấn đề chuyển nhượng dự án .............................................................................. 56
2.7Thủ tục rút lui khỏi thị trường Việt Nam ............................................................ 58
KẾT LUẬN CHUNG
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi cách mạng thành công, Việt Nam tiến lên xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa. Để thực hiện được nhiệm vụ này Việt Nam cần phải có sự đổi mới toàn diện.
Trước hết là sự đổi mới về tư duy ở tất cả các phương diện trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là sự đổi mới tư
duy về kinh tế.
Việt Nam để tiến tới một nền kinh tế phát triển, tăng trưởng nhanh và bền
vững trước hết cần có vốn đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư nước ngồi. Trong bối cảnh
tồn cầu hóa, việc hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng, nhất là sau khi
Việt Nam gia nhập WTO thì việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được
chú trọng hơn. Tuy nhiên, để thu hút được một nguồn vốn lớn từ nước ngoài cần rất
nhiều yếu tố mà trên hết là phải có hành lang pháp lý rõ ràng nhằm phù hợp với mơi

trường pháp lý quốc tế; qua đó đảm bảo tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài
kinh doanh. Nhận thức được điều này, Việt Nam đã ban hành rất nhiều văn bản
pháp lý để điều chỉnh các hoạt động kinh tế mà cụ thể hiện nay là luật Doanh nghiệp
2005, luật Đầu tư 2005… Trong thời điểm hiện nay, khi khủng hoảng kinh tế đang
lan rộng sang các nước trên thế giới thì việc thu hút nhà đầu tư nước ngồi rất khó
khăn. Theo nhận định của giám đốc quốc gia Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB),
ơng Kimura: “Khả năng duy trì cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trở lại
7% -8% của Việt Nam sẽ phụ thuộc vào việc thực hiện thành công các cải cách cơ
cấu và cải thiện môi trường kinh doanh một cách toàn diện hơn”. Tuy nhiên, hiện
nay Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005 được áp dụng để điều chỉnh các
vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư vẫn chưa được hồn thiện, cịn có nhiều mâu
thuẫn, chồng chéo. Điều này ảnh hưởng khơng ít đến tâm lý của các thương nhân
nước ngồi có ý định và những thương nhân đang phát triển kinh doanh ở Việt Nam.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “ Mối quan hệ giữa luật Đầu tư 2005 và
luật Doanh nghiệp 2005 trong việc điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài
1


ở Việt Nam” là cần thiết, đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư nước ngoài và thực
tiễn hiện nay của đất nước.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, tại Việt Nam đã có một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến các
hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư nước ngồi nói riêng như:
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật năm 2006 của Đỗ Thị Thanh Vân: “Cơ sở pháp lý
đảm bảo sự bình đẳng trong đầu tư giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam”. Khóa luận tốt nghiệp năm 2006 của Nguyễn Thị Kim
Phụng: “Mơi trường đầu tư nước ngồi tại Việt Nam- nhìn từ khía cạnh pháp
lý”.Luận văn thạc sỹ luật học năm 2009 của Từ Minh Tuấn: “Pháp luật Việt Nam về
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài”. Luận văn thạc sỹ luật học năm 2009 của Bùi Thị

Thúy Triều: “Quyền thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tại Việt
Nam”. Khóa luận tốt nghiệp 2012 của Trần Thị Mai Quỳnh: “Quyền góp vốn, mua
cổ phần của nhà đầu tư nước ngồi”. Các đề tài có tập trung đề cập đến các vấn đề
pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư, so sánh những quy định điều chỉnh giữa các
nhà đầu tư trong nước và nước ngoài và kinh nghiệm của một số quốc gia nhằm thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một đề tài nào thực sự
đi sâu vào việc nghiên cứu, phân tích mối quan hệ giữa Luật Doanh nghiệp 2005 và
Luật Đầu tư 2005 trong việc điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài.

3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật
Đầu tư 2005 về vấn đề thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, tác giả
muốn đề cập đến tầm quan trọng và sự cần thiết trong việc điều chỉnh hoạt động của
nhà đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế tại Việt Nam trong thời điểm
hiện nay. Nghiên cứu các nội dung về sự đồng bộ, tương thích, minh bạch cũng như
những mâu thuẫn, chồng chéo trong những quy định điều chỉnh hoạt động của nhà
đầu tư nước ngoài giữa Luật doanh nghiệp và Luật Đầu tư; tính khả thi của việc
thực hiện các quy định này; đánh giá việc thực hiện các Cam Kết Quốc Tế về đầu tư
mà Việt Nam đã tham gia. Ngoài ra, tác giả cũng đi vào tìm hiểu thực tế áp dụng

2


Pháp luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư trong việc điều chỉnh hoạt động của nhà đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam. Qua đó làm sáng tỏ những tác động tích cực, hạn chế
của hai văn bản pháp luật trên đối với nhà đầu tư nước ngồi trong q trình đầu tư,
kinh doanh tại Việt Nam. Đồng thời, đưa ra các giải pháp nhằm tạo một môi trường
pháp lý phù hợp để điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu

4.1 Phạm vi nghiên cứu
Giữa Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005 có rất nhiều quy định liên
quan trong việc điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư. Tuy nhiên trong phạm vi
nghiên cứu đề tài khóa luận, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề của Luật
Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005 cùng điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. Căn cứ vào các quy định của hai văn bản pháp luật trên,
cùng với việc nghiên cứu tình hình thực tế áp dụng pháp luật - những thuận lợi và
khó khăn khi nhà đầu tư nước ngồi tiến hành hoạt động kinh doanh cũng như thủ
tục rút khỏi thị trường Việt Nam.

4.2 Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận gồm các quy định điều chỉnh hoạt động
của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu
tư 2005 và mối quan hệ giữa các quy định trong Luật Đầu tư 2005 và Luật Doanh
nghiệp 2005; thực trạng áp dụng các quy định này và các quan điểm pháp lý hiện
nay về việc nên mở rộng hay hạn chế các quy định pháp luật cũng như chế độ quản
lý Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài so với đầu tư trong nước.
Các văn bản pháp luật được sử dụng để nghiên cứu trong khóa luận bao gồm:
Luật Doanh nghiệp 2005; Luật Đầu tư 2005 và một số văn bản pháp lý khác hướng
dẫn thi hành, sửa đổi, bổ sung liên quan đến Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu
tư 2005 như Nghị định số 108/2006/ NĐ-CP, Nghị định số 101/2006/NĐ-CP, Nghị
định 139/2006, Nghị định 102/2010/NĐ-CP, Nghị định 43/2010/ NĐ-CP … Các
cam kết WTO, các Hiệp định, Điều Ước Quốc Tế về đầu tư mà Việt Nam tham gia.
3


4 Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu sẽ áp dụng tổng hợp các phương pháp sau: phân tích,
so sánh, chứng minh kết hợp với phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
và chủ nghĩa Mác-Lênin. Cụ thể là:

Trong Chương một, nghiên cứu khái quát các vấn đề pháp lý điều chỉnh nhà
đầu tư nước ngoài sẽ áp dụng phương pháp phân tích để làm rõ các quy định về đầu
tư, về nhà đầu tư nước ngoài. Phân tích vai trị của Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật
Đầu tư 2005 trong nền kinh tế của Việt Nam hiện nay cũng như trong việc điều
chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài. Đối với việc đi sâu nghiên cứu những
tiêu chí đánh giá mối quan hệ của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư trong việc
điều chỉnh hoạt động nhà đầu tư nước ngoài sẽ áp dụng phương pháp phân tích phối
hợp so sánh để làm sáng tỏa các vấn đề và bình luận về các vấn đề đó. Căn cứ
những vấn đề trên liên hệ phân tích, so sánh hai Luật trên với các cam kết WTO, các
Hiệp định, Điều Ước Quốc Tế mà Việt Nam là thành viên.
Đối với Chương hai về đánh giá mối quan hệ giữa Luật Doanh nghiệp 2005 và
Luật Đầu tư 2005 trong việc điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài và giải
pháp kiến nghị sẽ áp dụng phương pháp chứng minh làm rõ một số vấn đề khi nhà
đầu tư nước ngoài tuân theo các quy định của các luật trên. Phương pháp thống kê
số liệu để xác định tình hình đầu tư vào Việt Nam những năm gần đây của nhà đầu
tư nước ngồi. Từ đó cho thấy, môi trường pháp lý hiện nay đã thực sự đạt hiệu quả
tốt trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Và cùng với việc kết hợp với phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và chủ nghĩa Mác-Lênin đưa ra một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện nay.

5 Kết cấu của luận văn
Khóa luận gồm:
-

Mục lục.

-

Phần lời mở đầu.


-

Phần nội dung gồm hai chương:

4


-

Chương 1: Tổng quan về mối quan hệ giữa Luật Doanh nghiệp 2005 và
Luật Đầu tư 2005 trong việc điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam.

-

Chương 2: Đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa Luật Doanh nghiệp
2005 và Luật Đầu tư 2005 trong việc điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư
nước ngoài và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

5


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 VÀ
LUẬT ĐẦU TƢ 2005 VỀ ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ ĐẦU TƢ
NƢỚC NGOÀI

1.1.

Khái quát về pháp luật điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài

tại Việt Nam

1.3.1 Khái quát về đầu tƣ
Khuyến khích đầu tư luôn là mục tiêu hướng đến của các quốc gia trên thế giới
bởi những lợi ích do đầu tư mang là vơ cùng to lớn. Đầu tư có vai trị trong việc góp
phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế; tác động đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế; đồng thời giúp tăng trưởng khả năng khoa học của đất nước. Nhận thức
được những vai trò trên, những hoạt động đầu tư được tiến hành ở hầu hết các quốc
gia trên thế giới. Nó khơng chỉ diễn ra trong nội bộ của từng quốc gia mà còn được
thực hiện giữa các quốc gia với nhau, trở thành một xu hướng tồn cầu hóa. Thuật
ngữ đầu tư thường được sử dụng để nói lên sự bỏ ra các nguồn lực ở hiện tại vào
hoạt động nào đó của con người nhằm thu được lợi ích trong tương lai1.
Hiện nay, khái niệm đầu tư được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc
độ khoa học kinh tế, quan điểm về đầu tư là hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện
tại nhằm đem lại cho nền kinh tế, xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã được sử dụng để đạt được các kết quả đó. Đầu tư là nhân tố quan
trọng, khơng thể thiếu để phát triển và xây dựng kinh tế. Các nguồn lực được sử
dụng để đầu tư có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ… Kết quả
đầu tư khơng chỉ là lợi ích trực tiếp cho nhà đầu tư mà cịn mang lại lợi ích cho xã
hội. Đầu tư đứng dưới góc độ chính trị-xã hội được hiểu này là việc bỏ nhân lực, vật
lực, trí lực vào cơng việc trên cơ sở tính tốn hiệu quả về kinh tế, xã hội. Tức đầu tư
là lấy những gì đang có làm nền tản cho sự phát triển hơn nữa trong tương lai. Cịn
dưới góc độ pháp lý, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các hình thức và
1

/>6


cách thức do pháp luật quy định để thực hiện hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận
hoặc lợi ích kinh tế, xã hội2. Hoạt động đầu tư có thể có tính chất kinh doanh

(thương mại) hoặc phi thương mại. Trong khoa học pháp lý cũng như trong thực
tiễn xây dựng chính sách, pháp luật về đầu tư, hoạt động đầu tư chủ yếu được đề cập
là hoạt động đầu tư kinh doanh, với bản chất là “chi phí của cải, vật chất nhằm mục
đích làm tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận”. Trong từ điển Tiếng Việt khái
niệm đầu tư được hiểu “là hoạt động sử dụng vốn theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh
đã được hoạch định trong một khoảng thời gian nhất định nhằm thu lợi ích từ hoạt
động sản xuất, kinh doanh”3. Đầu tư trong kinh doanh là bỏ vốn liếng, sức lực, thời
gian, trí tuệ vào sản xuất kinh doanh trên cơ sở tính tốn hiệu quả kinh tế xã hội để
có thể thu được kết quả tốt đẹp như mong muốn. Như vậy trong đầu tư, nhà đầu tư
không chỉ bỏ vốn mà có thể cịn bỏ cả trí lực, thời gian…nhằm đạt mục đích mình
mong muốn.
Ở Việt Nam, trước khi ban hành Luật Đầu tư 2005, khái niệm đầu tư kinh
doanh chưa được định nghĩa thống nhất trong các văn bản pháp luật. Luật khuyến
khích đầu tư trong nước ngày 20/05/1998, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
năm 1996, sửa đổi bổ sung năm 2000 khơng có định nghĩa về đầu tư nói chung, thay
vào đó là khái niệm “đầu tư trong nước” và “đầu tư nước ngoài”. Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam thực chất chỉ điều chỉnh các quan hệ đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài vào Việt Nam là chủ yếu. Nhiều hoạt động đầu tư trực tiếp từ nước ngoài như
doanh nghiệp đặt chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam và các hoạt động đầu
tư gián tiếp không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này4.
Sau khi Luật Đầu tư 2005 ra đời với phạm vi điều chỉnh là hoạt động đầu tư
nhằm mục đích kinh doanh, khái niệm “đầu tư” lần đầu tiên được đề cập đến. Theo
khoản 1 Điều 3 LĐT quy định: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài
sản hữu hình hoặc vơ hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư”.
Đặc biệt, Luật Đầu tư còn đưa ra định nghĩa về hoạt động đầu tư làm cơ sở để phân
2

Từ điển pháp lý, nhà xuất bản tư pháp
Từ điển Tiếng Việt, Nxb VHTT, 2001, trang 208
4

Điều 4 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996.
3

7


biệt giữa đầu tư và hoạt động đầu tư. Theo đó hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà
đầu tư trong quá trình đầu tư gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự
án đầu tư5. Trong khái niệm đầu tư có những đặc điểm cơ bản: thứ nhất, là vốn,
khơng có đầu tư nào mà khơng mang lại vốn. Vốn có thể là tiền mặt hoặc là tài sản,
bao gồm tài sản hữu hình và vơ hình; thứ hai, đầu tư có thời hạn kéo dài nhất định.
Chỉ có những khoản đầu tư trung và dài hạn mới được xem là đầu tư trực tiếp, đặc
điểm này không áp dụng cho các khoản đầu tư mang tính chất đầu cơ6; thứ ba, đầu
tư mang tính chất rủi ro. Bởi tình hình kinh tế, xã hội luôn biến động, việc xảy ra
những biến cố, rũi ro là mang tính tất yếu. Giữa khái niệm đầu tư kinh doanh và
khái niệm kinh doanh có sự khác biệt, Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định kinh
doanh được định nghĩa là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các cơng
đoạn của q trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ
trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Kinh doanh bao trùm tất cả các giai đoạn
của hoạt động đầu tư kinh doanh, từ việc bỏ vốn vào đầu tư, đến sản xuất, gia công
chế biến hàng hóa, cung ứng các dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích lợi nhuận.
Theo đó, khái niệm kinh doanh rộng hơn khái niệm đầu tư kinh doanh.
Hiện nay, có rất nhiều cách phân loại đầu tư, tùy vào từng góc độ tiếp cận ta có
các tiêu chí phân loại đầu tư khác nhau.
Căn cứ vào cách thức sử dụng vốn và cách thức quan hệ quản lý của chủ đầu
tư thì đầu tư có thể có 2 loại đầu tư: Đầu tư trực tiếp là “hình thức đầu tư do nhà đầu
tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”7. Điều này có nghĩa là người
đầu tư bỏ vốn trực tiếp tham gia vào quản lý và điều hành quá trình sản xuất kinh
doanh; đầu tư gián tiếp là “hình thức đầu tư thơng qua việc mua cổ phần, cổ phiếu,
trái phiếu và các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khống và thơng qua các

định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý”8,
tức là người đầu tư bỏ vốn nhưng không trực tiếp tham gia vào quản lý và sử dụng
5

Khoản 7 Điều 3 Luật Đầu tư 2005
Ơng Michel raynaud, ngun cơng tố viên cao cấp tại Tào án Thương mại, Tòa phá án, Cộng hòa Pháp, hội
thảo về dự thảo Luật Đầu tư ngày 25 tháng 8 năm 2005
7
Khoản 2 Điều 3 Luật Đầu tư 2005
8
Khoản 3 điều 3 Luật Đầu tư 2005
6

8


vốn, điều hành quá trình sản xuất kinh doanh. Ở loại hình này thì việc đầu tư bằng
nguồn vốn nước ngồi là một hình thức điển hình.
Căn cứ vào phạm vi đầu tư có thể chia ra làm đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, đầu tư ra nước ngồi, đầu tư tài chính, đầu tư thương mại,
đầu tư phát triển. Trong đó, đầu tư trong nước là việc bỏ vốn vào sản xuất kinh
doanh tại Việt Nam. Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là việc người nước ngoài tại
Việt Nam đầu tư tại Việt Nam. Hình thức đầu tư này ngày càng đa dạng khi nước ta
ngày càng mở cửa và cơ chế khuyến khích đầu tư nước ngồi ngày càng lớn và cơ
chế, thủ tục càng hoàn thiện. Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư của cá nhân, tổ
chức Việt Nam chuyển vốn ra nước ngồi đầu tư. Hình thức này chưa chiếm tỷ
trọng cao và ở Việt Nam hiện tại số doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài chỉ đếm trên
đầu ngón tay9. Đầu tư tài chính là là việc người đầu tư bỏ tiền ra cho vay hoặc mua
các chứng chỉ có giá trị để hưởng các lãi suất định trước hoặc lãi suất tùy thuộc vào
kết quả của hoạt động kinh doanh. Đầu tư tài chính khơng trực tiếp tạo ra tài sản mà

nó chỉ làm giá tăng hoặc giảm giá trị tài sản. Đầu tư thương mại việc người đầu tư
bỏ tiền ra mua hàng hóa sau đó bán lại nhằm thu được lợi nhuận do chênh lệch giữa
giá mua và giá bán. Loại đầu tư này khơng tạo ra tài sản mới mà chỉ có tác dụng
thúc đẩy q trình lưu thơng của cải vật chất. Đầu tư phát triển là việc người đầu tư
bỏ tiền ra tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra của cải vật
chất10.
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế, khi bàn về đầu tư một phần quan trọng
khơng thể khơng đề cập đến đó là đầu tư nước ngoài. Nhất là khi nền kinh tế thế giới
gặp khủng hoảng như hiện nay, giải pháp “cứu cánh” cho các quốc gia là tìm được
mơi trường đầu tư quốc tế phù hợp. Tóm lại, “đầu tư” đặc biệt là đầu tư nước ngồi
có vai trị tích cực trong tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán, tạo việc
làm trực tiếp cho người lao động và hàng triêu việc làm gián tiếp khác, là yếu tố

9

Khoản 12, 13, 14 Điều 3 Luật Đầu tư 2005
/>
10

9


thúc đẩy q trình đổi mới cơng nghệ, nâng cao phương thức quản lý kinh doanh,
tạo động lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn trong từng ngành…
1.3.2 Nhà đầu tƣ nƣớc ngoài và các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động
của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
Sau 25 năm thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngồi, Việt Nam đã
đạt được nhiều thành công. Theo nghiên cứu thực tiễn cho thấy, việc tăng trưởng
kinh tế trong khu vực đầu tư nước ngoài ngày càng cao, từ năm 2004 – 2011 nguồn
vốn đầu tư nước ngoài đã tăng nhanh chóng với 9.500 dự án đầu tư, vốn đăng ký đạt

175 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 61,8 tỷ USD và đặc biệt từ năm 2007 trở đi số vốn
ĐTNN thực hiện hàng năm đều đạt xấp xỉ 10 tỷ USD11. Tuy nhiên, vẫn có nhiều
chuyên gia đánh giá rằng Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng trong việc thu hút
vốn đầu tư nước ngoài nếu họ tiến hành cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh phù
hợp hơn nữa12. Từ những đánh giá và thành tích đạt được trên, Việt Nam cần phải
có nỗ lực phát triển nội lực của quốc gia hơn nữa để tạo ra một môi trường cạnh
tranh hấp dẫn hơn so với khu vực và thế giới nhằm thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài đến và tiếp tục kinh doanh ở Việt Nam. Trong đó, một vấn đề đáng quan tâm
hiện nay là việc cải thiện môi trường pháp lý phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội
của đất nước.
Với những đóng góp to lớn của các nhà đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế-xã
hội Việt Nam, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay ban hành rất nhiều quy định
dành cho nhà đầu tư nước ngoài. Để hiểu rõ về nhà đầu tư nước ngồi, trước tiên
cần tìm hiểu thế nào là nhà đầu tư. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 13 của Luật Đầu
tư 2005 thì “Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy
định của pháp luật Việt Nam”. Từ khái niệm trên có hai vấn đề cần quan tâm là chủ
thể và nội dung. Về chủ thể, nhà đầu tư theo quy định này là tổ chức hoặc cá nhân
và về nội dung, nhà đầu tư phải thực hiện hoạt động đầu tư. Như vậy, cùng với định
nghĩa hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư gồm các
11

Hội nghị 25 năm đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức.
Giám đốc quốc gia ADB tại VN Kimura và chuyên gia kinh tế Mellor tại buổi công bố Báo cáo Triển
vọng Phát triển Châu Á ngày 9-4-2013 ở Hà Nội.
12

10


khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư, cho thấy chủ thể của hoạt

động đầu tư có thể là nhà đầu tư tự bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư theo rất
nhiều hình thức đầu tư trực tiếp13 như thành lập doanh nghiệp 100% vốn của nhà
đầu tư nước ngoài, doanh nghiêp liên doanh, hợp đồng BCC, BOT, BT….; hoặc
hình thức đầu tư gián tiếp14 như mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, thơng qua quỹ
đầu tư chứng khốn…
Mỗi quốc gia khác nhau có những khái niệm và cách hiểu khác nhau về nhà
đầu tư nước ngoài. Đối với quốc gia Pháp, pháp luật quy định nhà đầu tư nước ngồi
là cơng dân của nước khác bao gồm công dân của các nước thành viên EU, các nhà
đầu tư Pháp đầu tư ở Pháp thông qua các phương tiện đầu tư nước ngoài15. Ở Trung
Quốc, nhà đầu tư nước ngoài được định nghĩa là những doanh nghiệp, tổ chức kinh
tế, cá nhân nước ngồi thành lập doanh nghiệp có vốn nước ngồi trong lãnh thổ của
Trung Quốc. Theo pháp luật của Hàn Quốc thì nhà đầu tư nước ngồi được hiểu là
những tổ chức, cá nhân nước ngoài đang sở hữu lượng cổ phần, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi tn theo các điều kiện gồm với hình thức góp vốn, mua cổ
phần là trên hoặc bằng 50 triệu won, sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc cổ phần có
quyền biểu quyết hoặc thỏa thuận về bãi nhiệm/bổ nhiệm người quản lý; thỏa thuận
mua nguyên vật liệu, sản phẩm; cung cấp cơng nghệ, cùng R&D16.
Theo Luật Đầu tư nước ngồi tại Việt Nam 1996 định nghĩa: “Nhà đầu tư nước
ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam”17. Theo khoản 5 Điều 3
Luật Đầu tư 2005 quy định: “Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài
bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam”. Thực chất hai quy định này là
một bởi như đã phân tích mục 1.1 trên, đầu tư chính là việc nhà đầu tư bỏ vốn để
thực hiện hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, điểm cần lưu ý trong hai khái niệm trên là
chủ thể, Luật Đầu tư hiện hành đã giới hạn chỉ “là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ
vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam”. Vậy điều cần làm rõ là: “xác định
13

Điều 21 Luật Đầu tư 2005.
Điều 26 Luật Đầu tư 2005.
15

Http://www.imakenews.com/iln/e_article000617770
16
Foreign investment promotion Act (Republic Korea).
17
Khoản 2 Điều 2 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996
14

11


thế nào là tổ chức, cá nhân nước ngoài”, trong pháp luật Việt Nam có rất nhiều quy
định về vấn đề này, tại Nghị định 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 của Chính Phủ
về quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ Luật Dân sự về quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngồi định nghĩa: “Người nước ngồi là người khơng có quốc tịch Việt
Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngồi và người khơng quốc tịch”; “Các cơ
quan, tổ chức nước ngoài là các cơ quan, tổ chức không phải là cơ quan, tổ chức
Việt Nam được thành lập theo pháp luật nước ngoài, bao gồm cả cơ quan, tổ chức
quốc tế”. Trong Luật Thương mại 2005 quy định: “Thương nhân nước ngoài là
thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước
ngồi hoặc được pháp luật nước ngồi cơng nhận18”. Như vậy, theo khái niệm của
các luật trên và Nghị định 138/2006 thì tiêu chí quan trọng và duy nhất để phân biệt
nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư trong nước là tiêu chí quốc tịch_ chỉ các tổ
chức, cá nhân mang quốc tịch nước ngoài mới được xem là nhà đầu tư nước ngoài,
tức là các tổ chức, cá nhân không mang quốc tịch Việt Nam. Qua đó cho thấy, nếu
dùng tiêu chí quốc tịch thì nhà đầu tư nước ngồi sẽ nằm trong nhóm nhà đầu tư tự
bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư, riêng đối với nhóm doanh nghiệp mới thành
lập tại Việt Nam để thực hiện dự án đầu tư sẽ được xem là nhà đầu tư trong nước.
Và điều này cũng được gián tiếp khẳng định tại khoản 20 Điều 4 Luật Doanh nghiệp
2005: “Quốc tịch của doanh nghiệp là quốc tịch của nước, vùng lãnh thổ nơi doanh
nghiệp thành lập, đăng ký kinh doanh”.

Tuy nhiên, một vấn đề đáng quan tâm là ngồi tiêu chí “quốc tịch”, pháp luật
Việt Nam cịn có một tiêu chí khác cũng được quy định để xác định tư cách của nhà
đầu tư trong các doanh nghiệp, đó là tiêu chí “vốn góp”, được dùng để xác định tư
cách của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam 1996 ra đời đã khẳng định doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do
hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên
doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và chính phủ nước ngồi và
phần góp vốn của bên nước ngồi trong doanh nghiệp liên doanh khơng được thấp

18

Khoản 1 Điều 16 Luật Thương mại 2005.
12


hơn 30% tổng số vốn”, như vậy pháp luật Việt Nam đã ấn định tỷ lệ vốn điều lệ của
nhà đầu tư nước ngoài vào doanh nghiệp và sẽ được xem là nhà đầu tư nước ngoài.
Sau khi Luật Đầu tư 2005 ra đời thay thế Luật Đầu tư nước ngoài 1996 quy định tại
khoản 4 Điều 29 Luật Đầu tư 2005: “Nhà đầu tư nước ngoài được áp dụng điều kiện
đầu tư như nhà đầu tư trong nước trong trường hợp các nhà đầu tư Việt Nam sở hữu
từ 51% vốn điều lệ của doanh nghiệp trở lên”, tức là Luật Đầu tư 2005 đã gián tiếp
quy định doanh nghiệp có vốn Điều lệ của nhà đầu tư nước ngoài trên 49% sẽ xem
là nhà đầu tư nước ngoài. Qua đó cho thấy, Luật Đầu tư 2005 đã có sự tiến bộ hơn,
khơng cịn có sự hạn chế nhà đầu tư nước ngồi phải đóng góp với tỷ lệ tối thiểu là
30% mà cho phép nhà đầu tư nước ngồi được tự do muốn góp vốn với điều kiện,
nhu cầu của họ. Trong Quyết định số 121/2008/Q Đ-BTC ngày 24/12/2008 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành các quy chế hoạt động của nhà đầu tư nước
ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam quy định “NĐTNN bao gồm cả các tổ
chức thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam có 100% vốn góp nước ngoài
và các chi nhánh của tổ chức này”19. Tiếp theo là Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg

về tỷ lệ tham của nhà đầu tư nước ngồi trên thị trường chứng khốn Việt Nam,
NĐTNN bao gồm cả “tổ chức thành lập và hoạt động ở Việt Nam có tỷ lệ tham gia
góp vốn của bên nước ngoài trên 49%”. Và Quyết định 88/2009/QĐ-TTg về ban
hành quy chế vốn góp, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp
Việt Nam cũng quy định giống như Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg. Như vậy,
trong cùng một Luật Đầu tư 2005 lại đưa ra hai tiêu chí để xác định tư cách của nhà
đầu tư là quốc tịch và vốn góp, các Nghị định, quyết định hướng dẫn thi hành Luật
Đầu tư 2005 cũng căn cứ vào vốn góp. Điều này đi ngược lại với quy định tại
Khoản 20 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 nhưng có thể lý giải nguyên nhân cho
cho quy định trên. Việc quy định như vậy một phần do trong Cam kết của WTO,
Việt Nam được quyền bảo hộ một số lĩnh vực bằng các hạn chế như tỷ lệ vốn góp
tối đa của bên nước ngồi theo mức độ và cách thức mà Việt Nam muốn20. Trong

19

Khoản 1 Điều 2 Quyết định số 121/2008/QĐ-CP.
/>20

13


thời gian đầu, khi thực hiện cam kết WTO đã có một số nhà đầu tư nước ngồi dễ
dàng “lách luật” tham gia đầu tư vào các lĩnh vực hạn chế bằng việc thực hiện “đầu
tư chéo”…khiến cho những hạn chế trong các Cam kết WTO mà Việt Nam tham gia
trở nên vô nghĩa và mục tiêu bảo hộ không đạt được. Do vậy, việc quy định cả hai
tiêu chí quốc tịch và vốn góp sẽ góp phần hạn chế được nhà đầu tư nươc ngoài dùng
các thủ thuật “đầu tư chéo” để có thể tham gia vào các lĩnh vực hạn chế trong Cam
kết gia nhập WTO của Việt Nam. Nguyên nhân quan trọng hơn hết là nhằm mục
đích bảo hộ nền kinh tế trong nước. Như vậy, nếu áp dụng cả hai tiêu chí vốn góp và
quốc tịch để xác định nhà đầu tư nước ngồi thì NĐTNN bao gồm các tổ chức, cá

nhân nước ngoài tự bỏ vốn, đích thân thực hiện hoạt động đầu tư và các doanh
nghiệp được thành lập ở Việt Nam có tỷ lệ từ 49% vốn điều lệ của nhà đầu tư nước
ngồi. Tóm lại, để đảm bảo cho những lợi ích của đất nước pháp luật Việt Nam hiện
nay đã thống nhất cùng áp dụng cả hai tiêu chí quốc tịch và vốn góp để xác định tư
cách của nhà đầu tư là trong nước hay nước ngoài, dù cho tiêu chí vốn góp cịn rất
nhiều mâu thuẫn, tranh cãi.
So sánh giữa “khái niệm nhà đầu tư nước ngoài” theo pháp luật nước ngoài
như Pháp, Trung Quốc, Hàn Quốc…với pháp luật Việt Nam hiện nay có thể nhận
thấy, một điểm chung tương đồng trong khái niệm nhà đầu tư nước ngoài của các
quốc gia này đều là áp dụng tiêu chí quốc tịch để phân biệt giữa các nhà đầu tư.
Theo tác giả, việc dùng tiêu chí quốc tịch để phân biệt giữa nhà đầu tư nước ngoài
với nhà đầu tư trong nước là hồn tồn phù hợp bởi tiêu chí này là một tiêu chí được
hầu hết các quốc gia trên thế giới áp dụng trong các quan hệ về mặt đối ngoại. Điều
đặc biệt hơn đối với Việt Nam là Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp ra đời vào lúc
Việt Nam chuẩn bị gia nhập vào Tổ chức Kinh tế thế giới (WTO), ở đó tiêu chí quốc
tịch thường xuyên được đề cập trong các Cam kết của WTO. Do đó, sử dụng tiêu
chí quốc tịch để phân biệt nhà đầu tư trong nước và nước ngoài là hợp lý. Riêng đối
với tiêu chí vốn góp, nhận thấy một số quốc gia khơng cịn áp dụng, quốc tịch là tiêu
chí duy nhất dùng để phân biệt giữa các nhà đầu tư như Pháp,Anh, Mỹ,…nhưng vẫn
có một số quốc gia vẫn áp dụng tiêu chí vốn góp như Việt Nam Trung Quốc, Hàn
Quốc như đã phân tích trên. Thực chất có rất nhiều lý do để lý giải vì sao lại có sự
14


khác biệt trong mỗi hệ thống pháp luật, đó là do việc căn cứ vào thể chế chính trị
của nhà nước, căn cứ vào mức độ phát triển của từng quốc gia, hay những cam kết
quốc tế giữa các quốc gia… Hầu như những quốc gia phát triển, theo chế độ tư bản
chủ nghĩa và có nền quốc phịng vững mạnh thường hay áp dụng duy nhất tiêu chí
quốc tịch để xác định tư cách của nhà đầu tư. Ngược lại những quốc gia đang phát
triển, có tiềm lực kinh tế chưa đủ mạnh, nền quốc phòng còn non yếu thì vẫn áp

dụng cả hai tiêu chí quốc tịch và vốn góp để phan biệt nhà đầu tư ngoại, bởi họ còn
e ngại đến nền an ninh quốc gia, muốn bảo hộ một số ngành nghề còn non yếu hay
đảm bảo việc thu được một phần chi phí lớn cho ngân sách nhà nước từ các nhà đầu
tư nước ngoài…
Để thực hiện phát triển bền vững đất nước, đưa nền kinh tế theo định hướng
“kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Việt Nam đã đưa ra chính sách là
phải thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài. Sau 25 năm thực hiện mục
tiêu trên, có thể thấy pháp luật điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngồi ngày
càng tạo mơi trường cạnh tranh phù hợp hơn. Căn cứ vào luật điều chỉnh cơ bản
những hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài là Luật Đầu tư từ trước đến nay có thể
phân chia pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài
thành ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất từ năm 1987 đến 1996; giai đoạn thứ hai từ
năm 1996 đến 2006; giai đoạn thứ ba từ năm 2006 đến nay. Ở mỗi giai đoạn pháp
luật điều chỉnh các hoạt động của họ có những quy định khác nhau nhưng nhìn
chung pháp luật càng ngày càng tạo sự thơng thống, đảm bình đẳng sự bình đẳng
giữa các nhà đầu tư hơn. Cụ thể:
Trong công cuộc cải cách kinh tế năm 1987, pháp luật Việt Nam đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước. Luật Đầu tư
nước ngoài 1987 lần đầu tiên ra đời để đáp ứng yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế,
NĐTNN được đầu tư vào Việt Nam với ba hình thức là hợp tác kinh doanh, doanh
nghiệp liên doanh và doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngồi. Theo đó, nếu
NĐTNN vào Việt Nam thực hiện hoạt động đầu tư, Luật Đầu tư được dùng để thực
hiện ba nhiệm vụ chính là, thứ nhất là các điều kiện để được đầu tư, xem xét mục

15


đích đầu tư của nhà đầu tư nước ngồi và những lợi ích mang lại cho Việt Nam khi
họ thực hiện đầu tư; thứ hai là đảm bảo tài sản, vốn của nhà đầu tư nước ngoài khi
đầu tư vào Việt Nam và khi chuyển vốn, tài sản ra nước ngoài; thứ ba là những ưu

đãi đầu tư dành cho NĐTNN. Nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư
thông qua việc thực hiện “dự án đầu tư” và dự án đầu tư này chỉ có thể được thực
hiện khi cơ quan nhà nước thông qua một trong ba hình thức đầu tư của NTNN, tức
là khi nhà đầu tư thực hiện việc đăng ký đầu tư. Đây được xem là hình thức đầu tư
trực tiếp, nhà đầu tư buộc phải có dự án đầu tư hay cịn gọi là đầu tư dự án. Nếu nhà
đầu tư nước ngoài chỉ được phép thực hiện dự án đầu tư thì họ chỉ được lựa chọn ba
hình đầu tư trên và “ chôn chân” từ khi đăng ký đầu tư cho đến khi giải thể. Nhưng
một số nhà đầu tư mong muốn được đầu tư nhanh, thu vốn nhanh, được tự do rút
vốn theo quyết định của mình, đáp ứng nguyện vọng trên của họ, pháp luật cho phép
họ được đầu tư gián tiếp thông qua việc đầu tư tài chính. Dựa vào đầu tư tài chính,
ban đầu nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép mua trái phiếu của doanh nghiệp,
nhưng sau đó luật cịn cho phép họ cịn được mua chứng khốn của các cơng ty
niêm yết và cổ phần của các công ty chưa niêm yết. Bên cạnh đó, các văn bản pháp
luật khác cũng điều chỉnh hoạt động của NĐTNN như Luật Đất đai điều chỉnh
những vấn đề liên quan đến đất đai khi NĐTNN thực hiện các dự án đầu tư liên
quan đến nó, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp được dùng để điều chỉnh các khoản
thu nhà đầu tư phải đóng vào ngân sách nhà nước khi doanh nghiệp hoạt động, Luật
Hải quan được sử dụng khi nhà đầu tư nước ngoài nhập khẩu hàng hóa, nguyên
liệu…vào Việt Nam.
Giai đoạn thứ hai là từ 1996 đến năm 2006, nhận thấy Luật Đầu tư nước
ngoài1987 có nhiều quy định khơng cịn phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội lúc
bấy giờ, Việt Nam đã có hai lần sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài vào năm 1996 và
2000. Đặc biệt là việc nhập chung Luật Đầu tư và Luật khuyến khích đầu tư thành
một luật. Cũng giống như Luật Đầu tư nước ngoài 1987, vẫn quy định các loại hình
nhà đầu tư nước ngồi được phép đầu tư nhưng đã có nhiều quy định tạo thuận lợi
và thu hút nhà đầu tư hơn. Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp 2000 cũng có những cải
cách, mở rộng với bốn loại hình doanh nghiệp cơng ty hợp danh, trách nhiệm hữu
16



hạn một và hai thành viên và công ty cổ phần. Cùng với các sự thay đổi này, Luật
Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Hải quan cũng được sửa đổi, Luật Đất đai 2003
ra đời với những quy định mới, pháp luật Việt Nam mong muốn tạo ra một sân chơi
bình đẳng và ưu đãi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Giai đoạn thứ ba từ năm 2006 đến nay, đây được xem là giai đoạn có nhiều sự
thay đổi với những tiến bộ vượt bật, Luật Đầu tư 2005 và Luật Doanh nghiệp 2005
ra đời. Luật Đầu tư vẫn thực hiện những nhiệm vụ như Luật Đầu tư nước ngồi
1987 nhưng có một số quy định thay đổi phù hợp với giai đoạn cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và trong thời kỳ hội nhập hiện nay như việc điều chỉnh về các
hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế sẽ phải tuân theo quy định của Luật
Doanh nghiệp 200521, tức là doanh nghiệp tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp. Luật Đầu tư quy định NĐTNN được thực hiện các hoạt động đầu tư trực
tiếp, gián tiếp vào các lĩnh vực, ngành nghề nhà đầu tư được phép đầu tư thay vào
đó họ được tự do đầu tư vào các lĩnh vực khơng thuộc lĩnh vực cấm hoặc hạn chế
đầu tư, ngồi ra luật còn đưa ra các chi tiết rõ hơn như danh mục lĩnh vực khuyến
khích, cấm, có điều kiện… Luật Doanh nghiệp 2005 đã có sự thay đổi lớn, nó điều
chỉnh những vấn đề về tổ chức, hoạt động của doanh nghiệp bao gồm cả doanh
nghiệp trong nước và nước ngồi. Luật Đất đai, Luật Thuế, Luật Mơi trường, Luật
Xây dựng cũng có những sửa đổi đáp ứng nhu cầu hiện nay của nhà đầu tư nước
ngồi.
Nhìn chung, pháp luật Việt Nam hiện nay đã có nhiều quy định phù hợp hoạt
động của nhà đầu tư nước ngoài, mỗi ngành luật đáp ứng một nhiệm vụ riêng nhưng
đều góp phần tạo điều kiện thu hút nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam đầu tư, tạo
sự yên tâm cho nhà đầu tư khi hoạt động đầu tư, kinh doanh ở đây. Đặc biệt là Luật
Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, được xem là hai văn bản có ảnh hưởng trực tiếp tới
việc tổ chức và hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, trong các
Cam kết quốc tế của WTO về đầu tư mà Việt Nam tham gia cũng có một số điều

21


Khoản 1 Điều 22 Luật Đầu tư.
17


chỉnh về hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài, nó được xem là nền tản cho việc ban
hành pháp luật Việt Nam.
Tóm lại, thứ nhất trong pháp luật Việt Nam hiện nay, việc xác định nhà đầu tư
nước ngoài bao gồm cả hai tiêu chí là quốc tịch cho tổ chức, cá nhân nước ngồi và
vốn góp trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi thành lập tại Việt. Tuy nhiên,
đối với việc xác định vốn góp trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tại Việt
Nam cần phải có sự điều chỉnh lại cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Thứ
hai, hiện nay có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của nhà
đầu tư nước ngoài như Luật Đầu tư 2005, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Đất Đai
2003,... Trong đó, Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005 được xem là hai
văn bản luật nền tản, có ảnh hưởng quan trọng nhất đối với việc điều chỉnh hoạt
động của nhà đầu tư nước ngồi.
1.4 .

Vai trị của Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tƣ 2005 trong việc

điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam
Trong tình hình kinh tế, chính trị - xã hội ngày càng thay đổi, xu hướng “tồn
cầu hóa” đang phát triển mạnh chưa từng thấy. Hoạt động kinh doanh quốc tế ngày
một trở nên đa dạng, phong phú và có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Mỗi quốc gia nói
chung hay doanh nghiệp nói riêng đều cố gắng tìm cách thâm nhập vào thị trường
các nước khác nhau, tìm kiếm những cơ hội nhằm mở rộng hoạt động kinh doanh và
phát triển kinh tế. Căn cứ vào tình hình trên, hầu hết các quốc gia đang phát triển
đều có nhu cầu lớn về vấn đề thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài… Là một quốc
gia đang phát triển, Việt Nam cũng đang hướng đến mục tiêu trên và để đạt được
điều đó Việt Nam sẽ phải nỗ lực rất lớn trong mọi lĩnh vực, trong đó khơng thể

khơng nói đến lĩnh vực lập pháp. Việc tạo ra một môi trường pháp lý tiến bộ, cải
thiện môi trường kinh doanh, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài là một yêu cầu rất
cấp thiết. Do đó, Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005 đã ra đời với vai trị
góp phần thực hiện nhiệm vụ trên và hơn hết là cầu nối giữa các nhà đầu tư nước
ngoài với thị trường kinh tế Việt Nam.

18


Luật Doanh nghiệp 2005 ban hành, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng
7 năm 2006. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã thống nhất các quy định về thành lập
và quản lý các doanh nghiệp, không phân biệt là doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà
nước hay sở hữu tư nhân, doanh nghiệp trong nước hay nước ngoài. Luật Doanh
nghiệp năm 2005 đã thay thế Luật Doanh nghiệp năm 1999; Luật Doanh nghiệp nhà
nước năm 2003, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 166 của Luật này. Vai trò
của Luật Doanh nghiệp được thể hiện cụ thể với hai nhiệm vụ chiến lược. Thứ nhất
là xây dựng được những doanh nghiệp năng động, không bị cản trở bởi những quy
định pháp luật quá phức tạp và ngặt nghèo; bởi lẽ trong một nền kinh tế thị trường,
các doanh nghiệp phải được tạo điều kiện để phát triển vì chính họ là tác nhân tạo ra
của cải. Thứ hai là bảo vệ các lợi ích liên quan, tức là lợi ích của các cổ đơng thiểu
số, các nhà đầu tư; bên cạnh đó là lợi ích của xã hội, hiểu theo nghĩa rộng là lợi ích
của những người lao động, những chủ nợ và của nhà nước22. Luật Đầu tư năm 2005
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 đã thay thế Luật Khuyến khích đầu tư
trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000, áp dụng thống
nhất cho hoạt động đầu tư trong nước cũng như nước ngồi. Thay đổi đó được nhiều
người đánh giá là bước đột phá trong tư duy và cải cách hoàn thiện hệ thống pháp
luật ở Việt Nam. Bởi hầu như trên thế giới có rất ít quốc gia ban hành một đạo luật
riêng điều chỉnh hoạt động đầu tư23.
Luật doanh nghiệp thực hiện chức năng điều chỉnh ba nhóm vấn đề chính là tổ

chức, thành lập các loại hình doanh nghiệp; hoạt động của doanh nghiệp và tổ chức
lại, chuyển đổi và chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp. Đối với sự ra đời của Luật
Đầu tư 2005 là để thực hiện việc điều chỉnh các hoạt động đầu tư cũng như những
quyền, nghĩa vụ của nhà đầu tư, những chính sách ưu đãi đầu tư và việc đảm bảo sự
quản lý của nhà nước về đầu tư tại Việt Nam. Cụ thể Luật Doanh nghiệp 2005 và

22

Dự thảo lần thứ mấy Luật Doanh nghiệp thống nhất 2005 và Luật Đầu tư chung ngày 24, 25 tháng 8 năm
2005
23
Ông Michel raynaud_Dự thảo Luật Đầu tư 2005 ngày 25 tháng 8 năm 2005
19


Luật Đầu tư 2005 đã có những tác động tích cực đối với việc điều chỉnh những hoạt
động đầu tư nước ngoài như:
Thứ nhất là tạo ra khung pháp lý cho các nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng gia
nhập vào thị trường Việt Nam, tiến hành hoạt động đầu tư, kinh doanh và rút lui
khỏi thị trường. Biểu hiện cụ thể là trong LDN đã thống nhất các loại hình doanh
nghiệp, khơng cịn phân biệt sở hữu nhà nước hay nước ngoài, đặc biệt các nhà đầu
tư nước ngoài được hưởng chế độ đăng ký kinh doanh giống như doanh nghiệp tư
nhân trong nước; các nhà đầu tư nước ngồi sẽ tự lựa chọn loại hình doanh nghiệp
để kinh doanh hay gia nhập thị trường thông qua việc mua vốn góp, cổ phần, thậm
chí là mua lại tồn bộ doanh nghiệp, những khống chế về mức sở hữu 30% đối với
đầu tư nước ngồi về cơ bản xóa bỏ, trừ những ngành nghề hạn chế kinh doanh,
doanh nghiệp đầu tư nước ngồi có quyền tự chủ cao hơn trong việc thực hiện kinh
doanh, cơ cấu lại, mở rộng và đa dạng hóa ngành, nghề kinh doanh, nhà đầu tư nước
ngoài được tự chủ quyết định các vấn đề trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là
quyền đầu tư kinh doanh và quyền huy động vốn, khả năng rút lui khỏi thị trường

khi làm ăn thua lỗ hoặc không muốn tiếp tục kinh doanh (thông qua việc bán doanh
nghiệp) hoặc cơ cấu lại doanh nghiệp (như bán tài sản, chi nhánh...)... Đối với LĐT,
là đảm bảo đối xử bình đẳng với tất cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đảm bảo
tự do kinh doanh, theo đó các nhà đầu tư được phép kinh doanh tất cả những gì mà
pháp luật không cấm, chuyển từ cách tiếp cận “danh sách các ngành được phép”
sang “danh sách loại trừ và hạn chế”.
Thứ hai là tạo niềm tin, sự an toàn cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đến đầu
tư tại Việt Nam với một môi trường cạnh tranh lành mạnh, quyền tự do kinh doanh
được mở rộng, đặc biệt là sự đảm bảo về đầu tư. Ví dụ như Luật Doanh nghiệp quy
định khung quản trị áp dụng thống nhất và như nhau đối với các doanh nghiệp trong
nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Tăng thêm quy định cơng khai và minh
bạch hóa, nhất là đối với những người quản lý…Trong Luật Đầu tư, với các điều
khoản bảo đảm đầu tư liên quan tới thương mại để phù hợp với cam kết quốc tế,

20


×