Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Pháp luật cạnh tranh việt nam về quảng cáo so sánh thực trạng và hướng hoàn thiện (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI

TRẦN PHƢƠNG THẢO

PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
VỀ QUẢNG CÁO SO SÁNH – THỰC TRẠNG VÀ
HƢỚNG HOÀN THIỆN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP HCM 2014


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
-------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM VỀ QUẢNG CÁO
SO SÁNH – THỰC TRẠNG VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: TRẦN PHƢƠNG THẢO
KHÓA: 35

LỚP : TM 35.3

MSSV: 1055010244



GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: ThS. NGUYỄN VĂN HÙNG

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan:
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật với đề tài “Pháp luật cạnh tranh Việt
Nam về quảng cáo so sánh – Thực trạng và hƣớng hồn thiện” là cơng trình
nghiên cứu của riêng tơi.
Các thơng tin, dữ liệu được nêu trong khóa luận là trung thực; các dữ liệu,
quan điểm của tác giả khác sử dụng trong khóa luận này được trích dẫn nguồn đầy
đủ, đúng quy định.
Tồn bộ nội dung và kết quả trình bày do chính tơi thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học và nhiệt tình của ThS. Nguyễn Văn Hùng. Tơi xin chịu trách nhiệm
về tính trung thực, khách quan của các kết quả trình bày trong khóa luận.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 7 năm 2014
Tác giả khóa luận

Trần Phương Thảo


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...........................................................................................................1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO SO SÁNH VÀ
PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO SO SÁNH Ở VIỆT NAM .................................4
1.1- Tổng quan về hoạt động quảng cáo so sánh ....................................................4
1.1.1- Một số khái niệm và đặc điểm của quảng cáo so sánh ..................................4
1.1.1.1- Một số khái niệm liên quan đến quảng cáo so sánh ......................................4

1.1.1.2- Đặc điểm của quảng cáo so sánh ..................................................................9
1.1.2- Những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của quảng cáo so sánh .................12
1.1.2.1- Những ảnh hưởng tích cực của quảng cáo so sánh .....................................12
1.1.2.2- Những ảnh hưởng tiêu cực của quảng cáo so sánh .....................................15
1.2- Tổng quan về pháp luật quảng cáo so sánh ở Việt Nam ..............................16
1.2.1- Lịch sử phát triển pháp luật Việt Nam về quảng cáo so sánh .....................16
1.2.2- Vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh đối với quảng cáo so sánh .....19
1.2.2.1- Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đối thủ cạnh tranh .....................................19
1.2.2.2- Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng .........................................20
1.2.2.3- Bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh ...................................................20
1.2.3- Mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh 2004, Luật Thương mại 2005, Luật
Quảng cáo 2012 về quảng cáo so sánh ...................................................................21
1.2.3.1- Mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh 2004 và Luật Thương mại 2005 .........21
1.2.3.2- Mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh 2004 và Luật Quảng cáo 2012 ...........22
1.2.3.3- Mối quan hệ giữa Luật Thương mại 2005 và Luật Quảng cáo 2012 ..........23
TỔNG KẾT CHƢƠNG 1 .......................................................................................25
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM VỀ QUẢNG CÁO SO
SÁNH - THỰC TRẠNG VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN .......................................26
2.1- Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về quảng cáo so sánh.............26
2.1.1- Quy định pháp luật cạnh tranh Việt Nam về quảng cáo so sánh ................26
2.1.1.1- So sánh trực tiếp ..........................................................................................26
2.1.1.2- Hàng hóa, dịch vụ cùng loại ........................................................................30
2.1.1.3- Hàng hóa dịch vụ của mình và của doanh nghiệp khác ..............................32
2.1.1.4- Trường hợp ngoại trừ ..................................................................................34


2.1.2- Quy định pháp luật của một số nước điển hình về quảng cáo so sánh –
Nhận xét so sánh ......................................................................................................36
2.1.3- Thực tiễn vụ việc quảng cáo so sánh ở Việt Nam ........................................40
2.2- Hƣớng hoàn thiện pháp luật quảng cáo so sánh ở Việt Nam ......................44

2.2.1- Các nguyên tắc hoàn thiện pháp luật ...........................................................44
2.2.1.1- Đảm bảo thống nhất các quy định pháp luật ...............................................44
2.2.1.2- Đảm bảo hài hòa pháp luật các nước trên thế giới theo cơ chế thị trường 44
2.2.1.3- Đảm bảo xây dựng môi trường tự do kinh doanh ........................................44
2.2.1.4- Đảm bảo tính chính xác, rõ ràng trong quy định ........................................45
2.2.1.5- Đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng ..............................45
2.2.2- Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật quảng cáo so sánh ..............46
2.2.2.1- Một số kiến nghị mang tính định hướng ......................................................46
2.2.2.2- Một số kiến nghị cụ thể ................................................................................49
TỔNG KẾT KẾT CHƢƠNG 2 .............................................................................53
KẾT LUẬN ..............................................................................................................54


LỜI NĨI ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế tồn cầu hóa, cạnh tranh đóng vai trị như một cánh cửa thị
trường. Cạnh tranh mở ra vô vàn lợi thế cho doanh nghiệp mà hàng hóa, dịch vụ họ
tạo ra luôn thu hút khách hàng, ngược lại, sẽ loại bỏ khỏi thị trường những chủ thể
kinh doanh kém hiệu quả. Do đó, bên cạnh việc tự hồn thiện chất lượng sản phẩm,
quảng cáo là công cụ không thể thiếu trong việc hoạch định chiến lược thu hút
khách hàng. Ở Việt Nam, quảng cáo ngày càng phát triển với nhiều hình thức đa
dạng và phong phú, trong đó, quảng cáo so sánh được xem là hình thức sinh động,
hấp dẫn và phổ biến.
Khơng khó để tìm thấy những quảng cáo so sánh thể hiện rộng khắp trên các
phương tiện truyền thơng từ báo chí, tivi, Internet đến các bảng pano, áp phích kiểu
như Head & Shoulder loại gàu tốt hơn dầu gội thường, VIM - tẩy sạch các vết bám
hơn chất tẩy rửa thông thường. Quảng cáo so sánh đem đến người tiêu dùng định
hướng nhu cầu, sự đánh giá tốt nhất giữa tương quan các đối tượng được so sánh
xuất phát từ bản chất đối chiếu nhằm làm nổi bật sản phẩm. Nhưng ở một khía cạnh
khác, với sự ganh đua, kình địch cũng như cơ chế đào thải khắc nghiệt trong nền

kinh tế thị trường, đã có khơng ít những hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh trong
quảng cáo so sánh để lôi kéo khách hàng nhằm tiêu thụ hàng hóa nhanh chóng,
phục vụ tái sản xuất. Những hành vi này được thực hiện ngày càng tinh vi, khôn
khéo gây thiệt hại không chỉ đối với người tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh mà còn ảnh
hưởng nghiêm trọng đối với các chính sách cạnh tranh của Nhà nước. Điển hình
như vụ việc quảng cáo so sánh mì gói của cơng ty Masan với các loại mì gói thông
thường, quảng cáo của Công ty nệm Kymdan so sánh với sản phẩm của các đối thủ
cạnh tranh khác. Tuy nhiên, tồn tại những quan điểm chuyên môn khác nhau về
quảng cáo so sánh và pháp luật cũng có những cách tiếp cận khác nhau về vấn đề
này. Pháp luật Việt Nam hiện nay, cụ thể là Luật Cạnh tranh 2004, Luật Thương
mại 2005, Luật Quảng cáo 2012 và các văn bản có liên quan khác đã có những quy
định điều chỉnh về quảng cáo so sánh. Thế nhưng, việc quy định chưa đầy đủ, còn
bỏ ngỏ và chưa dự liệu hết các tình huống phát sinh dẫn đến khó khăn, trở ngại cho
việc áp dụng trong thực tiễn. Thiết nghĩ, hiện nay, khi bước vào cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc hồn thiện pháp luật về quảng cáo so sánh là
xu thế tất yếu tạo nên môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh trong hoạt động
quảng cáo cũng như góp phần vào sự phát triển kinh tế Việt Nam nói chung.
1


Từ những nhu cầu lí luận và thực tiễn nêu trên, tác giả xin chọn đề tài Pháp
luật cạnh tranh Việt Nam về quảng cáo so sánh- Thực trạng và hướng hồn
thiện là đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2- Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Với việc nghiên cứu các quy định pháp luật cạnh tranh về quảng cáo so sánh,
tác giả phân tích từng khía cạnh nội dung liên quan đến vấn đề này, từ đó phát hiện
những điểm hạn chế trong các quy định nhằm đóng góp ý kiến chủ quan của bản
thân về việc hồn thiện các quy định này trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3- Tình hình nghiên cứu
Quảng cáo là công cụ mà các doanh nghiệp sử dụng nhằm thúc đẩy việc mua

bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Dưới góc độ pháp lý, quảng cáo đã được nhiều tác
giả nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Nhưng là một loại
hình của quảng cáo, đề tài quảng cáo so sánh lại chiếm số lượng các cơng trình
nghiên cứu ít hơn so với quảng cáo.
Trong phạm vi tại trường đại học Luật TP. HCM, tác giả tìm hiểu đã có một số
bài viết khoa học trực tiếp đề cập đến hoạt động quảng cáo so sánh dưới góc độ
pháp lý, cụ thể của Phan Huy Hồng (2007), “Quảng cáo so sánh trong pháp luật
cạnh tranh – một nghiên cứu so sánh luật”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số
01/2007); Nguyễn Thị Trâm (2007), “Áp dụng các quy định của Luật Cạnh tranh
về quảng cáo so sánh và một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn”, Tạp chí Kiểm sát,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (số 9, 05/2007); Trương Hồng Quang (2010), “Một
số vấn đề về hành vi quảng cáo so sánh theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, (số tháng 08/2010); Nguyễn Mai Hân (2009), Luận văn thạc sỹ
Luật học Quảng cáo so sánh trong pháp luật Việt Nam và Anh – Nghiên cứu so
sánh; Dương Thị Diễm (2011), Khóa luận tốt nghiệp Quảng cáo so sánh trong
Pháp luật Cạnh tranh Việt Nam - Thực trạng và hướng hồn thiện. Bên cạnh đó,
cịn rất nhiều cơng trình nghiên cứu khác về hoạt động quảng cáo, trong đó quảng
cáo so sánh được đề cập đến với dung lượng nhỏ và chưa khai thác triệt để vấn đề.
Nhìn chung, các đề tài đã thực hiện mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu, đánh giá
các quy định của các văn bản điều chỉnh hoạt động quảng cáo so sánh trước đây,
hiện nay, có nhiều văn bản đã hết hiệu lực thi hành. Bên cạnh đó, Luật Quảng cáo
được Quốc hội khóa XIII thơng qua có hiệu lực thi hành ngày 01/1/2013 có những
quy định về quảng cáo so sánh thay đổi ít nhiều so với trước đây ảnh hưởng nhất
định đối với pháp luật cạnh tranh nói chung, Luật Cạnh tranh nói riêng.
3- Mục đích nghiên cứu
2


Qua nghiên cứu đề tài này, tác giả mong muốn làm sáng tỏ và giải quyết được
các vấn đề sau:

- Phân tích có hệ thống những vấn đề lí luận về hoạt động quảng cáo so sánh
và pháp luật về quảng cáo so sánh tại Việt Nam.
- Trên cơ sở những vấn đề lý luận, tác giả đi sâu tìm hiểu những quy định pháp
luật cạnh tranh điều chỉnh hoạt động quảng cáo so sánh tại Việt Nam hiện nay
- Đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện, bổ sung những quy định định pháp
luật, tạo khung pháp lý chặt chẽ, phù hợp, đảm bảo sự phát triển lành mạnh của hoạt
động quảng cáo so sánh.
4- Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề mang tính bao quát về
hoạt động quảng cáo so sánh, quy định pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hành vi này
ở Việt Nam. Qua đó, tác giả nêu ra thực trạng, đưa ra những kiến nghị, giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về quảng cáo so sánh.
5- Phạm vi nghiên cứu
Về lý luận, khóa luận nghiên cứu hoạt động quảng cáo so sánh và pháp luật về
hoạt động này. Trong đó, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định quảng cáo so
sánh trong Luật Cạnh tranh 2004. Ngoài ra, các quy định khác có liên quan trong hệ
thống pháp luật Việt Nam và nước ngoài được sử dụng nếu cần thiết với mục đích
so sánh, đối chiếu nhằm làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu.
Về thực tiễn, tác giả nêu rõ thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về quảng
cáo so sánh thông qua các vụ việc, sản phẩm quảng cáo so sánh trên thị trường Việt
Nam có sự vi phạm pháp luật cạnh tranh, từ đó, nêu hướng hoàn thiện pháp luật
cạnh tranh Việt Nam về quảng cáo so sánh.
6- Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận kết hợp sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phương pháp
so sánh luật nhằm chỉ ra sự tương quan giữa quy định Việt Nam và quy định một số
nước trên thế giới về quảng cáo so sánh; phương pháp phân tích, so sánh - đối
chiếu, tổng hợp… được dùng nhằm lý giải cặn kẽ, thuyết phục từng vấn đề nêu ra.
7- Kết cấu khóa luận
Ngồi lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa
luận được kết cấu gồm có 2 chương:

Chương I: Tổng quan về hoạt động quảng cáo so sánh và pháp luật về quảng
cáo so sánh ở Việt Nam.
Chương II: Pháp luật cạnh tranh Việt Nam về quảng cáo so sánh - Thực trạng
và hướng hoàn thiện.
3


CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO SO SÁNH
VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO SO SÁNH Ở VIỆT NAM
1.1- Tổng quan về hoạt động quảng cáo so sánh
1.1.1- Một số khái niệm và đặc điểm của hoạt động quảng cáo so sánh
1.1.1.1- Một số khái niệm liên quan đến hoạt động quảng cáo so sánh
- Khái niệm quảng cáo
Cùng với tốc độ phát triển vũ bão của truyền thông, quảng cáo ngày càng
chứng minh vị thế quan trọng của mình đối với hình ảnh doanh nghiệp. Quảng cáo
càng ấn tượng, thu hút người xem thì doanh nghiệp và các sản phẩm càng dễ đi sâu
vào tiềm thức người tiêu dùng. Để có được sự phát triển hiện nay, ít ai biết rằng,
quảng cáo có thời gian và khơng gian tồn tại cách đây hàng ngàn thế kỉ. Sự chính
xác về thời điểm ra đời của hoạt động quảng cáo không được tài liệu nghiên cứu
nào ghi nhận cụ thể nhưng theo phỏng đốn nó được phát hiện đầu tiên vào khoảng
năm 3000 trước Công Nguyên ở Ai Cập cổ đại1. Có thể nói, quảng cáo bắt đầu từ
khi có thành thị và bn bán2. Quảng cáo được xem phát triển mạnh nhất vào cuối
thế kỉ XX từ khi các phương tiện truyền thông ra đời. Quảng cáo phát triển song
song với sự phát triển kinh tế, xã hội. Điều đó được chứng minh qua các giai đoạn
lịch sử, điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau thì hình thức và phương tiện quảng cáo
sẽ không giống nhau. Trong đó, kinh tế thị trường là chất xúc tác hữu hiệu nhất làm
cho quảng cáo có được diện mạo hồn hảo như ngày nay.
Quảng cáo được điều chỉnh ở nhiều lĩnh vực. Do đó, khái niệm quảng cáo có
sự khác nhau ở các lĩnh vực tùy vào góc độ nghiên cứu. Trong phạm vi khóa luận
này, quảng cáo sẽ được tiếp cận ở ba góc độ ngơn ngữ, kinh tế, pháp lý trong nước

và thế giới. Ở góc độ ngơn ngữ, quảng cáo là một từ ngoại lai. Xuất phát từ tiếng
Latinh adverture, quảng cáo nghĩa là sự thu hút lòng người, gây sự chú ý và gợi
dẫn. Cho tới cuối thế kỉ XVII đầu thế kỷ XVIII, từ adverture được dịch sang tiếng
Anh là advertise hàm ý gây sự chú ý ở người khác, thông báo cho người khác một
sự kiện gì đó3. Theo từ điển Tiếng Việt phổ thơng, quảng cáo là trình bày để giới

1

truy cập ngày 06/5/2014.

2

Đào Hoàng Mai (2003), Quảng cáo xưa và nay, Nghiên cứu kinh tế, (296), tr.6.

Nguyễn Thị Dung (2005), “Khái niệm quảng cáo trong pháp luật Việt Nam và ảnh hưởng của nó
đến việc hồn thiện pháp luật quảng cáo”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,(số 12/2005), tr.33.
3

4


thiệu rộng rãi cho nhiều người biết nhằm tranh thủ được nhiều khách hàng4. Dưới
góc độ ngơn ngữ, quảng cáo đơn thuần là việc phổ biến thông tin đến đại chúng,
gắn liền với một sự kiện đem đến người tiếp nhận sự thu hút nhất định. Tuy nhiên,
các khái niệm này chưa nêu rõ loại thông tin mà quảng cáo đem đến. Nhưng với
mục đích nhằm tranh thủ nhiều khách hàng như đã nêu trên, có thể suy luận quảng
cáo đem đến thơng tin về hàng hóa hay dịch vụ.
Ở góc độ kinh tế, Hiệp hội tiêu thụ quốc doanh Mỹ cho rằng “quảng cáo là một
hành vi truyền đạt thơng tin đại chúng và tiêu tiền. Mục đích của nó là truyền đạt
thơng tin, thu hút sự chú ý của người tiêu dùng qua đối tác người làm quảng cáo”.

Khái niệm này đề cập đến đối tượng tiếp nhận chủ yếu của quảng cáo là người tiêu
dùng và nhấn mạnh quảng cáo là một hoạt động phải trả tiền để thực hiện. Bên cạnh
đó, Hiệp hội Quảng cáo Mỹ (American Advertising Association) tuyên bố: “Quảng
cáo là hoạt động truyền bá thơng tin, trong đó nói rõ ý đồ của chủ quảng cáo, tuyên
truyền hàng hóa, dịch vụ của chủ quảng cáo trên cơ sở có thu phí quảng cáo, khơng
trực tiếp cơng kích người khác”. Qua đó, Hiệp hội Quảng cáo Mỹ đã thể hiện minh
thị đối tượng quảng cáo là hàng hóa, dịch vụ. Từ các định nghĩa trên, quảng cáo được
hiểu là hoạt động xúc tiến thương mại nhằm cung cấp thơng tin, giới thiệu hàng hóa,
dịch vụ hỗ trợ việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Ở góc độ pháp lý, hoạt động quảng cáo được xem như một quan hệ xã hội được
pháp luật các quốc gia điều chỉnh dưới hình thức khác nhau như luật, pháp lệnh, chỉ
thị. Điều 2 Luật Quảng cáo của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày 27/10/1994
quy định: “Quảng cáo được hiểu là một quảng cáo mang tính thương mại mà người
cung cấp hàng hóa, dịch vụ giới thiệu cho hàng hóa dịch vụ của mình, cho dù là
trực tiếp hay gián tiếp, thơng qua các hình thức thông tin công cộng”. Khoản 1
Điều 2 Chỉ thị số 84/450 ngày 10/9/1984 của Hội đồng và Nghị viện châu Âu được
sửa đổi, bổ sung theo chỉ thị 97/55/EC ngày 06/10/1997 đã đưa ra khái niệm về
quảng cáo, sau đó, chỉ thị 2006/114/EC thay thế hai chỉ thị này vẫn giữ nguyên khái
niệm trước đó, cụ thể “Quảng cáo là đưa ra tuyên bố mới dưới bất kì hình thức nào
liên quan đến hoạt động thương mại, kinh doanh, nghề thủ công, nghề chuyên
nghiệp nhằm xúc tiến việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ bao gồm cả bất động sản,
quyền và nghĩa vụ”. Ở Việt Nam, Luật Thương mại 2005 quy định “Quảng cáo
thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với

4

Chu Bích Thu, Nguyễn Ngọc Trâm, Nguyễn Thị Thanh Nga, Nguyễn Thúy Khanh, Phạm Việt
Hùng (2002), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, NXB.TP.HCM, tr.372.
5



khách hàng về hoạt động kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ của mình”5. Đến Luật Quảng
cáo 2012 định nghĩa “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu
đến cơng chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch
vụ khơng có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thơng tin cá nhân”6.
Từ những khái niệm được nêu trên, có thể thấy sự khác nhau cơ bản giữa pháp
luật Việt Nam và pháp luật của các nước tiêu biểu trên thế giới về vấn đề này. Nhìn
chung, dù cách quy định có thể khác nhau nhưng pháp luật các nước trên thế giới
chỉ tồn tại duy nhất khái niệm quảng cáo dưới góc độ là hành vi được thực hiện vì
mục tiêu lợi nhuận. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam lại tồn tại song song hai khái
niệm quảng cáo, khái niệm quảng cáo theo quy định Luật Quảng cáo 2012 và khái
niệm quảng cáo thương mại theo quy định Luật Thương mại 2005. Theo đó, quảng
cáo bao gồm quảng cáo có mục đích sinh lời (quảng cáo thương mại) và quảng cáo
khơng có mục đích sinh lời (quảng cáo phi thương mại). Quảng cáo thương mại
được hiểu đồng nhất với khái niệm quảng cáo được quy định theo pháp luật các
nước trên thế giới. Quảng cáo phi thương mại chủ yếu là những quảng cáo kêu gọi
tài trợ, quyên góp từ thiện hay hoạt động tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Sự khác nhau dễ thấy ở hai hình thức quảng cáo này
biểu hiện ở mục đích sinh lời của quảng cáo thương mại và mục đích không sinh lời
của quảng cáo phi thương mại. Với mục đích như trên, chủ thể thực hiện quảng
thương mại chỉ có thể là những chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh trên thương
trường, trong khi đó, chủ thể thực hiện quảng cáo phi thương mại có thể là tổ chức,
cá nhân hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội. Bên cạnh đó, nếu thơng tin mà quảng
cáo thương mại đưa ra là thơng tin về hàng hóa, dịch vụ hay hoạt động kinh doanh
thì thơng tin quảng cáo phi thương mại thường là thông tin liên quan đến việc từ
thiện, chống tệ nạn xã hội hay tuyên truyền các đối sách của Nhà nước.
Việc phân chia quảng cáo như pháp luật hiện hành ở nước ta tỏ ra chưa phù
hợp với thơng lệ quốc tế cũng như thiếu tính thống nhất giữa các luật điều chỉnh
chung vấn đề. Pháp luật nên có sự thay đổi trong việc xây dựng bản chất của hoạt

động quảng cáo, cụ thể, chỉ nên quy định một khái niệm quảng cáo được thực hiện
vì mục tiêu lợi nhuận. Bởi quảng cáo phi thương mại theo cách hiểu hiện nay chỉ là
hoạt động cung cấp thơng tin thơng thường. Trong phạm vi khóa luận này, tác giả
5

Điều 102 Luật Thương mại 2005.

6

Khoản 1 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012.
6


quan tâm và đề cập quảng cáo dưới góc độ một hoạt động được thực hiện vì mục
tiêu lợi nhuận hay là quảng cáo thương mại.
- Khái niệm quảng cáo so sánh
Từ những năm 30, ở Hoa Kỳ và nhiều quốc gia Tây Âu đã xuất hiện lối quảng
cáo so sánh (bằng việc sử dụng phương pháp so sánh hàng hóa, dịch vụ của mình
với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác)7. Thương nhân sử dụng nó
như một cơng cụ để tìm kiếm cơ hội xúc tiến việc bán hàng, cung ứng dịch vụ. Với
mục đích đó, quảng cáo so sánh luôn khẳng định ưu thế vượt trội của sản phẩm ít
nhất bằng hoặc hơn hẳn sản phẩm của đối thủ khác. Ban đầu, pháp luật các quốc gia
quy định cấm vì quan ngại về tính rủi ro của hình thức quảng cáo này nhưng về sau,
nhận thấy quảng cáo so sánh là sự đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế thị trường, pháp
luật các nước cơ bản đã có những thay đổi để bám sát thực tế hơn.
Khái niệm quảng cáo so sánh được nhiều lĩnh vực quan tâm và nghiên cứu.
Trước hết, theo Đại từ điển Black’s Law, quảng cáo so sánh được định nghĩa như
sau: “Quảng cáo so sánh là quảng cáo mà so sánh một cách đặc biệt nhãn hiệu
hàng hóa này với nhãn hiệu hàng hóa khác của cùng một loại sản phẩm”8.
Dưới góc độ pháp lý, pháp luật các nước khác nhau quy định khác nhau về

khái niệm quảng cáo so sánh. Có thể chia ra thành 03 nhóm như sau:
 Nhóm 1: Có đưa ra định nghĩa quảng cáo so sánh
Theo một tuyên bố của Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (Federal Trade
Commission – FTC) thì: “Quảng cáo so sánh được định nghĩa như là quảng cáo mà
so sánh những nhãn hiệu hàng hóa khác theo những thuộc tính khách quan có thể
kiểm chứng hoặc giá cả và là sự làm nhận ra nhãn hiệu hàng hóa khác bởi tên,
minh họa bằng hình ảnh hoặc thơng tin riêng biệt khác”9. Như vậy, pháp luật Mỹ
chỉ cho phép những quảng cáo so sánh mà thông tin đưa ra có thể kiểm chứng được.

Nguyễn Bá Diến (1997), “Pháp luật về chống quảng cáo không trung thực ở Việt Nam và một số
nước trên thế giới”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 10/1997), tr.34.
7

Black’s Law Dictionary, Eighth Edition, Bryan A.Garner, Editer in Chief, Thomson West, page
59.
8

9

Federal Trade Commission (August 13, 1979), Statement of Policy Regarding Comparative
Advertising, Wangshington, D.C.
7


Bên cạnh đó, đối tượng so sánh là những thuộc tính khách quan và giá cả của nhãn
hiệu hàng hóa (không điều chỉnh với dịch vụ)10.
Điều 15 Luật Quảng cáo của Cộng hòa Uzbekistan năm 1998 cho rằng:
“Quảng cáo so sánh là một loại quảng cáo trực tiếp hoặc gián tiếp xác định đối thủ
cạnh tranh hoặc sản phẩm cùng loại do đối thủ cạnh tranh cung cấp”11. Luật
Quảng cáo của Cộng hòa Uzbekista ghi nhận thêm việc xác định đối thủ cạnh tranh

hoặc sản phẩm của họ có thể thông qua con đường trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng
chưa đề cập cụ thể đến cách hiểu thống nhất về “gián tiếp”, “trực tiếp”.
 Nhóm 2: Khơng đưa ra định nghĩa nhưng đưa ra tiêu chí để xác định
Điều 9, Bộ luật quảng cáo của Cộng hòa Singapore liệt kê các tiêu chí để xác
định một quảng cáo là quảng cáo so sánh: “Thứ nhất, quảng cáo có sử dụng so sánh
không được vi phạm các nguyên tắc về cạnh tranh công bằng; thứ hai, khi việc so
sánh được thực hiện giữa các giá trị tiền mặt tương ứng hoặc giá hàng hố khơng
giống nhau, các nhà quảng cáo phải chỉ ra rõ ràng về trường hợp này; thứ ba, mọi
các quảng cáo so sánh phải được thiết kế rõ ràng và cơng bằng và người tiêu dùng
khơng có khả năng bị lừa do kết quả của so sánh. Các cơ sở so sánh phải thống
nhất đối với các sản phẩm được so sánh và danh sách các mục được sử dụng để so
sánh không được phép lựa chọn nhằm tạo ra một lợi thế không công bằng đối với
sản phẩm được quảng cáo”. Theo chương 4, Luật Quảng cáo trên truyền hình của
Hồng Kơng đưa ra cách xác định như sau: “Tất cả các tuyên bố thực và bán chạy
nhất cần có khả năng chứng minh được. Khơng được sử dụng những phát biểu về
bất kì sản phẩm nào rằng chúng là “tốt nhất”,“thành cơng nhất”,“an tồn nhất”,
“nhanh nhất”, hay bao gồm những tính từ so sánh nhất nào tương tự, trừ phi sự
thật về những phát biểu đó được chứng minh”12.

Xem thêm Trương Hồng Quang (2010), “Một số vấn đề về hành vi quảng cáo so sánh theo pháp
luật Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 8/2010), tr.42.
10

11

/>=76, truy cập ngày 15/5/2014.
12

/>=76, truy cập ngày 15/5/2014.
8



 Nhóm 3: Khơng đưa ra định nghĩa và tiêu chí để xác định
Pháp luật Nga, Hàn Quốc, Việt Nam đều khơng có khái niệm quảng cáo so
sánh. Ở Việt Nam, pháp luật đã dành sự quan tâm nhất định đến hoạt động quảng
cáo so sánh. Cụ thể, Luật Cạnh tranh 2004, Luật Thương mại 2005, Luật Quảng cáo
2012, kể cả các văn bản pháp luật có liên quan nay đã hết hiệu lực đều có những
quy định điều chỉnh về vấn đề này. Tuy nhiên, khái niệm quảng cáo so sánh vẫn
chưa được xây dựng ở các luật kể trên. Các quy phạm pháp luật chỉ dừng lại ở việc
cấm thực hiện quảng cáo so sánh trực tiếp nhưng quảng cáo như thế nào là quảng
cáo so sánh lại không quy định. Giữa các luật lại dùng những thuật ngữ khác nhau
để nói về hành vi cấm này. Vì vậy, việc xác định một quảng cáo so sánh chủ yếu
dựa trên cách hiểu tự nhiên theo nghĩa đen của từ. Nghĩa là, hễ có bất kỳ sự so sánh
nào trong một quảng cáo làm nổi bật ưu điểm sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của
mình hơn sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh được xem là quảng
cáo so sánh.
Tổng kết từ những kết quả phân tích trên, có thể thấy, đa số các nước đều thừa
nhận quảng cáo so sánh. Một số nước cho phép nhưng kèm theo những điều kiện
chặt chẽ nhằm đảm bảo quảng cáo so sánh đi đúng quỹ đạo mà pháp luật vạch ra. Ở
một mức độ khái quát, ta có thể hiểu quảng cáo so sánh là hành vi quảng cáo cho
sản phẩm của mình có nhiều ưu thế hơn so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh
khác về cùng loại13.
1.1.1.2- Đặc điểm của quảng cáo so sánh
- Đặc điểm chung:
Quảng cáo so sánh, trước hết, mang bản chất của một quảng cáo thương mại.
Vì vậy, quảng cáo so sánh mang đầy đủ các đặc điểm của một quảng cáo cơ bản.
Dưới góc độ pháp luật Việt Nam, quảng cáo so sánh có những đặc điểm chung sau
đây:
 Về mục đích, thương nhân thực hiện quảng cáo so sánh nhằm giới thiệu
rộng rãi về hàng hóa, dịch vụ để hỗ trợ cho xúc tiến thương mại. Hơn hết, mục tiêu

lợi nhuận là ưu tiên hàng đầu của thương nhân mong muốn đạt được thông qua
quảng cáo so sánh.
 Về nội dung, quảng cáo so sánh cung cấp những thông tin về hàng hóa,
dịch vụ thương mại, về hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Thông
13

Trương Hồng Quang, tlđd, tr.43.
9


thường, “thông tin” và “quảng cáo” thường được cho là đồng nhất nhưng loại thông
tin trong quảng cáo được đặc trưng bởi nội dung nó đem đến14. Quảng cáo là loại
thơng tin phải trả tiền, mang tính một chiều về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, nhằm
phân biệt với các loại tin vì mục đích xã hội, tun truyền, cổ động đường lối, chủ
trương của Nhà nước.
 Về chủ thể thực hiện, có rất nhiều chủ thể với tư cách pháp lý khác nhau
tham gia vào hoạt động quảng cáo, trong đó có quảng cáo so sánh. Theo Luật
Thương mại 2005, thương nhân là chủ thể thực hiện hoạt động quảng cáo thương
mại15. Thương nhân tham gia vào hoạt động quảng cáo thương mại với nhiều tư
cách khác nhau tùy thuộc vào mục đích và cách thức tham gia16. Thương nhân có
thể tự mình hoặc th người chun kinh doanh quảng cáo thực hiện một, một số
hoặc tất cả các cơng đoạn của q trình quảng cáo. Bên cạnh đó, Luật Cạnh tranh
2004 có quy định khác về vấn đề này, cụ thể, chủ thể thực hiện hành vi quảng cáo
so sánh là doanh nghiệp. Tuy nhiên, “doanh nghiệp” theo cách hiểu của Luật Cạnh
tranh được hiểu là một khái niệm quy ước dùng để chỉ tất cả các tổ chức, cá nhân
kinh doanh17. Như vậy, bên cạnh các loại hình doanh nghiệp mà Luật doanh nghiệp
2005 quy định, Luật Cạnh tranh 2004 còn điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành
mạnh của tất cả các chủ thể kinh doanh được phép tiến hành hoạt động kinh doanh
ở Việt Nam. Có thể thấy, cá nhân kinh doanh với tư cách thương nhân theo Luật
Thương mại 2005 bắt buộc phải đăng ký kinh doanh còn cá nhân kinh doanh theo

Luật Cạnh tranh 2004 bao gồm cả cá nhân có đăng ký kinh doanh và khơng đăng ký
kinh doanh. Như vậy, nhìn ở góc độ này, phạm vi các chủ thể thực hiện quảng cáo
so sánh Luật Cạnh tranh 2004 quy định rộng hơn so với Luật Thương mại 2005.
- Đặc điểm riêng:
Mặt khác, quảng cáo so sánh còn mang những đặc điểm riêng biệt mà những
loại hình quảng cáo thương mại khác khơng có. Chính những đặc điểm này giúp xác
14

Nguyễn Thị Dung (2005), tlđd, tr.33.

15

Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005, thương nhân bao gồm các tổ chức kinh tế được thành
lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập và có đăng ký kinh doanh.
16

Đặng Quốc Chương (2011), Luận văn Thạc sỹ Luật học: Hồn thiện pháp luật chống cạnh tranh
khơng lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo thương mại, Đại học luật TP.HCM, tr.9.
Theo khoản 1 Điều 2 Luật Cạnh tranh 2004 quy định: Luật Cạnh tranh áp dụng đối với tổ chức,
cá nhân kinh doanh (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung
ứng sản phẩm, dịch vụ cơng ích , doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc
quyền Nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
17

10


định bản chất của hoạt động quảng cáo so sánh. Nó được đặc trưng bởi ba tiêu chí
tiêu biểu sau:
 Sản phẩm quảng cáo và sản phẩm bị so sánh phải là sản phẩm cùng loại.

Mục đích của so sánh là tìm ra những điểm giống và khác nhau giữa sự vật,
hiện tượng. Trong quảng cáo so sánh, điểm tương đồng giữa các sản phẩm được so
sánh biểu hiện ở các sản phẩm đó phải là hàng hóa, dịch vụ cùng loại. Pháp luật
không quy định sản phẩm cùng loại là gì nhưng có thể hiểu thơng thường cùng loại
là cùng tính năng, cơng dụng. Ví dụ như quảng cáo dầu gội Head & Shoulders loại
gàu tốt hơn dầu gội thường – quảng cáo so sánh các sản phẩm đều là dầu gội.
Ngược lại, một sản phẩm quảng cáo đưa ra những thơng tin nói về hai loại hàng
hóa, dịch vụ khơng cùng loại thì hành vi ấy được kinh tế học coi là quảng cáo liên
kết chứ không phải là so sánh18. Chẳng hạn, quảng cáo về sản phẩm bột giặt OMO
có sử dụng nước xả vải hương Downy là quảng cáo liên kết.
 Sản phẩm bị so sánh phải là sản phẩm do chủ thể khác sản xuất hoặc kinh
doanh. Nếu nội dung so sánh giữa các sản phẩm cùng loại nhưng của cùng một
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thì khơng được xem là quảng cáo so sánh mà chỉ
dừng lại ở việc so sánh thông tin thông thường.
 Quảng cáo so sánh mang bản chất của hành vi cạnh tranh.
Cạnh tranh là sự ganh đua, cố giành phần hơn về phía mình vì mục đích tồn
tại, lợi nhuận. Quảng cáo so sánh được thực hiện do sức ép từ cạnh tranh mang đến,
do đó, phải nhằm vào đối thủ cạnh tranh trong cùng một thị trường sản phẩm. Trong
khi đa số các quốc gia đều cho phép thực hiện quảng cáo so sánh thì pháp luật Việt
Nam lại cấm hành vi này vì cho rằng mục đích thực hiện nhằm cạnh tranh khơng
lành mạnh. Hiện nay, tồn tại các cách lý giải khác nhau về bản chất khơng lành
mạnh của quảng cáo so sánh, có thể chia thành hai quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất khơng quan tâm đến tính chân thật của thơng tin do
quảng cáo so sánh đem đến và cho rằng trong mọi trường hợp, quảng cáo so sánh
đều mang bản chất cạnh tranh khơng lành mạnh. Lấy lí do người thực hiện quảng
cáo bên cạnh việc giới thiệu sản phẩm của mình đã “khuyến mại” thêm thơng tin về
sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác với mong muốn dựa dẫm hay hạ thấp uy
tín của đối thủ, qua đó, doanh nghiệp đạt được mục đích bán hàng của mình một
cách bất chính.
18


Trương Hồng Quang, tlđd, tr.44.

11


Quan điểm thứ hai đề cao tính đúng, sai trong nội dung quảng cáo và cho rằng
chỉ những quảng cáo so sánh nào hàm chứa thông tin gian dối, sai lệch, phiến diện
mới bị coi là quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Tác giả ủng hộ quan
điểm này. Bởi quảng cáo là hoạt động nhằm giới thiệu sản phẩm mới và được thể
hiện bằng nhiều cách thức đa dạng khác nhau, trong đó có quảng cáo so sánh.
Quảng cáo so sánh nói lên sự thật của hàng hóa, dịch vụ của mình cũng như của đối
thủ khác. Thiết nghĩ, những thông tin so sánh này nên được doanh nghiệp nêu ra
thông qua quảng cáo tốt hơn để người tiêu dùng sau khi sử dụng nhận ra sự thất
vọng vì chỉ biết thơng tin một chiều về một loại sản phẩm. Qua đó, chúng ta nhận
thấy sự thật này giúp định hướng tiêu dùng, khuyến khích hồn thiện, nâng cao sản
xuất thì khơng có lý do gì lại cấm những quảng cáo so sánh khách quan, trung thực.
1.1.2- Những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của quảng cáo so sánh
Cách đây hàng ngàn thế kỉ, chỉ với một tờ thông báo đơn giản dán lên tường
thành, con người đã biết làm quảng cáo thì ngày nay, cùng với sự hỗ trợ tối đa của
các phương tiện truyền thông, khi nghệ thuật sử dụng ngơn từ và hình ảnh lên ngơi,
khơng thể phủ nhận những lợi ích vơ hình mà quảng cáo đem đến ngày càng rõ rệt.
Quảng cáo so sánh bắt kịp sự phát triển đó và ngày càng chứng minh ảnh hưởng
tích cực mà mình đem lại. Bên cạnh đó, quảng cáo so sánh cũng gây ra khơng ít tác
động tiêu cực. Nhìn chung, dù tích cực hay tiêu cực, quảng cáo so sánh đều đem
đến những ảnh hưởng to lớn đến người tiêu dùng, các doanh nghiệp và sâu xa hơn
đến nền kinh tế quốc dân.
1.1.2.1- Những ảnh hưởng tích cực của quảng cáo so sánh
- Thứ nhất, lợi ích mà quảng cáo so sánh đem đến người tiêu dùng
Một là, quảng cáo so sánh cung cấp thông tin chất lượng đến người tiêu dùng

Trong thời đại công nghệ, thông tin là công cụ hữu hiệu làm hài hịa hóa giữa
nhu cầu của người tiêu dùng và khả năng cung ứng của doanh nghiệp. Quảng cáo so
sánh được xem là kênh truyền tải những thông tin đầu tiên về các mặt hàng, dịch vụ
cùng loại bên cạnh các mặt hàng, dịch vụ đã có mặt trên thị trường đến người tiếp
nhận. Chính những nguồn thơng tin này làm người tiêu dùng biết đến sự có mặt của
loại sản phẩm mới trên thị trường, chưa tính đến họ có nhu cầu hay khơng. Qua
quảng cáo so sánh, người tiêu dùng không chỉ hiểu biết sơ khai về mặt hàng mới mà
còn được gợi nhớ, nhắc lại những hiểu biết về các mặt hàng, thương hiệu đã tồn tại
hoặc đang được người tiêu dùng sử dụng. Sự gợi nhớ, nhắc lại ở đây nhằm mục
đích đối chiếu để tìm ra những điểm ưu việt của mặt hàng mới. Qua đó, người tiêu
dùng sẽ ghi nhớ thơng tin mới một cách hiệu quả và lâu hơn so với các hình thức
12


quảng cáo khác do có sự so sánh với các đối tượng tương tự đã xuất hiện trong thị
trường. Như vậy, quảng cáo so sánh cung cấp khối lượng thông tin nhiều hơn, chất
lượng hơn so với các hình thức quảng cáo khác giúp người tiêu dùng tham khảo
cũng như có nhiều lựa chọn khi quyết định mua sắm.
Hai là, quảng cáo so sánh có vai trị hướng dẫn tiêu dùng
Khi thị trường ngày càng gia tăng không giới hạn sự đa dạng của hàng hóa,
dịch vụ sẽ tạo nhiều cơ hội cho người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm ưng ý. Tuy
nhiên, điều đó cũng gây khơng ít bối rối khi lựa chọn sản phẩm phù hợp vì cùng
một nhu cầu nhưng rất nhiều sản phẩm có thể đáp ứng. Trong bối cảnh đó, quảng
cáo so sánh đã làm tốt chức năng định hướng tiêu dùng một cách hiệu quả. Bằng
việc đối chiếu sự tương quan giữa các sản phẩm cùng loại, người tiêu dùng sẽ phân
tích tốt hơn về ưu điểm, nhược điểm, công dụng, giá cả hay khả năng thỏa mãn nhu
cầu mà chúng có được, từ đó, đưa ra quyết định mua sắm đúng đắn. Người tiêu
dùng có thể thay đổi hoặc giữ nguyên thói quen tiêu dùng trước đó. Mọi quyết định
đều nằm trong tay người tiêu dùng nhưng không thể phủ nhận quảng cáo so sánh hỗ
trợ đắc lực, rút ngắn quá trình lựa chọn, tìm kiếm, đánh giá các sản phẩm – một

trong những khâu quan trọng khi mua sắm.
- Thứ hai, lợi ích mà quảng cáo so sánh đem đến các doanh nghiệp
Một là, quảng cáo so sánh kích thích nhu cầu mua sắm
Quảng cáo so sánh thường đem đến những thông tin hấp dẫn kiểu như bột giặt
X đánh bật các vết dơ do dầu mỡ mà bột giặt thường không làm được, sản phẩm rẻ
nhất trên thị trường. Khi tiếp cận những thơng tin như vậy, sẽ khơng ít người chú ý
đến hàng hóa dịch vụ đó nhiều hơn lúc bình thường, thậm chí thơi thúc ngay ý định
tìm mua sản phẩm mặc dù nhu cầu chưa thật cần thiết. Qua đó, quảng cáo so sánh
đã giúp doanh nghiệp thực hiện chức năng kích thích mua sắm. Xét cho cùng, mục
đích cuối cùng của việc so sánh các sản phẩm cùng loại trong quảng cáo mà các nhà
kinh doanh mong muốn đạt được là sản phẩm được tiêu thụ nhanh chóng. Vì có
được tiêu thụ, doanh nghiệp mới có lợi nhuận hay ít nhất là hồn vốn phục vụ tái
sản xuất. Trong quảng cáo so sánh, các doanh nghiệp càng nêu ra những điểm ưu
việt mà sản phẩm mới đem lại nhiều hơn, tốt hơn so với sản phẩm cạnh tranh khác
sẽ càng có nhiều cơ hội thuận lợi trong việc tìm kiếm khách hàng.
Hai là, quảng cáo so sánh chứng minh năng lực kinh doanh của doanh nghiệp
Một sản phẩm mới ra đời là cả q trình tìm tịi, sáng tạo hay củng cố ưu
điểm, khắc phục yếu điểm trước đó của nhà sản xuất để đem đến người tiêu dùng sự
hồn hảo nhất có thể. Trong nền kinh tế thị trường, khi Nhà nước đóng vai trị
“trọng tài” tạo sân chơi bình đẳng cho các chủ thể kinh doanh, khi các quy luật cung
13


cầu, giá cả chi phối phần lớn thì việc ai tạo nên hàng hóa, dịch vụ phù hợp nhu cầu
người dùng, đó hồn tồn do tự bản thân năng lực sản xuất của họ quyết định. Do
đó, quảng cáo so sánh là công cụ giúp doanh nghiệp chứng minh một cách khách
quan sự xứng đáng của sản phẩm mà họ sở hữu. Từ đó, người tiêu dùng có thêm cơ
hội để tham khảo những thông tin khách quan mà sự so sánh đem lại nhằm đưa ra
sự lựa chọn tối ưu.
Ba là, quảng cáo so sánh thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao, đổi mới sản xuất

Xã hội càng tiến bộ, con người không chỉ đơn giản cần đáp ứng nhu cầu ăn,
mặc, ở mà hơn thế, họ hồn tồn có quyền đòi hỏi số lượng cũng như chất lượng mà
các hàng hóa, dịch vụ tiện ích đem đến. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải thật sự
nắm bắt tâm lý, sở thích, thị hiếu của người tiêu dùng. Bản chất quảng cáo so sánh
khi nêu ra ưu điểm, đổi mới của một sản phẩm là gián tiếp chỉ ra nhược điểm, lỗi
thời của sản phẩm cùng loại trước đó. Khi nhu cầu tiêu dùng càng cao, nếu các nhà
kinh doanh vẫn “dặm chân tại chỗ” bảo thủ, duy trì quy trình sản xuất lỗi thời thì đó
là cách nhanh nhất giết chết doanh nghiệp. Vì vậy, quảng cáo so sánh giúp các đối
thủ cạnh tranh nói riêng, các chủ thể trong nền kinh tế nói chung ln nâng cao, đổi
mới chất lượng, cải tiến sản xuất phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng.
- Thứ ba, lợi ích mà quảng cáo so sánh đem đến nền kinh tế
Một là, quảng cáo so sánh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế
Quảng cáo so sánh làm gia tăng sự cạnh tranh giữa các chủ thể trong nền kinh
tế. Trong kinh doanh, cạnh tranh là hình thức đấu tranh một cách văn minh giữa các
doanh nghiệp vì sự sống cịn là yếu tố kích thích mạnh mẽ sự khơng ngừng hồn
thiện về tổ chức và sản phẩm của các chủ thể kinh doanh.19 Để không bị loại bỏ
khỏi thị trường, các doanh nghiệp phải ln tạo ra sản phẩm có chất lượng phù hợp
thị hiếu người tiêu dùng. Từ việc không ngừng sản xuất ra các mặt hàng, dịch vụ có
giá trị, doanh nghiệp đã góp phần làm đa dạng hóa thị trường, gián tiếp làm tăng tốc
độ phát triển thương mại của quốc gia. Có thể nói, quảng cáo so sánh là nguyên
nhân sâu xa thúc đẩy kinh tế phát triển.
Hai là, quảng cáo so sánh nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh
Quảng cáo so sánh đem đến sự cạnh tranh như phân tích trên. Cạnh tranh càng
gay gắt bao nhiêu thì kết quả càng khốc liệt bấy nhiêu. Những chủ thể kinh doanh
kém hiệu quả sẽ bị đào thải ra khỏi thị trường. Thị trường chỉ dành cho những ai
bám trụ vững nhất khi có bất kì sự thay đổi nào của nền kinh tế. Ngày nay, khi
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012 ), Giáo trình Pháp luật về cạnh tranh và
giải quyết tranh chấp thương mại, NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.25.
19


14


thơng tin là huyết mạch của thị trường thì quảng cáo so sánh cung cấp một khối
lượng lớn thông tin hữu ích góp phần vào sự vận hành ổn định của nền kinh tế. Từ
đó, chất lượng mơi trường kinh doanh củng cố và ngày càng nâng cao góp phần
lành mạnh hóa thị trường.
1.1.2.2- Những ảnh hưởng tiêu cực của quảng cáo so sánh
- Thứ nhất, tác động tiêu cực mà quảng cáo so sánh đem đến người tiêu dùng
Xuất phát từ đặc điểm của quảng cáo so sánh luôn là những thơng tin một
chiều từ phía doanh nghiệp nên họ ln có xu hướng tâng bốc và chỉ nêu ra những
ưu điểm về sản phẩm. Trong mối quan hệ giữa kẻ mua người bán thì người tiêu
dùng ln có vị thế yếu hơn do sự hạn chế về thông tin và kiến thức chun mơn để
đánh giá tồn diện về hàng hóa, dịch vụ. Trong khi thơng tin do quảng cáo so sánh
cung cấp luôn hấp dẫn, nếu người tiêu dùng khơng tìm hiểu cẩn thận, chỉ tin tưởng
từ một phía doanh nghiệp sẽ dẫn đến việc mua sắm khi suy nghĩ chưa thấu đáo. Rất
nhiều trường hợp thông tin so sánh, đối chiếu giữa các sản phẩm cùng loại chỉ phiến
diện, không khách quan nhưng lại đánh lừa người mua bởi tính tị mị, thích cái mới
đã khiến họ quay lưng với thói quen tiêu dùng trước đó. Khi doanh nghiệp đã đạt
được mục đích bán hàng mong muốn cũng chính là lúc người tiêu dùng phải gánh
hậu quả “tiền mất tật mang”, hơn thế là những ảnh hưởng tai hại về sức khỏe không
chỉ riêng bản thân mà cả gia đình hay ít nhất là những tính năng mà sản phẩm đem
lại khơng hồn hảo như quảng cáo.
- Thứ hai, tác động tiêu cực mà quảng cáo so sánh đem đến đối thủ cạnh tranh
Thực tế dễ nhận thấy, một quảng cáo so sánh các sản phẩm cùng loại với nhau
sẽ thu hút sự chú ý của người tiêu dùng vào sản phẩm mới hơn do doanh nghiệp đã
cố tình đưa ra các tiêu chí có lợi cho sản phẩm mình. Vì thế, chủ thể chịu ảnh hưởng
tiêu cực từ quảng cáo so sánh đầu tiên là chủ thể kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cùng
loại bị so sánh hay nói khác hơn là các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Biểu hiện
khơng mong muốn có thể kể đến đó là sự quay lưng của khách hàng thân thiết,

doanh số không tăng, lợi nhuận giảm thậm chí dẫn đến nguy cơ giải thể, phá sản.
Đây là xu hướng tất yếu của “thương trường như chiến trường”. Tác động này của
quảng cáo so sánh như lời dự báo về tương lai gần cho các đối thủ cạnh tranh ù lì,
khơng năng động, nhạy bén với những thay đổi của tình hình thị trường, duy trì
những suy nghĩ thiển cận về cách thức sản xuất, phân phối nguồn lực lỗi thời. Để
đạt được tối đa lợi nhuận, nhiều thương nhân đã bất chấp dùng những hành vi trái
với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh nhằm chiếm ưu thế hơn so
với đối thủ khác trên thị trường. Họ đã lợi dụng quảng cáo so sánh như công cụ thực
15


hiện cạnh tranh không lành mạnh bằng cách đưa ra các thông tin so sánh sai lệch,
không được kiểm chứng khách quan nhằm đánh lừa nhận thức người tiêu dùng, gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích các doanh nghiệp khác.
- Thứ ba, tác động tiêu cực mà quảng cáo so sánh đem đến nền kinh tế
Từ những ảnh hưởng tiêu cực mà quảng cáo so sánh gây ra cho người tiêu
dùng và các đối thủ cạnh tranh, sâu xa và về lâu dài sẽ gây ra những thiệt hại to lớn
đến nền kinh tế. Khi những thơng tin chưa chính xác, khơng đáng tin cậy được đưa
vào thị trường sẽ là hậu quả khôn lường cho những ai sử dụng nó để tiêu dùng, kinh
doanh. Và nếu những thơng tin tin cậy, chính xác khơng có sẵn, người tham gia thị
trường phải dùng đến những phương án đầu cơ, tin đồn và thậm chí là các phương
thức khơng trung thực để có được thơng tin20. Mơi trường kinh doanh vì thế bị xáo
trộn, khơng lành mạnh dẫn đến kinh tế bất ổn và khó phát triển.
Tóm lại, bên cạnh những mặt tích cực đáng ghi nhận của quảng cáo so sánh thì
vẫn cịn những tác động xấu mà nó gây ra cho người tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh
và mơi trường kinh doanh nói chung. Tuy nhiên, nhìn từ bản chất của loại hình
quảng cáo này cho thấy, quảng cáo so sánh không trực tiếp gây ra những ảnh hưởng
tiêu cực mà nó chỉ bị lợi dụng bởi những thương nhân kinh doanh khơng chân
chính, bất chấp tất cả vì lợi nhuận.
1.2- Tổng quan về pháp luật quảng cáo so sánh ở Việt Nam

1.2.1- Lịch sử phát triển pháp luật Việt Nam về quảng cáo so sánh
Hoạt động quảng cáo so sánh ở Việt Nam được điều chỉnh ở các luật khác
nhau. Mỗi luật có đối tượng và phạm vi điều chỉnh riêng, chính vì thế, sẽ có sự khác
nhau ở mỗi quy phạm pháp luật của từng luật về vấn đề này. Nhìn một cách tổng
quát, quảng cáo so sánh được quy định chủ yếu ở các nhóm văn bản pháp luật sau:
Luật Thương mại, Luật Cạnh Tranh và Luật Quảng cáo kèm theo đó là các văn bản
hướng dẫn thi hành của mỗi luật. Từ thời gian đến không gian, pháp luật Việt Nam
về hoạt động quảng cáo so sánh hình thành, phát triển và đã có những thay đổi nhất
định.
Có thể nói, quảng cáo so sánh lần đầu tiên được đề cập tại Luật Thương mại
năm 1997 với tư cách là một hành vi bị cấm. Cụ thể, khoản 5 Điều 192 quy định các
20

/>AMINVIETNAMESEEXTN/0,,contentMDK:23087124~pagePK:141137~piPK:141127~theSiteP
K:486752,00.html, cập nhật ngày 16/5/2014.

16


quảng cáo thương mại bị cấm, bao gồm: “Quảng cáo bằng việc sử dụng phương
pháp so sánh hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hố, dịch vụ cùng loại của
thương nhân khác hoặc bắt chước sản phẩm quảng cáo của một thương nhân khác,
gây nhầm lẫn cho khách hàng”. Đến ngày 01/01/2006, khi Luật Thương mại năm
2005 chính thức có hiệu lực thay thế Luật Thương mại năm 1997, quảng cáo so
sánh vẫn được quy định dưới hình thức cấm tại khoản 6, điều 109 như sau: ”Quảng
cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ của mình với hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ cùng loại của thương nhân khác”. Từ hai quy định trên, điểm chung dễ nhận
thấy là pháp luật thương mại Việt Nam vẫn duy trì quan điểm cấm quảng cáo so
sánh nhưng ở từng giai đoạn, phạm vi cấm có khác nhau. Nếu Luật Thương mại

1997 cấm mọi quảng cáo có sử dụng phương pháp so sánh thì Luật Thương mại
2005 chỉ cấm quảng cáo sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp. Bên cạnh quy phạm
cấm, các nhà lập pháp vẫn dành một trường hợp ngoại lệ cho quảng cáo so sánh, cụ
thể là “thương nhân có quyền so sánh hàng hóa của mình với hàng giả, hàng vi
phạm quyền sở hữu trí tuệ trong sản phẩm quảng cáo thương mại sau khi có xác
nhận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về việc sử dụng hàng giả, hàng
vi phạm quyền sở hữu trí tuệ để so sánh”21. Ngồi ra, khi có tranh chấp giữa các
thương nhân với nhau liên quan đến quảng cáo so sánh thì việc giải quyết sẽ tuân
theo thủ tục tố tụng dân sự. Pháp luật ln tơn trọng, khuyến khích việc giải quyết
tranh chấp thương mại bằng con đường thương lượng, hịa giải; khi các bên khơng
đạt được thỏa thuận sẽ tiến hành việc khởi kiện tại Tòa án hoặc Trọng tài22. Nói tóm
lại, thơng qua các điều luật được viện dẫn trên, Luật Thương mại Việt Nam hiện
nay cấm quảng cáo sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp.
Pháp luật quảng cáo 2001 (đến nay đã hết hiệu lực) tuy không quy định về
quảng cáo so sánh nhưng nghị định 24/2003/NĐ-CP quy định chi tiết Pháp lệnh
quảng cáo cấm “quảng cáo nói xấu, so sánh hoặc gây nhầm lẫn với cơ sở sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của người khác”. Sau hơn 10 năm được ban hành,
Pháp lệnh Quảng cáo đã khơng cịn đáp ứng được nhu cầu phát triển của hoạt động
quảng cáo trong sự tăng tốc của nền kinh tế thị trường. Sự quan tâm chưa đúng mức
cùng với sự quy định chưa rõ ràng trong điều khoản chưa đủ sức bao quát tất cả
hoạt động quảng cáo so sánh đang biến tướng. Tuy nhiên, khi Luật quảng cáo được
Điều 22, Nghị định số: 37/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến
thương mại.
21

22

Xem Điều 317 Luật Thương mại 2005.
17



xây dựng, các nhà làm luật đã ý thức hơn tầm quan trọng cũng như ảnh hưởng của
nó đến nền kinh tế. Luật Quảng cáo năm 2012 ra đời có hiệu lực ngày 01/01/2013 là
kết quả của quá trình điều chỉnh, kế thừa các văn bản pháp luật về quảng cáo trước
đó. Vẫn nằm trong nhóm hành vi cấm thực hiện nhưng các quy định pháp luật về
hoạt động quảng cáo so sánh đã có sự thay đổi nhất định so với trước đây. Giống
với tinh thần của Luật Thương mại 2005, Luật Quảng cáo 2012 cấm quảng cáo có
sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại. Về
tiêu chí để so sánh, Luật Quảng cáo 2012 đã bổ sung quy định chỉ cấm so sánh hàng
hóa, dịch vụ trên ba phương diện: giá cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng23. Về cấp độ
so sánh, Luật Quảng cáo 2012 cấm quảng cáo có sử dụng các từ ngữ “nhất”, “duy
nhất”, “tốt nhất”, “số một” hoặc từ ngữ có ý nghĩa tương tự mà khơng có tài liệu
hợp pháp chứng minh theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch24. Bên
cạnh đó, nếu quảng cáo so sánh vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ hoặc có nội
dung cạnh tranh không lành mạnh theo quy định về pháp luật cạnh tranh thì sẽ bị
cấm theo Luật Quảng cáo25. Nhìn chung, với quan điểm cho rằng bản chất của hoạt
động quảng cáo so sánh mang nhiều tác động tiêu cực đến nền kinh tế nên với tư
cách là luật chuyên ngành về quản lý nhà nước trong lĩnh vực quảng cáo, quảng cáo
so sánh sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp bị cấm thực hiện.
Quảng cáo so sánh không chỉ là hoạt động xúc tiến thương mại giữa các
thương nhân với nhau mà cịn được xem như cơng cụ để các chủ thể kinh tế thực
hiện cạnh tranh trên thị trường. Trước khi Luật cạnh tranh 2004 được ban hành, các
doanh nghiệp đã lợi dụng quảng cáo so sánh tràn lan bằng việc đưa ra các thông số
so sánh sai sự thật, không kiểm chứng ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin người
tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh và hơn hết là môi trường kinh doanh. Từ khi Luật
Cạnh tranh 2004 ra đời, quảng cáo so sánh được điều chỉnh trong nhóm hành vi
cạnh tranh khơng lành mạnh. Theo khoản 1 Điều 45, Luật Cạnh tranh 2004 quy
định cấm doanh nghiệp “so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng
hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác”. Theo quy định trên, Luật cạnh
tranh 2004 dùng thuật ngữ “so sánh trực tiếp” để xác định hành vi cấm thực hiện.

Tuy nhiên, các tiêu chí để xác định như thế nào là so sánh trực tiếp không được luật
quy định. Bên cạnh đó, việc xử lý các vi phạm về quảng cáo so sánh trong lĩnh vực
23

Xem Khoản 10 Điều 8 Luật Quảng cáo 2012.

24

Khoản 11 Điều 8 Luật Quảng cáo 2012.

25

Khoản 13 Điều 8 Luật Quảng cáo 2012.
18


cạnh tranh sẽ do Cơ quan quản lí cạnh tranh, trực thuộc Bộ Cơng thương chịu trách
nhiệm.
Ngồi ra, trong các luật chuyên ngành của một số lĩnh vực như Luật Bảo vệ
người tiêu dùng26, Luật Giá27, Luật dược 200528... tuy không đề cập trực tiếp đến
quảng cáo so sánh nhưng đều có quy định cấm hành vi quảng cáo sai sự thật, gây
nhầm lẫn, gian dối. Như vậy, nếu quảng cáo so sánh sai sự thật, gây nhầm lẫn, gian
dối cịn thuộc sự điều chỉnh của các luật kể trên
Nhìn chung, các quy định điều chỉnh hoạt động quảng cáo so sánh nằm rải rác
trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Việc quy định như vậy đã phần nào nói
lên tầm quan trọng và ảnh hưởng to lớn của hoạt động này đến nền kinh tế quốc gia.
Điểm chung dễ nhận thấy giữa các luật kể trên đều chưa xây dựng khái niệm quảng
cáo so sánh mà chỉ quy định cấm thực hiện quảng cáo so sánh trực tiếp nhằm ngăn
ngừa những tác động tiêu cực của loại hình quảng cáo này đến lợi ích Nhà nước, xã
hội và người tiêu dùng.

1.2.2- Vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh đối với quảng cáo so sánh
1.2.2.1- Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đối thủ cạnh tranh
Dưới góc độ xúc tiến thương mại, quảng cáo so sánh là hoạt động cơ bản của
các thương nhân thực hiện nhằm mục đích tranh giành khách hàng, phát triển thị
trường. Các thương nhân có quyền tự do thực hiện quyền kinh doanh của mình
nhưng khơng phải vơ hạn. Nếu khơng quy định sự giới hạn cần thiết sẽ dẫn đến tình
trạng vì sự kinh doanh của mình mà ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ
thể khác trên thương trường. Dưới góc độ cạnh tranh, quảng cáo so sánh được xem
như cơng cụ thể hiện sự ganh đua, kình địch lẫn nhau giữa các đối thủ. Bên cạnh
các doanh nghiệp không ngừng nâng cao năng lực sản xuất vẫn còn doanh nghiệp
lợi dụng quảng cáo so sánh nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Khi dồn đến bước
đường cùng, nhiều doanh nghiệp lại bảo vệ họ bằng cách sử dụng chính quảng cáo
khơng lành mạnh để tồn tại. Từ những nhu cầu trên, cần thiết phải có cơ chế nhằm
tạo tiền đề cho hoạt động quảng cáo so sánh được vận hành theo đúng khn khổ
giúp các doanh nghiệp có nguyên tắc chung tuân theo khi bước vào thị trường. Cơ
chế đó khơng gì khác hơn là pháp luật. Pháp luật bằng những quy phạm cụ thể,

26

Khoản 1 Điều 10 Luật bảo vệ người tiêu dùng 2010.

27

Điểm a Khoản 3 Điều 10 Luật Giá.

28

Khoản 5 Điều 9 Luật Dược 2005.
19



mang tính cưỡng chế thi hành tạo điều kiện tốt nhất bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của
cá chủ thể hoạt động kinh doanh, thương mại.
1.2.2.2- Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng
Cùng với sự phát triển của truyền thông, quảng cáo đang ngày càng phát triển
với tốc độ phi mã "nhà nhà quảng cáo, đài đài quảng cáo. Trong khi đó, người tiêu
dùng khi mua sắm hàng hóa vẫn thường bị đánh lừa bởi thói quen nhìn vào mặt
trước của bao bì với hình ảnh bắt mắt, thông tin quảng cáo hấp dẫn mà không để ý
đến những dịng chữ nhỏ li ti ẩn phía sau, thậm chí có để ý cũng khơng đủ hiểu
những thuật ngữ khoa học ấy. Bởi xuất phát từ nguyên do, người tiêu dùng luôn yếu
thế hơn so với các nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ dù họ chiếm số đông
trong xã hội. Hơn nữa, họ không phải là chuyên gia để đánh giá tốt nhất chất lượng
sản phẩm. Vì vậy, đã khơng ít trường hợp, vì những thông tin so sánh sai sự thật,
cường điệu quá mức mà người tiêu dùng đã gánh chịu hậu quả đau lòng về tiền bạc,
sức khỏe, niềm tin. Yếu thế nên người tiêu dùng thường có tâm lý ngại đấu tranh,
khơng thích tranh chấp phí thời gian. Vì vậy, việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
người tiêu dùng bằng pháp luật là hết sức cần thiết. Do mang tính cưỡng chế, bắt
buộc thi hành, pháp luật sẽ ngăn ngừa những hành vi quảng cáo so sánh không lành
mạnh của doanh nghiệp tạo nên hàng rào an toàn cho người tiêu dùng an tâm hơn
khi mua sắm.
1.2.2.3- Bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh
Khi quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng và doanh nghiệp được
quan tâm và bảo vệ đúng mức thì mơi trường cạnh tranh sẽ khơng ngừng nâng cao,
hồn thiện góp phần tăng tốc độ phát triển thương mại của cả nước. Một môi trường
cạnh tranh khỏe mạnh sẽ khuyến khích các chủ thể kinh tế đầu tư kinh doanh và
đem lại cho người tiêu dùng những sản phẩm phù hợp nhu cầu, thị hiếu. Có thể nói,
mơi trường cạnh tranh trong sạch, lành mạnh là nền tảng cho sự phát triển bền
vững. Thực tế, môi trường cạnh tranh Việt Nam đang phải đối mặt với vơ số những
thách thức, khó khăn khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện

hệ thống pháp luật là điều tất yếu đế đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Trong đó, pháp luật về hoạt động quảng cáo so sánh đưa ra những quy
định cụ thể , rõ ràng, hiệu quả nhằm duy trì và bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của
môi trường kinh doanh vững mạnh.

20


×