Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Pháp luật về hoạt động khuyến mại thực trạng và hướng hoàn thiện (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 72 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI

NGUYỄN VĂN THẮNG

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
KHUYẾN MẠI – THỰC TRẠNG VÀ
HƯỚNG HỒN THIỆN
KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thƣơng mại

TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2011


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng mình. Các thơng
tin được nêu trong khóa luận này là hồn tồn trung thực. Những trích dẫn các quan
điểm, khái niệm khoa học…từ các tài liệu, cơng trình nghiên cứu khác được tác giả
sử dụng trong bài viết đều được chú thích đầy đủ và chính xác.

Tác giả khóa luận



Nguyễn Văn Thắng


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1.

Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 1

2.
3.
4.
5.
6.
7.

Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 2
Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 2
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 2
Tình hình nghiên cứu ......................................................................................... 3
Ý nghĩa khoa học ............................................................................................... 5
Cơ cấu khóa luận ............................................................................................... 5

CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYÊN MẠI .................................. 6

Khái niệm và đặc điểm ..................................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm .................................................................................................. 6
1.1.2. Đặc điểm ................................................................................................... 7
1.2. Vai trò của hoạt động khuyến mại .................................................................. 9
1.2.1. Đối với thương nhân ................................................................................. 9
1.2.2. Đối với người tiêu dùng ............................................................................ 10
1.3. Sự cần thiết của việc điều chỉnh hoạt động khuyến mại bằng pháp
luật...................................................................................................................... 11
1.1.

CHƢƠNG 2. PHÁP LUẬT KHUYẾN MẠI Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH ........................................................................................................................ 13
2.1.
2.2.

Nguyên tắc thực hiện khuyến mại .................................................................. 13
Quy định về các hình thức khuyến mại ......................................................... 17
2.2.1. Đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu cho khách hàng dùng thử
không phải trả tiền .................................................................................... 18
2.2.2. Tặng hàng hóa cho khách hành, cung ứng dịch vụ khơng thu tiền;
khơng kèm theo việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ ..................... 19
2.2.3. Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán, giá cung ứng
dịch vụ trước đó ........................................................................................ 20


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

2.2.4. Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử

dụng dịch vụ .............................................................................................. 20
2.2.5. Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách
hàng để lựa chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã
công bố ...................................................................................................... 21
2.2.6. Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự chương trình
khuyến mại mang tính may rủi ................................................................. 22
2.3.
2.4.

Các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại ......................................... 24
Quy định về hạn mức giá trị vật chất tối đa dùng để khuyến mại,
mức giảm giá tối đa và giới hạn về thời gian tổ chức khuyến mại .............. 28
2.4.1. Về hạn mức giá tri vật chất dùng để khuyến mại ..................................... 29
2.4.2. Hạn mức giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ được khuyến
mại ............................................................................................................. 31
2.4.3. Hạn chế về thời gian tổ chức khuyến mại................................................. 32

2.5.
2.6.

Pháp luật về kinh doanh dịch vụ tổ chức khuyến mại ................................. 32
Trình tự, thủ tục thơng báo, đăng ký tổ chức chƣơng trình khuyến
mại ..................................................................................................................... 34
2.6.1. Thủ tục thơng báo khi tổ chức chương trình khuyến mại ......................... 34
2.6.2. Thủ tục đăng ký chương trình khuyến mại ............................................... 35

2.7.

Đình chỉ và chấm dứt chƣơng trình khuyến mại .......................................... 40
2.7.1. Đình chỉ chương trình khuyến mại ........................................................... 41

2.7.2. Chấm dứt chương trình khuyến mại ......................................................... 42

CHƢƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT KHUYẾN MẠI ........................................ 44
3.1.
3.2.

Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động khuyến mại .............. 44
Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về khuyến mại ................................ 45
3.2.1. Xem xét sửa đổi một số hạn chế đối với hoạt động khuyến mại của
thương nhân .............................................................................................. 45
3.2.2. Cần làm rõ một số quy định cụ thể tạo cơ sở cho việc quản lý hoạt
động khuyến mại ....................................................................................... 46
3.2.3. Hoàn thiện các thủ tục hành chính trong cơng tác quản lý hoạt động
khuyến mại ................................................................................................ 47
3.2.4. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ người tiêu dùng ............................................... 48


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

3.2.5. Cần xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động
khuyến mại ................................................................................................ 50
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 52


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập sâu và rộng với nền kinh
tế thế giới. Sau gần năm năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, đất
nước chúng ta đã gặt hái được nhiều thành tựu nổi bật trên tất cả các lĩnh vực kinh
tế, chính trị và ngoại giao. Số lượng các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng nhiều, quy
mô và nguồn vốn đầu tư ngày càng tăng lên; quá trình chuyển giao khoa học - kỹ
thuật ngày càng diễn ra mạnh mẽ; cùng với đó là sự gia tăng và hiện diện nhanh
chóng của hàng hóa nước ngoài trên lãnh thổ nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi
thế thì việc gia nhập tổ chức kinh tế lớn nhất toàn cầu cũng đưa đến nhiều thách thức
đối với nền kinh tế nước ta. Một khi chúng ta mở cửa hồn tồn thị trường trong
nước thì hàng hóa ngoại nhập sẽ ngày càng nhiều trên thị trường nước ta, mở ra rất
nhiều cơ hội lựa chọn cho người tiêu dùng nhưng bên cạnh đó thì các doanh nghiệp
sản xuất trong nước lại phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh đối
với hàng hóa ngoại nhập. Do cơng nghệ sản xuất cịn lạc hậu, giá thành sản xuất cao,
chi phí sản xuất đắt đỏ nên hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước khó đủ sức
cạnh tranh với hàng hóa ngoại nhập với giá rẻ, mẫu mã đa dạng, phong phú. Chính
vì điều này đòi hỏi các thương nhân phải cải thiện khả năng cạnh tranh của mình nếu
khơng muốn “ thua ngay trên sân nhà” thông qua việc xúc tiến các hoạt động đầu tư,
xúc tiến các hoạt động thương mại, mở rộng thị trường, đầu tư đổi mới trang thiết bị
sản xuất, nâng cao năng lực và tay nghề cho người lao động; trong đó đặc biệt chú
trọng đến các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư. Và khuyến mại là một trong
số những biện pháp có hiệu quả cao trong việc gia tăng khả năng cạnh tranh của
hàng hóa, dịch vụ trên thị trường trong giai đoạn hiện nay.
Chúng ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật khác nhau quy định về các hoạt
động thương mại, trong đó có hoạt động khuyến mại; điển hình như Luật Thương
mại 1997 và hiện nay là Luật Thương mại 2005 đang có hiệu lực thi hành cùng với
đó là các văn bản hướng dẫn thi hành việc thực hiện các hoạt động thương mại. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện các quy định về các hoạt động thương mại nói chung
và hoạt động khuyến mại nói riêng vẫn cịn gặp phải một số vướng mắc cần phải

hoàn thiện như việc xác định hạn mức giá trị vật chất dùng để khuyến mại và thời
gian khuyến mại; về việc xác định hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

mạnh; về cơ chế bảo vệ lợi ích người tiêu dùng khơng rõ ràng. Do đó, việc nghiên
cứu hồn thiện pháp luật về khuyến mại sẽ giúp Nhà nước nâng cao vai trò quản lý
của mình trong lĩnh vực này, bảo đảm phát huy những mặt tích cực cũng như khắc
phục những hạn chế của hoạt động khuyến mại đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Xuất phát từ những lí do trên, tác giả chọn đề tài: “ Pháp luật về hoạt động
khuyến mại. Thực trạng và hƣớng hoàn thiện” để làm khóa luận tốt nghiệp với
hi vọng đề tài sẽ tạo ra cách nhìn nhận tồn diện hơn về các quy định của pháp luật
về hoạt động khuyến mại. Thực hiện tốt các quy định về hoạt động khuyến mại sẽ
tạo khả năng cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trong nước trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề mang tính chất lí luận
chung về hoạt động khuyến mại, các quy định hiện hành của pháp luật về hoạt động
khuyến mại. Qua đó, tác giả cũng chỉ ra một số điểm bất cập, hạn chế của các quy
định pháp luật; đồng thời đề đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về hoạt động khuyến mại và hiệu quả thực hiện hoạt động
khuyến mại trên thực tiễn.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nội dung của khóa luận được nêu và phân tích trên cơ sở các văn bản pháp
luật của Nhà nước, cùng với các tài liệu tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật, quan
điểm của các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý trong các cơng trình, tạp chí chun
ngành về hoạt động khuyến mại.

Khóa luận được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử. Đồng thời, kết hợp với các phương pháp khác như phương pháp so sánh,
phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích…Bên cạnh đó, trên cơ sở lý luận
Mác - Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng được sử dụng để trình bày một số vấn đề lí
luận cụ thể.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề mang tính chất lí luận chung và các
cơ chế pháp lý hiện hành về hoạt động khuyến mại của pháp luật nước ta hiện nay về
các hình thức khuyến mại; các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại; quy định


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

về hạn mức giá trị vật chất tối đa dùng để khuyến mại và thời gian khuyến mại; pháp
luật về kinh doanh dịch vụ khuyến mại và trình tự thủ tục thơng báo, đăng kí thực
hiện chương trình khuyến mại. Đồng thời, đề tài cũng nghiên cứu việc áp dụng thi
hành pháp luật về khuyến mại trên thực tiễn.
Trong phạm vi giới hạn cho phép, đề tài chỉ tập trung phân tích những vấn đề
lý luận về hoạt động khuyến mại; các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về
hoạt động khuyến mại trong Luật Thương mại 2005. Đồng thời, đề tài cịn nêu lên
thực trạng, phân tích và đưa ra những nhận định, những mặt còn hạn chế của một số
quy định về khuyến mại và đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện Pháp
luật về hoạt động khuyến mại.
5. Tình hình nghiên cứu
Luật Thương Mại 2005 được ban hành thay thế cho Luật Thương mại 1997
qua quá trình áp dụng thực tế cho thấy bên cạnh những điểm tích cực thì văn bản này
vẫn cịn một số hạn chế và những quy định về hoạt động khuyến mại cũng khơng

phải là ngoại lệ. Vì vậy mà trong thời gian qua đã có nhiều bài viết, cơng trình khoa
học bàn về các quy định của Luật Thương mại 2005 về hoạt động khuyến mại:
 Pháp luật về khuyến mại ở Việt Nam - Thực tiễn và hướng hoàn thiện; Luận
văn cử nhân; Đỗ Thị Mỹ Duyên: Đề tài tập trung nghiên cứu hai vấn đề cơ
bản: Một là, một số vấn đề lý luận về pháp luật khuyến mại: Khái niệm về
khuyến mại, vai trò, tác dụng của hoạt động khuyến mại trong nền kinh tế thị
trường Việt Nam, sự cần thiết điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động khuyến
mại, nội dung cơ bản của pháp luật khuyến mại; Hai là, thực trạng của pháp
luật khuyến mại trình bày: quy định pháp luật hiện hành về khuyến mại, về
chủ thể tổ chức khuyến mại, về các hình thức khuyến mại, về hàng hóa trong
hoạt động khuyến mại; cuối cùng là những vướng mắc khi áp dụng pháp luật
khuyến mại, thực trạng hoạt động khuyến mại hiện nay.
 Pháp luật về hoạt động khuyến mại theo Luật Thương mại 2005; Luận văn cử
nhân, Nguyễn Lâm Trâm Anh, năm 2006: Tác giả đã khái quát về hoạt động
khuyến mại nói chung; pháp luật về hoạt động khuyến mại theo Luật thương
mại 2005. Thực trạng hoạt động khuyến mại tại Việt Nam và một số vấn đề
dặt ra cho việc thực thi pháp luật khuyến mại.


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

 Hoạt động khuyến mại tại thành phố Hồ Chí Minh - thực trạng và hướng hoàn
thiện các quy định của pháp luật; Luận văn cử nhân; Nguyễn Trần Xuân Thi:
Đề tài tập trung thực trạng hoạt động khuyến mại tại thành phố Hồ Chí Minh
về quy mơ, hình thức cũng như những vướng mắc gặp phải khi áp dụng pháp
luật về hoạt động khuyến mại tại thành phố Hồ Chí Minh; từ đó đưa ra một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này.
Nhìn chung, các tác giả trên đã đề cập khá đầy đủ các khía cạnh của pháp luật

về hoạt động khuyến mại từ quy định của pháp luật, thực tiễn thi hành đến những
vướng mắc gặp phải cũng như những hạn chế khi áp dụng luật các quy định về
khuyến mại vào thực tế. Mỗi đề tài hướng đến một mục đích khác nhau, khai thác
pháp luật về khuyến mại ở các mức độ khác nhau. Đó thật sự là những đóng góp hết
sức thiết thực cho việc nghiên cứu, tìm hiểu cũng như hồn thiện pháp luật về
khuyến mại ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, do các đề tài này được thực hiện khi Luật
Thương mại 2005 mới có hiệu lực thi hành trong một thời gian ngắn nên phần nào
chưa đánh giá được hết những điểm tích cực cũng như hạn chế của văn bản này.
Ngồi ra, cũng vì lý do này mà một số đề tài đã chưa bao quát hết các quy định của
pháp luật điều chỉnh hoạt động khuyến mại thể hiện trong nhưng văn bản hướng dẫn
thi hành như Nghị định số 37/2006 ngày 04 tháng 04 năm 2006 của Chính phủ quy
định một số điều của Luật thương mại về các hoạt động xúc tiến thương mại; Thông
tư liên tịch số 07/2007 ngày 06 tháng 07 năm 2007 của Bộ Thương mại – Bộ Tài
chính hướng dẫn thi hành một số điều về khuyến mại và hội chợ triễn lãm thương
mại; Nghị định số 06/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại; Thơng tư số
11/2010/TT-BTTTT ngày 14 tháng 05 năm 2010 của Bộ thông tin và truyền thông
quy định hoạt động khuyến mại đối với dịch vụ thông tin di động… nên chưa có sự
nhìn nhận đầy đủ về các quy định của pháp luật đối với hoạt động khuyến mại.
Với sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế nước ta, đặc biệt kể từ khi chúng
ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO tháng 11 năm 2006,
Pháp luật về hoạt động khuyến mại hiện nay đã có sự điều chỉnh để có thể theo kịp
những chuyển biến của các mối quan hệ trong nền kinh tế. Tuy nhiên, những sự điều
chỉnh đó đã thật sự đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đang một cách chóng mặt hay


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng


chưa? Chắc hẳn đây vẫn là một câu hỏi khiến các nhà nghiên cứu khơng thể thỏa
mãn với các nghiên cứu của mình.
6.

Ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn của đề tài

Bằng việc tìm hiểu các vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật về hoạt động
khuyến mại, đề tài có một số phát hiện và phân tích làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý
của các quy định pháp luật về hoạt động khuyến mại; qua đó, đề tài đưa ra một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động khuyến
mại và hiệu quả của việc thực hiện nó trong thực tiễn.
Là đề tài được khá nhiều người quan tâm và nghiên cứu trong thời gian gần
đây; do đó, đề tài là cơng trình nghiên cứu với hi vọng đóng góp một vài kiến nghị
trong việc hoàn thiện và thực thi các cơ chế chính sách pháp luật về hoạt động
khuyến mại một cách có hiệu quả hơn, góp phần phát triển các hoạt động thương
mại trong thời kì hội nhập. Đồng thời, đề tài cũng là tài liệu tham khảo cho những ai
quan tâm đến vấn đề này.
7.

Cơ cấu khóa luận

Cơ cấu của khố luận gồm có ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về hoạt động khuyến mại;
Chương 2: Pháp luật về khuyến mại và thực tiễn thi hành;
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về khuyến mại.
Nhân đây, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo TS. Phan Huy Hồng,
người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong q trình thực hiện khóa luận này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn tới Quý thầy cô, bạn bè và những người quan tâm,
giúp đỡ em hồn thành khóa luận này.
Trong q trình nghiên cứu và hồn thành khóa luận chắc chắn khơng tránh

khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của
Quý thầy cô và bạn đọc để những lần nghiên cứu sau được hoàn thiện hơn.


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
KHUYẾN MẠI
1.1. Khái niệm và đặc điểm
1.1.1.
Khái niệm
"Nếu bạn mua một hộp sữa từ 25/10 đến 25/12 bạn có cơ hội trúng 1 trong 3
chiếc xe hơi hiệu Mazda, hoặc Honda @, hoặc máy vi tính...". Ngày nay, chúng ta có
thể dễ dàng bắt gặp những quảng cáo tương tự như vậy trên đường phố hay trên các
phương tiện thơng tin đại chúng. Đây chính là thơng tin về một chương trình khuyến
mại. Vậy khuyến mại là gì?
Kể từ khi xuất hiện hoạt động xúc tiến thương mại này đã có rất nhiều định
nghĩa được các nhà nghiên cứu đưa ra dưới các góc độ khác nhau từ ngôn ngữ, kinh
tế đến Marketing.. mà trong các nghiên cứu của các tác giả trước về đề tài này đã đều
đề cập tới. Ở đây tác giả chỉ so sánh một vài vấn đề về khái niệm khuyến mại trong
Luật Thương mại 1997 so với Luật Thương mại 2005. Điều 180 Luật Thương mại
1997 định nghĩa: “Khuyến mại là hành vi thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến
việc bán hàng, cung ứng dịch vụ trong phạm vi kinh doanh của thương nhân bằng
cách dành những lợi ích nhất định cho khách hàng”. Còn tại Điều 88 Luật Thương
mại 2005 quy định: “Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân,
nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách
hàng những lợi ích nhất định”. Như vậy so với Luật Thương mại năm 1997, Luật
Thương mại 2005 có bổ sung thêm về mục đích, theo đó khuyến mại ngồi mục đích

xúc tiến việc bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thì cịn nhằm xúc tiến việc mua hàng
hóa của thương nhân, trong trường hợp thương nhân là người có nhu cầu mua hàng
hóa phục vụ cho hoạt động sản xuất của mình (ngun liệu, vật tư,...). Ngồi ra, Luật
Thương mại hiện hành còn xác định khuyến mại là một hoạt động xúc tiến thương
mại, trong khi Luật Thương mại trước đây chỉ ghi nhận khuyến mại là một hoạt động
thương mại của thương nhân. Nhìn chung, Luật Thương mại 2005 thể hiện những
quan điểm mới của chúng ta đối với hoạt động khuyến mại trên cả hai phương diện
nhận diện và mục đích, đây chính là một trong những điểm tiến bộ của văn bản này.
Theo Luật Thương mại 2005 của Việt Nam, thuật ngữ được sự dụng để chỉ hoạt
động Xúc tiến thương mại này là "khuyến mại" và được dùng quen thuộc trong các


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

văn bản cũng như nhiều hoạt động quảng bá của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo nghĩa
chính xác của từ Hán Việt, hoạt động này phải được gọi là "khuyến mãi" (theo nghĩa
Hán Việt: mại là bán, mãi là mua). Như vậy, nghĩa ban đầu của khuyến mại vốn là
khuyến khích nhân viên marketing (chẳng hạn bằng tiền thưởng) của chính doanh
nghiệp mình thúc đẩy việc tiếp thị để tiêu thụ hàng hoá. Khuyến mại ngược nghĩa với
khuyến mãi. Khuyến mãi mới mang nghĩa thực như định nghĩa nêu ở trên.1
Hiện nay, hoạt động khuyến mại chủ yếu được điều chỉnh bởi Luật Thương mại
và các văn bản hướng dẫn Luật này. Vì vậy, có thể định nghĩa pháp luật về khuyến
mại là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình thương nhân thực hiện các hoạt động khuyến mại. Trong phạm vi đề tài này
tác giả chỉ nghiên cứu pháp luật khuyến mại theo nghĩa hẹp, tức là nghiên cứu các
quy phạm pháp luật trong Luật Thương mại điều chỉnh về hoạt động khuyến mại của
thương nhân.
1.1.2.


Đặc điểm

Để phân biệt khuyến mại với các hoạt động xúc tiến thương mại khác chúng ta
cần phải căn cứ vào những đặc điểm của khuyến mại theo quy định của pháp luật.
Căn cứ theo quy định của Luật Thương mại 2005 thì hoạt động khuyến mại có các
đặc điểm sau:
Về chủ thể, theo quy định tại khoản 1, Điều 91, Luật Thương mại 2005 thì
thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương
nhân nước ngồi tại Việt Nam có thể tự mình tổ chức thực hiện việc khuyến mại,
hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ tổ chức khuyến mại thực hiện việc khuyến
mại cho mình. Như vậy, chủ thể có quyền tổ chức các hoạt động khuyến mại theo
pháp luật Thương mại bao gồm thương nhân (tổ chức được thành lập hợp pháp, cá
nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh)2; chi nhánh của thương nhân tại Việt Nam. Theo đó, thương nhân một nước
ngồi muốn thực hiện các chương trình khuyến mại tại Viêt Nam thì thương nhân đó
phải thơng qua chi nhánh đang hoạt động tại Việt Nam. Và cũng theo khoản 2, Điều
91 Luật Thương mại hiện hành thì văn phịng đại diện của thương nhân khơng được
khuyến mại hoặc thuê thương nhân khác thực hiện khuyến mại tại Việt Nam cho
1
2

/>Xem thêm Khoản 1, Điều 6, Luật Thương mại 2005.


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

thương nhân mà mình đại diện. Như chúng ta đã biết, văn phòng đại diện là đơn vị

phụ thuộc của thương nhân có chức năng tìm kiếm các cơ hội xúc tiến thương mại,
nhưng khơng giống như đối với các hình thức xúc tiến thương mại khác trong hoạt
động khuyến mại văn phòng đại diện của thương nhân khơng có quyền đứng ra tự tổ
chức cũng như khơng có quyền ký kết hợp đồng dịch vụ thuê thương nhân kinh
doanh dịch vụ khuyến mại dưới sự ủy quyền của thương nhân. Đây là một điểm khác
biệt trong quy định của Luật Thương mại hiện hành về chủ thể của các hoạt động xúc
tiến thương mại.
Về cách thức thực hiện khuyến mại, nhìn chung các hoạt động khuyến mại dù
được thực hiện dưới các hình thức khác nhau nhưng đều theo cách dành cho khách
hàng những lợi ích nhất định để đạt được mục đích của mình. Và tùy thuộc vào mục
đích thương mại, trạng thái cạnh tranh, phản ứng của đối thủ cạnh tranh trên thương
trường, tùy thuộc điều kiện, kinh phí dành cho khuyến mại, lợi ích mà thương nhân
dành cho khách hàng có thể là quà tặng, hàng mẫu để dùng thử, mua hàng giảm
giá,… hoặc các lợi ích vật chất, tinh thần khác.3 Thơng qua việc dành cho khách hàng
của mình những lợi ích nhất định, thương nhân hướng tác động vào hành vi mua bán
hàng hóa, sử dụng dịch vụ của khách hàng hay nói cách khác là thương nhân đang tận
dụng tâm lý của người tiêu dùng để đại được mục đích của mình trong việc kinh
doanh.
Cuối cùng, hoạt động khuyến mại hướng đến mục đích xúc tiến việc mua bán
hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Để thực hiện mục đích này, các đợt khuyến mại của
thương nhân hướng tới việc thu hút khách hàng mua sắm hàng hóa, sử dụng dịch vụ
của mình, thơng qua đó phát triển thị phần của thương nhân trên thị trường, thúc đẩy
hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Có thể nói, so với Luật Thương mại 1997,
Luật Thương mại hiện hành có sự bổ sung về mục đích của khuyến mại. Cụ thể là
mục đích của khuyến mại khơng chỉ nhằm xúc tiến việc bán hàng như theo quy định
của Luật Thương mại trước đây mà khuyến mại còn là hoạt động nhằm xúc tiến việc
mua hàng của chính thương nhân tổ chức khuyến mại (trong trường hợp này thương
nhân tổ chức khuyến mại là khách hàng, muốn tìm kiếm nguồn cung cấp hàng bằng
việc dành cho những người bán hàng những lợi ích nhất định khi bán hàng hóa của họ
cho mình). Vì thực tế như chúng ta đã biết, mặc dù khuyến mại nhằm đẩy mạnh việc

3

Giáo trình Luật thương mại, tập II, NXB. Công an nhân dân, 2006, Hà Nội, tr 143.


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

bán hàng, cung ứng dịch vụ là phổ biến; tuy nhiên, trong những trường hợp để gia
tăng sự cạnh tranh hay để hoàn thành những kế hoạch sản xuất kinh doanh… một số
thương nhân còn thực hiện việc khuyến mại nhằm thu mua hàng hóa, nguyên vật
liệu,… để thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh của thương nhân.
1.2. Vai trò của hoạt động khuyến mại
1.2.1.

Đối với thƣơng nhân

Có thể nói, khuyến mại là cách nhanh nhất để thương nhân đánh dấu sự xuất
hiện của mình trên thị trường một cách có ấn tượng nhất. Các công ty, doanh nghiệp
thường khởi đầu việc kinh doanh của mình cùng với việc thực hiện một chương trình
khuyến mại như: “Tưng bừng khai trương cửa hàng giảm giá 50% tất cả các mặt hàng
cho 100 khách hàng đầu tiên..” Ở đây khuyến mại đóng vai trị thiết lập nhận thức và
thái độ của khách hàng đối với sản phẩm mới. Có thể khuyến mại sẽ khơng giúp lôi
kéo được những khách hàng trung thành từ bỏ nhãn hiệu thường dùng của họ nhưng
nó có thể có tác dụng đối với các khách hàng luôn chịu sự chi phối của giá cả cũng
như ln có hứng thú đối với những giải thưởng. Như vậy, bước đầu khuyến mại là
công cụ cần thiết trong việc tạo dấu ấn cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân trên
thị trường, giúp cho thương nhân xâm nhập thị trường một cách nhanh chóng.
Đối với những thương nhân đã có chỗ đứng trên thị trường khuyến mại là

công cụ hữu hiệu nhằm xúc tiến việc tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ, tạo bước
tiêu thụ đột phá cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân. Đối với người tiêu dùng hẳn
khơng có lý do gì để từ chối việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ mình đã tin cậy mà
cịn có thể nhận được một số lợi ích nhất định từ hành vi đó. Nếu trường hợp hàng
hóa của thương nhân chưa là sự lựa chọn hàng đầu của khách hàng thì món lợi từ
chương trình khuyến mại đem đến chắc hẳn cũng làm lung lay khơng ít người tiêu
dùng. Như vậy, một chương trình khuyến mại hấp dẫn sẽ là động cơ lôi kéo khách
hàng đến với hàng hóa, dịch vụ của thương nhân, thơng qua đó tăng doanh số bán
hàng, doanh thu cung cấp dịch vụ của thương nhân, và thậm chí là tạo ra một bước
tiêu thụ đột phá cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân.
Và tất nhiên, thông qua tất cả các tác dụng của mình khuyến mại sẽ là nguyên
nhân giúp thương nhân tăng khả năng cạnh tranh nhằm chiếm lĩnh thị trường. Bởi vì,
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn liền với ưu thế của sản phẩm mà doanh


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

nghiệp đưa ra thị trường và là sự thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với
đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi
nhuận ngày càng cao, bằng việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên trong, bên
ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm, dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng để tồn tại và
phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh
tranh trên thị trường. Khuyến mại sẽ giúp thương nhân tuyên truyền những lợi thế
của sản phẩm đến với khách hàng và giúp chính khách hàng tiềm năng so sánh được
những lợi ích của sản phẩm đang dùng với sản phẩm của thương nhân khuyến mại.
Và mọi chuyện sẽ thay đổi nếu như sản phẩm, dịch vụ của thương nhân khuyến mại
đáp ứng được nhu cầu của họ. Như vậy, khuyến mại thông qua việc dành một số lợi
ích cho khách hàng để khuyến khích hành vi mua bán, sử dụng dịch vụ của họ sẽ dần

giúp thương nhân khẳng định các lợi thế của hàng hóa, dịch vụ của mình; từ đó nâng
cao năng lực cạnh tranh, tiến tới chiếm lĩnh thị trường.
Cuối cùng, bởi nhiều lý do việc kinh doanh không phải lúc nào cũng suôn sẻ và
dễ dàng với mọi thương nhân (có thể chỉ là do những nguyên nhân khách quan như
sự suy sụp của nền kinh tế, lạm phát, sự lấn át của các đối thủ cạnh tranh..) thì
khuyến mại lúc này là biện pháp giúp thương nhân giải quyết gánh nặng hàng tồn
kho, tạo nguồn vốn thiết lập lại sản xuất kinh doanh. Chúng ta có thể điểm qua các
biện pháp xúc tiến việc bán hàng lúc này: Quảng cáo có vẻ như sẽ khơng mang lại tác
dụng tức thì; mang hàng hóa đi hội chợ, triễn lãm chắc hẳn phải cần tới một khoản
kinh phí khơng nhỏ (điều này là không tưởng và cũng không bao giờ là lựa chọn của
thương nhân trong lúc này). Và tất nhiên khuyến mại (với biện pháp giảm giá chẳng
hạn) sẽ là biện pháp đáp ứng tốt nhất nhu cầu giải phóng hàng tồn kho một cách
nhanh chóng của thương nhân. Một khi hàng hóa tồn đọng đã được giải quyết thì
thương nhân mới có thể bắt đầu với những lựa chọn của mình cho một giai đoạn mới.
1.2.2. Đối với ngƣời tiêu dùng
Là người tiêu dùng, ngoại trừ những người khơng bao giờ phải bận tâm đến vật
chất thì khơng ai là không cảm thấy hứng thú với những chương trình khuyến mại.
Bởi vì, các các hoạt động khuyến mại đưa lại cho khách hàng rất nhiều lợi ích, trong
đó có những lợi ích vật chất có khi ngồi sức tưởng tưởng của họ. Cụ thể những lợi
ích vật chất mà khách hàng nhận được có thể là việc nhận được hàng hóa khơng phải
trả tiền trong các hoạt động tặng quà, đưa hàng mẫu; sở hữu những giải thưởng hấp


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

dẫn từ chương trình rút thăm, quay số, cào sản phẩm... trúng thưởng của thương
nhân. Tóm lại, với người tiêu dùng khuyến mại đưa lại cho họ những món hời thật sự
một cách dễ dàng thơng qua việc đáp ứng chính các nhu cầu cần thiết của mình.

Bên cạnh đó, khuyến mại với vai trò to lớn trong việc xúc tiến việc bán hàng,
cung ứng dịch vụ sẽ là yếu tố quyết định làm nên khả năng cạnh tranh của thương
nhân trên thị trường. Vì vậy, mà khơng một thương nhân nào muốn phát triển việc
kinh doanh, cạnh tranh với các đối thủ mà lại nói khơng với khuyến mại. Khuyến mại
làm gia tăng sự cạnh tranh giữa các thương nhân về chất lượng, giá cả cũng như hậu
mãi. Và trong trường hợp này người tiêu dùng sẽ là người được hưởng lợi, họ sẽ có
cơ hội lựa chọn sản phẩm, dịch vụ tốt nhất, phù hợp nhất cho mình.
Ngồi ra, các hoạt động khuyến mại như chương trình khách hàng, tổ chức
chương trình văn hóa, văn nghệ…cịn mang đến cho khách hàng những lợi ích thiết
thực về tinh thần.
1.3. Sự cần thiết của việc điều chỉnh hoạt động khuyến mại bằng pháp luật
Trong hoạt động kinh doanh để khách hàng biết đến và tiêu thụ sản phẩm của
mình địi hỏi thương nhân phải có những hoạt động tích cực hướng đến khách hàng
nhằm hỗ trợ cho việc bán hàng, cung ứng dịch vụ. Khuyến mại là một trong những
cách thức để gia tăng canh tranh của các thương nhân thông qua tác dụng xúc tiến
thương mại của hình thức này. Quá trình cạnh tranh này, bên cạnh những tác động
tích cực cịn đưa lại những hệ quả không tốt đối với nền kinh tế cũng như quyền lợi
của người tiêu dùng. Bởi vì, một khi thương nhân chỉ lo chạy theo lợi nhuận và xem
nhẹ đạo đức kinh doanh thì hậu quả thật khó lường. Người tiêu dùng thường bị những
nhà sản xuất đánh đúng tâm lý chuộng hàng rẻ, và những lợi ích trước mắt từ các
chương trình khuyến mại mà chưa có được những cách thức bảo vệ quyền lợi chính
đáng của mình trước những vi phạm của thương nhân về chất lượng hóa, cách thức tổ
chức, thực hiện các chương trình khuyến mại. Như vậy, vấn đề ở đây là cần có cơ chế
quản lý chặt chẽ hoạt động khuyến mại để hạn chế cạnh tranh không lành mạnh thông
qua đó bảo đảm một mơi trường kinh doanh lành mạnh và bảo vệ các quyền lợi chính
đáng của người tiêu dùng.
Có thể nói, có nhiều cách thức để hướng các thương nhân thực hiện các chương
trình khuyến mại một cách trung thực, cạnh tranh một cách lành mạnh và quan tâm
tới lợi ích của người tiêu dùng như tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức, trách



Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

nhiệm của thương nhân; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về khuyến
mại; hạn chế hay thậm chí là cấm việc tổ chức các chương trình khuyến mại. Tuy
nhiên, để phát huy những tác động tích cực của khuyến mại đối với nền kinh tế,
người tiêu dùng, cũng nhu bảo đảm quyền lợi của thương nhân thì vai trị quản lý của
nhà nước bằng pháp luật đối với các hoạt động khuyến mại là khơng thể phủ nhận.
Đặc biệt, với tình hình kinh tế hiện nay hoạt động khuyến mại dễ dàng bị các thương
nhân lợi dụng gây ảnh hưởng xấu đến các thương nhân khác, người tiêu dùng. Vì
vậy, hơn lúc nào hết hệ thống pháp luật cần thể hiện được vai trị của mình trong việc
răn đe, giáo dục, hạn chế những hành vi sai trái trong hoạt động khuyến mại.
Đối với việc quản lý hoạt động khuyến mại nhằm bảo vệ người tiêu dùng, đảm
bảo môi trường kinh doanh lành mạnh thì vai trị của pháp luật là hết sức cần thiết
nhưng để thực hiện vai trị đó địi hỏi hệ thống pháp luật phải hồn thiện hơn nữa, bởi
thực tế cho thấy các quy định điều chỉnh hoạt động khuyến mãi hiện nay vẫn còn
nhiều vấn đề đáng để suy nghĩ.


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT KHUYẾN MẠI Ở VIỆT NAM
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
2.1. Nguyên tắc thực hiện khuyến mại
Để định hướng cho hoạt động khuyến mại của các thương nhân nhằm mang lại
hiệu quả cho sản xuất kinh doanh và lợi ích đối với người tiêu dùng nhà nước đề ra

các nguyên tắc bắt buộc các chủ thể thực hiện khuyến mại phải tuân thủ. Những
nguyên tắc này hướng đến mục tiêu phát huy hiệu quả của hoạt động khuyến mại
thông qua việc ngăn ngừa cạnh tranh không lành mạnh và bảo vệ người tiêu dùng. Cụ
thể tại Điều 4, Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 04 năm 2006 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương
mại, quy định về các nguyên tắc thực hiện khuyến mại như sau:
Thứ nhất, chương trình khuyến mại phải được thực hiện hợp pháp, công khai,
minh bạch và khơng xâm hại đến lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, của các
thương nhân, tổ chức, hoặc cá nhân khác. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các thương
nhân khi thực hiện khuyến mại phải tuân theo các quy định của pháp luật về hoạt
động khuyến mại, không vì lợi ích của mình mà xâm hại đến lợi ích hợp pháp của
người tiêu dùng, thương nhân, tổ chức, cá nhân khác. Đây có thể coi là nguyên tắc cơ
bản nhất của hoạt động khuyến mại, tạo cơ sở cho việc thực hiện hoạt động khuyến
mại của thương nhân. Một chương trình khuyến mại chỉ được coi là hợp pháp khi
tuân thủ nguyên tắc này.
Thứ hai, khi thực hiện khuyến mại thương nhân không được phân biệt đối xử
giữa các khách hàng cùng tham gia một chương trình khuyến mại. Tức là thương
nhân không được dành cho khách hàng này những lợi ích nhất định khi mua hàng
hóa, sử dụng dịch vụ của mình mà lại khơng dành cho khách hàng khác lợi ích tương
tự khi có cùng hành vi mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của thương nhân khuyến mại.
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo sự bình đẳng đối với người tiêu dùng, bảo đảm mọi
khách hàng đều được đối xử như khi tham gia vào các chương trình khuyến mại của
thương nhân.
Thứ ba, bởi vì trong mỗi chương trình khuyến mại, đặc biệt là các chương
trình khuyến mại mang tính may rủi thì vấn đề xác định người trúng thưởng đòi hỏi


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng


phải có sự trung thực của thương nhân để tạo ra sự rõ ràng trong việc xác định giải
thưởng và người trúng thưởng vì vậy mà pháp luật quy định thương nhân khi thực
hiện khuyến mại phải đảm bảo những điều kiện thuận lợi cho khách hàng trúng
thưởng nhận giải thưởng và có nghĩa vụ giải quyết rõ ràng, nhanh chóng các khiếu
nại liên quan đến chương trình khuyến mại nếu có. Đây có thể xem là nguyên tắc quy
định về trách nhiệm, nghĩa vụ của thương nhân thực hiện khuyến mại. Khi chương
trình khuyến mại tuân thủ nguyên tắc này thì quyền lợi của người tiêu dùng sẽ được
đảm bảo một cách tốt nhất.
Thứ tư, thương nhân khuyến mại phải đảm bảo về chất lượng hàng hóa, dịch
vụ được khuyến mãi cũng như hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại. Nguyên tắc
này nhằm tránh tình trạng thương nhân dùng hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất
lượng để khuyến mại nhằm lừa dối người tiêu dùng. Tuy nhiên, để kiểm soát chất
lượng hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại là một việc hết sức khó khăn, địi hỏi
pháp luật phải có các cơ chế rõ ràng và cụ thể trong công tác này.
Thứ năm, thương nhân khi thực hiện khuyến mại khơng được lợi dụng lịng
tin, sự thiếu hiểu biết, thiếu kinh nghiệm của khách hàng để thực hiện khuyến mại
nhằm phục vụ cho lợi ích riêng của bất kỳ thương nhân, tổ chức, cá nhân nào. Bởi vì
trong thực tế một số chương trình khuyến mại thường lợi dụng điều này để lừa dối
khách hàng làm cho họ không nhận được những lợi ích mình đáng được hưởng khi
tham gia vào chương trình khuyến mại. Đó là việc gian dối về giải thưởng, công bố
thông tin không đầy đủ rõ ràng,.. làm cho khách hàng nhầm tưởng về chương trình
khuyến mại… Và bởi vì khách hàng ln là người “bị động” hơn so với sự “chủ
động” của doanh nghiệp trong việc tiếp cận những lợi ích vật chất4, nên việc tuân thủ
nguyên tắc này sẽ góp phần đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng. Có thể lấy
chương trình khuyến mại của Siêu thị Topcare dưới đây là ví dụ cho việc vi phạm
nguyên tắc này:

4


Nguyễn Lâm Trâm Anh, Pháp luật về hoạt động khuyến mại theo Luật thương mại 2005, Khóa luận tốt
nghiệp, 2006.


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

Giờ vàng Topcare: Khách hàng nhầm hay bị "chơi xỏ"?

Ngày 25/06, siêu thị Topcare (địa chỉ 335 đường Cầu Giấy, quận Cầu Giấy, Hà Nội)
mở chương trình khuyến mãi giờ vàng. Cụ thể, theo tờ quảng cáo cũng như thông tin
trên trang điện tử của siêu thị này thì một trong những chương trình khuyến mãi đó là
"mở cửa 9h, giảm 50% cho 60 đơn hàng đầu tiên dưới 4 triệu đồng".
Nhiều người đã đến tập trung trước cổng siêu thị từ 7 - 8h sáng để đợi giờ mở cửa
vào mua hàng trong cơn mưa tầm tã.
Tuy nhiên, đến lúc mở cửa, nhiều người mới té ngửa rằng quá khó để mua được hàng
với giá giảm như vậy. Bởi đến lúc này siêu thị mới thông báo, khách hàng phải vào
mua với nguyên 100% giá gốc, rồi sau đó quay ra tham gia bốc thăm phiếu, 60 người
trúng tên thì mới được giảm giá và quay lại quầy thanh toán nhận lại 50% tiền.
Đọc tờ quảng cáo, nhiều khách hàng hàng cho rằng, họ cứ tưởng đến xếp hàng rồi
bốc thăm lấy vé, nếu trúng được vé trong 60 người đầu tiên, được giảm giá thì mới
mua; chứ mua trước, bốc thăm sau thì chẳng khác nào chơi xổ số.
Vậy là nhiều người đành quay về mà chẳng mua được gì. Một nữ khách hàng bức
xúc: "Làm em đi mất công, cứ tưởng thế nào chứ trị khuyến mại kiểu này thì chẳng
ai lạ gì!".
Chiều nay, trao đổi với PV Nguoiduatin.vn, ơng Lê Tùng - trưởng phòng
Marketing của Topcare cho biết, sáng nay, do cơn mưa đổ xuống, không nỡ để khách
xếp hàng đứng dưới mưa, nên siêu thị đã cho mở cửa sớm hơn để cho khách hàng vào
mua hàng rồi mới ra bốc thăm. Như vậy, những người đến trước hay đến sau đều phải

mua hàng rồi mới được bốc phiếu.
"Hầu hết khách hàng đồng ý với phương án này nên chúng tơi mới cho tiến hành như
vậy", - Ơng Tùng nói.
Giải thích vì sao nhiều người đến xếp hàng từ rất sớm rồi đành quay về trong
sự bực tức vì cho rằng mình bị "chơi xỏ", cứ tưởng đến sớm, bốc phiếu, nếu được
giảm giá sẽ mua ai ngờ lại phải mua hàng trước rồi mới lấy phiếu. Ông Tùng nói
rằng, "chúng tơi đã ghi trên tờ quảng cáo rằng "60 đơn hàng đầu tiên - nghĩa là khách
phải mua hàng rồi mới có đơn hàng ra để bốc phiếu".
Ơng Tùng cho biết Topcare chỉ phục vụ những khách hàng thực sự muốn mua
hàng, còn ý kiến phản ánh về những việc đó chỉ là của những người thường "săn hàng
khuyến mãi".


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

Đó là cách giải thích của phía siêu thị Topcare, cịn trên thực tế, nhiều người
đã đội mưa đội gió đến thật sớm để mua hàng nhưng không ngờ lại đến để "chơi xổ
số".
Được biết, đây không phải là lần đầu tiên Topcare tung ra chương trình
khuyến mại đánh lận con đen kiểu này.5

Hộp 2.1. Giờ vàng Topcare: Khách hàng nhầm hay bị "chơi xỏ"?
Thứ sáu, thương nhân khi thực hiện khuyến mại không được tạo ra sự so sánh
trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hố, dịch vụ của thương nhân, tổ chức,
cá nhân khác nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Nghĩa là thương nhân khơng được
so sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ của thương nhân, tổ chức
cá nhân khác, bởi vì điều này sẽ làm cho khách hàng hiểu nhầm hàng hóa, dịch vụ
của thương nhân khuyến mại là tốt hơn so với các hàng hóa, dịch vụ của thương

nhân, cá nhân, tổ chức bị so sánh tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh – cạnh tranh
không tuân theo các quy luật thị trường. Tuy nhiên, như thế nào được xem là hành vi
tạo ra sự so sánh trực tiếp nhằm cạnh trạnh khơng lành mạnh, và khi thương nhân có
hành vi tạo ra sự so sánh trực tiếp nhưng không nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh thì
khơng vi phạm ngun tắc này? Có thể nói để đạt được mục đích hạn chế hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại, đảm bảo môi trường kinh
tế phát triển dựa trên sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thương nhân, qua đó thúc đẩy
nền kinh tế phát triển thì địi hỏi pháp luật cần phải có những quy định rõ ràng hơn về
vấn đề này.
Ngoài ra, thương nhân thực hiện khuyến mại không được dùng thuốc chữa
bệnh cho người để dùng làm hàng hóa khuyến mại hoặc được khuyến mại. Sở dĩ, nhà
làm Luật quy định như vậy là vì thuốc chữa bệnh cho người là một loại hàng hóa đặc
biệt, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng nên cần có sự quản lý chặt
chẽ của Nhà nước. Đi ngược lại nguyên tắc này sẽ tạo ra sự khó khăn trong quản lý
thuốc chữa bệnh dẫn tới những tác đông tiêu cực tới sức khỏe người tiêu dùng.
Như vậy, Nghị định 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 04 năm 2006 của Chính
phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại đã đề ra các
5

/>

Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

nguyên tắc định hướng cho hoạt động khuyến mại của thương nhân nhằm bảo vệ lợi
ích của người tiêu dùng và bảo đảm một môi trường kinh tế phát triển lành mạnh, hạn
chế việc sử dụng khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, lừa dối người tiêu
dùng, qua đó ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Các
nguyên tắc này là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, có ý nghĩa quyết định đối với tồn

bộ hệ thống các quy phạm pháp luật về khuyến mại. Việc tuân thủ các nguyên tắc này
khi thực hiện khuyến mại sẽ phát huy tốt vai trò xúc tiến thương mại của hoạt động
này, đồng thời mang lại lợi ích cho người tiêu dùng cũng như thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Thực tế các chương trình khuyến mại hiện nay chưa tuân thủ đầy đủ các
nguyên tắc này là khá phổ biến thể hiện ở việc không đăng ký, thông báo cơng khai,
chất lượng hàng hóa dùng để khuyến mại khơng đảm bảo, có sự phân biệt đối xử giữa
các khách hàng trong cùng một chương trình khuyến mại và một số chương trình
khuyến mại cịn cịn tạo ra sự so sánh trực tiếp với hàng hóa, dịch vụ của thương
nhân, tổ chức cá nhân khác nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Vì vậy mà địi hỏi vai
trị quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực này nhằm bảo đảm các chương trình
khuyến mại tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc đã nêu ở trên.
2.2. Quy định về các hình thức khuyến mại
Hình thức khuyến mại là sự biểu hiện ra bên ngoài, cách thức thực hiện hoạt
động khuyến mại của thương nhân. Theo quy định tại Điều 92, Luật Thương mại năm
2005 và Điều 7 đến Điều 13 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 04 năm
2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại, các hình
thức khuyến mại được áp dụng trong hoạt động thương mại bao gồm: hàng mẫu; tặng
quà; giảm giá; bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử
dụng dịch vụ, phiếu dự thi; bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo việc tham gia
các chương trình có tính may rủi và tổ chức các sự kiện khác vì mục đích khuyến
mại. Nhìn chung, so với các hình thức khuyến mại được quy định tại Luật Thương
mại 1997 thì các hình thức hiện nay khơng có sự thay đổi đáng kể ngồi việc bổ sung
thêm hai hình thức tại khoản 7 và khoản 8, Điều 92.
Các quy định về hình thức khuyến mại tạo cơ sở cho thương nhân lựa chọn
tiến hành các hoạt động nhằm dành cho khách hàng những lợi ích nhất định đồng thời
xúc tiến việc bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ của mình. Lợi ích mà khách hàng nhận
được có thể là lợi ích vật chất (tiền, hàng hóa) hay lợi ích phi vật chất (được cung ứng


Khóa luận tốt nghiệp


SVTT: Nguyễn Văn Thắng

dịch vụ miễn phí). Hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại và hàng hóa, dịch vụ dùng để
khuyến mại phải là hàng hóa, dịch vụ được kinh doanh hợp pháp. Ngoài ra Pháp luật
hiện hành cũng có một số quy định riêng đối với mỗi hình thức khuyến mại khác
nhau như quy định về hạn mức giá trị hàng hóa dùng để khuyến mại, thời gian tổ
chức khuyến mại, các nghĩa vụ của thương nhân khi thực hiện chương trình khuyến
mại. Chính vì vậy mà để đảm bảo tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật khi tổ
chức hoạt động khuyến mại thì việc xác định hình thức khuyến mại là hết sức quan
trọng đối với thương nhân cũng như đối với các cơ quản quản lý Nhà nước. Trong
thực tế việc thi hành các quy định về hình thức khuyến mại cũng nảy sinh một số vấn
đề pháp lý cần phải giải quyết để thương nhân có thể dễ dàng hơn trong việc tổ chức
khuyến mại cũng như tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động
này. Cụ thể, theo quy định tại Điều 92, Luật Thương mại 2005 thì có các hình thức
khuyến mại sau:
2.2.1.

Đƣa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng

thử khơng phải trả tiền
Là hình thức khuyến mại, theo đó thương nhân đưa hàng mẫu, cung ứng dịch
vụ mẫu để khách hàng dùng thử mà không phải trả tiền. Đây là hình thức khá phổ
biến hiện nay. Thơng thường, hàng mẫu được sử dụng khi thương nhân cần giới thiệu
một sản phẩm mới hoặc sản phẩm mới được cải tiến, do vậy hàng hóa đưa cho khách
hàng dùng thử phải là hàng hóa thương nhân đang kinh doanh hoặc sẽ kinh doanh
trên thị trường.
Và việc đưa hàng mẫu không nhất thiết phải gắn với hành vi mua bán hàng
hóa của khách hàng, cũng như không bị hạn chế về số lượng, thời gian, giá trị hàng
mẫu tặng cho khách hàng. Theo quy định tại Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04

tháng 04 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động
xúc tiến thương mại thì đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu còn là hình thức
khuyến mại duy nhất khơng có bất cứ hạn chế nào về giá trị tối đa của hàng hóa, dịch
vụ dùng để khuyến mại cũng như thời gian tổ chức khuyến mại trong một năm hay
nói cách khác việc thực hiện khuyến mại như thế nào theo hình thức này hoàn toàn
tùy thuộc vào quyết định, chiến lược kinh doanh của thương nhân và chỉ cần thực
hiện nghĩa vụ thông báo với cơ quan quản lý hoạt động xúc tiến thương mại.


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

Sở dĩ, pháp luật quy đinh như vậy là vì với hình thức đưa hàng mẫu, cung ứng
dịch vụ mẫu thì khơng thể phân biệt giữa đối tượng được khuyến mại và hàng hóa,
dịch vụ dùng để khuyến mại nên việc xác định hạn mức giá trị là rất khó khăn. Và vì
đây cũng là hình thức mà thương nhân thực hiện khuyến mại không phụ thuộc vào
hành vi mua bán của khách hàng nên lợi ích duy nhất mà thương nhân nhận được là
sự giới thiệu hàng hóa, dịch vụ tới khách hàng; thương nhân tất nhiên sẽ khơng vì vậy
mà cứ “cho khơng” khách hàng trong một thời gian dài. Đó chính là nguyên nhân giải
thích tại sao việc giới hạn về thời gian khuyến mại đối với hình thức khuyến mại này
là khơng cần thiết.
2.2.2.

Tặng hàng hóa cho khách hành, cung ứng dịch vụ không thu

tiền; không kèm theo việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
Nói đến quà tặng là nói đến hình thức khuyến mại mà theo đó thương nhân
dùng quà tặng không thu tiền để thu hút khách hàng mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ
của mình.. Hình thức khuyến mại này có nhiều điểm tương đồng và khó phân biệt với

hình thức khuyến mại quy định tại khoản 1, Điều 92 Luật Thương mại 2005:
“Thương nhân tặng quà, cung ứng dịch vụ cho khách hàng không thu tiền; người tiêu
dùng nhận được những lợi ích này mà khơng gắn liền với việc mua hàng hóa, sử
dụng dịch vụ của thương nhân”. Một trong những đặc điểm để chúng ta phân biệt
giữa hai hình thức này là hàng hóa dùng để làm q tặng trong hình thức tặng q
khơng nhất thiết phải là hàng hóa, dịch vụ mà thương nhân đang kinh doanh hoặc sẽ
kinh doanh mà có thể là hàng hóa dịch vụ của thương nhân khác. Thực tế cho thấy
việc phân biệt hai hình thức đưa hàng mẫu và tặng quà chỉ có thể căn cứ vào hàng
hóa, dịch vụ mà thương nhân sử dụng để khuyến mại. Hàng hóa dùng để khuyến mại
được coi là hàng mẫu khi chính hàng hóa đó thể hiện là hàng mẫu, có nghĩa là trên
hàng hóa đó có các chỉ dẫn như “ hàng mẫu không bán” hoặc tương tự. Trong trường
hợp này, việc xác định hình thức khuyến mại phải căn cứ vào thông báo của thương
nhân về chương trình khuyến mại theo quy định tại Điều 97, Luật Thương mại 2005.
Mục đích mà hình thức khuyến mại này hướng đến là những khách hàng đang
sử dụng hàng hóa, dịch vụ của thương nhân nhằm thể hiện việc chăm sóc khách hàng,
củng cố động lực tiêu dùng của những khách hàng đang sử dụng sản phẩm của mình
và giới thiệu sản phẩm đến với những khách hàng tiềm năng.


Khóa luận tốt nghiệp

SVTT: Nguyễn Văn Thắng

So với Luật thương mại 1997, Luật Thương mại hiện hành cụ thể là theo quy
định tại Điều 8, Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 04 năm 2006 của Chính
phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại bắt buộc
các chương trình khuyến mại theo hình thức này khơng gắn liền với việc mua bán
hàng hóa, sử dụng dịch vụ của khách hàng. Theo đó thương nhân khi tổ chức tặng
quà cho khách hàng không được kèm theo điều kiện khách hàng phải mua hàng hóa,
sử dụng dịch vụ của mình. Ràng buộc này khơng được đặt ra trong Luật Thương mại

trước đây.
Đối với hình thức này, pháp luật hiện hành cịn có các hạn chế về tổng giá trị
vật chất tối đa dùng để khuyến mại trong một chương trình khuyến mại; cụ thể theo
khoản 2, Điều 5, Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 04 năm 2006 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thương mại về xúc tiến thương mại
thì tổng giá trị vật chất tối đa mà thương nhân được dùng để khuyến mại trong một
chương trình khuyến mại không được vượt quá 50% tổng giá trị của hàng hóa, dịch
vụ được khuyến mại.
2.2.3.

Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán, giá

cung ứng dịch vụ trƣớc đó
Là hành vi bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán, giá cung ứng
dịch vụ bình thường trước đó được áp dụng trong thời gian khuyến mại mà thương
nhân đã đăng ký hoặc thông báo. Nếu hàng hóa, dịch vụ thuộc diện Nhà nước quản lý
giá thì việc khuyến mại theo hình thức này được thực hiện theo quy định của Chính
phủ. Đây là hình thức thường được thương nhân sử dụng khi cần thanh lý hàng tồn
kho hoặc thể hiện sự tri ân đối với khách hàng nhằm củng cố hơn nữa thương hiệu
của mình. Đặc biệt là vào những dịp Lễ hay cuối năm khách hàng có thể cảm thấy
mình thật sự là “ thượng đế” khi đi đâu cũng nhận được những ưu đãi hết sức hấp dẫn
như: “Đại hạ giá”, “Sale off 50%”, “ Sale off 70%”,…
Và để bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, chống hành vi bán phá giá,
pháp luật có quy định về giới hạn giảm giá đối với từng đơn vị hàng hóa, dịch vụ và
giới hạn thời gian tổ chức khuyến mại trong một năm. Mức độ giảm giá, các hành vi
bị cấm và thời gian giới hạn đối với hình thức giảm giá được quy định tại Điều 6 và
Điều 9, Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 04 năm 2006 của Chính phủ.



×