Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Pháp luật việt nam về bảo hiểm thất nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 76 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP

ỒC

N

KHOA LUẬT D N
  

HOÀNG TỐ NGUYÊN

P

P

ẬT VIỆT NAM

VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP

ẬN

NC

C
G

TP

N

N



N NG N

ẬT D N

ƢỚNG D N T

ỒC

N

ẬT

N

T

T Ú

ƢƠNG


MỤC LỤC
LỜ NÓ ĐẦU
Chƣơng 1
S

Ý LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ
RA ĐỜI CỦA BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM


1.1. Khái niệm thất nghiệp và ảnh hưởng của thất nghiệp đến đời sống
kinh tế - xã hội ........................ ...................................................................................1
1.1.1. Khái niệm thất nghiệp ..............................................................................1
1.1.2. Ảnh hưởng của thất nghiệp đến đời sống kinh tế - xã hội ......................4
1.1.2.1. Xét về mặt kinh tế ......................................................................4
1.1.2.2. Xét về mặt xã hội .......................................................................5
1.2. Những vấn đề chung về bảo hiểm thất nghiệp ....................................................6
1.2.1. Sự hình thành bảo hiểm thất nghiệp ........................................................6
1.2.1.1. Cơ sở lý luận xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp .........6
1.2.1.2. Lịch sử hình thành bảo hiểm thất nghiệp và sự phát triển
của bảo hiểm thất nghiệp .........................................................................7
1.2.2. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp .............................................................8
1.2.2.1. Đối với người lao động ..............................................................8
1.2.2.2. Đối với người sử dụng lao động ................................................9
1.2.2.3. Đối với nhà nước .......................................................................9
1.2.3. Bản chất của bảo hiểm thất nghiệp ........................................................ 10
1.2.3.1. Đặc điểm chung của bảo hiểm thất nghiệp ............................. 10
1.2.3.2. Đặc điểm riêng của bảo hiểm thất nghiệp .............................. 11
1.2.4. Nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp ................................................... 13
1.2.4.1. Bảo hiểm thất nghiệp dựa trên sự đóng góp của các bên để
hình thành quỹ bảo hiểm độc lập và tập trung .................................... 13
1.2.4.2. Bảo hiểm thất nghiệp phải lấy số đơng bù số ít ...................... 14
1.2.4.3. Nguyên tắc cân đối giữa đóng góp và hưởng thụ, nhu cầu thực
tế với khả năng đáp ứng và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ..... 14
1.2.4.4. Nguyên tắc công bằng trong bảo hiểm thất nghiệp ................ 15


1.3. Cơ sở xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam .............................. 15
1.3.1. Tính cấp thiết của việc ban hành chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở
Việt Nam ........................................................................................................ 15

1.3.2. Cơ sở kinh tế - xã hội ............................................................................ 19
1.3.3. Cơ sở pháp lý ........................................................................................ 21
Chƣơng

P

P

ẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP

2.1. Hình thức của bảo hiểm thất nghiệp ................................................................ 23
2.2. Đối tượng, phạm vi áp dụng bảo hiểm thất nghiệp .......................................... 24
2.3. Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp ............................................................ 26
2.4. Các chế độ bảo hiểm thất nghiệp ..................................................................... 28
2.4.1. Trợ cấp thất nghiệp ............................................................................... 29
2.4.1.1. Mức trợ cấp thất nghiệp .......................................................... 29
2.4.1.2. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp ...................................... 30
2.4.1.3. Tạm dừng và chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp .................. 31
2.4.2. Hỗ trợ học nghề .................................................................................... 33
2.4.2.1. Cơ quan tiến hành ................................................................... 33
2.4.2.2. Mức hỗ trợ học nghề ............................................................... 34
2.4.2.3. Thời gian hỗ trợ học nghề ....................................................... 34
2.4.3. Hỗ trợ tìm việc làm ............................................................................... 34
2.4.3.1. Cơ quan tiến hành ................................................................... 35
2.4.3.2. Thời gian hỗ trợ tư vấn việc làm ............................................ 35
2.4.4. Bảo hiểm y tế ........................................................................................ 36
2.5. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp ................................................................................ 36
2.5.1. Những quy định về việc đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp ....... 36
2.5.1.1. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp .......................... 36
2.5.1.2. Mức và phương thức đóng góp vào quỹ bảo hiểm

thất nghiệp ........................................................................................... 38
2.5.2. Những quy định về quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp ...... 41
2.5.2.1. Quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp .......................................... 41
2.5.2.2. Sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp ......................................... 42


Chƣơng 3 MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG VIỆC TRIỂN KHAI
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ Đ N

ƢỚNG

HOÀN THIỆN BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM
3.1. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp với tình hình lao động, việc làm ở
Việt Nam ................................................................................................................. 44
3.2. Một số vấn đề khi triển khai áp dụng bảo hiểm thất nghiệp ở
Việt Nam ................................................................................................................. 46
3.2.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp ............................................ 46
3.2.2. Công tác quản lý bảo hiểm thất nghiệp ................................................ 47
3.2.3. Công tác tổ chức, thực hiện bảo hiểm thất nghiệp ................................ 49
3.2.4. Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm .......................................................... 50
3.2.5. Công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm chế độ bảo hiểm
thất nghiệp........................................................................................................ 51
3.2.6. Một số vấn đề khác ............................................................................... 52
3.3. Một số giải pháp nhằm triển khai và hoàn thiện bảo hiểm thất nghiệp ........... 53
3.3.1. Triển khai theo đúng quy định của Luật bảo hiểm xã hội và từng bước
hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ......................... 53
3.3.2. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp .............................. 56
3.3.3. Hoàn thiện, đổi mới, nâng cao năng lực quản lý của bộ máy
bảo hiểm xã hội ................................................................................................ 57
3.3.4. Xây dựng cơ chế phối hợp tổ chức triển khai bảo hiểm thất nghiệp ..... 59

3.3.5. Hoàn thiện chế độ hỗ trợ việc làm cho người thất nghiệp .................... 60
3.3.6. Xây dựng chế tài đảm bảo triển khai thực hiện bảo hiểm
thất nghiệp........................................................................................................ 62
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI NÓI ĐẦU
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường trong những thập kỷ qua đã
mang lại diện mạo mới cho nền tế thế giới nói chung và tại các quốc gia nói riêng.
Trên thế giới đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của các nền kinh tế như:
Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam... Tuy không thể phủ nhận vai trò quan trọng của
nền kinh tế thị trường, nhưng một trong những mặt trái của nó đó là tình trạng thất
nghiệp ngày càng gia tăng. Đây là một vấn đề nhức nhối mà các quốc gia trên thế
giới đã và đang đối mặt và phải tìm hướng giải quyết. Vấn đề này càng trở nên cấp
thiết hơn trước tình hình cả nền kinh tế thế giới chao đảo vì khủng hoảng vào năm
2009. Khủng hoảng kinh tế năm 2009 đã đẩy nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản, trong đó có nhiều tập đồn lớn với hàng nghìn người lao động bị mất việc.
Chính phủ các nước trên thế giới vừa phải đối mặt với vấn đề phục hồi nền kinh tế
trong nước, vừa phải giải quyết việc làm cho một số lượng lớn người lao động thất
nghiệp.
Tại Việt Nam, với việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường đã đem lại sự phục hồi và phát triển
mạnh mẽ cho nền kinh tế. Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, với việc tăng trưởng kinh tế luôn đạt ở mức cao, chất lượng
sống của người dân được nâng cao. Tuy vậy, cũng như các nước khác trên thế giới,
chính phủ nước ta cũng đang gặp phải một vấn đề lớn cần phải giải quyết, đó là tình
trạng thất nghiệp. Mặc dù là quốc gia ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh

tế năm 2009, nhưng số lượng người lao động mất việc làm cùng với đó là số đơng
người ở độ tuổi lao động chưa có việc làm trong những năm qua ở nước ta cũng ở
mức rất cao. Đây là vấn đề cần được giải quyết nhanh chóng bởi vì nó có ảnh
hưởng rất lớn đến nền kinh tế và xã hội.
Một trong những biện pháp thường được các nước quan tâm khi giải quyết
vấn đề thất nghiệp là xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Bảo hiểm thất
nghiệp ra đời vào những năm cuối thế kỷ thứ XIX đầu thế kỷ XX ở các nước
phương Tây và ngày càng được phát triển rộng ở các nước trên thế giới vì nó có vai
trị to lớn khơng chỉ đảm bảo cho cuộc sống cá nhân người thất nghiệp mà cịn góp


2

phần ổn định kinh tế - xã hội. Trên cơ sở những lợi ích mà bảo hiểm thất nghiệp
mang lại cho các nước trên thế giới trong việc đối phó với tình trạng thất nghiệp,
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành chế độ bảo hiểm thất nghiệp - một phần trong
quy định của Luật bảo hiểm xã hội, dựa trên điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Chế độ bảo hiểm thất nghiệp ra đời từ năm 2006 nhưng phải đến gần ba năm sau,
ngày 01/01/2009 mới bắt đầu được triển khai áp dụng trong thực tiễn. Đây là một
bước đi thận trọng của chúng ta vì bảo hiểm thất nghiệp là một chính sách mới và
rất khó thực hiện.
Một sự trùng lặp khá ngẫu nhiên, đúng vào thời điểm chế độ bảo hiểm thất
nghiệp đi vào cuộc sống là lúc nền kinh tế suy thoái mạnh, doanh nghiệp gặp khó
khăn trong sản xuất kinh doanh khiến hàng loạt người lao động đã, đang và sẽ có
nguy cơ thất nghiệp. Vậy việc thực thi luật này sẽ ra sao khi mà các khó khăn cùng
lúc dồn đến với cả doanh nghiệp và người lao động.
Từ thực tiễn và sự cấp bách nói trên, việc nghiên cứu các quy định pháp luật
Việt Nam về bảo hiểm thất nghiệp là rất quan trọng nhằm để giúp việc thực hiện
quy định này trong thực tế được tốt hơn, nhất là khi Việt Nam đang đối mặt với
năm 2009 đầy khó khăn. Do vậy, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về

Bảo hiểm thất nghiệp” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích của luận văn này là góp phần làm sáng tỏ các quy định của pháp
luật Việt nam về bảo hiểm thất nghiệp. Qua sự nhìn nhận khách quan về vấn đề này,
tác giả muốn đưa ra một số kiến nghị giúp hoàn thiện hơn quy định của pháp luật
Việt Nam về chế độ bảo hiểm thất nghiệp nói riêng và hệ thống pháp luật an sinh xã
hội nói chung, đồng thời nâng cao tính hiệu quả của quy định này trong thực tế.
Để nghiên cứu đề tài này, tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp lịch sử,
phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, và phương
pháp tổng hợp.
Với mục đích và phương pháp nghiên cứu như trên, kết cấu của bản luận văn
bao gồm những nội dung chính sau:
Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm thất nghiệp và sự ra đời của bảo hiểm
thất nghiệp ở Việt Nam.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về bảo hiểm thất nghiệp.


3

Chương 3: Một số vấn đề trong việc triển khai bảo hiểm thất nghiệp và định
hướng hoàn thiện bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.
Trong phạm vi khóa luận tốt nghiệp của mình với đề tài “Pháp luật Việt
Nam về Bảo hiểm thất nghiệp”, tác giả chỉ nghiên cứu trong giới hạn các quy định
của pháp luật về hình thức tham gia, đối tượng, phạm vi của bảo hiểm thất nghiệp,
điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp, các chế độ của bảo hiểm thất nghiệp và Quỹ
bảo hiểm thất nghiệp. Đây cũng là những nội dung chính của chế độ bảo hiểm thất
nghiệp.
Qua đây tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy cô và bạn bè
những người đã giúp đỡ tơi hồn thành khóa luận tốt nghiệp này. Đặc biệt là cô Lê
Thị Thúy Hương đã rất tận tình hướng dẫn tơi trong suốt q trình tìm hiểu, nghiên
cứu để hồn thành khóa luận.

Trong q trình thực hiện khóa luận, mặc dù đã rất cố gắng nhưng với những
hạn chế về trình độ, kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế, hơn nữa thời gian lại
có hạn và tài liệu nghiên cứu chưa nhiều, do đó chắc chắn khơng thể tránh được
những thiếu sót. Vì vậy, tác giả rất mong được sự góp ý của Quý thầy cô và những
người quan tâm đến đề tài này để luận văn được hoàn chỉnh hơn cũng như đúc kết
kinh nghiệm bản thân trong các cơng trình nghiên cứu sau này. Xin chân thành cảm
ơn.


5

C ƢƠNG 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ S

RA ĐỜI CỦA BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM

1.1 . Khái niệm thất nghiệp và ảnh hƣởng của thất nghiệp đến đời sống kinh tế xã hội
1.1.1. Khái niệm thất nghiệp
Thất nghiệp và thiếu việc làm đang là vấn đề mang tính tồn cầu trong bối cảnh
khủng hoảng và suy giảm kinh tế hiện nay. Vấn đề thất nghiệp đã được nhiều tổ chức,
nhiều nhà khoa học bàn luận song còn nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề này.
Tổ chức Liên đoàn lao động Quốc tế (International Labour Organization – ILO)
đã đưa ra khái niệm thất nghiệp tại Điều 20 Công ước số 102 ngày 28 tháng 6 năm
1952: “Thất nghiệp là hiện tượng người lao động bị ngừng thu nhập do khơng có khả
năng tìm được việc làm thích hợp trong trường hợp người đó có khả năng làm việc và
sẵn sàng làm việc”. Sau này điều kiện để một người bị coi là thất nghiệp cịn được bổ
sung thêm trong Cơng ước số 168 năm 1988 theo đó một người bị coi là thất nghiệp
ngồi điều kiện đã nêu ở Công ước số 102 phải có thêm điều kiện “tích cực tìm kiếm
việc làm”.

Tuy nhiên, định nghĩa về thất nghiệp của ILO mang tính chất khái quát, không
chỉ ra các trường hợp cụ thể của thất nghiệp, nên khi xác định người thất nghiệp trong
thực tế các nước cũng gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, tại Hội nghị Quốc tế lao động
lần thứ XIII tại Geneva năm 1983 về thống kê dân số, hoạt động kinh tế, việc làm, thất
nghiệp và thiếu việc làm đã cụ thể hóa khái niệm thất nghiệp như sau: “Thất nghiệp là
hiện tượng dùng để chỉ toàn bộ số người ở độ tuổi lao động theo quy định của pháp
luật (a) khơng có việc làm, (b) có khả năng làm việc, (c) đang đi tìm việc làm”.
Xuất phát từ khái niệm thất nghiệp của ILO, pháp luật các nước đã đưa ra khái
niệm người thất nghiệp. Chẳng hạn như:
- Ở Pháp quan niệm: “Người thất nghiệp là người có đủ điều kiện để làm việc nhưng
khơng có việc làm và đang tìm việc”.1
- Luật Bảo hiểm thất nghiệp Cộng hòa Liên bang Đức định nghĩa: “Người thất nghiệp
là người lao động tạm thời khơng có quan hệ lao động hoặc chỉ thực hiện công việc
ngắn hạn” 2.
1

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Báo cáo kết quả nghiên cứu dự án mơ hình chính sách để thực hiện
bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam (1997) Tr 23-24
2
Cộng hòa liên bang Đức, Luật bảo hiểm thất nghiệp (1969), Tr 74


6

- Ở Trung Quốc: “Người thất nghiệp được hiểu là người trong độ tuổi lao động, có sức
lao động, mong muốn có việc làm nhưng khơng có việc, một là lao động ở độ tuổi mới
lớn, hai là sau khi đi làm bị mất việc phải đi tìm việc làm. Bộ phận thứ hai là đối tượng
của bảo hiểm thất nghiệp”.3
Thông qua việc nghiên cứu các khái niệm về thất nghiệp có thể rút ra những đặc
điểm chung của người thất nghiệp bao gồm:

Thứ nhất, là người trong độ tuổi lao động, bởi đây là phạm trù gắn liền với quan
hệ lao động, cơ sở để xác định thất nghiệp. Mỗi nước có quy định riêng về độ tuổi lao
động, vì vậy việc xác định quan hệ lao động ở các nước là khác nhau.
Thứ hai, phải có khả năng lao động. Khả năng này biểu hiện ở thể lực và trí lực
của người tham gia quan hệ lao động. Một người trong độ tuổi lao động nhưng không
thể tham gia lao động vì những lí do sức khỏe khơng đủ như ốm đau, bệnh tật… ngoài
ý muốn chủ quan của người lao động, hay không muốn làm việc trong khi đủ khả năng
làm việc thì khơng được xem là người thất nghiệp.
Thứ ba, phải mong muốn được làm việc và sẵn sàng làm việc ở mức lương hiện
hành phù hợp với giá trị hàng hóa sức lao động của người lao động cụ thể. Do vậy mà
sẽ không được coi là người thất nghiệp khi người đó khơng chấp nhận làm việc chỉ bởi
vì mức lương hiện tại ở địa phương quá thấp so với yêu cầu của mình, hay người lao
động địi mức lương trả cho người có trình độ tay nghề, trình độ học vấn cao hơn trình
độ của mình.
Thứ tư, phải khơng có việc làm đem lại thu nhập, có thể do mất việc làm, do
chưa tìm được việc hay do khơng có khả năng tự tạo việc làm.
Ở Việt Nam, thất nghiệp là vấn đề mới nảy sinh trong thời kì chuyển đổi nền
kinh tế từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Trong thời kì
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, nhà nước là người có trách nhiệm giải quyết việc
làm cho người lao động thông qua phương thức tuyển dụng vào biên chế suốt đời trong
khu vực nhà nước. Quan hệ lao động ở đây diễn ra chủ yếu là giữa nhà nước và người
lao động và được phân phối theo chỉ tiêu đã được duyệt 4. Theo đó tất cả những người
có khả năng lao động đều được nhà nước sắp xếp việc làm và trong thời gian chờ bố trí
cơng việc họ vẫn có ăn có mặc. Do đó, trong giai đoạn này khơng có vấn đề “thất
nghiệp” mà chỉ có “sức lao động mới gia tăng”, “chưa tìm được việc làm” hay “đang
chờ việc”. Mặc dù về bản chất các khái niệm này đều có nội hàm chỉ sự tồn tại của một
bộ phận người trong tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng khơng có việc làm.
3

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam và Hoa Kỳ hợp tác, Tài liệu tham khảo dự án đào tạo về

bảo hiểm
4
Lê Thị Hoài Thu, Sự cần thiết xây dựng chế độ trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí nhà nước và pháp
luật , 3/2000, Số 143 Tr 55


7

Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị
trường gắn liền với sự hình thành thị trường lao động _ coi sức lao động là hàng hóa và
có thể mua bán theo giá cả của nó trên thị trường. Quan hệ lao động từ chỗ được điều
chỉnh bằng các quyết định hành chính được chuyển sang điều chỉnh theo cơ chế hợp
đồng trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật.
Dưới tác động của quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu tất yếu sẽ tồn tại một bộ phận
người lao động đang có việc làm bỗng dưng mất việc, một bộ phận mới gia nhập lực
lượng lao động khơng tìm được việc làm, một bộ phận “người yếu thế” trong cạnh
tranh nên khơng có việc làm.
Ở nước ta khái niệm về thất nghiệp được đề cập trong một số tài liệu:
Trong Kỷ yếu hội thảo khoa học 1988 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội về nguồn lao động và việc làm đưa ra khái niệm: “thất nghiệp là hiện tượng mà
người có sức lao động muốn đi tìm việc làm và đã đăng kí với cơ quan có thẩm quyền
nhưng vẫn chưa có việc làm”. Khái niệm này vừa rộng lại vừa hẹp, rộng vì thất nghiệp
sẽ bao gồm cả những người mới tốt nghiệp ở các trường chuyên nghiệp, chưa qua quá
trình làm việc, chưa có việc làm; hẹp ở chỗ, nếu thiếu một trong những yếu tố trên sẽ
không được coi là thất nghiệp, chẳng hạn như yếu tố chưa đăng ký với cơ quan có thẩm
quyển. Như vậy con số thất nghiệp ở nước ta sẽ rất ít.
Sách hướng dẫn nghiệp vụ về chỉ tiêu xã hội ở Việt Nam do Tổng cục thống kê
xuất bản 1995 viết: “người thất nghiệp là người trong khoảng thời gian xác định thuộc
các diện sau: khơng có việc làm, sẵn sàng làm việc và đang tìm việc”.
Tại Điều 3, Khoản 4 Luật Bảo hiểm xã hội có quy định, người thất nghiệp là

người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao
động, hợp đồng làm việc nhưng chưa tìm được việc làm. Như vậy, theo luật thì người
thất nghiệp phải có thêm điều kiện là “đang đóng bảo hiểm thất nghiệp”.
Trên thực tế, những người được coi là thất nghiệp ở nước ta bao gồm:
- Người lao động đang làm việc bị mất việc làm vì lí do như: doanh nghiệp phá sản,
giải thể, dơi dư do doanh nghiệp sắp xếp lại; bị chấm dứt hợp đồng lao động, bị sa thải;
- Người mới đến tuổi lao động, học sinh, sinh viên mới tốt nghiệp hoặc thơi học, bỏ
học chưa tìm được việc làm;
- Bộ đội xuất ngũ, thanh niên xung phong hết nghĩa vụ, lao động xuất khẩu về nước
chưa có việc làm;
- Đối tượng trong tuổi lao động sau thời gian quản giáo, chữa trị bệnh đang có nhu cầu
tìm việc làm;


8

- Những người phải nghỉ việc tạm thời khơng có thu nhập do tính thời vụ của sản xuất;5
Việc nghiên cứu khái niệm thất nghiệp, xác định như thế nào là người thất
nghiệp có ý nghĩa trong việc xác định phạm vi, đối tượng được điều chỉnh bởi chính
sách bảo hiểm thất nghiệp sẽ là cơ sở để xem xét hưởng bảo hiểm thất nghiệp bởi vì
khơng phải tất cả những người thất nghiệp trên thực tế đều được hưởng trợ cấp thất
nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội.
1.1.2. Ảnh hƣởng của thất nghiệp đến đời sống kinh tế - xã hội
Nghiên cứu ảnh hưởng của thất nghiệp đến đời sống kinh tế - xã hội là tìm hiểu
những hậu quả mà vấn đề thất nghiệp gây ra cho nền kinh tế và đời sống xã hội của
quốc gia, qua đó thấy được tính cấp thiết của những chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong
việc khắc phục hậu quả của thất nghiệp như thế nào.
1.1.2.1. Xét về mặt kinh tế
 Đối với nền kinh tế
Tỷ lệ thất nghiệp cao có nghĩa lực lượng lao động xã hội không được huy động

vào sản xuất kinh doanh tăng lên, cịn có nghĩa sản xuất ít hơn, bỏ phí cơ hội sản xuất
thêm sản phẩm và dịch vụ, giảm tính hiệu quả của sản xuất theo quy mô dẫn đến tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) thấp. Bên cạnh đó, thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm,
hàng hóa và dịch vụ khơng có người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản
phẩm và giá cả tụt giảm. Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao dẫn đến nhu cầu tiêu dùng
ít đi so với khi nhiều việc làm, do đó mà cơ hội đầu tư cũng ít hơn.
Thất nghiệp tăng lên cũng có nghĩa là kinh tế đang suy thoái do tổng thu nhập
quốc gia thực tế thấp hơn tiềm năng, suy thoái do thiếu vốn đầu tư vì vốn ngân sách bị
thu hẹp do thất thu thuế, do phải hỗ trợ cho người lao động mất việc làm. Thất nghiệp
tăng lên cũng là nguyên nhân đẩy nền kinh tế đến bờ vực của lạm phát.
 Đối với nhà nƣớc
Bên cạnh việc bị suy giảm tốc độ phát triển kinh tế, thất nghiệp còn kéo theo sự
gia tăng chi phí từ ngân sách nhà nước và các quỹ xã hội khác cho các chương trình,
chính sách trợ giúp cho người thất nghiệp cũng như các chương trình chống thất nghiệp.
Hơn nữa, nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ thuế giảm do nguồn thu nhập chịu thuế
của người thất nghiệp khơng cịn. Như vậy là trong khi ngân sách quốc gia giảm sút thì
chi phí cho vấn đề thất nghiệp lại tăng dẫn đến thâm hụt ngân sách là điều khó tránh
khỏi.
5

Lê Thị Hồi Thu, Sự cần thiết xây dựng chế độ trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Nhà Nước và Pháp
luật 3/2000, số 143, Tr 56.


9

 Đối với ngƣời lao động
Người lao động bị thất nghiệp tức mất việc làm sẽ bị mất nguồn thu nhập khơng
có khả năng chi trả, mua sắm vật dụng thiết yếu cũng như các hàng hóa tiêu dùng.
Khi khơng có việc làm, người lao động có thể phải chọn cơng việc khơng phù

hợp với trình độ, năng lực dẫn đến gây ra tình trạng làm việc dưới khả năng. Trong khi
đó, giới chủ lại lợi dụng tình trạng thất nghiệp gây sức ép với những người làm cơng
cho mình như không cải thiện môi trường làm việc, áp đặt năng suất cao, trả lương thấp,
hạn chế cơ hội thăng tiến. Cuối cùng, tình trạng thất nghiệp sẽ khiến cán cân đàm phán
nghiêng về giới chủ, tăng chi phí khi rời cơng việc và giảm các lợi ích của việc tìm cơ
hội thu nhập khác của người lao động.
1.1.2.2. Xét về mặt xã hội
Thất nghiệp gây ra những hậu quả nặng nề mà không một giá trị vật chất nào có
thể đo lường được. Đó là những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tinh thần mà người
thất nghiệp và gia đình họ phải gánh chịu. Trong đó, điều khó khăn nhất mà người thất
nghiệp gặp phải là sự chấn thương về tinh thần hơn là thu nhập. Họ sống với tâm trạng
nặng nề như “bị tách khỏi xã hội”, bị coi là người ăn bám, luôn mặc cảm tự ti với bản
thân, gia đình, bạn bè và mọi người xung quanh. Do đó họ dễ bị kích động và rơi vào
trạng thái thiếu tự chủ, suy sụp cả về thể chất lẫn tinh thần.
Thất nghiệp tăng làm trật tự xã hội khơng ổn định; hiện tượng bãi cơng, biểu
tình đòi quyền làm việc, quyền sống tăng lên; các tệ nạn xã hội cũng phát sinh nhiều
lên như trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút, mại dâm v.v.. Sự ủng hộ của người lao động đối
với nhà cầm quyền cũng có thể bị suy giảm. Từ đó có thể có những xáo trộn về xã hội,
thậm chí dẫn đến biến động về chính trị.
Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế - xã hội khó khăn và nan giải của quốc gia có
ảnh hưởng và tác động đến nhiều mặt đời sống kinh tế - xã hội. Giải quyết tình trạng
thất nghiệp không phải “một sớm một chiều”, không chỉ bằng một chính sách hay một
biện pháp mà phải là một hệ thống chính sách đồng bộ, phải ln coi trọng trong suốt
quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Bởi lẽ thất nghiệp luôn tồn tại trong nền kinh tế thị
trường và tăng theo chu kì phát triển của nền kinh tế thị trường.
Trong hàng loạt các chính sách và biện pháp khắc phục tình trạng thất nghiệp,
Bảo hiểm thất nghiệp có vị trí rất quan trọng. Bảo hiểm thất nghiệp không chỉ bù đắp
một phần thu nhập bị mất cho người lao động bị thất nghiệp mà còn đưa người lao
động trở lại với thị trường lao động thông qua các chế độ hỗ trợ của mình, qua đó giúp
ổn định kinh tế - xã hội, điều mà các biện pháp khác không làm được.

1.2. Những vấn đề chung về bảo hiểm thất nghiệp


10

1.2.1. Sự hình thành bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1.1. Cơ sở lí luận xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Nếu như con người là trung tâm của vũ trụ thì có thể nói người lao động là trung
tâm của nền kinh tế. Trong bất kì nền kinh tế nào cũng vậy, nếu khơng có người lao
động thì sẽ khơng có sức lao động để tạo ra sản phẩm hàng hóa để trao đổi, lưu thơng
trong nền kinh tế. Vì vậy, bảo vệ người lao động là một trong những chính sách để bảo
vệ nền kinh tế phát triển ổn định.
Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động cũng là một loại hàng hóa nhưng là
một loại hàng hóa đặc biệt. Người lao động đã dùng loại hàng hóa này để trao đổi với
người sử dụng lao động, và giá trị của loại hàng hóa đó có thể bằng, ít hơn hoặc lớn
hơn sức lao động mà người lao động bỏ ra. Nó phụ thuộc vào sự tác động của quy luật
cạnh tranh, quy luật cung cầu. Khi cầu về lao động lớn hơn cung về lao động tức là nhu
cầu về lao động của xã hội đông nhưng khả năng đáp ứng lại ít, dẫn đến nguời lao động
có nhiều cơ hội lựa chọn công việc tốt nhất và giá thành cao nhất. Ngược lại, khi cung
lớn hơn cầu tức là nhu cầu về lao động ít nhưng khả năng cung ứng lại nhiều, dẫn đến
người sử dụng lao động có nhiều cơ hội lựa chọn lao động tốt nhất mà giá thành rẻ nhất.
Khả năng nhiều người lao động khơng có việc làm, dẫn đến tình trạng thất nghiệp là
điều không tránh khỏi. Hiện tượng này luôn luôn xảy ra trong nền kinh tế của tất cả các
quốc gia, là rủi ro nằm ngồi ý chí của người lao động.
Người lao động bị mất việc, khơng có thu nhập nhưng họ vẫn cần phải duy trì
cuộc sống cho bản thân và gia đình. Vấn đề đặt ra là phải làm sao đảm bảo thu nhập để
duy trì cuộc sống của người lao động và gia đình họ khi họ bị rơi vào tình trạng thất
nghiệp. Một trong những quyền cơ bản của con người nói chung, người lao động nói
riêng được ghi nhận trong Tun ngơn nhân quyền, ngày10 tháng 12 năm 1948, đó là:
“Mỗi người có quyền có một mức sống cần thiết cho việc giữ gìn sức khỏe cho bản

thân và gia đình; quyền làm việc; quyền tự do chọn nghề; được có những điều kiện làm
việc thuận lợi và chính đáng; và được bảo vệ chống lại thất nghiệp”.
Như vậy, quyền được đảm bảo trong trường hợp thất nghiệp, được bảo vệ
chống lại thất nghiệp là một trong những quyền cơ bản của con người, nó khơng những
được quy định trong pháp luật quốc gia mà còn được quy định trong pháp luật quốc tế.
Sự ra đời của chế độ bảo hiểm thất nghiệp đã biến quyền này trở thành hiện thực.
1.2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của bảo hiểm thất nghiệp
Với những ảnh hưởng nghiêm trọng của thất nghiệp đối với đời sống người lao
động nói riêng và sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, mỗi quốc gia đều tìm kiếm


11

những biện pháp thích hợp để giải quyết tình trạng thất nghiệp nhằm bảo vệ người lao
động. Để bảo vệ quyền lợi cho người lao động, bảo đảm an toàn cuộc sống cho họ, cần
có chính sách hỗ trợ cho người lao động thất nghiệp. Một số giải pháp trực tiếp trong
việc thực hiện hỗ trợ thất nghiệp mà các nước trên thế giới thường áp dụng là: đẩy
mạnh môi giới việc làm, tư vấn nghề nghiệp, trợ cấp học nghề, bồi dưỡng nghề nghiệp,
đào tạo lại nghề nghiệp, tạo ra chỗ làm việc mới…
Tuy nhiên, những biện pháp trên không giải quyết được ngay hậu quả bức thiết
nhất mà thất nghiệp gây ra, đó là người lao động bị thất nghiệp trước mắt là họ khơng
có thu nhập để trang trải cuộc sống. Ở các nước công nghiệp phát triển có số thu ngân
sách Nhà nước lớn, Chính phủ đã dành một khoản ngân sách đáng kể hàng năm để chi
cho an sinh xã hội nói chung và giải quyết vấn đề thất nghiệp nói riêng. Nhưng do tình
trạng thất nghiệp ngày càng tăng nên khoản chi này đã gây một áp lực nặng nề đối với
ngân sách Chính phủ. Một giải pháp khác bảo vệ người lao động tránh được những hụt
hẫng về kinh tế khi bị mất việc làm là bù đắp cho họ một khoản thu nhập, bên cạnh đó
cịn hỗ trợ đào tạo nghề và tìm việc làm cho họ nhằm mục đích nhanh chóng đưa họ
quay trở lại thị trường lao động thông qua mơ hình bảo hiểm: Bảo hiểm thất nghiệp.
Từ cuối thế kỷ XIX, bảo hiểm thất nghiệp đã xuất hiện, khởi đầu là nguồn tài

chính của quỹ cơng đồn. Sau đó, nhằm khuyến khích hiệu quả lao động ổn định, bảo
vệ đời sống của công nhân lành nghề, các giới chủ sử dụng lao động đã trích một phần
thu nhập của mình đóng góp vào quỹ chung để tiến hành trợ cấp thất nghiệp tạm thời
hoặc thất nghiệp một phần. Các khoản đóng góp vào quỹ được tính vào giá thành sản
phẩm và người sử dụng hàng hóa phải gánh chịu. Khi thấy rõ vai trò và tác dụng của
trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc đối với công nhân, nhiều cấp chính quyền địa
phương đã tổ chức liên kết các doanh nghiệp, các nghiệp đồn lao động để hình thành
quỹ trợ cấp, thực chất đó là Quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp tự
nguyện đầu tiên được hình thành ở Thụy Sỹ (Bezne) năm 1893, do tính chất tự nguyện
của quỹ này, nên ngồi giới chủ chỉ có những người có cơng việc khơng ổn định mới
tham gia quỹ. Bên cạnh đó ở một số nước, chính quyền địa phương đã bảo vệ người
lao động một cách gián tiếp bằng cách hỗ trợ một số tiền lớn cho các quỹ trợ cấp thất
nghiệp của tư nhân (chủ yếu là hiệp hội thương mại) nhằm tăng thêm nguồn kinh phí
cho việc chi các khoản trợ cấp thất nghiệp của quỹ. Tuy nhiên, việc hình thành quỹ thất
nghiệp dưới phương thức tự nguyện có nhược điểm là các hiệp hội tư nhân khơng đủ
khả năng tài chính để tiến hành trợ cấp cho tất cả các rủi ro thất nghiệp và ln gặp khó
khăn về tài chính khi chỉ có các thành viên tham gia quỹ đóng góp. Đặc biệt, mỗi khi
có khủng khoảng kinh tế xảy ra thì quỹ bị thâm hụt và ảnh hưởng xấu đến hoạt động


12

quỹ. Do vậy, các nhà kinh tế thời bấy giờ đã rút ra được một logic của việc phát triển
trợ cấp thất nghiệp là phải thực hiện bởi Nhà nước và trên quy mơ tồn quốc 6.
Năm 1900 và 1910, Nauy và Đan Mạch ban hành Đạo luật quốc gia về bảo
hiểm thất nghiệp tự nguyện nhưng có sự hỗ trợ về tài chính của Nhà nước.
Năm 1911, Vương quốc Anh ban hành đạo luật đầu tiên về bảo hiểm thất
nghiệp bắt buộc và tiếp sau đó là một số nước khác ở Châu Âu như: Thụy Điển, Cộng
hòa Liên bang Đức.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933) một số nước Châu Âu

và Bắc Mỹ ban hành các Đạo luật về bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp,
chẳng hạn ở Mỹ 1935, Canada 1939.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, đặc biệt là sau khi có Cơng ước số 102
(1952) của ILO thì một loạt nước trên thế giới đã triển khai bảo hiểm thất nghiệp và
trợ cấp thất nghiệp để đối phó với vấn đề thất nghiệp ở nước mình.
1.2.2. Vai trị của bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung
được hình thành do sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ
trợ của Nhà nước nhằm hỗ trợ về mặt thu nhập cho người lao động trong thời gian bị
mất việc làm, tạo điều kiện cho họ tìm kiếm việc làm mới trong thị trường lao động.
Bảo hiểm thất nghiệp là một chế độ thuộc hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội, mang
trong mình ý nghĩa nhân đạo. Bảo hiểm thất nghiệp cùng với các chế độ khác trong hệ
thống bảo hiểm xã hội đã tạo thành mạng lưới an tồn nâng đỡ cuộc sống của người lao
động. Vai trị của bảo hiểm thất nghiệp không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo đời sống
cho cá nhân người thất nghiệp, tạo cơ hội cho họ quay trở lại thị trường lao động, mà
cịn có ý nghĩa quan trọng góp phần ổn định chính trị - xã hội, tạo nên sự phát triển
kinh tế - xã hội bền vững của mỗi quốc gia.
1.2.2.1. Đối với người lao động
Bảo hiểm thất nghiệp có chức năng bảo vệ người lao động, thể hiện ở chỗ khi
người lao động bị rơi vào tình trạng thất nghiệp tức đồng nghĩa với mất nguồn thu
nhập, mất phương tiện sinh sống, thì lúc này bảo hiểm thất nghiệp đóng vai trị như
một cứu cánh về kinh tế, bù đắp một phần thu nhập giúp họ ổn định cuộc sống. Không
chỉ bù đắp thu nhập, bảo hiểm thất nghiệp còn giúp người lao động quay trở lại thị

6

Trịnh Thị Hoa, Những lí luận cơ bản về bảo hiểm thất nghiệp hiện đại, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, 5/2005


13


trường lao động thơng qua các hoạt động: tìm kiếm việc làm, đào tạo nghề, nâng cao
tay nghề v.v..
Bảo hiểm thất nghiệp là công cụ bảo vệ quyền lợi của người lao động một cách
hữu hiệu, bảo hiểm thất nghiệp không chỉ trao cho người lao động “con cá” mà còn
cung cấp cho họ “cần câu” để họ tự xây dựng cuộc sống trong tương lai 7.
1.2.2.2. Đối với người sử dụng lao động
Do có bảo hiểm thất nghiệp nên khi thất nghiệp xảy ra họ không phải tăng thêm
chi phí để trả trợ cấp. Hơn nữa, người lao động khi biết rõ việc được trợ cấp thất nghiệp
sẽ yên tâm làm việc hơn. Điều đó khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nguồn nhân lực
hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định để phát triển sản xuất. Giữa
người lao động và người sử dụng lao động luôn tồn tại những bất đồng về lợi ích.
Người sử dụng lao động ln muốn chi ít hơn để tăng tích lũy tư bản, tái sản xuất mở
rộng. Còn người lao động thì ln muốn được bảo vệ nhiều hơn và khả thi hơn trước
rủi ro. Bảo hiểm thất nghiệp ra đời hài hịa được lợi ích trên trên cơ sở đảm bảo được
quyền lợi của các bên. Qua đó hạn chế mâu thuẫn có thể xảy ra, tạo mơi trường làm
việc ổn định đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2.2.3. Đối với nhà nước
Bất kì một quốc gia nào vào thời gian nào cũng tồn tại một đội quân thất nghiệp
với mức độ và tỷ lệ khác nhau. Thường những thời kỳ suy thoái, khủng hoảng, tỷ lệ
này rất cao, lúc này ngân sách nhà nước vốn đã eo hẹp lại phải chi nhiều cho việc giải
quyết các vấn đề thất nghiệp thì thật là một gánh nặng khủng khiếp, nhờ có bảo hiểm
thất nghiệp mà gánh nặng ngân sách cũng được giảm đi. Mặt khác, khi có bảo hiểm
thất nghiệp, nhà nước khơng phải đối phó với các cuộc biểu tình, bãi cơng, khơng phải
chi nhiều ngân sách để giải quyết tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra. Nói cách khác,
cuộc sống của người dân trong xã hội càng được bảo vệ cao bao nhiêu thì sự ổn định về
kinh tế, chính trị, xã hội càng vững vàng bấy nhiêu.
Như vậy, việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp ngồi vai trị vơ cùng to lớn đối
với cuộc sống mỗi người lao động, sự phát triển của mỗi doanh nghiệp, cịn đóng vai
trị làm cân bằng nền kinh tế, giảm sự căng thẳng xã hội, góp phần ổn định chính trị ở

mỗi quốc gia.
1.2.3. Bản chất của bảo hiểm thất nghiệp

7

Trịnh thị Hoa, Nhũng lí luận cơ bản về Bảo hiểm thất nghiệp hiện đại, Tạp chí Bảo hiểm xã hội 6/2005


14

Tổ chức Lao động quốc tế đưa ra Công ước 102 (1952) nhằm hoàn thiện hệ
thống an sinh xã hội trong đó có bảo hiểm xã hội, khuyến nghị các nước thành viên
phải thực hiện một số chế độ bảo hiểm nhất định. Tại Điều 2 của Công ước quy định:
"ít nhất là 3 phần trong 9 phần của bảo hiểm xã hội, bao gồm ít nhất là một trong các
phần: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
trợ cấp tàn tật, trợ cấp tiền tuất". Như vậy, bảo hiểm thất nghiệp là một trong những
chế độ của bảo hiểm xã hội. Do vậy, bảo hiểm thất nghiệp cũng có những đặc điểm
chung của bảo hiểm xã hội, nhưng bên cạnh đó nó cũng có những đặc điểm riêng khác
với các chế độ khác trong hệ thống.
1.2.3.1. Đặc điểm chung của bảo hiểm thất nghiệp
 Bản chất kinh tế
Có thể khẳng định ngay rằng, bảo hiểm thất nghiệp không nhằm mục đích kinh
doanh, lợi nhuận nhưng lại là cơng cụ thực hiện phân phối lại thu nhập xã hội. Khi gặp
khó khăn, rủi ro, biến cố dẫn đến thu nhập bị mất, thậm chí cịn tăng chi tiêu ngân sách
gia đình, các đối tượng cần đến một lượng tiền hoặc phương tiện nhằm trang trải và bù
đắp cho các tổn thất. Trong trường hợp này, bảo hiểm thất nghiệp với khoản trợ cấp
của mình sẽ là khoản thay thế thu nhập, giúp đối tượng vượt qua khó khăn. Trên phạm
vi tồn xã hội, bản chất kinh tế của bảo hiểm thất nghiệp thể hiện bằng việc thực hiện
chức năng phân phối lại thu nhập xã hội. Sự phân phối này dựa trên nguyên tắc phân
phối theo lao động, đảm bảo công bằng mà ở đó có người được trợ giúp nhiều, người

được trợ giúp ít. Phần hưởng của người thụ hưởng cịn phải được tính tốn trên cơ sở
đóng góp và mức độ của các rủi ro, biến cố v.v..
Như vậy, mặc dù khơng vì mục đích kinh doanh, lợi nhuận nhưng bảo hiểm thất
nghiệp vẫn thể hiện bản chất kinh tế qua chức năng phân phối lại thu nhập của các
thành viên trong xã hội và cơ chế đóng - hưởng, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập,
đời sống của người lao động và gia đình họ ln được bảo đảm trước những bất trắc,
rủi ro xã hội.
 Bản chất xã hội
Bảo hiểm thất nghiệp là sự tập hợp có tổ chức của các thành viên trong xã hội
hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp nhằm chống lại những biến cố, rủi ro, bất hạnh
của mỗi cá nhân. Nhờ sự hợp sức, đoàn kết trên tinh thần tương trợ này mà những rủi
ro, biến cố, khó khăn của các cá nhân sẽ được dàn trải trên phạm vi rộng, giúp họ
nhanh chóng khắc phục khó khăn, hồ nhập cộng đồng. Do có sự “san sẻ rủi ro” của


15

bảo hiểm thất nghiệp, người lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập
của mình cho quỹ bảo hiểm thất nghiệp, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn
trang trải những rủi ro xảy ra. Ở đây, bảo hiểm thất nghiệp đã thực hiện ngun tắc “lấy
của số đơng bù cho số ít”.
Tính kinh tế và tính xã hội của bảo hiểm thất nghiệp khơng tách rời mà đan xen
lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã nói
đến tính xã hội của bảo hiểm thất nghiệp, ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít nhưng
lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của bảo hiểm thất
nghiệp.
1.2.3.2. Đặc điểm riêng của bảo hiểm thất nghiệp
 Bảo hiểm thất nghiệp là một chế độ khó quản lý và dự đốn
Theo kinh nghiệm của nhiều nước thì bảo hiểm thất nghiệp là chế độ khó quản
lý nhất, bởi vì quy mơ và mức độ thất nghiệp khơng thể dự đốn chính xác như các chế

độ bảo hiểm xã hội khác. Dự báo đối tượng của bảo hiểm thất nghiệp khó khăn hơn bởi
có nhiều yếu tố tác động như sự dịch chuyển lao động trong cơ chế thị trường (vì trong
nền kinh tế thị trường quan hệ lao động ngày càng đa dạng, người lao động dưới tác
động của quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu có thể hơm nay có việc làm nhưng
ngày mai bị thất nghiệp là điều không tránh khỏi), do thay đổi cơ cấu sản xuất, thay đổi
công nghệ v.v..
Bên cạnh đó, người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh, việc quản lý quyền lợi của người tham gia bảo hiểm thất nghiệp rất khó. Bởi vì,
đa số người lao động làm việc khơng tập trung, có tính ln chuyển (do các doanh
nghiệp thiếu tính bền vững, ổn định hoặc do người lao động, nhất là lao động nhập cư
thường hay thay đổi nơi cư trú). Ở những doanh nghiệp vừa và nhỏ, ý thức chấp hành
pháp luật của chủ sử dụng lao động còn hạn chế. Hơn nữa, bộ máy quản lý bảo hiểm
thất nghiệp với số lượng người hạn chế không thể bao quát hết đến các doanh nghiệp
này, dẫn đến thực tế có nhiều người đã tìm được việc làm, có thu nhập nhưng vẫn được
nhận trợ cấp thất nghiệp. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc xác định tài chính bảo
hiểm, vì một trong những ngun tắc của bảo hiểm là phải cân đối được sự đóng góp
và khoản hưởng. Muốn làm được điều này phải dự đoán được chính xác rủi ro được
bảo hiểm.
 Bảo hiểm thất nghiệp phải gắn với hệ thống đào tạo nghề trung tâm dịch vụ
việc làm và những biện pháp tích cực khác của thị trƣờng lao động


16

Giữa chế độ bảo hiểm thất nghiệp và giải quyết việc làm có mối quan hệ rất chặt
chẽ với nhau. Đó là hai giai đoạn của một q trình, hai mặt của sự thống nhất. Mặc dù
cách thức tổ chức thực hiện của chế độ bảo hiểm thất nghiệp và giải quyết việc làm
khác nhau nhưng đều có một mục tiêu chung là hướng về người lao động, tạo lập an
sinh xã hội thông qua đảm bảo việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Nếu
chế độ bảo hiểm thất nghiệp là việc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động

thông qua các quy định về mức hưởng trợ cấp, thời gian hưởng và quyền của người lao
động trong quá trình bảo hiểm, thì giải quyết việc làm chính là sự tiếp nối của bảo hiểm
thất nghiệp bằng việc đưa người lao động trở lại trị trường lao động nhằm hạn chế và
ngăn ngừa thất nghiệp.
Bên cạnh đó, bảo hiểm thất nghiệp cịn là một trong những căn cứ quan trọng
nhất có ảnh hưởng đến chính sách việc làm của mỗi quốc gia. Dựa vào số lượng người
thất nghiệp, mức đóng góp thất nghiệp, thời gian thụ hưởng pháp luật bảo hiểm thất
nghiệp có thể đưa ra các định hướng về tạo lập việc làm từ việc dạy nghề, tư vấn việc
làm đến việc đưa người lao động trở lại thị trường lao động.
Mặt khác, mối quan hệ giữa chế độ bảo hiểm thất nghiệp và giải quyết việc làm
còn thể hiện ở chỗ, giai đoạn này là điều kiện của giai đoạn khác. Giải quyết tốt việc
làm cho người lao động chính là góp phần giảm thiểu thất nghiệp. Và việc thực hiện
đầy đủ những quy định về bảo hiểm thất nghiệp cũng góp phần phát triển một thị
trường lao động lành mạnh.
Hơn nữa, ngày nay ở các nước phát triển không coi chế độ bảo hiểm thất nghiệp
chỉ là biện pháp giải quyết hậu quả của thất nghiệp một cách thụ động, mà coi bảo
hiểm thất nghiệp như là một trong những chính sách của thị trường lao động tích cực.
Chế độ bảo hiểm thất nghiệp không chỉ đơn thuần việc chi trả trợ cấp thất nghiệp mà
còn thực hiện chức năng thúc đẩy, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, ngăn chặn thất
nghiệp, bảo vệ việc làm, nâng cao năng lực nghề nghiệp và tìm việc làm cho người lao
động. Các hoạt động này gắn liền với thị trường lao động và với các hoạt động tạo việc
làm. Bởi vì, khơng có một chương trình trợ cấp nào có thể đem đến cơ hội tồn tại đầy
đủ và công bằng cho mọi người ngồi thu nhập do chính họ kiếm được từ việc làm. Do
vậy phải kết hợp đồng bộ chính sách bảo hiểm thất nghiệp với những biện pháp và
chính sách việc làm.
 Bảo hiểm thất nghiệp là chế độ ngắn hạn
Công ước số 102 của ILO quy định thời gian trả trợ cấp thất nghiệp ít nhất là 26
tuần trong 12 tháng. Tuy nhiên, ở các nước khác nhau, thời gian trả trợ cấp có quy định
khác nhau. Có nơi thực hiện chi trả trợ cấp theo chế độ bảo hiểm khơng có hạn định, có



17

nơi có hạn định. Nơi nào khống chế thời gian (có hạn định) thì quy định theo hai
hướng: thời gian hưởng trợ cấp tối đa cho mọi người thất nghiệp khơng phân biệt thời
gian làm việc và số tiền đóng góp vào quỹ; thời gian hưởng trợ cấp tối đa trên cơ sở
mức độ đóng góp nhiều hay ít vào quỹ.
Trên cơ sở những quy định trên thông thường, thời gian hưởng bảo hiểm thất
nghiệp ở các nước quy định từ 6 đến 24 tháng phục thuộc vào thời gian đóng bảo hiểm
và độ tuổi của người lao động 8. Do đó, bảo hiểm thất nghiệp được coi là một chế độ
ngắn hạn. Khoảng thời gian từ 6 đến 24 tháng là khoảng thời gian tối đa để người lao
động tìm kiếm việc làm mới, hết thời gian này mà người làm động khơng kiếm được
việc làm thì sẽ bị ngừng trợ cấp thất nghiệp. Mặt khác, khoản trợ cấp thất nghiệp cũng
chỉ đủ đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho người lao động. Vì vậy, việc quy định thời gian
hưởng ngắn hạn có tác dụng thúc đẩy người lao động nhanh chóng tìm việc làm, tránh
tình trạng người lao động ỷ lại trông chờ vào trợ cấp thất nghiệp.
1.2.4. Nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp
1.2.4.1. Bảo hiểm thất nghiệp dựa trên sự đóng góp của người lao động, người sử
dụng lao động để hình thành quỹ bảo hiểm độc lập và tập trung
Việc hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp của các quốc gia tuy khơng hồn tồn
giống nhau nhưng đều tập trung vào hai hoặc ba đối tượng người lao động, người sử
dụng lao động và Nhà nước. Trong đó, người lao động và người sử dụng lao động ln
là đối tượng bắt buộc, vì họ là các bên hình thành quan hệ lao động làm phát sinh tình
trạng thất nghiệp. Riêng đối với Nhà nước, tùy thuộc vào hoàn cảnh điều kiện kinh tế xã hội mà có thể tham gia hỗ trợ hoặc đóng góp bắt buộc vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp
thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý những rủi ro có thể ảnh hưởng đến
mọi mặt đời sống xã hội.
Sự đóng góp trên sẽ tạo ra sự ràng buộc giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi
của các bên tham gia bảo hiểm thất nghiệp, và hình thành nên một quỹ tài chính độc
lập, tập trung và nằm ngồi ngân sách nhà nước để đảm bảo an toàn và chắc chắn cho
quỹ hoạt động, chủ động giải quyết vấn đề thất nghiệp.

1.2.4.2. Bảo hiểm thất nghiệp phải lấy số đông bù số ít
Nguồn quỹ bảo hiểm thất nghiệp được hình thành từ sự đóng góp của số đơng
người tham gia nhưng chỉ những người thỏa mãn điều kiện được trả trợ cấp mới là đối
tượng được hưởng, trong đó có những người mới tham gia, cũng có những người đã
8

Trịnh thị Hoa, Những lí luận cơ bản về bảo hiểm thất nghiệp hiện đại, Tạp chí bảo hiểm xã hội 6/2005


18

tham gia từ lâu; có những người nguy cơ thất nghiệp là rất ít thậm chí là khó mà xảy ra,
cũng có những người nguy cơ thất nghiệp cao. Tuy nhiên, như đã phân tích ở phần bản
chất của bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp mang tính xã hội vì nó có tính chất
tương trợ, chia sẻ rủi ro. Hơn nữa, với sự bình đẳng trong khái niệm hưởng bảo hiểm
thất nghiệp cho nên khơng cịn cách nào khác là lấy kết quả đóng góp của số đơng
người tham gia để bù cho số ít người được hưởng trợ cấp. Có như vậy mới cân đối
được thu chi, đảm bảo an toàn cho quỹ bảo hiểm thất nghiệp và thể hiện được bản chất
của bảo hiểm thất nghiệp.
1.2.4.3. Nguyên tắc cân đối giữa đóng góp và hưởng thụ, nhu cầu thực tế với khả
năng đáp ứng và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
Một trong những vai trò quan trọng của bảo hiểm thất nghiệp là hỗ trợ cuộc
sống cho người lao động khi bị mất thu nhập do thất nghiệp gây ra. Do đó, việc quy
định tỷ lệ hưởng và thời gian hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng phải đảm
bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và được cân đối với mức đóng góp bảo
hiểm thất nghiệp trước đó của người lao động.
Trước hết, mức đóng góp phải phù hợp với khả năng của người lao động và với
yêu cầu đảm bảo tài chính của quỹ bảo hiểm thất nghiệp sao cho không ảnh hưởng
nhiều đến tiêu dùng trước mắt của người lao động, đến giá thành sản xuất, đến khả
năng cân đối thu chi của ngân sách.

Bên cạnh đó, xác định mức hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp một mặt căn cứ
vào khả năng chi trả của quỹ bảo hiểm thất nghiệp, mặt khác cịn khuyến khích người
lao động chủ động tìm kiếm việc làm nhằm thốt khỏi tình trạng thất nghiệp. Nếu quy
định tỷ lệ phần trăm hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp quá thấp, thời gian được
hưởng quá ít sẽ làm mất ý nghĩa của bảo hiểm thất nghiệp. Nếu quy định mức trợ cấp
bảo hiểm thất nghiệp quá cao thời gian hưởng trợ cấp kéo dài sẽ dẫn đến khó cân đối
tài chính giữa thu và chi bảo hiểm thất nghiệp, dễ gây tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự trợ
giúp của bảo hiểm thất nghiệp, chấp nhận tình trạng thất nghiệp để hưởng trợ cấp mà
khơng tiếp tục tìm việc làm. Để hạn chế tình trạng này khi xây dựng mức trợ cấp thất
nghiệp phải đảm bảo những điều kiện nhất định sau:
- Mức trợ cấp phải đảm bảo mức sống tối thiểu của người lao động;
- Mức trợ cấp phải nhỏ hơn tiền lương hoặc tiền công khi đang làm việc của người lao
động một cách hợp lý;
- Mức trợ cấp phải dựa trên cơ sở sự đóng góp và thời gian đóng góp;
- Mức trợ cấp phải phản ánh được nghĩa vụ trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham
gia bảo hiểm.


19

Bên cạnh đó, mỗi quốc gia phải căn cứ vào tình hình thực tế của nền kinh tế xã
hội mà quy định mức đóng góp và thời hạn hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho
hợp lý, phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế.
1.2.4.4. Nguyên tắc công bằng trong bảo hiểm thất nghiệp
Người lao động khi tham gia vào quan hệ bảo hiểm thất nghiệp, tùy thuộc vào
thời gian đóng góp và mức đóng mà có mức trợ cấp thất nghiệp không giống nhau. Để
đảm bảo công bằng trong việc chi trả chế độ, bảo hiểm thất nghiệp không ưu tiên hay
phân biệt đối xử với bất kỳ người tham gia bảo hiểm nào, bất kể người tham gia đó
thuộc loại hình hoặc thành phần kinh tế nào. Sự cơng bằng cịn thể hiện trong các quy
định thống nhất về quan hệ đóng góp và thụ hưởng. Qua đó khuyến khích người lao

động tham gia bảo hiểm thất nghiệp một cách tích cực và đầy đủ hơn.
1.3. Cơ sở xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở iệt Nam
1.3.1. Tính cấp thiết của việc ban hành chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở iệt Nam
Do cơ cấu dân số trẻ nên lực lượng lao động ở nước ta khá dồi dào, mỗi năm có
khoảng 1,2 đến 1,3 triệu người bước vào độ tuổi lao động (nam từ 15 – 60 tuổi, nữ từ
15 – 55 tuổi) cần có việc làm nhưng khả năng thu hút lao động của nền kinh tế lại có
hạn. Cùng với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi công nghệ, công cuộc đổi mới
được tiến hành theo chiều sâu sẽ có những thay đổi to lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội, gây sức ép lên thị trường lao động. Nền kinh tế thị trường bên cạnh mặt tích cực
cũng có những mặt trái của nó. Mặt trái của nền kinh tế thị trường ở nước ta cũng bộc
lộ rõ, đó là vấn đề việc làm và tình trạng thất nghiệp. Khi tỷ lệ thất nghiệp trong giới
hạn cho phép sẽ tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh về lao động, thúc đẩy quan hệ lao động
phát triển theo hướng tích cực tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Ngược lại,
nếu tỷ lệ thất nghiệp vượt q giới hạn cho phép thì nó sẽ trở thành vấn đề xã hội gay
gắt và thuộc đối tượng chính sách xã hội.
Tình hình thất nghiệp trong độ tuổi ở iệt Nam (

9

3 - 2006) 9

Chỉ tiêu

2003

2004

2005

2006


Tổng số người thất nghiệp (1.000 người)

949

926

929

997

Tỷ lệ thất nghiệp (%)

2,25

2,14

2,14

2,19

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Kết quả điều tra lao động việc làm 2003, 2004, 2005, 2006


20

Qua đây có thể thấy, tỷ lệ thất nghiệp tính chung cho lực lượng lao động ở nước
ta trong thời gian qua là thấp. Sở dĩ tỷ lệ thất nghiệp tính chung của lực lượng lao động
thấp, là do nước ta có tới khoảng 76% lực lượng lao động làm việc ở nông thôn. Phần
lớn họ là nông dân và các hộ kinh doanh cá thể nhỏ, nên hầu như ít có khả năng xảy ra
thất nghiệp. Cịn lại chỉ có khoảng 17% lao động làm việc trong khu vực làm cơng ăn

lương là có khả năng xảy ra thất nghiệp. Vì vậy chúng ta chỉ xem xét tỷ lệ thất nghiệp ở
thành thị, cịn ở nơng thơn là xem xét đến thời gian lao động chưa được sử dụng.
Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thời gian làm việc đƣợc
sử dụng ở nông thôn của lực lƣợng lao động trong độ tuổi (

-2005) 10

Chỉ tiêu

2002

2003

2004

2005

Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị (%)

6,01

5,78

5,60

5,31

Thời gian sử dụng ở khu vực nông thôn (%)

75,42


77,65

79,10

80,65

Căn cứ kết quả điều tra lao động, việc làm của Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội, chúng ta thấy năm 2005 tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi
ở khu vực thành thị là 5,31% tiếp tục giảm so với các năm trước. Song tình trạng thất
nghiệp hiện nay ở nước ta vẫn có một số vấn đề đáng lưu ý. Nếu nhìn kỹ vào cơ cấu, tỷ
lệ thất nghiệp của lao động ở khu vực thành thị cũng còn nhiều điều cần quan tâm.
Theo mức độ thất nghiệp, số người thất nghiệp dài hạn (từ 12 tháng trở lên)
chiếm 56,7%, từ 6 đến dưới 12 tháng chiếm 21,4%, cộng hai loại này đã chiếm 78,1%;
còn từ 1 đến dưới 6 tháng chiếm 18,2% và dưới 1 tháng chỉ chiếm 3,7% 11.
Theo nhóm tuổi, ở nhóm tuổi càng trẻ thì tỷ lệ thất nghiệp càng cao: nhóm 1519 tuổi tỷ lệ thất nghiệp lên đến 13,9%, nhóm 20-24 tuổi 13,8%, nhóm 25-29 tuổi
7,2%, nhóm 30-34 tuổi 5,2%, nhóm 35-39 tuổi 4%, nhóm 40-44 tuổi 3,9%...12
Theo trình độ chun mơn, thất nghiệp khơng chỉ có ở lực lượng lao động chưa
qua đào tạo (8%), mà cịn ở các nhóm lao động đã qua đào tạo, như qua đào tạo nghề
1,8%, đã tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp 4,4%, đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học
3,8%. Trong tổng số lao động thất nghiệp ở thành thị, số người chưa tìm được việc làm
sau khi thôi học hoặc tốt nghiệp các cơ sở đào tạo chiếm tới 73,7% 13.
Thực tế trên là rất đáng lo ngại, những người thất nghiệp phần lớn đều là những
cịn trẻ tuổi, có sức khỏe, có trình độ học vấn, tay nghề, họ sẽ là lực lượng đóng vai trị
10

Tổng cục thống kê, Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở thành thị phân theo vùng, Tỷ
lệ thời gian làm việc được sử dụng của lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn phân theo vùng.
11
Http://www.vnecon.com/showthread.php?t=5011

12
Http://www.vnecon.com/showthread.php?t=5011
13
Http://www.vnecon.com/showthread.php?t=5011


21

chủ đạo trong tiến trình phát triển kinh tế đất nước nhưng lại khơng có cơ hội để phát
huy năng lực của mình.
Ngồi ra, dựa trên bảng số liệu có thể suy ra tỷ lệ thời gian lao động ở khu vực
nông thôn chưa được sử dụng đã giảm từ 24,58% năm 2002 xuống còn 19,35% năm
2005. Nhưng, do tỷ trọng lực lượng lao động ở nông thôn lớn, nên nếu quy số thời gian
chưa được sử dụng trên ra số người thất nghiệp, thì tỷ lệ số người chưa có việc làm của
cả nước lên đến khoảng 15% 14. Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với nền kinh tế đang
suy thoái và trật tự xã hội mất ổn định. Vì vậy, giải quyết lao động thất nghiệp đang là
vấn đề bức xúc hiện nay ở nước ta.
Trong khi chưa có chế độ trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp, để che chắn cho người
lao động và giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống, Bộ luật lao động ban hành 1994
(sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007 sau đây gọi chung là Bộ luật lao động) quy
định có hai loại trợ cấp đó là: trợ cấp thơi việc và trợ cấp mất việc làm. Trong đó, trợ
cấp mất việc làm được trả cho người lao động đã làm việc đủ 12 tháng trở lên bị thôi
việc trong trường hợp doanh nghiệp có sự thay đổi về cơ cấu hoặc công nghệ; về quy
mô sản xuất, sáp nhập, chia tách doanh nghiệp. Mức trợ cấp được tính mỗi năm làm
việc bằng 1 tháng lương nhưng thấp nhất cũng bằng 2 tháng lương (Điều 17, Điều 31
Bộ luật lao động). Cịn trợ cấp thơi việc được trả cho người lao động cũng đã làm việc
đủ 12 tháng trở lên khi chấm dứt hợp đồng lao động. Mức trợ cấp được tính mỗi năm
làm việc bằng 1/2 tháng lương (Điều 42 Bộ luật lao động). Những khoản trợ cấp đó tuy
ít nhưng đã giúp người lao động khắc phục được một phần khó khăn khi khơng có việc
làm và đang trong thời gian tìm kiếm việc làm mới. Nhưng các chế độ này chưa đáp

ứng được nhu cầu chung của nền kinh tế thị trường, còn mang nặng dấu ấn của thời kỳ
bao cấp, nên bất lợi cho cả người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Đó
là:
Thứ nhất, khi có nhiều người thơi việc, mất việc thường là lúc doanh nghiệp gặp
khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, nên việc chi một khoản lớn trả trợ cấp cho một số
đông người lao động là gánh nặng cho doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp khơng có
khả năng chi trả. Do vậy dẫn đến tình trạng doanh nghiệp khơng chịu trả hoặc trả rất
nhỏ giọt.
Thứ hai, khi người lao động bị mất việc, họ khơng cịn khoản thu nhập nào khác
ngồi việc trơng chờ vào khoản tiền trợ cấp thơi việc, mất việc. Trong khi đó doanh
nghiệp lại dây dưa khơng trả hoặc trả rất nhỏ giọt thì đời sống của người lao động sẽ rất
khó khăn. Mặt khác, khoản trợ cấp này không nhiều, người lao động thiếu vốn lại phải
14

Http://www.vnecon.com/showthread.php?t=5011


22

tự mình tìm kiếm việc làm, khơng được giúp đỡ học nghề nên cơ may tìm việc làm rất
thấp.
Thứ ba, khi doanh nghiệp gặp khó khăn khơng có tiền để trả trợ cấp cho người
lao động, lúc này mặc dù ngân sách có khó khăn nhưng nhà nước vẫn phải đứng ra
gánh vác nguồn kinh phí trợ cấp thơi việc cho các doanh nghiệp quốc doanh.
Bảo hiểm thất nghiệp khắc phục được những hạn chế của chế độ trợ cấp thôi
việc, trợ cấp mất việc làm. Với bản chất xã hội nhằm chia sẻ rủi ro giữa những người
lao động dựa trên quy luật “lấy số đơng bù số ít”, bảo hiểm thất nghiệp nắm giữ một
nguồn tài chính đủ lớn không chỉ để bảo vệ người lao động và nguời sử dụng lao động
mà còn ổn định được kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy cần phải xây dựng chế độ
bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam để bảo vệ quyền lợi của người lao động, người sử

dụng lao động và nhà nước.
Ở nước ta trong thời kỳ hội nhập kinh tế toàn cầu, doanh nghiệp nhà nước ln
bị áp lực tài chính do có số lao động dôi dư để lại từ trước khá cao và do tay nghề của
lao động thấp hơn so với nhu cầu hiện tại của trị trường. Bên cạnh đó, tâm lý của người
đi làm đều muốn có cơng ăn việc làm ổn định và được hưởng các phúc lợi xã hội. Khi
chưa có chính sách bảo hiểm thất nghiệp, người lao động ln có xu hướng tìm cơ hội
làm việc trong các cơ quan công quyền hay các doanh nghiệp nhà nước vì nó có tính
ổn định, người lao động tránh được rủi ro có thể bị thất nghiệp khi làm việc bên ngồi.
Vì vậy làm cho số lao động trong lĩnh vực nhà nước không những không giảm mà cịn
có cơ hội tăng lên, gánh nặng lên ngân sách nhà nước càng lớn.
Hơn nữa, kinh nghiệm giải quyết vấn đề lao động dôi dư trong khu vực nhà
nước cho chúng ta thấy ngồi giải pháp tình thế là trợ cấp thôi việc và trợ cấp mất việc
làm, đối với người lao động mất việc làm trong các doanh nghiệp quốc doanh, nhà
nước còn dành một khoản tiền lớn trong ngân sách để cho vay hỗ trợ việc làm với lãi
suất ưu đãi. Có một con số thống kê đáng quan tâm là từ tháng 4/2002 đến 2006 Ngân
sách nhà nước đã chi ra 6.080 tỉ đồng cho mục tiêu sắp xếp lại lao động dôi dư trong
các doanh nghiệp nhà nước (tức là âm 80 tỉ so với dự toán ngân sách) nhưng kết quả
vẫn chưa tạo ra được nhiều chuyển biến cơ bản 15. Do khơng có chế độ bảo hiểm thất
nghiệp nên khi vấn đề nảy sinh thì chỉ có ngân sách nhà nước chi ra, khơng khai thác
được nguồn lực do “tiết kiệm và tích lũy dần” của người lao động khi có việc làm và
nguời sử dụng lao động khi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi 16 .

15

Http://inside.vtv.vn./VN/TrangChu/TinTuc/CKX/2006/5/1/26833
Nguyễn Năng Khánh, Pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp – Sự cần thiết khách quan, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp số 9, 10/2001, Tr 3.
16



×