Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở việt nam thực trạng và giải pháp hoàn thiện từ việc so sánh với pháp luật của một số nước điển hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (933.85 KB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƢƠNG MẠI

QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN TỪ VIỆC SO SÁNH VỚI PHÁP
LUẬT CỦA MỘT SỐ NƢỚC ĐIỂN HÌNH

Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THỊ QUỲNH NHƯ
Mã số sinh viên:

0955010162

Lớp:

CLC34

Giáo viên hướng dẫn: TS. HÀ THỊ THANH BÌNH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2013


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
HỆ CHÍNH QUY
KHĨA 34 (KHĨA HỌC 2009 - 2013)

QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN TỪ VIỆC SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT
CỦA MỘT SỐ NƢỚC ĐIỂN HÌNH

Sinh viên thực hiện : NGUYỄN THỊ QUỲNH NHƯ
Mã số sinh viên

: 0955010162

Lớp

: CLC34

Giáo viên hướng dẫn : TS. HÀ THỊ THANH BÌNH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở
Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện từ việc so sánh với pháp luật của
một số nước điển hình”là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Tồn bộ nội dung
trình bày là kết quả do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ
Hà Thị Thanh Bình. Việc sử dụng kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học

và luận điểm của các tác giả khác trong luận văn này đều được giữ nguyên ý tưởng
hoặc trích dẫn phù hợp theo quy định. Tơi xin chịu trách nhiệm hồn tồn về lời
cam đoan này.
TP. Hồ Chí Minh ngày 12 tháng 7 năm 2013
Người cam đoan

Nguyễn Thị Quỳnh Như


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƢỚC ĐIỂN HÌNH
1.1. Khái quát về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh...................... .4
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của quảng cáo ............................................ 4
1.1.1.1. Khái niệm quảng cáo ........................................................................ .4
1.1.1.2. Đặc điểm của quảng cáo .................................................................... 8
1.1.1.3. Vai trò của quảng cáo ........................................................................ .9
1.1.2. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh.. ...................................... 10
1.1.3. Khái niệm và đặc trưng của hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh .................................................................................................................. 15
1.2. Pháp luật của một số nƣớc điển hình về quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh ................................................................................................................ 17
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh bằng pháp luật......................................................................................... 17
1.2.2. Qui định của pháp luật Liên minh Châu Âu… ............................................ 19
1.2.3. Qui định của pháp luật Hoa Kỳ .............................................................. …24
1.2.4. Qui định của pháp luật Nhật Bản ............................................................... 28
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUẢNG CÁO

NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG HÀNH VI
QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
2.1. Thực trạng pháp luật điều chỉnh quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh ở Việt Nam .................................................................................................... 30
2.1.1. Về quảng cáo so sánh ................................................................................. .32
2.1.2. Về quảng cáo bắt chước. ............................................................................. 37
2.1.3. Về quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hang. .... 39
2.1.4. Về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh khác ............... .45


2.1.5. Qui định về chế tài xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh ......................................................................................................................... .47
2.1.5.1. Chế tài hành chính ............................................................................ 47
2.1.5.2. Chế tài dân sự ................................................................................... 47
2.1.5.3. Chế tài hình sự .................................................................................. 48
2.2 Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật chống hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh tại Việt Nam ................................................................... 49
KẾT LUẬN


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản, là nền tảng
và động lực phát triển của nền kinh tế. Ở Việt Nam trong thời gian qua, cùng với
chính sách đổi mới, mọi thành phần kinh tế được khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi để tham gia kinh doanh trên thị trường. Từ đó, cạnh tranh ngày càng trở
nên mạnh mẽ trong mỗi ngành, mỗi lĩnh vực của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế. Tuy nhiên cùng với sự gia tăng mức độ cạnh tranh, đã xuất hiện
những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, gây khó khăn cho hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp, và quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là một
trong số những hành vi đó.
Quảng cáo là một vấn đề cần được quan tâm trong giai đoạn nền kinh tế thị
trường ngày càng phát triển vì hành vi quảng cáo không đơn giản chỉ là hành vi
quảng bá cho sản phẩm hay doanh nghiệp mà còn là sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động kinh doanh. Bởi vậy, những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo có ảnh hưởngxấu đến người
tiêu dùng, các doanh nghiệp cạnh tranh và cả với nền kinh tế cho nên rất cần phải có
sự điều chỉnh của pháp luật. Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
ở Việt Nam hiện nay được điều chỉnh vởi các văn bản sau: Luật Cạnh tranh 2004,
Luật Quảng cáo 2012, Luật Thương mại 2005 và trong một số văn bản dưới luật
khác. Mặc dù đã có nhiều quy định điều chỉnh hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh, quy định pháp luật hiện hành còn tồn tại những hạn chế nhất định
và khi áp dụng trong thực tiễn cịn có nhiều bất cập.
Xuất phát từ mục đích muốn tìm hiểu về những quy định của pháp luật nước
ta về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh và thực trạng của những
hành vi này trên thực tế cũng như mong muốn đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật nước ta về mảng pháp luật này thông qua việc so sánh với pháp luật
của một số nước tiến bộ trên thế giới, tác giả đã chọn đề tài cho khóa luận cử nhân
của mình là: “Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam – Thực
trạng và giải pháp hoàn thiện từ việc so sánh với pháp luật của một số nước điển
hình”.
2. Mục đích của đề tài
Khóa luận nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực
tiễn về các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở nước ta hiện
nay. Một số quy định của pháp luật các nước tiến bộ như Hoa Kỳ, Liên minh Châu
Âu, Nhật Bản cũng được tác giả phân tích để so sánh với pháp luật Việt Nam và đề
1



xuất những quy định nhà làm luật nước ta nên học tập. Đặc biệt, trong khóa luận tác
giả tập trung sâu vào phần thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật ở Việt
Nam, từ đó nhận xét về những bất cập, vướng mắc của việc thực thi một số quy
định trên thực tế và đưa ra những kiến nghị góp phần đảm bảo mơi trường cạnh
tranh lành mạnh cho hoạt động quảng cáo tại Việt Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp và người tiêu dùng.
3.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những đặc trưng của quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh; những quy định của pháp luật trong và ngoài nước về
hành vi này; thực trạng và những bất cập, vướng mắc của việc áp dụng những quy
định này trên thực tế, từ đó nêu lên một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật về
quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh ở nước ta.
 Phạm vi nghiên cứu
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là một vấn đề rất lớn và phức
tạp mà trong khuổn khổ của một khóa luận cử nhân Luật khơng thể giải quyết một
cách tồn diện và thấu đáo. Vì vậy, khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu các quy
phạm pháp luật điều chỉnh hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
thông qua việc phân tích, làm rõ những quy định được đề cập trong Luật Cạnh tranh
2005. Một số văn bản pháp lý khác có liên quan như Luật Thương mại 2005, Luật
Quảng cáo 2012 cũng được đề cập nhưng không đi vào nghiên cứu sâu mà chỉ phác
thảo thêm cho đầy đủ về các hành vi quảng cáo được các nhà làm luật quy định.
Bên cạnh đó, khóa luận cũng nghiên cứu một sốquy định trong các văn bản pháp
luật và án lệ của một số quốc gia như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản về
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh. Tính mới của luận văn này so
với các luận văn đã bảo vệ là tác giả tập trung vào mảng so sánh với pháp luật nước
ngoài và thực tiễn về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong quảng cáo ở
nước ta.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận này được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Khóa luận sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Theo đó, kết
hợp chặt chẽ phương pháp so sánh, phân tích, đối chiếu, tổng hợp, thống kê…, đặc
biệt phương pháp so sánh được chú ý sử dụng nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn quy định pháp luật khác biệt giữa Việt Nam và một số quốc gia trên thế
giới, qua đó làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
2


5. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm ba phần: lời nói đầu, nội dung và kết luận. Trong đó, phần nội
dung được kết cấu gồm 2 chương:
Chƣơng 1. Khái quát về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh và
pháp luật của một số nước điển hình.
Ở chương này tác giả nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, vai trò của quảng
cáo; khái niệm và đặc trưng của hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành
mạnh. Sau đó tác giả nêu lên sự cần thiết phải điều chỉnh hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh bằng pháp luật và các quy định của pháp luật Liên
minh Châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản trong tương quan so sánh với pháp luật Việt
Nam.
Chƣơng 2. Thực trạng pháp luật điều chỉnh quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
chống hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Trong chương này, tác giả nêu lên thực trạng pháp luật điều chỉnh quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam về các hành vi: quảng cáo so sánh,
quảng cáo bắt chước, quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho
khách hàng, các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh khác, ngồi
ra cịn thể hiện các quy định về chế tài xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh. Cuối cùng, tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật chống hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.


3


CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH VÀ PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƢỚC ĐIỂN HÌNH
1.1. Khái quát về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của quảng cáo
1.1.1.1. Khái niệm quảng cáo
Theo các nghiên cứu khảo cổ của các nhà khoa học trên thế giới, quảng cáo
đã có từ lâu đời. Từ phương Tây sang phương Đơng, từ châu lục này qua châu lục
khác đều có dấu hiệu của quảng cáo dù ở dạng thô sơ nhất. Theo Từ Điển Bách
Khoa Vương Quốc Anh (Encyclopedia Britanica), 1000 năm trước Công Nguyên, ở
vùng đồng bằng Mesopotamia khu vực Lưỡng Hà đã có bảng quảng cáo bằng đất
nung đặt tiền thưởng cho ai tìm được một nơ lệ bỏ trốn1. ỞChâu Á, Trung Hoa
dường như đã biết đến quảng cáo từ thời Tây Chu ( thế kỷ 11 đến 771 trước Công
Nguyên) qua những hội chợ đầu tiên (Hong Cheng, trong Jones, J.Ph, 2000)2. Địa
Trung Hải cũng là khu vực được phát hiện có dấu hiệu của những thơng tin quảng
cáo từ rất sớm. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra những dấu hiệu của những thông
báo về các sự kiện, các lời chào bán hàng vẽ lên tường, các bức tranh ca ngợi hàng
hóa vẽ lên các tảng đá lớn dọc phố, các bài hát quảng cáo… ở các quốc gia bên bờ
Địa Trung Hải3.Với những phát hiện như vậy, có thể thấy từ xa xưa con người đã
biết ca ngợi và khuếch trương những sản phẩm của mình với mong muốn đơng đảo
mọi người biết đến thơng tin, hàng hóa…từ đó có thể đem lại một khoản lợi nhất
định cho người quảng cáo. Quảng cáo lúc đó tuy cịn đơn giản nhưng đã xuất hiện ở
khắp nơi đến nỗi tính phổ qt của nó đã được nhà quảng cáo Pháp Robert Guérin
thậm xưng: “Khí trời gồm có dưỡng khí, khí nitơ và…quảng cáo”4. Người ta cịn ví
quảng cáo như “luồng gió thổi cho máy xay gió kinh tế chạy được” hoặc văn vẻ hơn
là “đóa hoa của thời đại”.5

Xuất hiện từ xa xưa với hình thức cịn thơ sơ, qua bao nhiêu thời gian, xun
suốt khắp các hình thái xã hội, quảng cáo đã dần hồn thiện với nhiều hình thức đa
dạng và phong phú hơn, bên cạnh đó đặc trưng của nó cũng dần được hình thành rõ
nét. Cho đến ngày nay ngành cơng nghiệp quảng cáo đã phát triển vơ cùng mạnh
mẽ, đóng góp rất nhiều vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, thực sự là “luồng gió
1

Đào Hữu Dũng (2004), Quảng cáo truyền hình trong kinh tế thị trường – Phân tích và đánh giá, NXB Đại
học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, tr. 15.
2
Đào Hữu Dũng, tlđd, tr. 15.
3
Đào Hữu Dũng, tlđd, tr. 9.
4
Đào Hữu Dũng, tlđd, tr. 10.
5
Đào Hữu Dũng, tlđd, tr. 10.

4


cho máy xay gió kinh tế chạy được”. Mỹ trở thành quốc gia có ngành cơng nghiệp
quảng cáo phát triển nhất với trên 20 hãng tiêu nhiều tiền quảng cáo nhất, sở hữu
19/25 tập đoàn quảng cáo mạnh nhất thế giới. Năm 1950, chi tiêu quảng cáo ở Mỹ
là 5.780 triệu USD, năm 1975 con số này đã lên tới 28.320 triệu USD, năm 1992 số
tiền chi cho quảng cáo ở Mỹ đã lên đến con số 131.129 triệu USD6. Ở Việt Nam
giai đoạn chuyển đổi sang kinh tế thị trường cho đến nay, nền kinh tế đã phát triển
khởi sắc và có những thành tựu nhất định. Ngành quảng cáo cũng theo đó mà phát
triển tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường trong và ngoài nước
qua đó tăng thêm lợi nhuận nhờ việc quảng bá sâu rộng hàng hóa và dịch vụ của

mình đến với khách hàng. Theo khảo sát, tổng chi phí cho quảng cáo tại Việt Nam
tăng nhanh trong những năm vừa qua với tốc độ trên dưới 25% mỗi năm. Trong
năm 2005, doanh số quảng cáo báo, đài và ti vi là khoảng 320 triệu USD. Nếu tính
cả các loại quảng cáo ngoài trời sẽ đạt trên dưới 400 triệu USD. Tổng chi phí cho
ngành truyền thơng tiếp thị bao gồm cả quảng cáo, khuyến mãi, quan hệ công
chúng, tiếp thị trực tiếp,…đã vượt con số 1 tỷ USD.7 Có thể nói các doanh nghiệp
Việt Nam ngày càng đầu tư vào các phương thức marketing nói chung và quảng cáo
nói riêng để phát huy hết sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp mình nhằm tranh
giành thị phần với các doanh nghiệp khác.
Xuất hiện từ rất sớm và được nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác nhau,
quảng cáo có rất nhiều định nghĩa. Có thể kể đến một vài định nghĩa quảng cáo như
sau:
Dưới góc độ ngơn ngữ, từ điển Tiếng Việt định nghĩa:“Quảng cáo được giải
thích là “trình bày để giới thiệu rộng rãi cho nhiều người biết nhằm tranh thủ được
nhiều khách hàng.”8
Còn theo từ điển Oxford, quảng cáo được hiểu là một thông báo, đặc biệt là
thông báo về hàng hóa hoặc dịch vụ trên báo chí, trên biểu bảng hoặc thơng qua các
phương tiện truyền thanh hoặc truyền hình.9
Hai định nghĩa trên dưới góc độ ngơn ngữ nên cịn khá sơ sài, chỉ tập trung
vào hành vi trình bày giới thiệu, thơng báo về hàng hóa dịch vụ trên phương tiện
nào nhằm lôi kéo khách hàng. Các định nghĩa dưới góc độ pháp lý sau đây khái quát
chi tiết hơn những đặc trưng của quảng cáo:

6

Tạ Ngọc Tấn (2004), Truyền thơng đại chúng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 155.
Nguyễn Nam Trung(2007), “Quảng cáo sáng tạo”, tr. 5. Nguồn bài viết (truy cập lúc 23h ngày 6/7/2013):
/>8
Chu Bích Thu, Nguyễn Ngọc Trâm, Nguyễn Thị Thanh Nga, Nguyễn Thúy Khanh, Phạm Việt Hùng
(2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB TP.HCM, TP.HCM, tr. 732.

9
Từ điển Oxford, Nxb. Đại học Oxford (1993), tr.12
7

5


Trong Luật Quảng cáo của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1994, quảng
cáo được hiểu là một quảng cáo mang tính chất thương mại mà người cung cấp
hang hóa, dịch vụ, giới thiệu cho hàng hóa dịch vụ của mình, cho dù là trực tiếp hay
gián tiếp, thơng qua các phương tiện công cộng.10
Trong Chỉ thị 84/450/EC ngày 10/9/1984 của Hội đồng và Nghị viện Châu
Âu liên quan đến quảng cáo lừa dối và so sánh; được sửa đổi, bổ sung theo Chỉ thị
97/55/EC ngày 9/10/1997 của Hội đồng và Nghị viện Châu Âu, sau đó được đính
chính lại theo Bản đính chính đăng trên cơng báo số L194 ngày 10/7/1998, quảng
cáo được hiểu là “đưa ra sự tuyên bố dưới bất cứ hình thức nào liên quan đến hoạt
động thương mại, kinh doanh, nghề thủ công, nghề chuyên nghiệp nhằm xúc tiến
việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ; bao gồm cả bất động sản”11
Các định nghĩa trên cho thấy một số nước trên thế giới có cách hiểu chung về
quảng cáo là hoạt động mang mục đích thương mại, để tìm kiếm lợi nhuận chứ
khơng phải mục đích phi lợi nhuận. Có thể khẳng định điều này rõ nét hơn bằng
một qui định mang tính chất loại trừ trong pháp luật của Cộng đồng Châu Âu:
“Quảng cáo không gồm: các thông tin do cơ quan phát thanh phát có liên quan tới
chương trình của cơ quan và sản phẩm phụ trực tiếp của chương trình này; các
thơng tin về dịch vụ công cộng và các lời kêu gọi cho việc làm từ thiện miễn phí”12.
Cũng như Armand Dayan trong cuốn “Nghệ thuật quảng cáo” (Đỗ Đức Bảo dịch)
cũng có nói: hoạt động quảng cáo trước hết là nhằm mục tiêu lợi nhuận13. Theo đó,
quảng cáo phân biệt với các hoạt động mang tính tuyên truyền như kêu gọi từ thiện
hay thông tin về các dịch vụ công cộng ở mục tiêu lợi nhuận. Chỉ những hành động
thông tin truyền bá sản phẩm với mục đích cuối cùng là đem loại doanh thu, lợi

nhuận cho doanh nghiệp mới được coi là quảng cáo. Còn những hành động truyền
bá sản phẩm vì mục đích cộng đồng, nhu cầu chung của xã hội thì khơng được xem
là quảng cáo.
Khác với một số định nghĩa đề cập ở trên, pháp luật Việt Nam đang tồn tại
hai định nghĩa liên quan đến hoạt động quảng cáo đó là định nghĩa “quảng cáo”
trong Luật Quảng cáo 2012 và định nghĩa “quảng cáo thương mại” trong Luật
Thương mại 2005:
 Theo khoản 1 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012: “Quảng cáolà việc sử dụng các
phương tiện nhằmgiới thiệu đến cơng chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có
10

Cục Quản lý cạnh tranh (2008), Quảng cáo dưới góc độ luật cạnh tranh, NXB Lao động xã hội, tr. 16.
Nguyễn Mai Hân (2009), Luận văn Thạc sĩ luật học: Quảng cáo so sánh trong pháp luật Việt Nam và Anh
– Nghiên cứu so sánh, Đại học Luật TP.HCM, tr. 14.
12
Nguyễn Thị Dung, “ Khái niệm “Quảng cáo” trong pháp luật Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến việc hồn
thiện pháp luật về quảng cáo”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12-2005, tr. 34.
13
Armand Dayan, Nghệ thuật quảng cáo (Đỗ Đức Bảo dịch), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh (2001), tr. 8.
(Bản gốc được xuất bởi Nxb Universitaires de France năm 1985)
11

6


mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ khơng có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá
nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự;
chính sách xã hội; thơng tin cá nhân”. Như vậy hoạt động quảng cáo chịu sự
điều chỉnh của Luật Quảng cáo có thể mang mục đích sinh lợi hoặc không sinh
lợi.

 Theo Điều 102 Luật Thương mại 2005, quảng cáo được coi là một hoạt động
thương mại. Đó chính là “hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để
giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của
mình”.
Như vậy có thể thấy ở nước ta hiện đang tồn tại hai khái niệm “quảng cáo”
theo Luật Quảng cáo 2012 có thể có mục đích sinh lời (hay còn gọi là quảng cáo
thương mại) và không sinh lời (quảng cáo phi thương mại) và “quảng cáo thương
mại” gắn với tính chất thương mại trong Luật Thương mại 2005. Quảng cáo thương
mại và quảng cáo phi thương mại có sự khác biệt cơ bản là mục đích thu lợi nhuận.
Quảng cáo thương mại giới thiệu đến cơng chúng về hoạt động kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ có mục đích sinh lời. Dịch vụ có mục đích sinh lời là dịch vụ nhằm tạo
ra lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ. Trong khi đó quảng cáo phi
thương mại giới thiệu về dịch vụ khơng có mục đích sinh lời - là dịch vụ không
nhằm tạo ra lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ. Tiến Sĩ Vũ Thị Thanh
Tâm – Trưởng ban Kiểm tra – Đài Truyền hình Việt Nam cũng đã phân định rất rõ:
“Các loại hình quảng cáo phi thương mại thực chất là các chương trình tuyên
truyền, cổ động của các cơ quan truyền thơng vì mục đích chung của cộng đồng ,
khơng thể xem xét như quảng cáo thương mại”.14
Như phần trên tác giả đã đề cập, luật pháp nhiều nước trên thế giới coi quảng
cáo không phải là một hoạt động thông tin đơn thuần mà là một hoạt động thơng tin
mang tính thương mại. Bản thân khái niệm “quảng cáo” khi được sử dụng trong
pháp luật của các nước đã có ý nghĩa là “quảng cáo thương mại”, vì nó được thực
hiện bởi thương nhân và có nội dung quảng cáo về hàng hóa, dịch vụ của thương
nhân. Còn trong pháp luật Việt Nam, mặc dù Luật Quảng cáo 2012 có đưa hoạt
động quảng cáo sản phẩm, dịch vụ khơng có mục đích sinh lời15 (với tính chất
quảng cáo phi thương mại) vào phạm vi điều chỉnh, song nội dung của văn bản này
và Luật Thương mại 2005 hầu như chỉ quy định về quảng cáo cho hàng hóa, dịch vụ
kinh doanh. Ngay cả định nghĩa về “quảng cáo” được quy định trong Luật Quảng
14


Vũ Thị Thanh Tâm, “Quảng cáo trên báo chí, một vài đề xuất về pháp lý”, tr. 3. Nguồn trích (truy cập lúc
5:00 ngày 3/7/2013):
/>15
Khoản 1 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012

7


cáo 2012 cũng liên quan rất nhiều đến quảng cáo thương mại. Theo ý kiến của tác
giả, Luật Cạnh tranh 2004 và Luật Thương mại 2005 xây dựng những điều luật liên
quan đến quảng cáo thương mại là hợp lý, vì hai văn bản luật trên được xây dựng để
điều chỉnh những hành vi có mục đích thương mại. Tuy nhiên Luật Quảng cáo 2012
với chức năng điều chỉnh các hành vi quảng cáo nói chung, bên cạnh những điều
luật về quảng cáo thương mại cần quy định thêm một số điều luật về quảng cáo phi
thương mại để bao quát được các hành vi quảng cáo trên thực tế.
Vốn qui định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
thương mại, các qui định về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh do Luật
Cạnh tranh 2004 điều chỉnh cũng được hiểu theo hướng mà Luật Thương mại đã định
nghĩa, đó là hành vi quảng cáo thương mại. Vì vậy đối tượng nghiên cứu mà tác giả
muốn hướng đến trong luận văn này là hành vi quảng cáo thương mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp khác trên thị trường (vì vậy thuật ngữ
“quảng cáo” được sử dụng trong luận văn này được hiểu là “quảng cáo thương mại”.)
1.1.1.2. Đặc điểm của quảng cáo
Quảng cáo là hoạt động xúc tiến thương mại nhằm tuyên truyền giới thiệu
hàng hóa, dịch vụ, hay hoạt động của hãng kinh doanh về hàng hóa dịch vụ đó,
nhằm tạo sự hứng thú cho khách hàng đối với sản phẩm, từ đó kích thích sức mua
của người tiêu dùng, đẩy mạnh hoạt động sản xuất, bán hàng và dịch vụ. Quảng cáo
có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, chủ thể hoạt động quảng cáo là thương nhân. Thương nhân theo
khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005 bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp

pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí
kinh doanh. Thương nhân có thể tự mình thực hiện quảng cáo hoặc thuê người khác
thực hiện quảng cáo cho mình.
Thứ hai, nội dung thơng tin quảng cáo bao gồm những thơng tin về hàng hóa,
dịch vụ thương mại, về hoạt động kinh doanh của thương nhân. Nội dung liên quan
đến thương mại là đặc điểm quan trọng giúp phân biệt quảng cáo thương mại với
quảng cáo nói chung và các hình thức thơng tin khác, ví dụ những quảng cáo phi
thương mại kêu gọi cứu trợ nạn thiên tai, tuyên truyền đường lối chính sách của
Đảng, chống tệ nạn xã hội...
Thứ ba, mục đích trực tiếp của quảng cáo là giới thiệu rộng rãi về hàng hóa,
dịch vụ để xúc tiến thương mại, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận của
thương nhân. Quảng cáo thương mại đã trở thành một trong những hoạt động hỗ trợ
đắc lực cho quá trình tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ, thúc đẩy các hoạt động
này được thực hiện với hiệu quả cao nhất, đem lại lợi nhuận to lớn cho thương nhân.
8


1.1.3/ Vai trò của quảng cáo
Chúng ta biết rằng để bán được món hàng, doanh nghiệp phải dùng nhiều
biện pháp để món hàng tạo được sự chú ý với khách hàng, qua đó khách hàng có thể
nhận thức được món hàng và tạo cảm hứng để khách hàng mua nó. Quảng cáo chỉ
là một trong những hoạt động đó. Khơng những người bán hàng phải đưa món hàng
đến tay người mua mà cịn phải đưa người mua đến với món hàng. Khơng những
quảng cáo trong ngắn hạn mà cịn phải quảng cáo về lâu dài. Không chỉ chú ý đến
vai trò thương mại của doanh nghiệp mà cả đến chức năng xã hội của nó nữa.16
Mục đích trực tiếp của quảng cáo thương mại là giới thiệu về hàng hoá, dịch
vụ để xúc tiến thương mại, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận của
thương nhân. Thông qua các hình thức truyền đạt thơng tin, thương nhân giới thiệu
về một loại hàng hố, dịch vụ mới, tính ưu việt về chất lượng, giá cả, khả năng đáp
ứng nhu cầu sử dụng. Như vậy, thương nhân có thể tạo sự nhận biết và kiến thức về

hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng, có thể thu hút khách hàng sử dụng hàng hố,
dịch vụ của mình.
Quảng cáo có vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp, khách hàng và đối
với cả nền kinh tế nói chung:
Thứ nhất, đối với nền kinh tế, quảng cáo giúp thúc đẩy cạnh tranh, giúp nền
kinh tế phát triển một cách mạnh mẽ và sơi nổi. Từ khi có sự đổi mới hoạt động
trong lĩnh vực thông tin, các phương tiện thông tin đã dành một phần đáng kể để
truyền thông tin quảng cáo. Những thành công gần đây trong ngành quảng cáo đã
cho thấy tác dụng của quảng cáo trong việc tiêu thụ sản phẩm. Những sản phẩm
được người tiêu dùng biết đến, ưa chuộng và tin cậy đều là những nhãn hiệu được
quảng cáo khá thường xuyên trên các báo, đài17. Các nhà sản xuất muốn tăng thị
phần tiêu thụ sản phẩm phải cậy nhờ đến quảng cáo để thu hút người tiêu dùng bằng
các biện pháp cạnh tranh hết sức quyết liệt. Có thể nói quảng cáo tạo mơi trường
cạnh tranh nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, dịch vụ.
Thứ hai, đối với người quảng cáo, quảng cáo là một công cụ rất quan trọng
để cung cấp thông tin, truyền cảm hứng cho khách hàng nhằm bán được nhiều hàng
hóa, giành được nhiều thị phần, tăng khả năng thu lợi nhuận. Ngày nay, các doanh
nghiệp đã nhận thức rõ cũng như đánh giá được tầm quan trọng của việc quảng bá
trong chiến lược xây dựng thương hiệu. Họ khơng ngần ngại chi ra những món tiền
khổng lồ cho chiến dịch quảng cáo sản phẩm của mình.
16

Đào Hữu Dũng (2004), tlđd, tr. 36.
Quách Thị Bửu Châu, “Tác động kinh tế xã hội của quảng cáo một số giải pháp phát triển ngành quảng cáo
Việt Nam”. Nguồn bài viết (truy cập lúc 10h ngày 7/6/2013): />17

9


Thứ ba, đối với người tiêu dùng, quảng cáo có vai trị hướng dẫn người tiêu

dùng, cung cấp những thơng tin về hàng hóa, dịch vụ, trang bị cho người tiêu dùng
những kiến thức cần thiết để lựa chọn cho sản phẩm trước khi mua sắm. Với những
thông tin tương đối đa dạng và đầy đủ về quảng cáo, họ sẽ có nhiều cơ hội để lựa
chọn hơn. Như vậy quảng cáo có tính chất định hướng hành vi tiêu dùng và sử dụng
dịch vụ của khách hàng, qua đó giúp doanh nghiệp cạnh tranh, giành thị phần trên
thị trường. Bên cạnh đó, quảng cáo cịn giúp người tiêu dùng nâng cao trình độ
nhận thức sản phẩm, dịch vụ đang lưu thông trên thị trường, thúc đẩy họ thay đổi
việc sử dụng sản phẩm. Nó cũng giúp nâng cao nhận thức của cơng chúng về tình
hình chung của các hoạt động sản xuất và kinh doanh hàng hóa dịch vụ.
1.1.2. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng 1998, thuật
ngữ cạnh tranh được giải thích là “cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình
giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những mục đích như nhau.”
Cạnh tranh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển nền kinh tế xã hội. Trong mọi
phương diện của cuộc sống, ý thức vươn lên luôn là yếu tố chủ đạo hướng suy nghĩ
và hành động của con người. Hoạt động sản xuất kinh doanh là một lĩnh vực quan
trọng trong đời sống xã hội, trong đó ý thức vươn lên không đơn thuần là mong
muốn đạt được một mục tiêu nào đó mà cịn là tham vọng trở thành người đứng
đầu. Muốn vươn lên và đạt được nhiều thành tựu, các doanh nghiệp phải cạnh tranh
mạnh mẽ với các doanh nghiệp khác trên thị trường. Môi trường hoạt động của
doanh nghiệp ngày nay đầy biến động và cạnh tranh hiện nay là cuộc đấu tranh gay
gắt, quyết liệt giữa các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường nhằm giành giật
nhiều các lợi ích kinh tế hơn về mình.
Dưới thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển vượt bậc, CacMac đã cho rằng:
“Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư
bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá
để thu được lợi nhuận siêu ngạch”18. Ngày nay, dưới sự hoạt động của cơ chế thị
trường có sự quản lý vĩ mơ của nhà nước, khái niệm cạnh tranh có thay đổi nhưng
về bản chất nó khơng hề thay đổi: Cạnh tranh vẫn là sự đấu tranh gay gắt, sự ganh
đua giữa các tổ chức, các doanh nghiệp nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi

trong sản xuất và kinh doanh để đạt được mục tiêu của tổ chức hay doanh nghiệp
đó. Sau đây là một số định nghĩa về “cạnh tranh” dưới góc độ thuật ngữ kinh tế:
Theo wikipedia: “Cạnh tranh kinh tế là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế
(nhà sản xuất, nhà phân phối, bán lẻ, người tiêu dùng, thương nhân…) nhằm giành
18

Nguyễn Thị Thanh Vân (2011), Luận văn Thạc sĩ:Chiến lược cạnh tranh cho các hãng hàng không giá rẻ
Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, tr. 3.

10


lấy những vị thế tạo nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu
dùng hàng hóa, dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế, thương mại khác để thu được
nhiều lợi ích nhất cho mình.”19
Theo nhà kinh tế học Michael Porter của Mỹ thì: Cạnh tranh (kinh tế) là
giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi
nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả q
trình cạnh tranh là sự bình qn hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải
thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi.20
Vậy đặc trưng của “cạnh tranh” dưới góc nhìn thuật ngữ kinh tế là sự ganh
đua của những chủ thể kinh doanh trên thị trường để giành lấy vị thế trên thị trường
từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Nhiều nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng,
cạnh tranh có bản chất kinh tế và bản chất xã hội của nó. Bản chất kinh tế của cạnh
tranh thể hiện mục đích tạo lập cho mình một ưu thế chi phối thị trường và vì lợi
nhuận. Bản chất xã hội của cạnh tranh là bộc lộ đạo đức kinh doanh và uy tín của
mỗi chủ thể cạnh tranh trong mối quan hệ đối với những người lao động trực tiếp
tạo ra tiềm lực cạnh tranh của doanh nghiệp, trong mối quan hệ với người tiêu dùng
và với các đối thủ cạnh tranh khác.21
Trong các văn bản pháp lý của nước ta, tác giả vẫn chưa tìm thấy một văn bản

nào ghi nhận khái niệm về cạnh tranh, kể cả trong Luật Cạnh tranh 2004. Điều này
không ảnh hưởng nhiều đến việc áp dụng và thực thi pháp luật về cạnh tranh trong
đời sống, bởi vì cạnh tranh là một thuật ngữ kinh tế và được hiểu dưới góc độ kinh tế.
Hơn nữa, luật cạnh tranh với vai trò là văn bản pháp luật chủ yếu quy định về những
hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh đã thể hiện rất rõ ràng và
cụ thể về định nghĩa cũng như từng trường hợp hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh
tranh không lành mạnh để thuận lợi cho việc áp dụng nên theo tác giả không cần có
định nghĩa “cạnh tranh” trong Luật Cạnh tranh 2004. Tuy nhiên có thể lưu ý một định
nghĩa mang hơi hướng pháp lý, của tác giả Đặng Vũ Huân trong cuốn “Pháp luật về
kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh” như sau: “Cạnh tranh là
một hoạt động mang tính hiệu quả với đặc điểm được tạo bởi chuỗi những hành
động thúc đẩy có chủ định của một chủ thể kinh doanh trong một thị trường cụ thể.
Để thỏa mãn những lợi ích riêng của mình, phù hợp với các qui định của pháp luật,
các chủ thể kinh doanh cố gắng đạt được những điều khoản ưu đãi bằng việc sử

19

Nguồn bài viết (truy cập lúc 14h ngày 14/7/2013):
/>20
Michael Porter (2008), Lợi thế cạnh tranh, NXB Trẻ, tr. 9.
21
Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Công an Nhân Dân, Hà Nội, tr. 19.

11


dụng những thông số cạnh tranh như giá cả, chất lượng, dịch vụ, bán hàng, điều
kiện vận chuyển, quảng cáo tiếp thị…nhằm tạo ra lợi thế trong kinh doanh.”22
Cạnh tranh có vai trị rất quan trọng đối với nền kinh tế. Cạnh tranh là động

lực phát triển kinh tế nâng cao năng suất lao động xã hội. Một nền kinh tế mạnh là
nền kinh tế mà các tế bào của nó là các doanh nghiệp phát triển có khả năng cạnh
tranh cao. Tuy nhiên cạnh tranh phải là cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp
cạnh tranh nhau để cùng phát triển, cùng đi lên thì mới làm cho nền kinh tế phát
triển bền vững. Còn hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh sẽ ảnh
hưởng không tốt đến nền kinh tế, nó tạo ra mơi trường kinh doanh khơng bình đẳng
dẫn đến mâu thuẫn về quyền lợi và lợi ích kinh tế trong xã hội, làm cho nền kinh tế
không ổn định. Cạnh tranh là điều bất khả kháng đối với mỗi doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường. Nó có thể được coi là cuộc chạy đua khốc liệt mà các doanh
nghiệp không thể tránh khỏi mà phải tìm mọi cách vươn lên để chiếm ưu thế và
chiến thắng. Nó buộc các doanh nghiệp ln tìm cách nâng cao chất lượng sản
phẩm, dịch vụ, thay đổi kiểu dáng mẫu mã đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Cạnh
tranh khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ mới, hiện đại, tạo sức
ép buộc các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình để
giảm giá thành, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, tạo ra các sản phẩm mới khác
biệt có sức cạnh tranh cao. Đó chính là vai trị của cạnh tranh đối với các doanh
nghiệp, các nhà sản xuất. Ngoài ra, trên thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
càng diễn ra gay gắt thì người được lợi nhất là khách hàng. Khi có cạnh tranh thì
người tiêu dùng khơng phải chịu một sức ép nào mà cịn được hưởng những thành
quả do cạnh tranh mang lại như: chất lượng sản phẩm tốt hơn, giá bán thấp hơn,
chất lượng phục vụ cao hơn... Đồng thời khách hàng cũng tác động trở lại đối với
cạnh tranh bằng những yêu cầu về chất lượng hàng hoá, về giá cả, về chất lượng
phục vụ... Khi đòi hỏi của người tiêu dùng càng cao, càng làm cho cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp gay gắt hơn để giành được nhiều khách hàng hơn.
Về phân loại cạnh tranh, nếu dựa vào tính chất của thủ đoạn cạnh tranh và
ảnh hưởng của nó, có hai loại là cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành
mạnh. Cạnh tranh lành mạnh, cho đến nay mặc dù đã được tiếp cận, nghiên cứu và
phản ánh trong nhiều học thuyết, song đều không đưa ra được nội hàm cụ thể cho
khái niệm này23. Các quốc gia trên thế giới cũng không đưa ra được khái niệm
thống nhất về thế nào là cạnh tranh lành mạnh một cách gián tiếp từ việc xác định

22

Đặng Vũ Huân (2004), Pháp luật về kiểm sốt độc quyền và chống cạnh tranh khơng lành mạnh, NXB
Chính trị quốc gia, tr.22.
23

Đặng Vũ Huân (2004), tlđd, tr.7.

12


những hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong pháp luật về cạnh
tranh hoặc trong án lệ của các quốc gia. Tuy vậy dưới góc độ thực tiễn, các quốc gia
đều có sự thống nhất về bản chất của cạnh tranh lành mạnh. Theo đó, cạnh tranh
lành mạnh được hiểu là cạnh tranh trung thực, công bằng, hợp pháp, hợp đạo đức,
tập quán kinh doanh; là hình thức cạnh tranh đẹp, trong sáng, cạnh tranh bằng tiềm
năng vốn có của bản thân doanh nghiệp24, vì lợi ích của bản thân trên tình thần tơn
trọng lợi ích của các chủ thể kinh doanh khác, của người tiêu dùng và lợi ích cơng
cộng và quan trọng nhất là động lực để phát triển kinh tế - xã hội.
Đối lập với cạnh tranh lành mạnh là cạnh tranh không lành mạnh. Việc xác
định lành mạnh hay không lành mạnh được căn cứ trên cơ sở mục đích, tính chất,
phương pháp tiến hành cạnh tranh trên thị trường. Hiện nay trên thế giới có nhiều
quan niệm khác nhau về cạnh tranh khơng lành mạnh:
-

Có ý kiến cho rằng cạnh tranh khơng lành mạnh bao gồm tất cả hành vi nào
xâm hại tới hoạt động cạnh tranh trên thị trường, xâm hại tới quyền tự do
cạnh tranh công bằng của các doanh nghiệp. Với quan niệm nay, các hành vi
hạn chế cạnh tranh, nhất là những hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường cũng thuộc phạm trù “cạnh tranh không lành mạnh” (quan niệm này

được phản ánh rất rõ trong các qui định của Luật cạnh tranh của Mông Cổ)25

-

-

Điều 10 bis Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp (kí kết ngày
20/3/1883, Điều này được bổ sung vào Cơng ước năm 1900): “Bất kì hành vi
cạnh tranh nào đi ngược lại các hành động trung thực, thiện chí trong cơng
nghiệp hoặc trong thương mại đều là hành vi cạnh tranh không lành mạnh”.
Pháp luật Việt Nam cũng qui định về cạnh tranh không lành mạnh ở khoản 4
Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành
vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn
mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt
hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp
khác hoặc người tiêu dùng.” Đây cũng là quan niệm phù hợp để từ đó có
cách hiểu thống nhất về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh. Với
cách đặt vấn đề như vậy, có thể thấy cạnh tranh khơng lành mạnh là hành vi
của đối thủ cạnh tranh có các dấu hiệu sau đây:
+ Mục đích của hành vi là mục đích cạnh tranh hoặc rộng hơn là mục
đích lợi nhuận;

24

Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh,Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển
sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội , 2001, tr. 30.
25
Phạm Văn Lợi, Lê Thị Hoàng Oanh, Nguyễn Văn Cương, Hoàng Thế Anh, Vũ Thị Hiệp, Pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn , Bộ Thương mại, Hà Nội, 92005, tr. 4.


13


+ Chủ thể thực hiện là các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường. Theo
Điều 2 Luật Doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp được hiểu là mọi tổ
chức, cá nhân kinh doanh, có nghĩa là bao gồm cả các chủ thể kinh
doanh khơng đăng ký loại hình doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp;
+ Đặc điểm của hành vi là trái với các chuẩn mực thông thường về đạo
đức kinh doanh, là những quy tắc xử sự chung đã được chấp nhận
rộng rãi và lâu dài trong quá trình kinh doanh trên thị trường;
+ Đối tượng bị xâm hại bao gồm ba loại khác nhau: Nhà nước, người
tiêudùng và doanh nghiệp khác.
Luật mẫu của Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế (OECD) và Ngân hàng Thế
giới liệt kê những hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm các hành vi như
sau26:
-

Phát tán các thơng tin sai lệch hoặc có thể gây nhầm lẫn, gây hại cho lợi ích
thương mại của các doanh nghiệp khác;

-

Phát tán các thông tin sai lệch hoặc có thể gây nhầm lẫn tới người tiêu dùng,
bao gồm việc phát tán thông tin thiếu cơ sở hợp lý, liên quan tới giá cả, đặc
tính, phương thức sản xuất và cơng dụng hoặc chất lượng của hàng hóa;
So sánh hàng hóa sai lệch, hoặc có thể gây nhầm lẫn, trong quá trình quảng

-

cáo;

- Chiếm đoạt hoặc sử dụng sai thương hiệu, tên công ty, hoặc nhãn mác sản
phẩm hay bao bì đóng gói của cơng ty khác; và
- Nhận, sử dụng hoặc phổ biến trái phép thông tin khoa học, kĩ thuật, sản xuất,
thương mại bí mật.
Các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh có thể được điều chỉnh bởi Luật
Cạnh tranh hoặc Luật Bảo vệ người tiêu dùng, tùy theo bối cảnh của từng quốc gia
cụ thể.
Ở Việt Nam, với nội dung điều chỉnh những vấn đề về cạnh tranh, ở nước ta
Luật Cạnh tranh 2004 là văn bản hiện hành chủ yếu quy định về các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, cụ thể là 09 hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ Điều 40
đến Điều 49 bao gồm: Chỉ dẫn gây nhầm lẫn; Xâm phạm bí mật kinh doanh; Ép
buộc trong kinh doanh; Gièm pha doanh nghiệp khác;Gây rối hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp khác; Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; Khuyến mại
nhằm cạnh tranh không lành mạnh; Phân biệt đối xử của hiệp hội; Bán hàng đa cấp
bất chính. Trong số các hành vi này, một số hành vi thể hiện sự xâm hại trực tiếp
26

Quế Anh, “Các hành vi thương mại không công bằng và vô lương tâm trong pháp luật về cạnh tranh và bảo
vệ người tiêu dùng”,Bản tin Cạnh tranh và Người tiêu dùng,số 16/2010, Công ty phát hành báo chí Trung
ương, tr. 16.

14


đến đối thủ cạnh tranh như xâm phạm bí mật kinh doanh, gièm pha, quấy rối doanh
nghiệp khác, một số hành vi có thể ảnh hưởng đến đối thủ cạnh tranh, đồng thời lại
vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, quảng cáo và
khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Cuối cùng, khoản 10 Điều 39 Luật Cạnh tranh 2004 quy định: “Các hành vi
cạnh tranh khơng lành mạnh các theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 của Luật

này do Chính phủ quy định”. Đây là một điều luật quy định mở rất hay gặp trong
các văn bản pháp luật ở nước ta. Như vậy, trong trường hợp phát hiện hành vi cạnh
tranh có biểu hiện khơng lành mạnh mới xuất hiện trên thị trường thì cơ quan quản
lý cạnh tranh, cơ quan quản lý ngành hay chính các doanh nghiệp, hiệp hội trong
ngành có thể kiến nghị với Chính phủ ban hành văn bản điều chỉnh để xử lý vi
phạm. Điều này giúp các cơ quan thi hành pháp luật xử lý khơng bỏ sót những hành
vi vi phạm mà luật chưa quy định, nhất là trong bối cảnh các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh phát triển với chiều hướng tinh vi hơn như hiện nay.
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh
Về nguyên tắc, khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động
quảng cáo được suy luận từ khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong nội hàm
chung nhất, tức là không khác biệt về bản chất với khái niệm cạnh tranh không lành
mạnh. Cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo được biểu hiện qua
tính khơng lành mạnh, đi ngược lại với những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp như
thái độ không trung thực, gian dối, thiếu tôn trọng hoặc xâm phạm quyền lợi của
người tiêu dùng, gièm pha, bơi nhọ, nói xấu đối thủ cạnh tranh…trong khi chúng
thực hiện chức năng phổ biến thông tin nhằm xúc tiến thương mại. Đây là một vấn
đề cần quan tâm trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, hành vi quảng
cáo không chỉ đơn giản là hành vi quảng cáo cho sản phẩm hay doanh nghiệp mà
còn là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tổ chức cá nhân tiến hành hoạt động
kinh doanh.
Nhìn chung, pháp luật của các nước đều thừa nhận, ghi nhận một cách cơ
bản hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo là:
- Hành vi lạm dụng hoạt động quảng cáo (tiền giao dịch) nhằm lừa dối người tiêu
dùng. Ví dụ như ở Việt Nam, các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh nhằm lừa dối người tiêu dùng là các hành vi bắt chước sản phẩm
quảng cáo khác nhằm gây nhầm lẫn cho khách hàng và đưa thông tin gian dối
hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các nội dung luật định.27
27


Khoản 2 và khoản 3 Điều 45 Luật Cạnh tranh 2004

15


-

Hành vi lạm dụng hoạt động quảng cáo (được dựa trên nền tảng quyền tự do
kinh doanh, quyền tự do ngơn luận) để làm giảm uy tín, gièm pha về hàng
hóa, dịch vụ hay hoạt động kinh doanh của thương nhân khác. Hành vi này
được luật Việt Nam quy định ở hành vi so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ

của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác.28
Ở nước ta, Luật Cạnh tranh 2004 không có quy định nào định nghĩa cụ thể
quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh nhưng tại Điều 45 có liệt kê danh
sách những hành vi bị cấm nhằm hạn chế hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh. Đó là ba hành vi sau:
-

So sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại
của doanh nghiệp khác;

-

Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng;

-

Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng

Các nhà lập pháp nước ta vẫn hay đưa ra một danh sách liệt kê thay cho khái

niệm cụ thể, việc liệt kê này cụ thể hóa những hành vi bị coi là quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện và
kiểm tra hoạt động quảng cáo của doanh nghiệp.
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là một trong các hành vi của
cạnh tranh không lành mạnh với những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là một hành
vi cạnh tranh do các chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện nhằm mục đích lợi
nhuận. Trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh của một doanh nghiệp
cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tương quan với doanh nghiệp khác. Để thu
được lợi nhuận doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh với đối thủ hoạt động trong cùng
lĩnh vực nhằm thu hút khách hàng về phía mình. Chủ thể thực hiện hành vi quảng
cáo cạnh tranh không lành mạnh là các doanh nghiệp thực hiện tham gia hoạt động
kinh doanh trên thị trường bao gồm: mọi tổ chức hay cá nhân tham gia tìm kiếm lợi
nhuận một cách thường xuyên, chuyên nghiệp.
Thứ hai, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh là hành vi có
tính chất đối lập, đi ngược lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh,
có thể hiểu là các quy tắc xử sự chung đã được chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong
hoạt động kinh doanh trên thị trường. Các quy định về quảng cáo cạnh tranh không
lành mạnh được hình thành và hồn thiện qua bề dày thực tiễn phát triển kinh tế xã
hội. Để có thể đánh giá một hành vi có đi ngược lại những quy tắc xử sự chung

28

Khoản 1 Điều 45 Luật Cạnh tranh 2004

16



trong kinh doanh đòi hỏi cơ quan xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh cần hiểu biết và đánh giá sâu sắc về thực tiễn thị trường.
Thứ ba, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh cần được ngăn
chặn khi nó gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho đối tượng khác. Hành
vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi gây thiệt hại nhất định
dù thiệt hại này đã xảy ra hay chưa và hành vi này cần được ngăn chặn. Những thiệt
hại cũng gắn liền với trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm bảo vệ quyền lợi cho
các bên. Đặc điểm này mang ý nghĩa về tố tụng và gắn liền với yêu cầu bồi thường
thiệt hại.
Thứ tư, mục đích của hành vi là nhằm vào hàng hóa, dịch vụ cùng loại của
đối thủ cạnh tranh trên cùng một thị trường liên quan và vì mục đích cạnh tranh qua
đó làm giảm uy tín đối với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Các hành vi này có thể
do doanh nghiệp trực tiếp thực hiện hoặc được tiến hành thông qua thương nhân
kinh doanh dịch vụ quảng cáo thực hiện việc quảng cáo cho mình.
1.2. Pháp luật của một số nƣớc điển hình về quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh bằng pháp luật
Các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh có tác động tiêu
cực khơng nhỏ đến người tiêu dùng, các doanh nghiệp và nền kinh tế nói
chung.Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố sống cịn của một doanh nghiệp là
phương thức cạnh tranh hiệu quả để giành chiến thắng trong môi trường cạnh tranh
khốc liệt. Bên cạnh những doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, những người cạnh
tranh khơng chân chính đã bất chấp thủ đoạn, thâu tóm khách hàng bằng những biện
pháp tiêu cực mà các đối thủ khác từ chối sử dụng, tạo những lợi thế khơng chính
đáng trong tương quan cạnh tranh thị trường. Điều này dẫn đến một số doanh
nghiệp phải chịu thiệt thịi vì những hành vi khơng trung thực của đối thủ cạnh
tranh. Ví dụ như vụ quảng cáo của công ty Kim Đan một vài năm trước đây. Kim
Đan đã đăng quảng cáo trên 5 tờ báo lớn với nội dung như sau: “Đối với nệm lị xo,
do tính chất không ưu việt của nguyên liệu sản xuất nên chất lượng nệm sẽ giảm

dần theo thời gian. Nếu độ đàn hồi của lo xo cao, lò xo dễ bị gãy, gây nguy hiểm
đến người sử dụng. Đối với nệm nhựa tổng hợp poly-urethane (nệm mút xốp nhẹ)
tính dẻo ưu việt nên khơng có độ đàn hồi, mau bị xẹp. Chính vì những lý do đó mà
Kim Đan hồn tồn khơng sản xuất nệm lị xo cũng như nệm nhựa poly-urethane.
Tất cả các sản phẩm của Kim Đan đều được làm từ 100% cao su thiên nhiên, có độ
bền cao và không xẹp lún theo thời gian”. Công ty Kim Đan không dựa trên cơ sở
17


kiểm định được xác nhận bởi các cơ quan uy tín mà đã đưa ra các thơng tin gây hiểu
nhầm về chất lượng nệm lò xo và nệm mút xốp của các đối thủ cạnh tranh sản xuất
những loại nệm này. Dễ dàng nhận thấy khi nhiều lần xem những quảng cáo này,
khách hàng sẽ dần dần bị ảnh hưởng bởi các thông tin đưa ra trong quảng cáo và có
sự so sánh chất lượng giữa nệm cao su và nệm lò xo, nệm mút xốp nhẹ và sẽ ưu tiên
sử dụng nệm của công ty Kim Đan hơn, làm sụt giảm lợi nhuận của các công ty sản
xuất nệm khác. Đây là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ảnh hưởng xấu
đến quyền lợi của doanh nghiệp khác và đã bị cơ quan có thẩm quyền xử lý. Rõ
ràng, tự do cạnh tranh là nguyên tắc cơ bản để phát triển trong nền kinh tế thị
trường, nhưng sự tự do đó khơng được phép làm ảnh hưởng, làm thiệt hại đến uy tín
của các chủ thể kinh doanh khác, không là sự hưởng dụng trái phép thành quả lao
động của các chủ thể kinh doanh khác. Bất cứ sự lừa dối khách hàng bằng cách
quảng cáo dựa trên sự thành công của sản phẩm quảng cáo của doanh nghiệp khác
hay cố tình đưa ra thơng tin so sánh sai trái đều là bất công bằng và phải loại bỏ triệt
để trên thị trường để bảo đảm một môi trường cạnh tranh công bằng cho tất cả các
doanhg nghiệp tham gia kinh doanh. Bên cạnh đó, hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh khơng lành mạnh cịn ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Người tiêu
dùng đóng một vai trị rất quan trọng trong sự thành cơng của doanh nghiệp, bởi vì
họ là người tiêu thụ sản phẩm, sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp và trực tiếp đem
lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Thế nhưng với mục đích lơi kéo khách hàng, một số
doanh nghiệp đã áp dụng những quảng cáo lừa dối người tiêu dùng bằng cách đưa

ra những thông tin giả dối hoặc gây nhầm lẫn làm cho họ ngộ nhận về ưu điểm,
những hứa hẹn có lợi mà tham gia vào hoạt động mua bán, theo đó đã khơng tơn
trọng, đảm bảo được quyền tự do quyết định của người tiêu dùng. Có bảo vệ được
người tiêu dùng và những doanh nghiệp làm ăn chân chính khỏi những tác động của
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh mới giúp giữ cho vị thế giữa các đối
thủ cạnh tranh trên thị trường bình đẳng, đảm bảo cuộc chơi cơng bằng, từ đó bảo
vệ cạnh tranh lành mạnh để nó có thể đem lại lợi ích cho tồn thể cộng đồng.
Với những tác động xấu của quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
như đã phân tích ở trên, sự vào cuộc của pháp luật trong cuộc chiến chống lại quảng
cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường
hiện nay. Từ trước đến nay, pháp luật luôn là công cụ nhất định không thể thiếu của
nhà nước để tổ chức và quản lý xã hội, duy trì và bảo vệ trật tự xã hội, tạo điều kiện
và định hướng cho sự phát triển của xã hội. Trong thời đại kinh tế thị trường với sự
cạnh tranh gay gắt trong kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và sự cạnh
tranh trong quảng cáo nhằm quảng bá sản phẩm, dịch vụ ra thị trường nói riêng, sự
18


can thiệp của pháp luật đảm bảo tương đối một thế cạnh tranh cân bằng giữa các
chủ thể kinh doanh với nhau, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các doanh nghiệp
chân chính và người tiêu dùng, đảm bảo sự duy trì, tồn tại mơi trường cạnh tranh và
trật tự kinh tế chung.
1.2.2. Qui định của pháp luật Liên minh Châu Âu
Châu Âu là nơi khởi đầu của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, và cũng là nơi phát sinh các cách tiếp cận khác biệt trong q trình xây dựng
pháp luật về cạnh tranh khơng lành mạnh.29
Theo pháp luật của Liên minh Châu Âu (khoản 1 Điều 2 Nghị quyết của Hội
đồng các Bộ trưởng Liên minh Châu Âu số 84/450): “Quảng cáo là bất kỳ sự giới
thiệu nào trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh tế, thu lợi nhuận nhằm mục
đích tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ”.Định nghĩa này cũng như những phân tích ở

trên, luật của Liên minh Châu Âu cũng tiếp cận quảng cáo là một hành vi mang tính
chất thương mại. Những hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh của
Châu Âu được quy định trong các chỉ thị của Hội đồng và Nghị viện châu Âu, Ủy
ban Châu Âu đã được các quốc gia thành viên nội luật hóa để áp dụng.Có ba hành
vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong pháp luật
Châu Âu: đó là hành vi quảng cáo gian dối và quảng cáo so sánh được quy định
trong Chỉ thị 84/450/EC ngày 10/9/1984 của Hội đồng và Nghị viện Châu Âu; được
sửa đổi bổ sung theo Chỉ thị 97/55/EC ngày 06/10/1997 (được đính chính theo bản
đính chính đăng trên công báo số L194 ngày 10/7/1998); được sửa đổi bổ sung về
quảng cáo so sánh theo Chỉ thị 2005/29/EC ngày 11/5/2005 của Hội đồng và Nghị
viện Châu Âu, ngoài ra cịn có hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn được quy định trong
Chỉ thị 2006/114/EC của Ủy ban Châu Âu. Các quy định về ba hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh này nhằm mục đích bảo vệ người tiêu dùng, các
chủ thể kinh doanh và cộng đồng chống lại quảng cáo lừa dối và kết quả không lành
mạnh của nó.
 Về hành vi quảng cáo gian dối: Trong chỉ thị này, quảng cáo gian dối được
giải thích là bất cứ cách thức quảng cáo nào lừa dối hoặc có thể lừa dối đến
những người tiếp xúc thơng điệp quảng cáo hoặc những người mà quảng cáo
gian dối hướng đến thơng qua việc nói q về thực chất của hàng hóa mà có
thể ảnh hưởng đến hành vi mang tính kinh tế của họ; đồng thời, gây thiệt hại
hoặc có thể gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh. Việc xác định một quảng
cáo gian dối được đòi hỏi phải xem xét đến tất cả những đặc điểm của quảng
29

Cục quản lý cạnh tranh, “Báo cáo rà soát các quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam”, tr. 196. Nguồn bài
viết (truy cập lúc 18h ngày 9/7/2013):
/>
19



cáo đó và bất kì thơng tin cụ thể nào có liên quan được quảng cáo đó truyền
tải, bao gồm:
-

Đặc tính của hàng hóa, dịch vụ (bao gồm cả những thử nghiệm, kiểm tra đã
được tiến hành trên hàng hóa, dịch vụ);

-

Giá cả hoặc cách tính giá, và những điều kiện cung cấp hàng hóa, cung ứng
dịch vụ;
Những khả năng và quyền sở hữu công nghiệp của người quảng cáo; quyền
sở hữu trí tuệ và những quyền thương mại của người quảng cáo; những giải
thưởng và danh hiệu của người quảng cáo.
Pháp luật Việt Nam cũng có quy định về quảng cáo gian dối tại khoản
3 Điều 45 Luật Cạnh tranh 2004, theo đó quảng cáo gian dối được hiểu là
hành vi đưa ra những thông tin gian dối cho khách hàng về một trong các nội
dung: Giá, số lượng, chất lượng, cơng cụ, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày
sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hóa, người sản xuất, nơi sản xuất,
người gia công, nơi gia công; cách thức sử dụng, phương thức sử dụng, thời
hạn bảo hành các thơng tin gian dối khác.30 Có thể thấy rằng pháp luật nước
ta quy định một cách cụ thể và chi tiết hơn về những nội dung gian dối, trong
khi đó pháp luật châu Âu có những quy định mang tính chất khung để các
quốc gia thành viên nội luật hóa và áp dụng vào mỗi trường hợp cụ thể.
Một trong những quảng cáo được đánh giá “lừa dối” bậc nhất thế giới
là quảng cáo của công ty điện tử Hoover của Anh năm 1992. Vào thời điểm
đó, cơng ty này đã tung ra một chương trình quảng cáo. Theo đó, mỗi người
chỉ phải bỏ ra 100 bảng Anh để mua một sản phẩm của Hoover, và họ sẽ
trúng ngay một vé máy bay khứ hồi đến Châu Âu. Khơng dừng lại ở đó,
cơng ty này tiếp tục mở rộng quảng cáo bằng cơ hội sở hữu 2 chuyến du lịch

miễn phí tới Mỹ cho khách hàng. Tuy nhiên, đã khơng có chuyến du lịch hay
vé máy bay nào cả, trong khi khách hàng thì đổ xơ đi mua sản phẩm của
công ty để mong trúng thưởng. Vụ việc bị phát hiện và đã được xử lý
nghiêm, công ty này đã bị phạt 48 triệu bảng cho quảng cáo dối trá này. 31

 Về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn: Theo các phán quyết đã tuyên của các
tịa án ở châu Âu, các hình thức phổ biến của hành vi quảng cáo gây nhầm
lẫn ở châu Âu32 được tổng hợp như sau:
30

Khoản 3 Điều 45 Luật Cạnh tranh 2004.
Lan Trinh, “Những quảng cáo gian dối nhất thế giới”. Nguồn bài viết (truy cập vào lúc 14h ngày
26/5/2013): />32
Nguyễn Phương Trà My, “Ủy ban Châu ÂU rà soát chỉ thị 2006/114/EC về quảng cáo gây nhầm lẫn và
quảng cáo so sánh”, Bản tin Cạnh tranh và người tiêu dùng,số 36/2012, Cơng ty phát hành báo chí Trung
ương, tr. 6.
31

20


×