Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị (từ thực tiễn thành phố hồ chí minh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (904.45 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-----------***-----------BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

LÊ NGỌC NGUYÊN PHƢƠNG

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI LẤN CHIẾM
TRÁI PHÉP HÈ PHỐ ĐÔ THỊ
(Từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh)
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Hành chính – Nhà nước
Niên khóa: 2013 - 2017

Người hướng dẫn khoa học: TS. Thái Thị Tuyết Dung
Người thực hiện: Lê Ngọc Nguyên Phƣơng
MSSV: 1353801013161
Lớp: CLC38D

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2017


LỜI CẢM ƠN
Sau bốn năm học tập tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, hơm
nay em có thể hồn thành Khố luận tốt nghiệp Cử nhân Luật chính là nhờ cơng sức
dạy dỗ tận tình của các Thầy Cơ. Với lịng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm
ơn quý Thầy Cô đã truyền đạt kiến thức cho em trong khoảng thời gian qua.
Em xin chân thành cảm ơn các cán bộ, công chức thuộc Đội QLTTĐT quận 1
và quận 3 thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ cho em thu thập số


liệu và hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Đặc biệt, em xin cảm ơn TS. Thái Thị Tuyết Dung, Giảng viên Khoa Luật
Hành chính – Nhà nước, đã nhiệt tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện
Khoá luận này.
Xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khố luận tốt nghiệp “Xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị (Từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh)” là
cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu nêu trong Khố luận này là hồn
tồn trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ

Lê Ngọc Nguyên Phƣơng


MỤC LỤC
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH ĐỐI VỚI HÀNH VI LẤN CHIẾM TRÁI PHÉP HÈ PHỐ ĐÔ THỊ ....1
1.1. Những vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn
chiếm trái phép hè phố đô thị...................................................................................1
1.1.1 Khái quát về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép
hè phố đô thị ...............................................................................................................1
1.1.2 Đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi lấn chiếm trái
phép hè phố đô thị .......................................................................................................6
1.1.3 Mục đích của xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi lấn chiếm trái
phép hè phố đô thị .......................................................................................................7
1.2. Những quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị ..................................................8

1.2.1 Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè
phố đô thị .....................................................................................................................9
1.2.2 Hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị ................................ 12
1.2.3 Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép
hè phố đô thị ............................................................................................................. 15
1.2.4 Thủ tục xử phạt, thi hành và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt đối với
hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị ................................................................ 18
1.2.5 Thời hiệu xử phạt và thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị ................................................... 21
1.3. Kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới trong việc xử phạt hành vi lấn
chiếm trái phép hè phố đô thị và quản lý việc sử dụng hè phố đơ thị ngồi mục
đích giao thơng........................................................................................................ 22
1.3.1 Trong việc xử phạt hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị ....................... 22
1.3.2 Trong quản lý việc sử dụng hè phố đơ thị ngồi mục đích giáo thông ........... 23
Tiểu kết Chƣơng 1 .................................................................................................. 28
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI
HÀNH VI LẤN CHIẾM TRÁI PHÉP HÈ PHỐ ĐÔ THỊ (TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH) VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ...... 29
2.1. Thực trạng vi phạm hành chính lấn chiếm trái phép hè phố đô thị ......... 29
2.1.1 Tình hình vi phạm hành chính lấn chiếm trái phép hè phố đô thị................... 29


2.1.2 Nguyên nhân chủ yếu phát sinh vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm
trái phép hè phố đô thị ............................................................................................. 32
2.2. Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái
phép hè phố đô thị .................................................................................................. 37
2.2.1 Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm
trái phép hè phố đô thị ............................................................................................. 37
2.2.2 Thực trạng về cơng tác xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm

trái phép hè phố đô thị ............................................................................................. 48
2.2.3 Nguyên nhân của thực trạng về công tác xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị ................................................................ 52
2.3. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần hồn thiện các quy định của
pháp luật và nâng cao hiệu quả của cơng tác xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị ..................................................... 54
2.3.1 Những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện về mặt pháp luật ............................... 54
2.3.2 Những biện pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả công tác xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị ............................... 62
Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................... 69
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GTĐB
LCTPHPĐT

: giao thông đường bộ
: lấn chiếm trái phép hè phố đô thị

Luật GTĐB 2008
: Luật Giao thông đường bộ năm 2008
Luật XLVPHC 2012 : Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012
NXB

: Nhà xuất bản

Nghị định
46/2016/NĐ-CP


: Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26 tháng 5 năm 2016 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

QLTTĐT

vực giao thơng đường bộ và đường sắt
: quản lý trật tự đô thị

tlđd
tr.
TP. HCM

: tài liệu đã dẫn
: trang
: thành phố Hồ Chí Minh

UBND
VPHC
XLVPHC
XPVPHC

: Uỷ ban nhân dân
: vi phạm hành chính
: xử lý vi phạm hành chính
: xử phạt vi phạm hành chính


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Đất nước ta đang trong giai đoạn đổi mới và phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự
phát triển của đất nước, TP. HCM được xem là một “đầu tàu”, một trung tâm kinh
tế lớn và là một đô thị “đặc biệt”. Tuy nhiên, song song với q trình đơ thị hố
nhanh chóng, TP. HCM đang phải đối mặt với nhiều vấn đề phát sinh, trong đó có
tình trạng lấn chiếm trái phép hè phố để sử dụng ngồi mục đích giao thơng. Đây là
vấn đề nan giải mà chính quyền các đơ thị lớn nói chung và TP. HCM nói riêng
đang phải đối mặt. Một đơ thị hiện đại, văn minh địi hỏi mọi trật tự cần được thiết
lập, trong đó có trật tự hè phố, nơi vốn chỉ dành cho người đi bộ và nơi bố trí hệ
thống hạ tầng kỹ thuật đơ thị dọc tuyến.
Tình trạng lấn chiếm hè phố chủ yếu làm nơi kinh doanh, buôn bán là câu
chuyện đã tồn tại từ khá lâu. Thậm chí, việc lấn chiếm này còn diễn ra ở rất nhiều
nơi, nhiều con đường trên địa bàn TPHCM gây mất mỹ quan đô thị trầm trọng với
những cảnh tượng nhếch nhác, lộn xộn trên hè phố. Ngồi ra, tai nạn giao thơng –
một vấn nạn “nhức nhối” khác của nước ta – cũng gia tăng và có một phần khơng
nhỏ là do hè phố bị chiếm dụng. Trước tình hình vi phạm nghiêm trọng, từ năm
1995, Chính phủ ban hành Nghị định 36-CP về bảo đảm an toàn GTĐB và trật tự an
toàn giao thông đô thị. Đây là cơ sở pháp lý để người dân cũng như chính quyền lấy
lại hè phố bằng các quy phạm pháp luật cụ thể. Từ trước đến nay, dù đã có rất nhiều
đợt “ra quân” của các cấp chính quyền nhằm chấn chỉnh tình trạng vi phạm nhưng
tình hình vi phạm vẫn khơng chuyển biến.
Chính vì lý do nêu trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Xử phạt vi phạm hành
chính đối với các hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị (Từ thực tiễn thành
phố Hồ Chí Minh)” làm đề tài Khố luận tốt nghiệp của mình, với hy vọng có thể
đóng góp một số ý kiến cho q trình hồn thiện pháp luật hiện hành về XPVPHC
đối với các hành vi này, nhất là trong bối cảnh hệ thống pháp luật XPVPHC chưa có
một chế định riêng rẽ quy định về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài mà tác giả chọn trên đây là một vấn đề mang tính thời sự, được nhiều
nhà quản lý, nhà khoa học cũng như báo chí quan tâm. Vấn đề nghiên cứu về
XPVPHC nói chung và về XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB nói riêng đã được nhiều

tác giả nghiên cứu, đề cập trong các luận văn thạc sĩ, các cơng trình nghiên cứu
khoa học,... Gần đây nhất có thể liệt kê qua một số cơng trình như:


- Cao Vũ Minh (2012), XLVPHC trong lĩnh vực GTĐB tại TP. HCM – Thực
trạng và hướng hoàn thiện, Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp trường, trường Đại học
Luật TP.HCM.
- Ngô Thị Hồng Loan (2013), Pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực GTĐB,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP. HCM.
- Nguyễn Thị Thuý Diệu (2013), XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB, Khoá luận tốt
nghiệp Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật TP. HCM.
...
Các đề tài nghiên cứu cũng như cơng trình khoa học trên đã cơ bản đề cập đến
một số vấn đề bất cập, mâu thuẫn trong các băn bản pháp luật về XPVPHC và
những vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật đối với lĩnh vực mà
đề tài đó nghiên cứu, đóng góp to lớn cho q trình hồn thiện pháp luật về
XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB ở nước ta hiện nay.
Riêng đối với vấn đề XPVPHC đối với các hành vi LCTPHPĐT trong lĩnh
vực GTĐB thì chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách bài bản, tồn diện. Qua
tìm hiểu thực tế, tình hình vi phạm pháp luật về hành vi LCTPHPĐT diễn biến
tương đối phức tạp, hành vi vi phạm được thực hiện ngày càng phổ biến trong khi
các lực lượng chức năng đã tăng cường xử phạt trong thời gian gần đây nhưng vấn
đề vi phạm vẫn khơng thun giảm. Bên cạnh đó, việc thực hiện quy định của pháp
luật về XPVPHC đối với những hành vi này vẫn còn nhiều bất cập khi tiến hành
trên thực tế. Vậy nên, đây sẽ là cơng trình nghiên cứu tổng quan và chuyên sâu về
vấn đề XPVPHC đối với các hành vi LCTPHPĐT.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích nghiên cứu là tập trung, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, pháp lý
cũng như thực tiễn của XPVPHC đối với các hành vi LCTPHPĐT, qua đó kiến nghị
một số giải pháp hồn thiện vấn đề này.

Xuất phát từ mục đích trên, tác giả xác định Nhiệm vụ của đề tài như sau:
- Khái quát và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản và pháp luật về
XPVPHC đối với các hành vi LCTPHPĐT.
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật cũng như thực trạng
XPVPHC đối với hành vi LCTPHPĐT.
- Trên cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn, đưa ra phương hướng hoàn thiện hệ
thống pháp luật và giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động XPVPHC đối
với hành vi LCTPHPĐT trên thực tế.
4. Đối tƣợng và giới hạn phạm vi nghiên cứu


Do giới hạn về kiến thức và thời gian thực hiện nên nên tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản và quy định của pháp luật về XPVPHC đối
với hành vi LCTPHPĐT được quy định trong lĩnh vực GTĐB hiện hành.
Bên cạnh đó, do đề tài có phạm vi rộng nên tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
các vấn đề nêu trên dựa trên cơ sở thực tiễn tại TP. HCM, nơi tình hình VPHC cũng
như cơng tác XPVPHC đối với các hành vi này có thể nói là phổ biến, điển hình và
nổi bật nhất so với các địa phương khác ở nước ta.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Khoá luận nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê-nin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, bám sát đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà
nước nhằm đảm bảo tính khoa học và thực tiễn của đề tài. Đồng thời, tác giả còn sử
dụng phương pháp nghiên cứu khoa học thống kê, so sánh, phân tích để thực hiện
Khoá luận này.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn XPVPHC đối với các
hành vi LCTPHPĐT tại TP. HCM có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết trong
bối cảnh tình hình vi phạm phổ biến hiện nay. Những kiến nghị của đề tài hy vọng
sẽ đem lại kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật, góp

phần đảm bảo cho pháp luật về XPVPHC đối với các hành vi LCTPHPĐT được
thực hiện nghiêm minh, từ đó nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động quản lý nhà
nước trong việc duy trì trật tự, mỵ quan đơ thị tại TP. HCM.
7. Kết cấu của khố luận
Khoá luận gồm 02 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về XPVPHC đối với hành vi LCTPHPĐT.
Chƣơng 2: Thực trạng XPVPHC đối với hành vi LCTPHPĐT (Từ thực tiễn
TP. HCM) và một số giải pháp, kiến nghị .
Ngồi ra, Khố luận cịn có phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo.


1

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
ĐỐI VỚI HÀNH VI LẤN CHIẾM TRÁI PHÉP HÈ PHỐ ĐÔ THỊ
1.1. Những vần đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn
chiếm trái phép hè phố đô thị
1.1.1. Khái quát về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái
phép hè phố đô thị
1.1.1.1. Khái niệm, cấu thành và phân loại hành vi vi phạm hành chính lấn chiếm
trái phép hè phố đơ thị
Trước tiên, cần tìm hiểu khái niệm “LCTPHPĐT”. Theo Từ điển tiếng Việt thì
“hè phố” được hiểu là “phần chạy dọc hai bên đường phố, cao hơn mặt đường, dành
cho người đi bộ1”. Trước đây, tại Thông tư 04/2008/TT-BXD hướng dẫn quản lý
đường đô thị có định nghĩa khái niệm “hè phố” nhưng đến nay Thông tư đã hết hiệu
lực thi hành. Song, tác giả nhận thấy, khái niệm “hè phố” tại Thông tư này là khá
đầy đủ và cụ thể. Vì vậy, theo tác giả, “hè phố” (còn được gọi là vỉa hè, hè, hè
đường, lề đường) có thể được hiểu “là bộ phận của đường đô thị dành cho người đi

bộ trong đô thị và là nơi bố trí hệ thống hạ tầng kỹ thuật đơ thị dọc tuyến”. Có thể
thấy, khái niệm hè phố chỉ được đặt ra đối với đường phố trong đô thị và điều này là
phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 44 của Luật GTĐB 2008:“Đường đơ thị xây
dựng phải có hè phố, phần đường, cầu vượt, hầm và tổ chức giao thông cho người
đi bộ, người khuyết tật đi lại an tồn, thuận tiện”. Cịn “lấn chiếm” theo Từ điển Từ
và ngữ Việt Nam là “coi như của mình phần đất thực ra là của công hay là của
người khác2”. Trong các văn bản quy phạm pháp luật, thuật ngữ “lấn chiếm” được
định nghĩa trong lĩnh vực đất đai, cụ thể là Điều 3 Nghị định 102/2014/NĐ-CP ngày
10/11/2014 quy định về XPVPHC trong lĩnh vực đất đai. Tuy nhiên, chỉ những
hành vi không thuộc trường hợp được cho phép được sử dụng hè phố tạm thời ngồi
mục đích giao thơng theo quy định của mỗi địa phương, đơn cử như một số trường
hợp theo quy định tại Quyết định số 74/2008/QĐ-UBND ngày 23/10/2008 ban hành
Quy định về quản lý và sử dụng lòng đường, vỉa hè trên địa bàn TP. HCM mới là
những hành vi LCTPHPĐT. Tiếp tục căn cứ theo khoản 1 Điều 2 Luật XLVPHC
2012 định nghĩa về “VPHC”, qua đó tác giả đưa ra khái niệm hành vi VPHC
LCTPHPĐT là những hành vi trái pháp luật của cá nhân có năng lực trách nhiệm
pháp luật hành chính hay của tổ chức sử dụng hè phố của đường đơ thị khơng vì
1
2

(Truy cập ngày 04/6/2017).
Nguyễn Lân (1998), Từ điển Từ và ngữ Việt Nam, NXB TP. HCM, tr. 1034.


2

mục đích giao thơng, trái với quy định của pháp luật trong lĩnh vực GTĐB hoặc
khơng được chủ thể có thẩm quyền cho phép sử dụng tạm thời hè phố ngồi mục
đích giao thơng một cách cố ý hoặc vơ ý mà theo quy định của pháp luật phải gánh
chịu trách nhiệm hành chính.

Xét về mặt lý luận, VPHC LCTPHPĐT là một dạng cụ thể của VPHC nên
cũng có đầy đủ 04 yếu tố cấu thành của VPHC, bao gồm:
Thứ nhất, mặt khách quan của VPHC LCTPHPĐT.
Một là, hành vi VPHC LCTPHPĐT, được biểu hiện dưới dạng hành động
hoặc không hành động. Ví dụ: hành vi đỗ, để xe ở hè phố trái quy định pháp luật
của người điều khiển xe ơ tơ3 là hành vi hành động; cịn hành vi khơng hồn trả
phần đường (gồm hè phố) dùng để quản lý, bảo trì, bảo vệ cơng trình đường bộ,
hành lang an toàn đường bộ theo nguyên trạng khi thi công xong4 là hành vi được
thực hiện dưới dạng không hành động.
Hai là, tính trái pháp luật của hành vi VPHC LCTPHPĐT, thể hiện ở việc
những hành vi này bị pháp luật cấm nhưng cá nhân, tổ chức đã thực hiện (ví dụ như
điều khiển xe đi trên hè phố của người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy quy định tại
điểm g khoản 4 Điều 6 Nghị định 46/2016/NĐ-CP); hoặc hành vi pháp luật buộc
phải thực hiện nhưng tổ chức, cá nhân đã khơng thực hiện (ví dụ như không thu dọn
ngay các biển báo hiệu, rào chắn, phương tiện, vật dụng thi công, các vật liệu khác
theo nguyên trạng khi thi công xong của cá nhân, tổ chức vi phạm quy định tại điểm
đ khoản 1 Điều 13 Nghị định 46/2016/NĐ-CP); hoặc là hành vi vượt quá phạm vi
pháp luật cho phép (ví dụ như sử dụng hè phố để làm nơi trung chuyển vật liệu xây
dựng để phục vụ thi cơng cơng trình xây dựng của hộ gia đình theo quy định tại
khoản 4 Điều 1 Nghị định 100/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010 quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ
tầng GTĐB. Nếu hành vi này không diễn ra trong khung giờ từ 22 giờ hơm trước
đến 6 giờ hơm sau thì có thể bị XPVPHC theo quy định tại điểm d khoản 5 Điều 12
Nghị định 46/2016/NĐ-CP).
Cần lưu ý rằng khi nghiên cứu Nghị định 46/2016/NĐ-CP, không nhất thiết
trong điều luật phải quy định cụm từ “hè phố”, “vỉa hè” thì mới xác định đây là
hành vi VPHC LCTPHPĐT. Cần có sự linh hoạt khi xác định, vì có trường hợp
điều khoản trong Nghị định quy định chung về việc vi phạm đối với “phạm vi đất
dành cho đường bộ”, “đường bộ”,“đường phố” thì cũng có thể bao hàm cả hành vi


3
4

Điểm e khoản 3 Điều 5 Nghị định 46/2016/NĐ-CP.
Điểm đ khoản 1 Điều 13 Nghị định 46/2016/NĐ-CP.


3

vi phạm trên “hè phố”. Bởi căn cứ theo quy định tại khoản 1, 4 và 9 Điều 3 Luật
GTĐB 2008 và điểm a khoản 1 Điều 3 Thông tư 50/2015/TT-BGTVT hướng dẫn
thực hiện một số điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010 quy định
về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng GTĐB thì những cụm từ trên đã bao hàm cả
“hè phố”. Vì vậy, khi xem xét trên thực tế, người xử phạt có thể linh hoạt áp dụng
trong từng trường hợp cụ thể. Ví dụ hành vi “đổ rác ra đường bộ không đúng nơi
quy định” (điểm đ khoản 2 Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP), tuy Nghị định chỉ
quy định “ra đường bộ” nhưng trên thực tế chỉ cần được thực hiện trên hè phố, một
bộ phận của đường bộ thì cũng sẽ bị xem là hành vi LCTPHPĐT và bị XPVPHC.
Ba là, thời gian, địa điểm, phương tiện thực hiện VPHC LCTPHPĐT: Đây là
yếu tố không phải lúc nào cũng được quy định trong VPHC nhưng đôi lúc đây được
xem là dấu hiệu phổ biến hay bắt buộc để xác định và phân biệt hành vi VPHC
LCTPHPĐT. Ví dụ hành vi vi phạm liên quan đến địa điểm thực hiện như “bán
hàng rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác trên vỉa hè các tuyến phố có quy định
cấm bán hàng” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP.
Hiện nay, các tuyến phố cấm bán hàng được quy định tuỳ theo mỗi địa phương, ví
dụ như ở TP. HCM, các tuyến phố này được quy định tại Quyết định số 669/QĐUBND của UBND TP. HCM ban hành ngày 06/02/2013 quy định danh mục các
tuyến đường cho phép sử dụng tạm thời một phần vỉa hè làm bãi giữ xe công cộng
có thu phí, phục vụ kinh doanh dịch vụ, bn bán hàng hóa và cho phép đỗ xe dưới
lịng đường có thu phí trên địa bàn TP. HCM.
Bốn là, hậu quả của VPHC LCTPHPĐT: hành vi VPHC LCTPHPĐT khá đa

dạng, có những vi phạm nhỏ, chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại khơng lớn, song
cũng có những hậu quả nghiêm trọng do hành vi này gây ra. Theo ông Nguyễn
Ngọc Tường - Phó Ban An tồn giao thơng TP. HCM – báo cáo tại kỳ họp Hội
đồng nhân dân TP. HCM khóa IX ngày 03/8/2016 vừa qua, mỗi năm có hơn 100
người đi bộ tử vong vì đi khơng đúng phần đường quy định do hè phố bị lấn chiếm,
cao gấp 4 - 5 lần so với các quốc gia khác5. Hậu quả không là dấu hiệu bắt buộc của
mặt khách quan trong cấu thành của đa phần các VPHC LCTPHPĐT, song trong
một số trường hợp lại là dấu hiệu bắt buộc, ví dụ như hành vi “thi cơng trên đường
bộ đang khai thác khơng có biện pháp bảo đảm an tồn giao thơng thơng suốt” dẫn
đến hậu quả là “để xảy ra ùn tắc giao thông nghiêm trọng” thì mới bị xử phạt (điểm
b khoản 2 Điều 13 Nghị định 46/2016/NĐ-CP).

5

(Truy cập ngày 04/6/2017).


4

Thứ hai, khách thể của VPHC LCTPHPĐT.
Vì là một nhóm hành vi VPHC thuộc lĩnh vực GTĐB, hè phố lại là một bộ
phận của kết cấu hạ tầng GTĐB nên khách thể VPHC LCTPHPĐT có đặc trưng
riêng, đó là những hành vi xâm phạm các quy định về trật tự quản lý nhà nước đối
với các quy tắc trong GTĐB và kết cấu hạ tầng đường phố đô thị được quy định
trong Luật GTĐB 2008, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật GTĐB và Nghị định
46/2016/NĐ-CP.
Thứ ba, chủ thể của VPHC LCTPHPĐT: Theo Điều 5 Luật 2012 và khoản 1
Điều 2 Nghị định 46/2016/NĐ-CP thì đối tượng bị XPVPHC bao gồm cá nhân, tổ
chức, kể cả người nước ngoài có hành vi LCTPHPĐT trên lãnh thổ nước Cộng hồ
xã hội chủ nghĩa Việt Nam bị xử phạt theo quy định của Nghị định này6.

Một là, cá nhân là người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi nếu VPHC do lỗi cố ý;
người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt về mọi hành vi vi phạm.
Hai là, tổ chức theo khoản 10 Điều 2 Luật XLVPHC 2012. Tuy nhiên, khái
niệm “tổ chức” ở đây chỉ mới là định nghĩa liệt kê theo kiểu “rập khuôn”, nêu
không hết nên phải mở ra bằng một câu rất vô định “và tổ chức khác được thành lập
theo quy định của pháp luật”7.
Thứ tư, mặt chủ quan của VPHC LCTPHPĐT, bao gồm các yếu tố: Lỗi, động
cơ, mục đích của chủ thể thực hiện hành vi vi phạm. Tuy nhiên, hầu hết các hành vi
LCTPHPĐT đều không quy định dấu hiệu về mục đích, động cơ trong mặt chủ
quan.
Lỗi thể hiện thái độ, ý chí của cá nhân, tổ chức vi phạm; có thể dưới hình thức
cố ý hoặc vơ ý; là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan. Theo tác giả, đa số các
hành vi VPHC LCTPHPĐT được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, bởi vì hầu hết
những chủ thể có hành vi LCTPHPĐT đều ít nhiều hiểu biết pháp luật về trật tự an
tồn GTĐB thơng qua công tác tuyên truyền, giáo dục về pháp luật GTĐB thơng
qua báo chí, tivi, mạng xã hội,... do đó họ hồn tồn có khả năng nhận thức được
hành vi của mình là vi phạm pháp luật những vẫn cố tình vi phạm. Thực tế, khó có
người dân nào có thể biện hộ rằng họ không biết lấn chiếm hè phố là sai. Các hộ
tiểu thương thì càng biết rõ, vì họ là những người đã phải thường xuyên đối phó với
các lực lượng trật tự đô thị bằng cách tạm dọn dẹp qn xá khi có đồn kiểm tra,
hoặc “đút lót” để được nghiễm nhiên kinh doanh trên hè phố.
6

Trừ các trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy
định khác (điểm c khoản 1 Điều 5 Luật XLVPHC 2012).
7
Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội,
tr. 501.



5

Như vậy, thơng qua phân tích về 04 yếu tố cơ bản trên, có thể thấy điểm khác
biệt chủ yếu của các VPHC LCTPHPĐT so với VPHC trong các lĩnh vực khác là
khách thể của VPHC. Việc nghiên cứu cấu thành của VPHC LCTPHPĐT có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hành chính đối với chủ thể vi
phạm.
Vì các hành vi VPHC LCTPHPĐT rất đa dạng và vẫn chưa được cụ thể hoá
thành một chế định cụ thể trong Nghị định 46/2016/NĐ-CP nên tác giả phân loại
các hành vi này dựa trên tên của các Mục trong Nghị định này, gồm 02 nhóm sau:
Nhóm 1, hành vi vi phạm quy tắc GTĐB (Điều 5 – Điều 11 Nghị định
46/2016/NĐ-CP), bao gồm:
Một là, các hành vi LCTPHPĐT của người điều khiển xe ô tô và các loại xe
tương tự xe ô tô tại Điều 5: Đỗ, để xe ở hè phố trái quy định của pháp luật; Điều
khiển xe đi trên hè phố.
Hai là, các hành vi LCTPHPĐT của người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy
(kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn
máy tại Điều 6: Đỗ, để xe ở hè phố trái quy định của pháp luật; Điều khiển xe đi
trên hè phố.
Ba là, hành vi LCTPHPĐT của người điều khiển máy kéo, xe máy chuyên
dùng tại Điều 7: Đỗ, để xe ở hè phố trái quy định của pháp luật.
Bốn là, hành vi LCTPHPĐT của người điều khiển xe đạp, xe đạp máy, người
điều khiển xe thô sơ khác tại Điều 8: Để xe ở hè phố trái quy định của pháp luật.
Nhóm 2, hành vi vi phạm quy định về kết cấu hạ tầng GTĐB (Điều 12 – Điều
15 Nghị định 46/2016/NĐ-CP), bao gồm:
Một là, các hành vi vi phạm quy định về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ tại Điều 12:
- Bán hàng rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác trên vỉa hè các tuyến phố có
quy định cấm bán hàng;
- Trồng cây trong phạm vi đất dành cho đường bộ làm che khuất tầm nhìn của

người điều khiển phương tiện giao thơng;
- Đổ rác, xả nước ra đường bộ không đúng nơi quy định;
- Dựng cổng chào hoặc các vật che chắn khác trái quy định trong phạm vi đất
dành cho đường bộ gây ảnh hưởng đến trật tự, an toàn GTĐB;
- Treo băng rôn, biểu ngữ trái phép trong phạm vi đất dành cho đường bộ gây
ảnh hưởng đến trật tự an toàn GTĐB;
- Dựng rạp, lều quán, cổng ra vào, tường rào các loại, cơng trình tạm thời khác
trái phép trong phạm vi đất dành cho đường bộ;


6

- Sử dụng trái phép hè phố để: Họp chợ; kinh doanh dịch vụ ăn uống; bày, bán
hàng hóa; sửa chữa phương tiện, máy móc, thiết bị; rửa xe; đặt, treo biển hiệu, biển
quảng cáo; xây, đặt bục bệ; làm mái che hoặc thực hiện các hoạt động khác gây cản
trở giao thông;
- Chiếm dụng hè phố đô thị làm nơi trông, giữ xe;
- Đổ, để trái phép vật liệu, chất phế thải trong phạm vi đất dành cho đường bộ;
- Bày, bán máy móc, thiết bị, vật tư, vật liệu xây dựng hoặc sản xuất, gia cơng
hàng hóa trên hè phố;
- Xây dựng nhà ở, cơng trình kiên cố khác trái phép trong phạm vi đất dành cho
đường bộ.
Hai là, các hành vi vi phạm quy định về thi cơng, bảo trì cơng trình trong
phạm vi đất dành cho đường bộ tại Điều 13:
- Để vật liệu, đất đá, phương tiện thi cơng ngồi phạm vi thi cơng gây cản trở
giao thông;
- Không thu dọn ngay các biển báo hiệu, rào chắn, phương tiện, vật dụng thi
công, các vật liệu khác hoặc khơng hồn trả phần đường (gồm hè phố) theo nguyên
trạng khi thi công xong;
- Thi công trên đường bộ đang khai thác khơng có biện pháp bảo đảm an tồn

giao thơng thơng suốt để xảy ra ùn tắc giao thông nghiêm trọng.
1.1.1.2. Khái niệm của xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái
phép hè phố đô thị
Theo khoản 2 Điều 2 Luật XLVPHC 2012 thì “XPVPHC là việc người có
thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối
với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi VPHC theo quy định của pháp luật về
XPVPHC”. Việc quy định rõ ràng, cụ thể đã tạo cơ sở, tiền đề cho việc xác định thế
nào là XPVPHC trong từng lĩnh vực khác nhau, trong đó bao gồm XPVPHC trong
lĩnh vực GTĐB. Như vậy, tuy Nghị định 46/2016/NĐ-CP khơng đưa ra khái niệm
XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB, thì dĩ nhiên lại càng khơng có định nghĩa
XPVPHC đối với hành vi LCTPHPĐT, nhưng qua khái niệm chung về XPVPHC
được ghi nhận của Luật XLVPHC 2012 và kết hợp với khái niệm VPHC
LCTPHPĐT ở mục trên, theo tác giả có thể hiểu XPVPHC đối với hành vi
LCTPHPĐT là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt và
biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi VPHC
LCTPHPĐT theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái
phép hè phố đô thị


7

XPVPHC đối với hành vi LCTPHPĐT mang những đặc điểm chung của
XPVPHC và XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB như: chủ thể xử phạt phải là cơ quan
nhà nước có thẩm quyền; đối tượng bị xử phạt là cá nhân, tổ chức có hành vi vi
phạm; quyết định xử phạt mang tính cá biệt;… Bên cạnh những đặc điểm chung đó,
XPVPHC đối với hành vi LCTPHPĐT còn mang những đặc trưng riêng. Cụ thể:
Thứ nhất, được áp dụng khi có hành vi LCTPHPĐT trong lĩnh vực GTĐB.
Những hành vi được coi là vi phạm quy định chi tiết tại khoản 2 Điều 35, khoản 3
Điều 36 Luật GTĐB 2008. Tuy nhiên, những hành vi này cũng phải đồng thời được

quy định trong Nghị định 46/2016/NĐ-CP thì trách nhiệm hành chính cũng như
việc XPVPHC mới được đặt ra đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm.
Thứ hai, có nhiều chủ thể có thẩm quyền XPVPHC đối với các hành vi
LCTPHPĐT. Sự đa dạng này xuất phát từ vấn đề VPHC LCTPHPĐT diễn ra
thường xuyên với số lượng lớn, do đó địi hỏi một lực lượng chủ thể được Nhà nước
trao cho thẩm quyền XPVPHC nhằm phát hiện và xử lý kịp thời, không để lọt hành
vi vi phạm, đảm bảo trật tự quản lý nhà nước. Ngoài ra, với đặc điểm hành vi
VPHC LCTPHPĐT chủ yếu do lỗi cố ý và thường là những vi phạm dễ nhận thấy
trong thực tế như đỗ, để xe ở hè phố trái quy định pháp luật, họp chợ, bn bán
hàng hố trên hè phố,... cho nên các chủ thể có thẩm quyền cũng sẽ dễ dàng phát
hiện và xử lý theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, quyết định XPVPHC bên cạnh việc áp dụng hình thức xử phạt chính
thì thường áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả. Các biện pháp khắc phục hậu
quả nhằm khơi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi, khắc phục những thiệt hại
xấu do các VPHC LCTPHPĐT gây ra. Có thể nói, việc áp dụng các biện pháp khắc
phục hậu quả như buộc khơi phục lại tình trạng ban đầu, tháo dỡ cơng trình lấn
chiếm,... đối với các hành vi LCTPHPĐT đơi khi lại có ý nghĩa quan trọng hơn cả
việc xử phạt. Vì nếu chỉ xử phạt mà khơng buộc chủ thể vi phạm khắc phục hậu
quả, lâu dần sẽ hình thành tâm lý chỉ cần đóng tiền phạt là có thể ngang nhiên tiếp
tục hành vi vi phạm, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến tính nghiêm minh của pháp
luật cũng như dư luận xã hội.
1.1.3. Mục đích của xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái
phép hè phố đơ thị
Thứ nhất, mục đích duy trì trật tự, mỹ quan đơ thị và đảm bảo an tồn giao
thơng: Hầu như người dân nào cũng muốn được sống trong một thành phố văn
minh, sạch đẹp vậy nên việc lập lại trật tự hè phố, tạo dựng ở đó một khơng gian
thỏa mãn các tiện ích đơ thị, có thẩm mỹ cao, khoa học, ngăn nắp... là một đòi hỏi


8


tất yếu. Hơn nữa, không người đi bộ nào khi tham gia giao thông mà không muốn
được đi trên phần hè phố dành riêng cho mình, nhằm đảm bảo an toàn cho bản thân
cũng như mọi người xung quanh, tránh hậu quả đáng tiếc do tai nạn giao thông gây
ra. Do đó, đây chính là mục đích đầu tiên và quan trọng nhất của XPVPHC đối với
hành vi LCTPHPĐT.
Thứ hai, mục đích trừng phạt: Việc quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt
thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc của Nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân
VPHC nên đây là vai trò trực tiếp của các biện pháp XPVPHC đối với các hành vi
LCTPHPĐT, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong việc duy trì trật tự,
mỹ quan đô thị. Tuy việc trừng phạt trong VPHC có tính chất nhẹ hơn sự trừng phạt
trong Hình sự nhưng các biện pháp phạt tiền, phạt bổ sung như tước quyền sử dụng
giấy phép có thời hạn,... cũng đã đủ thể hiện tính chất trừng phạt người vi phạm,
làm cho họ bị tổn thất nhất định về kinh tế lẫn tinh thần.
Thứ ba, mục đích khơi phục lại trật tự pháp luật: Khôi phục lại trật tự pháp
luật có nghĩa là đưa các quan hệ xã hội bị xâm hại trở lại hiện trạng ban đầu, buộc
người vi phạm phải tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật. Khi tiến hành
XPVPHC dối với hành vi LCTPHPĐT, người vi phạm ngồi bị phạt tiền cịn có thể
bị xử phạt bổ sung và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả, tức là lúc này trật
tự kỷ cương pháp luật được khơi phục lại. Ví dụ, hành vi của “để vật liệu, đất đá,
phương tiện thi công ngồi phạm vi thi cơng gây cản trở giao thơng” thì sẽ bị buộc
áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “phải thực hiện ngay các biện pháp bảo đảm
an tồn giao thơng theo quy định, khơi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do
VPHC gây ra8”. Như vậy, bên cạnh việc trừng phạt, buộc các chủ thể VPHC phải
thực hiện đúng các quy định trong việc sử dụng hè phố đô thị cũng là một mục tiêu
quan trọng mà việc XPVPHC đối với các hành vi này hướng tới.
Thứ tư, mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa: Xuất phát từ bản chất nhân
đạo của pháp luật nên XPVPHC đối với hành vi LCTPHPĐT không chỉ nhằm mục
đích trừng phạt mà quan trọng là nhằm giúp cá nhân, tổ chức vi phạm nhận thức
được hành vi vi phạm pháp luật của mình đã xâm phạm, gây khó khăn cho hoạt

động quản lý nhà nước và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người khác, qua đó
tuyên truyền, giáo dục ý thức của cá nhân, tổ chức vi phạm và toàn xã hội tầm quan
trọng của việc chấp hành pháp luật. XPVPHC đối với các hành vi LCTPHPĐT là
một trong những biện pháp cần thiết để chính quyền quản lý đơ thị đạt hiệu quả

8

Điểm d khoản 1 và điểm b khoản 6 Điều 13 Nghị định 46/2016/NĐ-CP.


9

hơn, nói khác đi, XPVPHC vi phạm của chủ thể này cũng chính là phịng ngừa
những hành vi vi phạm đối với các chủ thể khác.
1.2. Những quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đơ thị
1.2.1. Ngun tắc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái
phép hè phố đô thị
Khái niệm “nguyên tắc” trong quản lý nhà nước được hiểu là những tư tưởng
chỉ đạo làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước9. Hoạt động
XPVPHC đối với hành vi LCTPHPĐT giúp nhà nước quản lý được tốt các hành vi
này, do đó phải tuân thủ chặt chẽ những nguyên tắc được quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật, cụ thể là tại khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC 2012.
Thứ nhất, mọi hành vi VPHC phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải
bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do VPHC gây ra phải được khắc phục theo đúng
quy định của pháp luật (điểm a khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC 2012).
Khi phát hiện vi phạm, việc làm trước tiên là ngăn chặn hành vi đó tiếp tục
diễn ra nhằm giảm bớt thiệt hại của hành vi và nhanh chóng lập biên bản vi phạm để
thực hiện công tác xử phạt. Việc áp dụng hình thức và mức xử phạt cũng đòi hỏi
phải “nghiêm minh”, tức phải đúng với mức độ nghiêm trọng của hành vi thông qua

việc xem xét lỗi, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng. Nếu hành vi vi phạm có gây
nên hậu quả thực tế thì người có thẩm quyền có trách nhiệm phải áp dụng các biện
pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại Điều 28 Luật XLVPHC 2012 và các biện
pháp khác được Chính phủ quy định trong Nghị định 46/2016/NĐ-CP. Chẳng hạn
như “buộc phải đỡ bỏ các cơng trình xây dựng trái phép, biển quảng cáo, di dời cây
trồng trái phép, thu dọn rác, vật tư, vật liệu, chất phế thải, hàng hóa, máy móc, thiết
bị, các loại vật dụng và khơi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do VPHC
gây ra” đối với các hành vi vi phạm quy định về sử dụng, khai thác phạm vi đất
dành cho đường bộ tại khoản 9 Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP. Có thể nói,
hành vi LCTPHPĐT đang diễn ra rất đa dạng, phức tạp và tràn lan nên việc phát
hiện, xử lý kịp thời là yếu tố giúp giảm bớt thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra, nhất
là những hành vi chủ yếu gây ùn tắc, tai nạn giao thông.
Thứ hai, việc XPVPHC được tiến hành nhanh chóng, cơng khai, khách quan,
đúng thẩm quyền, bảo đảm cơng bằng, đúng quy định của pháp luật (điểm b khoản
1 Luật XLVPHC 2012).
9

Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội,
tr. 40.


10

Xử phạt “nhanh chóng” trước hết có ý nghĩa bảo đảm cao nhất hiệu quả xử
phạt, từ đó thi hành kịp thời việc xử phạt và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu
quả. Trái lại, nếu xử phạt chậm trễ sẽ gây ra những hậu quả như: người vi phạm có
thể trốn tránh; phương tiện, tang vật vi phạm không thu giữ được, bị tẩu tán; phản
ứng của xã hội sẽ tiêu cực hơn. Đặc biệt, đối với các hành vi VPHC LCTPHPĐT
của những người buôn bán hàng rong với tính chất di động cao đang diễn ra đa dạng
với số lượng rất lớn trên thực tế thì hoạt động XPVPHC càng phải diễn ra nhanh

chóng nhằm chấm dứt ngay vi phạm, đảm bảo trật tự an toàn giao thông, mỹ quan
đô thị.
Yếu tố “công khai, khách quan” trong việc XPVPHC được đặt ra nhằm tạo
điều kiện cho mọi người có thể tiếp cận, tham gia kiểm sốt hoạt động xử phạt,
tránh sự sai phạm hay lạm quyền từ những người có thẩm quyền. Bên cạnh đó cũng
phải đảm bảo sự “công bằng”, bởi một trong những nguyên tắc pháp lý quan trọng
của Việt Nam là “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật10”. Nếu hoạt động xử
phạt hướng đến sự cơng bằng thì quyền và lợi ích của các bên sẽ được bảo vệ một
cách tuyệt đối11.
Luật XLVPHC 2012 quy định việc XPVPHC phải do người có thẩm quyền
tiến hành. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi pháp luật phải có sự phân định cụ thể, rõ
ràng thẩm quyền XPVPHC đối với hành vi LCTPHPĐT mà hiện tại Nghị định
46/2016/NĐ-CP (từ Điều 70 đến Điều 73) nhìn chung đã quy định khá chặt chẽ,
thống nhất, nhờ đó mà việc xử phạt được tiến hành đồng bộ, hiệu quả, tránh được
sự tranh chấp thẩm quyền xử phạt giữa các chủ thể thường gặp trong thực tiễn áp
dụng.
Xử phạt “đúng quy định pháp luật” là nguyên tắc tối cao của XPVPHC.
Nguyên tắc này được đặt ra đối với những người có thẩm quyền XPVPHC nhằm
đảm bảo nguyên tắc pháp chế12 trong hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ ba, việc XPVPHC phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm,
đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng (điểm c khoản 1 Điều 3
Luật XLVPHC 2012).
Nguyên tắc này đòi hỏi cán bộ và cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi
XPVPHC đối với các hành vi LCTPHPĐT phải căn cứ cả hai mặt “chất” và

10

Điều 16 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Nguyễn Cảnh Hợp (Chủ biên) (2015), Bình luận khoa học Luật XLVPHC năm 2012, NXB Đại học quốc
gia, TP. HCM, tr. 92.

12
Hiến pháp năm 2013 đã bỏ nguyên tắc này nhưng Luật XLVPHC 2012 ra đời lúc Hiến pháp năm 1992
đang có hiệu lực pháp luật và có quy định nguyên tắc này.
11


11

“lượng” của hành vi để đảm bảo việc xử phạt được chính xác, phù hợp với thực tiễn
vi phạm, có như vậy mới có tác dụng trong việc đấu tranh phòng chống VPHC ở
lĩnh vực này13. Phải xử phạt đúng người, đúng tính chất và mức độ vi phạm, bởi
khơng phải sự vi phạm nào cũng như nhau, mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác
nhau. Chẳng hạn, người tái VPHC thường có thái độ chấp hành pháp luật tiêu cực
hơn so với người lần đầu vi phạm, và đây được xem là tình tiết tăng nặng để làm cơ
sở áp dụng hình thức và mức xử phạt nặng hơn. Tuy nhiên, việc Nghị định
46/2016/NĐ-CP khơng có điều khoản nào quy định cụ thể về các tình tiết tăng
nặng, tình tiết giảm nhẹ nên có thể hiểu Nghị định đã “ngầm” viện dẫn các tình tiết
này theo quy định của Luật XLVPHC 2012 và việc này có phần chưa hợp lý. Các
tình tiết giảm nhẹ trong Luật có tính chất khung, trong khi đó, GTĐB là một lĩnh
vực có nhiều đặc thù riêng, cần có những quy định cụ thể. Việc áp dụng các quy
định chung trong từng lĩnh vực đặc thù sẽ tạo khơng ít khó khăn trong hoạt động
thực tiễn14.
Thứ tư, chỉ XPVPHC khi có hành vi VPHC do pháp luật quy định; Một hành
vi VPHC chỉ bị xử phạt một lần; Nhiều người cùng thực hiện một hành vi VPHC thì
mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi VPHC đó; Một người thực hiện nhiều
hành vi VPHC hoặc VPHC nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm (điểm d
khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC 2012).
Đối với các hành vi LCTPHPĐT, cá nhân, tổ chức được coi là VPHC khi họ
thực hiện những hành vi được quy định trong Nghị định XPVPHC có quy định liên
quan đến việc sử dụng hè phố đơ thị. Nếu tổ chức, cá nhân đó thực hiện những hành

vi chưa được quy định trong Nghị định thì họ khơng bị coi là có VPHC, dù cho
hành vi đó có tính chất nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ: Sử dụng tạm thời một phần hè
phố để “tổ chức đám cưới và điểm trông, giữ xe phục vụ đám cưới của hộ gia đình”
theo quy định tại điểm c Điều 25a Nghị định 100/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010 quy định về quản lý và
bảo vệ kết cấu hạ tầng GTĐB thì hành vi này được diễn ra trong vịng “khơng q
48 giờ”. Tuy nhiên, hiện nay Nghị định 46/2016/NĐ-CP lại khơng có điều khoản
nào xử phạt về hành vi sử dụng tạm thời hè phố để “tổ chức đám cưới” diễn ra quá
khung giờ pháp luật cho phép vì vậy khơng thể xử phạt hành vi này trên thực tế.
Khi một người thực hiện một hành vi vi phạm thì họ phải chịu trách nhiệm

13

Trường Đại học Luật TP. HCM (2014), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB Hồng Đức – Hội Luật
gia Việt Nam, TP. HCM, tr. 541.
14
Cao Vũ Minh (2012), XLVPHC trong lĩnh vực GTĐB tại TP. HCM – Thực trạng và hướng hoàn thiện, Đề
tài Nghiên cứu khoa học cấp trường, trường ĐH Luật TP. HCM, tr. 22.


12

hành chính về chính hành vi mà họ đã thực hiện (trong một thời gian, không gian
xác định) và không thể buộc họ phải tiếp tục chịu thêm trách nhiệm hành chính một
lần nữa về hành vi đó, nghĩa là không được xử phạt nhiều lần cho một hành vi
VPHC, vì như vậy là chồng chéo và khơng mang tính giáo dục cũng như tính nhân
đạo. Mặt khác, trong trường hợp “nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm”
thì mỗi người đều bị XPVPHC về hành vi mà họ vi phạm. Đây là trường hợp mà có
sự đồng ý (dưới bất kỳ hình thức nào) và tham gia thực hiện hành vi VPHC của từ
hai người trở lên. Một điểm mới của Luật XLVPHC 2012 so với các Pháp lệnh

trước là nếu “VPHC nhiều lần thì bị xử phạt đối với từng hành vi vi phạm”, có thể
hiểu là một cá nhân, một tổ chức vi phạm nhiều lần (02 lần trở lên) trước đó nhưng
chưa bị xử phạt thì khi bị phát hiện sẽ bị xử phạt từng hành vi riêng. Cần lưu ý rằng,
“thực hiện nhiều hành vi VPHC” và “VPHC nhiều lần” là hai trường hợp khác nhau
nhưng Luật XLVPHC 2012 quy định xử phạt theo cùng một nguyên tắc nên đã thể
hiện sự bất cập khi vừa quy định “VPHC nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi
phạm” lại vừa quy định đây là tình tiết tăng nặng tại điểm b khoản 1 Điều 10 Luật
này15.
Thứ năm, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh VPHC.
Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thơng qua người đại diện hợp
pháp chứng minh mình khơng VPHC (điểm đ khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC 2012).
Đây là nguyên tắc hoàn toàn mới, được quy định lần đầu trong Luật XLVPHC
2012, xuất phát từ bản chất quan hệ giữa người có thẩm quyền xử phạt và người bị
xử phạt là quan hệ pháp luật hành chính, với đặc trưng là sự áp đặt ý chí của bên sử
dụng quyền lực nhà nước đối với bên kia. Điều này dễ làm cho người có thẩm
quyền xử phạt áp đặt ý chí một cách chủ quan. Quy định này nhằm đề cao trách
nhiệm của người có thẩm quyền xử phạt trong việc đảm bảo tính có căn cứ thực tiễn
xác đáng của quyết định XPVPHC. Mặt khác, nguyên tắc này còn coi trọng quyền
tự bảo vệ của cá nhân, tổ chức bị xử phạt, để tránh trường hợp người có thẩm quyền
xử phạt vì những lí do nào đó mà nhìn nhận, đánh giá vụ việc khơng đầy đủ, thiếu
khách quan dẫn đến việc xử phạt không phù hợp với thực tế16. Cần nói thêm rằng,
Luật quy định đây là quyền của cá nhân, tổ chức bị xử phạt do đó họ có thể thực
hiện hoặc khơng.

15

Nguyễn Cảnh Hợp, tlđd 11, tr. 97.
Bùi Thị Đào (2014), “Luật XLVPHC – Bước tiến mới của pháp luật về XLVPHC và một số vấn đề cần
trao đổi”, Luật học, (06), tr. 11.
16



13

Thứ sáu, đối với cùng một hành vi VPHC thì mức phạt tiền đối với tổ chức
bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân (điểm e khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC
2012).
Đây là quy định mới so với các pháp lệnh trước đây, nhằm phân hoá đối tượng
bị XPVPHC là tổ chức với cá nhân. Quy định này có thể xuất phát từ bản chất hành
vi VPHC giữa hai loại chủ thể này. Cá nhân vi phạm thì chỉ là sự vi phạm của một
người, đa số là những vi phạm nhỏ, tính nguy hiểm khơng cao, cịn tổ chức thì
thường thực hiện những hành vi có sự cấu kết của cả một tập thể nên có thể nói tính
chất, mức độ của hành vi vi phạm có phần nào lớn hơn.
1.2.2. Hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đơ thị
1.2.2.1. Hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép
hè phố đơ thị
Thứ nhất, về hình thức xử phạt chính.
Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định 02 hình thức xử phạt chính đối với các
hành vi LCTPHPĐT gồm cảnh cáo và phạt tiền, các hình thức cịn lại chỉ áp dụng
như hình thức xử phạt bổ sung. Tuy nhiên, hình thức xử phạt cảnh cáo sẽ chỉ được
áp dụng đối với hành vi LCTPHPĐT “do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi thực hiện17”, còn lại đều bị xử phạt dưới hình thức phạt tiền.
Phạt tiền là hình thức xử phạt VPHC mà người vi phạm pháp luật phải nộp
phạt bằng tiền mặt18. Đối với các hành vi LCTPHPĐT, mức phạt tiền tối thiểu là
100.000 đồng và tối đa là 20.000.000 đồng đối với cá nhân và theo đó, mức phạt
tiền tối thiểu đối với tổ chức sẽ là từ 200.000 đồng đến mức tối đa là 40.000.000
đồng. Các mức phạt tiền tối thiểu, tối đa này là phù hợp với quy định về mức phạt
trong lĩnh vực GTĐB được quy định tại khoản 1 Điều 23 và điểm b khoản 1 Điều
24 Luật XLVPHC 2012.

So với Nghị định 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định XPVPHC trong
lĩnh vực GTĐB và đường sắt trước đó thì mức phạt tiền đối với một số hành vi
LCTPHPĐT tại Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP đã có sự tăng lên đáng kể, như
để chấn chỉnh tình hình thực tế các hành vi vi phạm này đang ngày càng gia tăng,
gây mất mỹ quan đô thị trầm trọng. Cụ thể như sau:

17
18

Điều 22 Luật XLVPHC 2012.
Nguyễn Cửu Việt (2013), tlđd 9, tr. 519.


14

Hành vi

Nghị định
171/2013/NĐ-CP

Nghị định
46/2016/NĐ-CP

Đổ, để trái phép vật liệu, chất - Cá nhân: Phạt tiền - Cá nhân: Phạt tiền
phế thải trong phạm vi đất dành từ 3 - 5 triệu
từ 4 - 6 triệu
cho đường bộ
- Tổ chức: Phạt tiền - Tổ chức: Phạt tiền
từ 6 - 10 triệu


từ 8 - 12 triệu

(Điểm a Khoản 4)

(Điểm a Khoản 5)

Sử dụng trái phép đất của đường - Cá nhân: Phạt tiền - Cá nhân: Phạt tiền
bộ làm nơi tập kết hoặc trung từ 3 - 5 triệu
từ 4 - 6 triệu
chuyển hàng hóa, vật tư, vật liệu - Tổ chức: Phạt tiền - Tổ chức: Phạt tiền
xây dựng, máy móc, thiết bị, các từ 6 - 10 triệu
loại vật dụng khác
(Điểm d Khoản 4)

từ 8 - 12 triệu
(Điểm d Khoản 5)

Bày, bán máy móc, thiết bị, vật - Cá nhân: Phạt tiền - Cá nhân: Phạt tiền
tư, vật liệu xây dựng hoặc sản từ 3 - 5 triệu
từ 4 - 6 triệu
xuất, gia cơng hàng hóa trên hè - Tổ chức: Phạt tiền - Tổ chức Phạt tiền từ
phố
từ 6 - 10 triệu
8 - 12 triệu
(Điểm e Khoản 4)
Chiếm dụng hè phố từ 05 m2 đến - Cá nhân: Phạt tiền
dưới 10 m2 làm nơi trông, giữ xe từ 3 - 5 triệu
- Tổ chức: Phạt tiền
từ 6 - 10 triệu
(Điểm g Khoản 4)


(Điểm e Khoản 5)
- Cá nhân: Phạt tiền
từ 4 - 6 triệu
- Tổ chức: Phạt tiền
từ 8 - 12 triệu
(Điểm g Khoản 5)

Xây dựng nhà ở trái phép trong - Cá nhân: Phạt tiền - Cá nhân: Phạt tiền
phạm vi đất dành cho đường bộ từ 5 - 7 triệu
từ 15 - 20 triệu
ở đoạn đường trong đô thị
- Tổ chức: Phạt tiền - Tổ chức: Phạt tiền
từ 10 - 14 triệu
(Điểm a Khoản 5)
Chiếm dụng hè phố từ 10 m2 đến - Cá nhân: Phạt tiền
dưới 20 m2 làm nơi trông, giữ xe từ 5 - 7 triệu
- Tổ chức: Phạt tiền
từ 10 - 14 triệu
(Điểm b Khoản 5)

từ 30 - 40 triệu
(Điểm a Khoản 8)
- Cá nhân: Phạt tiền
từ 6 - 8 triệu
- Tổ chức: Phạt tiền
từ 12 - 16 triệu
(Khoản 6)



15

Thứ hai, về các hình thức xử phạt bổ sung.
Một là, tước quyền sử dụng giấy phép có thời hạn: Phần lớn các hành vi
LCTPHPĐT chỉ bị áp dụng hình thức xử phạt chính là phạt tiền, cịn hình thức xử
phạt bổ sung tước quyền sử dụng giấy phép, cụ thể là giấy phép lái xe được áp dụng
đối với hành vi đỗ, để xe trái phép hoặc điều khiển xe đi trên hè phố đô thị mà “gây
tai nạn giao thông”, quy định tại điểm c khoản 12 Điều 6 Nghị định 46/2016/NĐCP đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), tại điểm c
khoản 12 Điều 5 Nghị định 46/2016/NĐ-CP đối với người điều khiển xe ô tô và tại
điểm b khoản 9 Điều 7 Nghị định này đối với người điều khiển máy kéo với thời
hạn từ 02 đến 04 tháng. Riêng đối với người điều khiển xe ô tô điều khiển xe đi trên
hè phố nếu khơng có dấu hiệu “gây ra tai nạn giao thông” sẽ bị tước quyền sử dụng
giấy phép lái xe từ 01 đến 03 tháng theo quy định tại điểm b khoản 12 Điều 5 Nghị
định 46/2016/NĐ-CP. Ngồi ra, Nghị định cịn quy định thêm hình thức tước
“chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về GTĐB” từ 02 đến 04 tháng trong
trường hợp người điều khiển xe máy chuyên dùng thực hiện hành vi LCTPHPĐT
mà “gây tai nạn giao thông”.
Thời điểm bắt đầu tính thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép lái xe, giấy
phép thi công, chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về GTĐB cũng được quy
định cụ thể tại khoản 3 Điều 77 Nghị định 46/2016/NĐ-CP. Trong thời hạn tước
quyền xử dụng giấy phép, chứng chỉ, người có thẩm quyền xử phạt giữ giấy phép,
chứng chỉ đồng thời thông báo cho cơ quan đã cấp giấy phép, chứng chỉ đó biết.
Khi hết thời hạn tước quyền ghi trong quyết định xử phạt, người có thẩm quyền
giao lại giấy phép, chứng chỉ cho cá nhân, tổ chức đã bị tước.
Hai là, đình chỉ hoạt động có thời hạn: Đây là hình thức xử phạt hồn tồn
mới được quy định trong Luật XLVPHC 2012, phần nào đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm mà pháp luật quy định
khơng phải có giấy phép. Cụ thể đối với hành vi LCTPHPĐT thì hình thức xử phạt
này được áp dụng đối với hành vi “thi cơng trên đường bộ đang khai thác khơng có
biện pháp bảo đảm an tồn giao thơng thơng suốt để xảy ra ùn tắc giao thông

nghiêm trọng” tại điểm b khoản 2 Điều 13 Nghị định 46/2016/NĐ-CP, thời hạn bị
đình chỉ hoạt động là từ 01 đến 03 tháng.
1.2.2.2. Các biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị
Dựa trên quy định của Luật XLVPHC 2012, thì trong lĩnh vực GTĐB các biện
pháp khắc phục hậu quả được quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 46/2016/NĐ-


16

CP. Đối với các hành vi LCTPHPĐT, biện pháp “buộc khơi phục lại tình trạng ban
đầu” là biện pháp được áp dụng nhiều nhất, nhằm đảm bảo nguyên tắc “mọi hậu
quả VPHC gây ra phải được khắc phục”, đồng thời tránh tình trạng cá nhân, tổ
chức chấp nhận bị phạt tiền để tồn tại hành vi vi phạm cũng như bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và hệ
thống quản lý của nhà nước. Bên cạnh đó, cịn có các biện pháp khắc phục hậu quả
đặc thù trong việc XPVPHC các hành vi này như “buộc phải đỡ bỏ các cơng trình
xây dựng trái phép, biển quảng cáo, di dời cây trồng trái phép, thu dọn rác, vật tư,
vật liệu, chất phế thải, hàng hóa, máy móc, thiết bị, các loại vật dụng” hay “buộc
phải thực hiện ngay các biện pháp bảo đảm an tồn giao thơng theo quy định”.
1.2.3. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái
phép hè phố đô thị
Pháp luật trao quyền XPVPHC cho nhiều người nhằm tạo điều kiện phát hiện
và XPVPHC nhanh chóng, kịp thời. Tuy nhiên, việc giao quyền xử phạt của các cơ
quan, chủ thể có thẩm quyền phải rạch rịi để tránh chồng chéo thẩm quyền và bảo
đảm trật tự pháp luật. Vì thế nên pháp luật vừa quy định thẩm quyền XPVPHC của
mỗi chức danh vừa quy định nguyên tắc xác định phạm vi thẩm quyền xử phạt
(Điều 52 Luật XLVPHC 2012 và Điều 74 Nghị định 46/2016/NĐ-CP). Theo quy
định tại Điều 86, Điều 87 Luật GTĐB 2008 thì Cảnh sát GTĐB và Thanh tra đường
bộ là hai lực lượng chính có quyền XPVPHC đối với các hành vi LCTPHPĐT.

Ngồi ra cịn có lực lượng Cảnh sát trật tự, Cảnh sát cơ động, Cảnh sát 113, Công
an xã tham gia phối hợp, hỗ trợ Cảnh sát GTĐB tuần tra, kiểm soát, đảm bảo trật tự
an toàn GTĐB, trong trường hợp cần thiết huy động thêm lực lượng được thực hiện
theo Nghị định số 27/2010/NĐ-CP của Chính phủ về huy động thêm lực lượng tuần
tra, kiểm soát bảo đảm trật tự an tồn GTĐB và Thơng tư 47/2011/TT-BCA quy
định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 27/2010/NĐ-CP. Ngoài ra, theo
quy định tại Điều 54 Luật XLVPHC 2012 thì cấp phó của một số chức danh cũng
có thẩm quyền xử phạt trong trường hợp được giao quyền. Đặc biệt, việc giao
quyền này phải được thể hiện bằng văn bản, trong đó xác định rõ phạm vi, nội dung,
thời hạn giao quyền.
Cụ thể, các chủ thể có thẩm quyền XPVPHC đối với các hành vi LCTPHPĐT
được quy định trong Nghị định được chia thành 03 nhóm sau:
Nhóm 1 là Chủ tịch UBND các cấp: Trong bộ máy hành chính của nước ta,
UBND các cấp là cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chung trên đơn vị lãnh
thổ tương ứng. Theo khoản 3 Điều 52 Luật XLVPHC 2012, Chủ tịch UBND các
cấp có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi LCTPHPĐT theo quy định trong


×