Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Tiến trình công tác xã hội cá nhân đối với người có HIV AIDS trong tiếp cận điều trị ARV từ thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 100 trang )

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG VĂN ĐỀU

TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI NGƢỜI CÓ HIV/AIDS TRONG TIẾP CẬN
ĐIỀU TRỊ ARV TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG VĂN ĐỀU

TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI NGƢỜI CÓ HIV/AIDS TRONG TIẾP CẬN
ĐIỀU TRỊ ARV TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên nghành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN HỒI LOAN

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn Thạc sĩ công tác xã hội với đề tài “Tiến trình
công tác xã hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS trong tiếp cận điều trị ARV từ
thực tiễn thành phố Hà Nội” là công trình nghiên cứu mà tôi đã dành nhiều thời gian
cũng như nỗ lực với tinh thần khách quan và trung thực.
Tác giả luận văn

Đặng Văn Đều


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ
HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI NGƢỜI CÓ HIV/AIDS TRONG TIẾP CẬN ĐIỀU
TRỊ ARV ....................................................................................................................8
1.1 Khái niệm...........................................................................................................8
1.2 Lý luận về công tác xã hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS ...................15
1.3 Cơ sở pháp lý của công tác xã hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS trong
tiếp cận điều trị ARV .............................................................................................20
1.4 Các yếu tố chi phối công tác xã hội cá nhân với người có HIV/AIDS trong
tiếp cận điều trị ARV .............................................................................................23
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI NGƢỜI
CÓ HIV/AIDS TRONG TIẾP CẬN ĐIỀU TRỊ ARV TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...........................................................................................27
2.1 Vài nét về địa bàn nghiên cứu và khách thể nghiên cứu .................................27

2.2 Hoạt động công tác xã hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS từ thực tiễn
thành phố Hà Nội ...................................................................................................31
2.3 Tác động của các hoạt động công tác xã hội cá nhân đối với người có
HIV/AIDS từ thực tiễn thành phố Hà Nội .............................................................36
Chƣơng 3: TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI NGƢỜI
CÓ HIV/AIDS TRONG TIẾP CẬN ĐIỀU TRỊ ARV TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...........................................................................................39
3.1 Ứng dụng tiến trình công tác xã hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS trong
tiếp cận điều trị ARV từ thực tiễn thành phố Hà Nội ............................................39
3.2 Các giải pháp bảo đảm thực hiện tiến trình công tác xã hội cá nhân đối với
người có HIV/AIDS trong tiếp cận điều trị ARV..................................................73
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Tiếng Anh

Tiếng Việt

AIDS (Acquired Immune Deficiency

Hội chứng Suy giảm Miễn dịch mắc

Syndrome):

phải

ARV (Anteretroviral):


Kháng retrovirus

HIV (Human Immunodeficieny Virus):

Virus gây ra Hội chứng Suy giảm Miễn
dịch Mắc phải ở người

NCH:

Người có HIV/AIDS

PAC (Provincial AIDS Centre)

Trung tâm phòng chống HIV/AIDS

PBĐX:

Phân biệt đối xử

PCSA (Parliamentary Committee for

Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc

Social Affairs):

hội

UNAIDS (Joint United Nations

Chương trình phối hợp của Liên hiệp


Programme on HIV/AIDS):

quốc về HIV/AIDS

UNDP (United Nations Development

Chương trình hỗ trợ phát triển của Liên

Programme):

hiệp quốc

NVCTXH:

Nhân viên công tác xã hội


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Các nhóm đối tượng của cuộc nghiên cứu ..................................... 29
Bảng 2.2: Thông tin chung về nhóm NCH tham gia nghiên cứu ................... 30


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn kiện “Tuyên bố cam kết về HIV/AIDS” của khóa họp đặc biệt, Liên hợp
quốc (New York, 25 – 27/06/2001) đã nhận định: “bệnh dịch toàn cầu HIV/AIDS,
với quy mô và sự tác động ở mức hủy hoại của nó, là một vấn đề khẩn cấp toàn cầu
và là một trong những thách thức to lớn nhất đối với cuộc sống và nhân phẩm của

con người,… HIV/AIDS đã và đang phá hoại công cuộc phát triển kinh tế - xã hội
trên toàn thế giới, tác động đến mọi tầng lớp xã hội, quốc gia, công đồng, gia đình
và cá nhân”. Từ trường hợp đầu tiên của nước ta phát hiện ra người nhiễm HIV đầu
tiên vào tháng 12 năm 1990, tính đến ngày 30 tháng 12 năm 2015 số người nhiễm
HIV là 227.154 người; số bệnh nhân AIDS là 85.194; số người tử vong là 86.716
người; tỉ lệ mắc HIV/100.000 dân là 250 người và còn có xu hướng tăng lên trong
tương lai. Hiện nay ở Việt Nam đã và đang thực hiện nhiều các cách hỗ trợ với các
hình thức khác nhau bao gồm: các dịch vụ trong công tác phòng, chống và hỗ trợ
người có HIV/AIDS chủ yếu tập trung vào việc cung cấp thông tin, tư vấn và xét
nghiệm HIV, khuyến khích sử dụng bao cao su, phân phát bơm kim tiêm, dự phòng
lây truyền HIV từ mẹ sang con, điều trị, chăm sóc và hỗ trợ. Trong khi đó, thực tế
hiện nay cho thấy một trong những khó khăn mà NCH gặp phải nhiều nhất là trong
lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, các cách hỗ trợ trên mới chỉ mang tính chất
chung trong việc giải quyết vấn đề, mà chưa đi sâu vào việc giải quyết những nhu
cầu cấp bách của NCH, trong số đó phải kể đến vấn đề tiếp cận ARV, đây chính là
nhu cầu rất cần thiết của NCH hiện nay. Nhưng từ các nghiên cứu trước đó mới cho
thấy những khó khăn và rào cản mà NCH gặp phải trong quá trình tiếp cận điều trị
ARV, mà chưa một nghiên cứu nào thể hiện được những phương pháp, cách thức
hỗ trợ NCH tham gia tiếp cận điều trị ARV sớm và tuân thủ phác đồ điều trị. Cụ thể
là chưa có những hoạt động công tác xã hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS
trong tiếp cận điều trị ARV.
Do đó, đơn cử là một nhân viên công tác xã hội, tôi thấy vai trò của công tác xã
hội đối với công tác phòng chống HIV/AIDS nói chung và hỗ người có HIV/AIDS
tiếp cận điều trị ARV rất quan trọng.

1


Với đề tài: “Tiến trình công tác xã hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS
trong tiếp cận điều trị ARV từ thực tiễn thành phố Hà Nội”. Từ những nghiên cứu

lý luận – thực tiễn và các hình thức can thiệp được thể hiện trong đề tài này sẽ cho
thấy rõ những ưu điểm về cách tiếp cận, thực hiện các phương pháp hỗ trợ nâng cao
năng lực nhằm thay đổi nhận thức hành vi của NCH trong việc tiếp cận điều trị
ARV là rất cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng một trong những khó khăn mà NCH gặp phải
nhiều nhất là trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Các nghiên cứu hiện có về vấn đề
chăm sóc sức khỏe đối với NCH ở Việt Nam thường tập trung vào một số mảng
sau: tư vấn và xét nghiệm HIV, dự phòng lây truyền từ mẹ sang con, điều trị, chăm
sóc và hỗ trợ.
Các hoạt động tư vấn và xét nghiệm HIV ở một số cơ sở y tế được chứng
minh là không hướng tới quyền và lợi ích của NCH. Kết quả nghiên cứu của Viện
Nghiên cứu Phát triển Xã hội (2006) cho thấy nhiều nhân viên bệnh viện đã không
thông báo kết quả xét nghiệm cho các trường hợp dương tính. Trong một số trường
hợp, kết quả xét nghiệm còn được thông báo cho người nhà mà không thông báo
cho bệnh nhân. Thậm chí, nhiều người trong cộng đồng biết kết quả xét nghiệm của
một người trước khi người được xét nghiệm trở về từ bệnh viện hoặc trung tâm cai
nghiện. Chính sự vi phạm quyền riêng tư này đã làm hạn chế việc tiếp cận các dịch
vụ xét nghiệm HIV của người dân.
Tiếp cận điều trị ARV là một nhu cầu rất cần thiết của NCH. Các nghiên cứu
đã ghi nhận những khó khăn và rào cản mà NCH gặp phải trong việc tiếp cận điều
trị. Mặc dù tiếp cận ARV ngày càng trở nên sẵn có, số lượng được tiếp cận trên
thực tế vẫn còn hạn chế so với số người cần được điều trị. Đối với những người
không thuộc đối tượng được xét điều trị, họ phải tự chi trả các chi phí xét nghiệm và
nhiều khi cả chi phí đi lại. Những chi phí này có thể tương đương với vài tháng thu
nhập của họ. Ngay cả đối với những người được cung cấp miễn phí điều trị ARV,
họ vẫn phải tự chi trả cho một số khoản chi phí y tế như xét nghiệm CD4, chẩn
đoán và điều trị nhiễm trùng cơ hội, tác dụng phụ, kháng thuốc và nhiễm độc trong

2



quá trình điều trị ARV (PCSA & UNDPA, 2009). Việc quy định bệnh nhân phải có
hộ khẩu hoặc địa chỉ rõ ràng khi đăng ký điều trị ARV cũng làm hạn chế khả năng
tiếp cận đối với một số đối tượng nhất định như những người vô gia cư hoặc lao
động nhập cư. Những người có HIV đang sử dụng ma túy còn phải đối mặt với
những khó khăn khác trong tiếp cận điều trị. Chính sự kỳ thị và phân biệt đối xử của
cán bộ y tế cho rằng người sử dụng ma túy là “đáng lên án” và không đáng tin cậy,
khó có thể tuân thủ điều trị, đã khiến cho họ ít có cơ hội được nhận điều trị ARV
(Khuất Hải Oanh, 2007).
Những khó khăn và cản trở trong các hoạt động chăm sóc và hỗ trợ của
NCH thường được các nghiên cứu phân tích trên khía cạnh sự kỳ thị và phân biệt
đối xử tại cơ sở y tế và ngay tại gia đình của NCH. Nghiên cứu của Khuất Thu
Hồng và đồng nghiệp (2004) chỉ ra rằng NCH cảm nhận được sự xa lánh, e ngại
hoặc thái độ miễn cưỡng của nhân viên y tế khi chăm sóc họ. Thậm chí, một số
nhân viên y tế thừa nhận đã sử dụng thái quá các phương tiện bảo hộ hoặc sử dụng
một bộ dụng cụ, trang thiết bị khám chữa bệnh riêng cho bệnh nhân AIDS do lo sợ
bị lây nhiễm sang bản thân và sang các bệnh nhân khác. Không chỉ có nhân viên y
tế mà cả những bệnh nhân khác hoặc người nhà của họ cũng tỏ ra kỳ thị và PBĐX,
như xa lánh, xin chuyển phòng hoặc đi xét nghiệm lại máu nếu phát hiện mình đang
được chữa trị cùng với bệnh nhân có HIV/AIDS. Khảo sát của PCSA và UNDP
(2009) cũng đưa ra những bằng chứng về sự phổ biến của các thái độ và thực hành
mang tính kỳ thị tại các cơ sở chăm sóc sức khỏe. Khi so sánh những người bị ốm là
thành viên của hộ có NCH và hộ không có, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ
NCH phàn nàn rằng họ thường bị chuyển qua lại hết nơi này đến nơi khác thay vì
được hỗ trợ hay giúp đỡ từ y tá và họ bị cách ly ở một khu riêng biệt cao hơn rất
nhiều so với những người bị bệnh khác. Ngoài ra, có 6% NCH được hỏi cho biết
rằng bệnh viện đã thông báo tình trạng HIV của họ cho những người khác.
Các nghiên cứu khác với các cán bộ y tế, những người trực tiếp thăm khám
cho bệnh nhân HIV/AIDS và thường được kỳ vọng là có kiến thức và hiểu biết về

HIV, cũng cho thấy những kết quả tương tự với những nghiên cứu về trải nghiệm
của chính những người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS nêu trên. Một khảo sát về kiến

3


thức, thái độ và thực hành của 151 bác sỹ ở một bệnh viện ở tỉnh Quảng Ninh năm
2005 cho thấy có tới gần ¾ các bác sỹ lo sợ lây nhiễm HIV từ bệnh nhân của họ,
gần ½ cảm nhận khác biệt về bệnh nhân có HIV so với các bệnh nhân khác, gần
40% cảm thấy không thoải mái khi chạm vào các bệnh nhân có HIV trong lúc khám
chữa bệnh cho họ. Khảo sát này cũng chỉ ra rằng hơn 2/3 số người tham gia nghiên
cứu đồng ý rằng nên có một khoa hay bệnh viện dành riêng cho bệnh nhân AIDS và
35% đồng ý với nhận định rằng các nhân viên y tế có quyền từ chối chăm sóc cho
các bệnh nhân có HIV. Nguyên nhân của những thái độ và hành động tiêu cực này
là do những lầm tưởng về cách thức lây truyền HIV và sự thiếu hiểu biết về HIV
sinh học của một bộ phận bác sỹ được khảo sát.
Những kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong một nghiên cứu can thiệp
được thực hiện với gần như toàn bộ cán bộ và nhân viên của hai bệnh viện ở Hải
Phòng và Quảng Ninh (phía Bắc) và hai bệnh viện ở Cần Thơ (phía Nam) (Khuất
Thị Hải Oanh và đồng nghiệp, 2008). Một trong những phát hiện quan trọng mới
mà nghiên cứu đầu vào đã chỉ ra đó là, ngoài các nhân tố mang tính cá nhân bao
gồm những hiểu biết sai lầm về cách thức lây truyền, lo sợ lây nhiễm và do phán xét
về mặt đạo đức của NCH, một số nhân tố mang tính thể chế, như việc không có
hoặc có nhưng không hợp lý của các chính sách ở cả cấp quốc gia và cấp bệnh viện
nhằm đảm bảo sự công bằng trong khám chữa bệnh cho bệnh nhân có HIV cũng
như sự an toàn cho đội ngũ cán bộ và nhân viên của bệnh viện, đã tạo điều kiện cho
kỳ thị và PBĐX tại các bệnh viện này.
Không chỉ bị kỳ thị và PBĐX tại cơ sở y tế, kết quả của các nghiên cứu cho
thấy NCH còn phải chịu đựng sự kỳ thị và PBĐX ngay trong gia đình mình, nơi mà
luôn được coi là nơi đem lại tình yêu thương, sự chăm sóc và hỗ trợ cho các thành

viên của mình. Cuộc nghiên cứu của Khuất Thu Hồng và đồng nghiệp (2004) chỉ ra
rằng tuy phần lớn các gia đình đều chăm sóc NCH là thành viên gia đình mình tại
nhà, nhưng nỗi lo sợ bị lây nhiễm HIV tác động khá mạnh tới các hình thức chăm
sóc của người nhà đối với họ. Một số gia đình đã thuê người, đôi khi đó là những
NCH khác, để chăm sóc người nhà có HIV. Một số gia đình khác có ý định gửi con
là NCH đến một cơ sở y tế chăm sóc khi con đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Ở

4


những trường hợp tiêu cực hơn, NCH bị các thành viên trong gia đình từ chối chăm
sóc và đuổi ra khỏi nhà.
Những thái độ kỳ thị và hành vi PBĐX nêu trên được chứng minh là có
những tác động tiêu cực đến hoạt động chăm sóc và hỗ trợ những người có HIV.
Chính vì những trải nghiệm bị kỳ thị và PBĐX, NCH thường cảm thấy mặc cảm, cô
lập bản thân (Mai Doan Anh Thi, 2008) hoặc e ngại tiếp xúc với nhân viên y tế khi
có nhu cầu tìm hiểu thêm thông tin (Khuất Thu Hồng và đồng nghiệp, 2004) khi là
bệnh nhân trong bệnh viện. Nhiều NCH thậm chí còn cố gắng tìm cách che giấu
tình trạng có HIV của mình với nhân viên y tế. Tiêu cực hơn, họ không tìm đến các
dịch vụ thăm khám sức khỏe mà tự chữa, hoặc chỉ đến khi bệnh đã rất nặng (Mai
Doan Anh Thi, 2008). Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào với quy
mô lớn và chuyên sâu được thực hiện để đưa ra những hiểu biết sâu hơn và những
bằng chứng đáng thuyết phục về những ảnh hưởng của kỳ thị và PBĐX đối với việc
chăm sóc sức khỏe của NCH.
Với tất cả những dữ liệu nói trên với mục đích là mô tả thực trạng NCH hiện
nay, từ những khó khăn/rào cản ban đầu là việc tư vấn xét nghiệm HIV/AIDS, nhận
thức về HIV/AIDS, cho đến những thái độ kỳ thị và PBĐX từ cộng đồng, cơ sở y
tế, gia đình đã dẫn đến đã cho thấy một vấn đề lớn nhất mà chung nhất đó chính là
khả năng tiếp cận điều trị của NCH rất hạn chế và với mực độ thấp. Tuy nhiên
những tài liệu, nghiên cứu đã được thực hiện nói trên luôn là những tài liệu tham

khảo quan trọng và bổ ích để tôi có thể đi sâu nghiên cứu và thực hiện nghiên cứu
can thiệp đề tài “Tiến trình công tác xã hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS
trong tiếp cận điều trị ARV từ thực tiễn thành phố Hà Nội”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mô tả thực trạng tiếp cận điều trị ARV của người có HIV/AIDS tại thành
phố Hà Nội
- Xác định vấn đề và nhu cầu của người có HIV/AIDS trong việc tiếp cận điều
trị ARV
- Thực nghiệm tiến trình công tác xã hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS
trong tiếp cận điều trị ARV (nghiên cứu trường hợp tại thành phố Hà Nội).

5


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Tiến trình công tác xã hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS trong tiếp cận
điều trị ARV từ thực tiễn thành phố Hà Nội.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
-

Phạm vi khách thể nghiên cứu:

+ Nhân viên công tác xã hội: 1 người
+ Người có HIV/AIDS: 3 người
+ Trung tâm, mạng lưới, nhóm hỗ trợ người có HIV/AIDS
+ Các nguồn lực hỗ trợ khác…
-

Phạm vi về không gian nghiên cứu:


Thành phố Hà Nội
-

Phạm vi về thời gian nghiên cứu:

Từ ngày 01 tháng 09 năm 2016 đến ngày 24 tháng 01 năm 2017
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận nghiên cứu
Dựa trên quan điểm của triết học: duy vật lịch sử và duy vật biện chứng để
nhìn nhận, đánh giá tiến trình công tác xã hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS
trong tiếp cận điều trị ARV phải xuất phát từ thực tiễn và đặt hoạt động công tác xã
hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS trong mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố
khách quan và chủ quan
5.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu, văn bản: Sử dụng phương pháp
phân tích tài liệu, văn bản là tiến hành phân loại, lựa chọn, khái quát, so sánh thông
tin từ các tài liệu, văn bản như: Nghị định, Thông tư, Quyết định, chính sách, sách,
báo, các kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài nhằm tìm ra những nội dung,
những vấn đề có liên quan đến tiến trình công tác xã hội cá nhân đối với người có
HIV/AIDS trong tiếp cận điều trị ARV, trên cơ sở đó xác định xem những vấn đề gì
đã đem lại hiệu quả và những vấn đề gì cần được tiếp tục triển khai tiếp

6


- Phương pháp phỏng vấn sâu: Đề tài tiến hành phỏng vấn sâu đối với người
có HIV/AIDS, thân nhân người có HIV/AIDS, bác sĩ điều trị ARV, chuyên gia tư
vấn và nhân viên công tác xã hội
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Nghiên cứu sẽ xác định khung lý thuyết nghiên cứu Tiến trình công các xã
hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS trong việc tiếp cận điều trị ARV như: Các
khái niệm, các đặc điểm cơ bản của tiến trình công tác xã hội cá nhân đối với người
có HIV/AIDS, các yếu tố chi phối công tác xã hội cá nhân với người có HIV/AIDS.
Đồng thời bổ sung một số vấn đề lý luận cơ bản về tiến trình công tác xã hội cá
nhân đối với người có HIV/AIDS trong việc tiếp cận điều trị ARV.
Nghiên cứu làm rõ thêm về phương pháp trợ giúp các đối tượng yếu thế, dễ
bị tổn thương dưới cách tiếp cận của công tác xã hội nói chung và công tác xã hội
cá nhân nói riêng, đặc biệt là trong lĩnh vực trợ giúp người có HIV/AIDS trong việc
tiếp cận điều trị ARV
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo; nội
dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về tiến trình công tác xã hội cá nhân đối với
người có HIV/AIDS trong tiếp cận điều trị ARV.
Chương 2. Thực trạng công tác xã hội xá nhân đối với người có HIV/AIDS
trong tiếp cận điều trị ARV từ thực tiễn thành phố Hà Nội.
Chương 3. Tiến trình công tác xã hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS
trong tiếp cận điều trị ARV từ thực tiễn thành phố Hà Nội

7


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIẾN TRÌNH
CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI NGƢỜI
CÓ HIV/AIDS TRONG TIẾP CẬN ĐIỀU TRỊ ARV
1.1 Khái niệm
1.1.1 HIV
HIV là tên viết tắt của từ Tiếng anh (HIV - Human Immuno Deficiency

Virus) vi rút gây suy giảm miễn dịch mắc phải ở người.
1.1.2 AIDS
AIDS là những chữ cái viết tắt theo tiếng Anh của cụm từ Acquired Immino
Deficiency Syndorome (viết tắt theo tiếng Pháp là SIDA), được dịch ra tiếng Việt là
"Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải". AIDS là giai đoạn cuối của quá trình
nhiễm HIV.
1.1.3 Người có HIV/AIDS
Là người có HIV/AIDS trong cơ thể, được xét nghiệm có HIV dương tính (H+)
1.1.4 Công tác xã hội
- Theo Hiệp hội Quốc gia NVCTXH (NASW): “Công tác xã hội là một hoạt
động chuyên nghiệp nhằm giúp đỡ các cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng phục hồi
hay tăng cường năng lực và chức năng xã hội để tạo ra những điều kiện xã hội cần
thiết, giúp họ đạt được mục tiêu. Thực hành công tác xã hội bao gồm sự ứng dụng
các giá trị, nguyên tắc, kỹ thuật của công tác xã hội nhằm giúp con người ( cá nhân,
gia đình, nhóm và cộng đồng ) có được những dịch vụ trợ giúp, tham vấn và trị liệu
tâm lý. Nhân viên xã hội cung cấp các dịch vụ xã hội, các dịch vụ sức khỏe và tham
gia vào các tiến trình trợ giúp pháp lý khi cần thiết. Để có thể thực hiện các hoạt
động công tác xã hội trong thực tiễn người nhân viên xã hội đòi hỏi phải có kiến
thức về hành vi con người, về tâm lý trong sự phát triển con người, về các vấn đề xã
hội, về kinh tế và văn hóa và sự tương tác của chúng với nhau” (National
Association of Social Workes, Standards for Social Service Manpower (New York:
NASW, 1983 pp4-5)
- Từ thực tiễn hoạt động công tác xã hội ở Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Hồi
Loan đưa ra khái niệm CTXH như sau:

8


“Công tác xã hội là một hoạt động thực tiễn xã hội, được thực hiện theo
những nguyên tắc và phương pháp nhất định và được vận hành trên cơ sở văn hóa

truyền thống của dân tộc, nhằm trợ giúp các cá nhân và các nhóm người trong việc
giải quyết các nan đề trong đời sống của họ, vì phúc lợi và hạnh phúc con người và
tiến bộ xã hội”
1.1.5 Công tác xã hội cá nhân
 Công tác xã hội cá nhân được định nghĩa là “hệ thống giá trị và phương pháp
được các nhân viên xã hội chuyên nghiệp sử dụng, trong đó các khái niệm về tâm lý
xã hội, hành vi và hệ thống được chuyển thành các kỹ năng giúp đỡ cá nhân và gia
đình giải quyết những vấn đề về nội tâm lý, quan hệ giữa các cá nhân, kinh tế xã hội
và môi trường thông qua các mối quan hệ một – một” (Farley O, W, 2000, trang 61)
 Tiến trình công tác xã hội cá nhân (gồm 7 bước) là một chuỗi các hoạt động
tương tác giữa nhân viên xã hội với thân chủ để cùng nhau giải quyết vấn đề. Trong
quá trình này, nhân viên xã hội dùng chính các quan điểm giá trị, kiến thức, kinh
nghiệm, kỹ năng của mình để tham gia vào việc giải quyết các vấn đề của đối tượng và
với hỗ trợ đó đối tượng cũng huy động hết khả năng, sức lực của mình để giải quyết
những khó khăn đang mắc phải. Tiến trình công tác xã hội cá nhân là hoạt động mà
trong đó bao gồm các bước chính như: Tiếp cận thân chủ, xác định vấn đề, thu thập dữ
liệu, chuẩn đoán, lên kế hoạch trị liệu, trị liệu, lượng giá. Các bước này có thể nối tiếp
nhau - nghĩa là kết thúc bước này thì mới được chuyển sang bước khác, song cũng có
thể đan xen giữa các bước dựa trên kết quả của hoạt động lượng giá.
- Bƣớc 1: Tiếp cận thân chủ là bước đầu tiên có thể thân chủ tự tìm đến với
nhân viên xã hội khi họ gặp vấn đề và cần sự giúp đỡ, song trong một chừng mực
nào đó cũng có thể chính nhân viên xã hội lại là người tìm đến với thân chủ trong
phạm vi hoạt động theo chức năng của mình. Ở bước tiếp cận này nếu nhân viên xã
hội tạo được ấn tượng tốt với thân chủ thì những bước sau sẽ thuận tiện hơn.
- Bƣớc 2: Xác định vấn đề sau khi tiếp cận với thân chủ nhân viên xã hội
phải xác định được vấn đề thân chủ đang gặp khó khăn trong việc tìm ra hướng giải
quyết. Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình công tác xã hội cá nhân, nó đóng vai
trò quan trọng trong cả quá trình và kết quả của nó là sự định hướng cho tất cả các
bước tiếp theo bởi nếu nhận diện đúng sẽ dẫn tới chuẩn đoán và cách trị liệu đúng.


9


Vì thế có thể coi đây là giai đoạn hoạt động chuẩn đoán, phân tích và thẩm định.
Giai đoạn này bao gồm:
+ Thu thập các dữ liệu, thông tin liên quan để tìm hiểu hoàn cảnh và vấn đề.
+ Phân tích các thông tin, dữ liệu (về tính chất, đặc điểm của vấn đề, phân
tích nguyên nhân, yếu tố tác động, mức độ trầm trọng...)
+ Kết hợp ghi chép, lưu giữ những thông tin cần thiết về đối tượng và vấn đề.
Đồng thời cần xem xét một số yếu tố khi nhận diện vấn đề:
+ Tìm hiểu các vấn đề đó.
+ Xác định tất cả các vấn đề có liên quan.
+ Xếp đặt chúng theo cấu trúc có mối quan hệ tương tác nhau.
+ Xác định các nhu cầu, yếu tố cản trở việc thực hiện nhu cầu của đối tượng.
+ Xác định các vấn đề yếu tố, điều kiện giải quyết.
+ Xác định nguồn hỗ trợ và tiềm năng của đối tượng.
+ Xác định các hạn chế, yếu tố ảnh hưởng có thể phát sinh.
- Bƣớc 3: Thu thập dữ liệu Nhân viên xã hội có thể dựa vào 4 nguồn tin:
+ Chính thân chủ là nguồn tin trực tiếp (lời kể, hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ...).
+ Những người có quan hệ thân thiết như gia đình, bạn bè thân, đồng nghiệp,
hàng xóm...
+ Tài liệu, biên bản, hồ sơ về thân chủ có liên quan đến vấn đề.
+ Các trắc nghiệm tâm lí để xác định chức năng xã hội, nguyên nhân, thông
tin tiềm ẩn mà quan sát bình thường không có được của thân chủ.
Mục đích của thu thập dữ kiện này giúp nhân viên xã hội hiểu được hoàn
cảnh gia đình, nguyên nhân của vấn đề từ đó lên một kế hoạch trị liệu.
- Bƣớc 4: Chẩn đoán gồm 3 bước: chẩn đoán, phân tích, thẩm định. Chẩn
đoán là xem xét tính chất của vấn đề và những trục trặc của nó trên cơ sở các dữ
liệu thu nhận được. Phân tích là chỉ ra nguyên nhân hay nhân tố dẫn đến khó khăn.
Thẩm định là xem có thể giảm bớt những khó khăn này thông qua những năng lực

nào của thân chủ, sự thẩm định mang tính chất tâm lý xã hội vì đây là trọng tâm của
công tác xã hội cá nhân. Khi hoàn thành cuộc thẩm định tình huống có vấn đề và cá
nhân liên quan trong đó, nhân viên xã hội làm ngay một kế hoạch trị liệu cho dù đây
mới chỉ là kế hoạch tạm thời.

10


- Bƣớc 5: Lên kế hoạch trị liệu Trong giai đoạn này nhân viên xã hội sẽ xác
định mục đích trị liệu và các mục tiêu cụ thể để đạt được mục đích. Nhiệm vụ của
hoạt hoạt động này:
+ Xác định nội dung và mục tiêu phải đạt được: phải làm gì, đi đến đâu, phải
đạt được gì, tạo được sự thay đổi gì và đích gì.
+ Xác định hoạt động này cho ai, nhóm nào và ở đâu.
+ Xác định cách thức, phương sách để đi đến mục tiêu: làm như thế nào.
+ Xác định rõ vai trò người thực hiện: ai là người thực hiện nhân viên xã hội
nhân viên hoặc thân chủ.
+ Xác định thời gian, lịch trình thực hiện bằng khi nào? bao lâu?
Một số điều chú ý:
+ Kế hoạch phải xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu cho đối tượng.
+ Kế hoạch phải được đối tượng bàn bạc và chấp thuận.
+ Luôn có sự đánh giá lại, xem xét lại vấn đề trong quá trình xây dựng kế
hoạch để có những phương án thích hợp.
+ Cần chú ý tới đặc điểm môi trường cộng đồng, nền văn hóa, phong tục tập
quán, nơi nhân viên xã hội thực hiện kế hoạch.
+ Xem xét đặc điểm cấu trúc tổ chức, chức năng cơ quan tổ chức thực hiện.
+ Ghi chép lại những kế hoạch hành động để có thể lượng giá sự hữu hiệu
của kế hoạch trong quá trình thực hiện.
+ Đòi hỏi nhân viên xã hội có những hiểu biết và kỹ năng chuyên môn như:
kỹ năng xác định nội dung và mục tiêu hành động, kỹ năng lựa chọn nhưng phương

sách tối ưu đỡ tốn kém nhất về thời gian, tiền của, sức lực và kỹ năng hiểu biết dự
đoán các yếu tố ảnh hưởng, các yếu tố tiềm năng hữu ích
Sự lựa chọn mục đích cuối cùng phụ thuộc vào:
+ Điều thân chủ mong muốn
+ Điều mà nhân viên xã hội cho là cần thiết và khả thi
+ Các yếu tố liên hệ như: các dịch vụ, tài nguyên cần thiết
Có 3 yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn cách trị liệu: tính chất vấn đề, các
tài nguyên cần thiết và có được, động cơ và năng lực của thân chủ. Có thể còn có
các nhân tố khác ảnh hưởng đến việc lựa chọn là các giá trị của thân chủ

11


- Bƣớc 6: Trị liệu là quá trình mà nhân viên xã hội cùng đối tượng thực thi
các hoạt động cụ thể để đi đến mục tiêu đặt ra. Mục tiêu của trị liệu bao gồm:
a/ Thay đổi, cải thiện hoàn cảnh của thân chủ bằng cách đưa các tài nguyên
như giúp đỡ tài chính hoặc thay đổi môi trường xã hội gần gũi
b/ Giúp cá nhân thay đổi thái độ, hành vi trong hoàn cảnh trước mắt
c/ Thực hiện cả hai cùng lúc
Nhân viên xã hội có thể sử dụng tiếp cận hay liên kết theo các cách sau:
+ Cung cấp dịch vụ cụ thể
+ Tham vấn: là một loại vấn đàm mà nhân viên xã hội thực hiện với thân chủ
nhằm vận động sự tham gia ý thức của thân chủ trong việc xử lí các vấn đề xã hội
và sự thích nghi xã hội. Tuy nhiên, khả năng đáp ứng của thân chủ với tiến trình trị
liệu sẽ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố cá nhân như sự tự ý thức về bản thân, các tài
nguyên, các cơ hội có thể có.
Công cụ của trị liệu là các mối quan hệ NVCTXH – TC, vấn đàm, triển khai
các tài nguyên xã hội, vật chất, áp dụng chính sách và tài nguyên của cơ quan xã hội
và nối kết với các tài nguyên của cơ quan và cộng đồng khác.
Phương pháp trị liệu nên dựa trên gia đình của thân chủ. Họ có thể đóng góp

những nhân tố, điều kiện giúp tiến trình trị liệu diễn ra tốt hơn.
- Bƣớc 7: Lƣợng giá là việc xem xét lại toàn bộ những bộ phận trong tiến
trình công tác xã hội cá nhân để thẩm định kết quả. Lượng giá là một hoạt động liên
tục, đồng thời, dù nó là một bộ phận của tiến trình của công tác xã hội cá nhân, và
chỉ tìm được mục tiêu và biểu hiện đầy đủ sau một khoảng thời gian hoạt động.
Khi các cuộc lượng giá định kì cho thấy có sự tiến bộ hoặc không thay đổi
thì tiếp tục điều trị và ngược lại thì phải thay đổi phương pháp trị liệu.
Kết thúc quá trình trị liệu là khi vấn đề của thân chủ đã được giải quyết hoặc
sự hiện diện của nhân viên xã hội không còn cần thiết hoặc không thay đổi được
vấn đề.
Trong những trưòng hợp can thiệp trong cơn khủng hoảng thì không cần kéo
dài thời gian, ngược lại những vấn đề liên quan đến tâm lí xã hội thì cần nhiều thời
gian hơn.

12


Sau khi lượng giá phải nhìn về tương lai gần để phục vụ cho việc hình thành
một số kế hoạch sâu hơn giúp đỡ của công tác xã hội trong tiến trình công tác xã hội
cá nhân.
1.1.6 Công tác xã hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS
Trên cơ sở phân tích những khái niệm về HIV, AIDS, người có HIV/AIDS,
công tác xã hội và công tác xã hội cá nhân, tôi đưa ra khái niệm về công tác xã hội
cá nhân đối với người có HIV như sau:
Công tác xã hội cá nhân đối với người có HIV/AIDS là phương pháp can
thiệp để giúp cá nhân đó thoát khỏi những khó khăn trong đời sống vật chất, tinh
thần và chữa trị, phục hồi các chức năng xã hội thông qua tiến trình 7 bước.
Tiến trình 7 bước:
-


Bước 1: Tiếp cận thân chủ.
Khi tiếp cận đối tượng nhiễm HIV/AIDS, nhân viên Công tác xã hội có thể

tiếp cận theo cách trực tiếp tự tìm đến thân chủ trong các trung tâm bảo trợ xã hội,
bệnh viện, trong cộng đồng…khi tiếp cân thân chủ cần chú ý tới tâm lý của thân
chủ, tạo ấn tượng tốt và tạo lòng tin để có thể can thiệp hiệu quả nhất.
- Bước 2: Xác định vấn đề.
Sau khi tếp cận thân chủ nhân viên Công tác xã hội cần xem xét vấn đề mà
thân chủ đang gặp phải, nguyên nhân sự bắt đầu và những nhân tố của vấn để.
Ngoài ra cần tìm hiểu kĩ về mong muốn của thân chủ (người nhiễm HIV/AIDS),
những việc đã làm để nhận diện vấn đề.
- Bước 3: Thu thập dữ liệu.
Trên cơ sở nguồn thông tin từ chính thân chủ, từ các thành viên trong gia
đình, bạn bè và người quen…có mối quan hệ với thân chủ. Từ nguồn tài liệu liên
quan tới thân chủ, qua các kết quả trắc nghiệm để xác định mức độ, chức năng xã
hội của thân chủ.
Đây là bước quan trọng đối với việc chẩn đoán đúng hay sai về thân chủ.
-

Bước 4: Chẩn đoán.
Sau khi thu thập dữ liệu, nhân viên công tác xã hội cần đánh giá tình trạng

của thân chủ: mặt yếu, mạnh, nguồn lực sẵn có (học vấn, tay nghề, nghị lực, tình
trạng bệnh tật…). Đồng thời xác định vấn đề nào có tính chất nổi cộm; vấn đề nào
của thân chủ cần được giải quyết trước, vấn đề nào giải quyết sau.

13


- Bước 5: Lên kế hoạch trị liệu.

NVCTXH thống nhất với thân chủ về cách thức trị liệu nào hiệu quả nhất.
Xác định mục đích trị liệu là giúp thân chủ tự định hướng, thích nghi với xã hội và
đóng góp cho xã hội hay nói cách khác là giúp cho thân chủ hòa nhập với cộng
đồng. Kế hoạch được đưa ra là giúp đỡ có hệ thống, để NVCTXH tác động vào thân
chủ cũng như hoàn cảnh của họ để tạo ra sự thay đổi tích cực. Các mục tiêu đặt ra
chịu ảnh hưởng của các nhân tố như: thân chủ, tình trạng khả thi của mục đích, các
nguồn lực hỗ trợ.
- Bước 6: Trị liệu.
Đây là việc sử dụng các hình thức dịch vụ vào việc giúp đỡ thân chủ nhằm
thực hiện mục tiêu đề ra, cần vận dụng linh hoạt các dữ liệu đã thu được để theo dõi
quá trình trị liệu đối với thân chủ, để các hoạt động diễn ra theo kế hoạch và huy
động các nguồn lực từ bên ngoài.
- Bước 7: Lượng giá.
Đây là bước xem xét, đánh giá quá trình trợ giúp của NVCTXH cùng với ý
chí của thân chủ đã được thay đổi như thế nào? Từ đánh giá tổng quát đó,
NVCTXH thông báo cho thân chủ biết chiều hướng tiến triển của mình theo chiều
hướng thay đổi tốt hay xấu, NVCTXH và thân chủ có thỏa mãn với kết quả đã đạt
được hay chưa? Từ đó xác định có nên tiếp tục hay dừng lại và kết thúc tiến trình.
1.1.7 Điều trị ARV
- ARV là viết tắt của Antiretroviral. Đây là chữ viết tắt thường được dùng để chỉ
một loại thuốc được chế ra nhằm làm giảm sự sinh sôi nảy nở của HIV trong cơ thể.
Nó cũng được biết đến với cách viết ART (liệu pháp kháng retro virus). Nếu điều trị
ARV hiệu quả, thì có thể làm chậm sự tiến triển hoàn toàn của AIDS trong nhiều
năm. Thuốc ARV được khuyến khích sử dụng kết hợp để ngăn chặn hình thành
kháng thuốc.
- Điều trị ARV (thuốc kháng virus) là tổng hợp một số thuốc – thường là hai loại
thuốc trở lên – đối với người nhiễm HIV, nhằm làm chậm quá trình phát triển của
HIV trong cơ thể. ARV giúp cải thiện hệ thống miễn dịch và điều đó giúp cho cơ
thể tự bảo vệ chống lại các bệnh liên quan đến AIDS. Nếu dùng thuốc đúng cách,
con người có thể sống một cuộc đời khỏe mạnh, hữu ích trong nhiều năm.


14


Điều trị ARV không chữa khỏi HIV/AIDS. Các loại thuốc đó sẽ giúp làm giảm
số virut trong cơ thể và làm cho con người cảm thấy khỏe hơn nhưng HIV vẫn còn
trong máu. Cho nên, khi một người bắt đầu sử dụng ARV, họ phải tiếp tục sử dụng
nó suốt cuộc đời còn lại. Điều trị ARV là suốt đời. Nếu con người dừng điều trị,
HIV sẽ tiếp tục phát triển và người ta sẽ lại bị bệnh trở lại.
Lựa trọn điều trị lý tưởng hiện tại bao gồm các kết hợp hai hay nhiều loại
thuốc kháng Retrovirus như hai chất ức chế reverse transcriptase giống nucleoside
(nucleoside analogue reverse nucleoside inhibitor, NRTI), và một chất thuốc ức chế
reverse transcriptase non – nucleoside (non – nucleoside reverse nucleoside
inhibitor, NNRTI). Với điều trị như vậy, kết quả cho thấy HIV không phát hiện
được (âm tính) lặp đi lặp lại nhiều lần, nhưng nếu ngưng điều trị lượng virus trong
cơ thể sẽ tăng nhanh chóng. Để thuốc thực sự có tác dụng người có HIV cần uống
từ 3 loại thuốc kháng virus HIV (ARV) trở lên. Thuốc ARV chỉ có tác dụng nếu
được uống theo đúng phác đồ điều trị. Người sử dụng thuốc ARV rất cần được nhân
viên y tế có kinh nghiệm hướng dẫn và theo dõi thường xuyên.
1.2 Lý luận về công tác xã hội cá nhân đối với ngƣời có HIV/AIDS
1.2.1 Lý thuyết hệ thống
Thuyết hệ thống là một trong những lí thuyết quan trọng được vận dụng
trong Công tác xã hội nhằm chỉ cho thân chủ những gì họ thiếu và những hệ thống
trợ giúp nào họ có thể tiếp cận và tham gia bởi trọng tâm của hệ thống là hướng đến
những cái tổng thể và mang tính hoà nhập.
Khái niệm hệ thống theo Theo từ điển tiếng Việt là tập hợp nhiều yếu tố đối
với cùng loại hoặc cùng chức năng có quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ làm
thành một thể thống nhất. Dưới góc độ công tác xã hội, hệ thống là một tập hợp các
thành tố được sắp xếp có trật tự và liên hệ với nhau để hoạt động thống nhất. Một
hệ thống là một chỉnh thể với các đường biên mà các năng lượng thể chất và tinh

thần được trao đổi nhiều hơn trong đường biên so với ngoài đường biên. Hệ thống
còn có những khái niệm cơ bản khác như:
 Hệ thống đóng là khi không có sự trao đổi lẫn nhau qua đường biên.
 Hệ thống mở là khi có các năng lượng thẩm thấu qua đường biên.
Đại diện cho những người đi theo lý thuyết hệ thống : Bertalanffy (19011972), Hanson, Mancoske, Siporin, Germain, Giterman và đặc biệt Hearn là người

15


có những đóng góp sớm nhất trong việc áp dụng lí thuyết hệ thống trong công tác
xã hội. Tuy nhiên, tác động lớn nhất của lí thuyết hệ thống tới công tác xã hội phải
kể đến sự xuất hiện của hai tác phẩm được dịch thuật cùng lúc về ứng dụng những
quan điểm hệ thống trong thực hành công tác xã hội là Goldstein, Pincus và
Minahan.
Thuyết hệ thống tác động lớn đến công tác xã hội kể từ thập niên 1970 theo
nguyên tắc: con người phụ thuộc vào hệ thống trong môi trường xã hội nhằm đáp
ứng những nhu cầu trực tiếp của mình trong cuộc sống. Các tư tưởng lí thuyết về hệ
thống trong công tác xã hội có nguồn gốc từ hệ thống khái quát của Von
Bertalanffy. Đây là một thuyết sinh học trong đó đề xuất rằng mọi tổ chức đều là
các hệ thống. Một người là một phần của xã hội và được làm nên bởi các hệ thống
chu kì. Các tế bào và hệ thống này đến lượt mình được làm nên bởi các nguyên tử
vốn được tạo ra bởi các phần tử nhỏ hơn. Thuyết hệ thống được áp dụng cho các hệ
thống xã hội, như các nhóm, các gia đình, các xã hội cũng như các hệ thống sinh
học. Có ba loại hệ thống có thể giúp con người:
 Hệ thống thân tình/ tự nhiên như: gia đình, bạn bè, người đưa thư...
 Hệ thống chính quy như: các nhóm cộng đồng, công đoàn...
 Hệ thống tập trung của tổ chức xã hội như: bệnh viện hay trường học
Những người có vấn đề có thể không sử dụng hệ thống trợ giúp vì:
 Những hệ thống đó không tồn tại trong cuộc sống của họ, không có những
nguồn hỗ trợ cần thiết hay thích hợp với vấn đề của họ.

 Con người không biết, không thích sử dụng những hệ thống như vậy
 Các chính sách của hệ thống tạo ra vấn đề mới cho người sử dụng
 Các hệ thống có những mâu thuẫn lẫn nhau
 Công tác xã hội cố gắng tìm ra những chỗ mà thân chủ và môi trường của họ
đang có những vấn đề. Khó khăn trong tương tác từ đó giúp họ thực hiện các công
việc trong cuộc sống. Vì thế nhiệm vụ của công tác xã hội là:
+ Giúp con người sử dụng và nâng cao khả năng của bản thân nhằm giải quyết
vấn đề
+ Xây dựng mối quan hệ mới giữa người và các hệ thống nguồn lực
+ Giúp chỉnh sửa tương tác giữa mọi người với các hệ thống nguồn lực
+ Giúp phát triển và thay đổi chính sách xã hội

16


+ Đưa ra sự trợ giúp thực tế
+ Hoạt động như một tác nhân kiểm soát xã hôi
 Vận dụng lý thuyết hệ thống trong tiến trình thực hành CTXH cá nhân đối
với người có HIV/AIDS trong tiếp cận điều trị ARV từ thực tiễn thành phố Hà Nội
- Con người là tổng hòa của những mối quan hệ trong xã hội, vậy để thực hiện
tốt đề tài này trước tiên cần khuyến khích tạo một môi trường thuận lợi cho sự phát
triển và tham gia của các tổ chức vào việc ứng phó với dịch và hỗ trợ người có
HIV: những người thực hiện hoạt động là cả một hệ thống liên nghành để đánh giá
năng lực của tổ chức và phát triển kế hoạch tổ chức của các tổ chức dựa vào cộng
đồng (CBOs), và hỗ trợ các tổ chức dựa vào cộng đồng xây dựng và thực hiện kế
hoạch chiến lược tăng cường năng lực của tổ chức, và giới thiệu các tổ chức dựa
vào cộng đồng đến với các chuyên gia, các nhân viên xã hội trong việc trợ giúp
người có HIV/AIDS tiếp cận điều trị sớm ARV và tuân thủ điều trị ARV
- Thứ hai, giới thiệu đến với người có HIV/AIDS những dịch vụ xã hội, chương
trình chăm sóc điều trị uy tín và hiệu quả để họ có thể được hỗ trợ về chăm sóc, hỗ

trợ tâm lý-tinh thần, hỗ trợ kinh tế xã hội, hỗ trợ pháp lý nhân quyền…
1.2.2 Lý thuyết học tập
Thuyết học tập xã hội được bắt đầu từ nguồn gốc của quan điểm học tập của
Gabriel Tarde (1843 - 1904). Trong quan điểm của mình, Gabriel nhấn mạnh ý
tưởng về học tập xã hội thông qua ba qui luật bắt chước: đó là sự tiếp xúc gần gũi,
bắt chước người khác và sự kết hợp cả hai. Cá nhân học cách hành động và ứng xử
của người khác qua quan sát hoặc bắt chước.
Thuyết học tập xã hội được ứng dụng vào CTXH trong những năm 80 của
thế kỷ XX. Thuyết được sử dụng để giải thích và điều chỉnh hành vi.
Trong quá trình vận dụng thuyết học tập xã hội vào thực tế, cần chú ý một số
nguyên tắc:
Một là, hiệu quả sẽ đạt được ở mức cao nhất của học tập quan sát là thông
qua việc tái tổ chức và tập diễn lại hành vi được làm mẫu một cách tượng trưng, sau
đó thực hiện lại nó một cách cụ thể.
Hai là, mã hóa hành vi được làm mẫu đó bằng lời nói, đặt tên hoặc hình
tượng hoá kết quả, cách này còn tốt hơn là việc chỉ quan sát. Các cá nhân có thể bắt

17


chước hành vi được làm mẫu đó nếu như mô hình đó thích hợp với họ, làm họ thấy
ngưỡng mộ và nếu như nó mang lại kết quả mà họ coi là giá trị.
 Vận dụng lý thuyết học tập xã hội trong tiến trình thực hành CTXH cá nhân đối
với người có HIV/AIDS trong tiếp cận điều trị ARV từ thực tiễn thành phố Hà Nội
Đối với NCH, việc vận dụng lý thuyết học tập có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc tập huấn kiến thức, kỹ năng chăm sóc bản thân. Nhìn chung, sự hiểu biết và
nhận thức đúng và đủ về những kiến thức HIV/AIDS và những phương pháp tiếp
cận điều trị trong cộng đồng vẫn còn hạn chế. Do vậy, vai trò hỗ trợ của công tác xã
hội với người có HIV là rất lớn. Thông qua các quan điểm giá trị, kiến thức, kinh
nghiệm, kỹ năng của người làm CTXH để tham gia vào việc giải quyết các vấn đề

của NCH và với sự hỗ trợ đó NCH có thể tiếp thu, học tập những điều đó, từ đó đối
tượng cũng huy động hết khả năng, sức lực của mình để giải quyết những khó khăn
đang mắc phải. Bên cạnh việc hỗ trợ những kiến thức trong việc điều trị ARV, NCH
cần cung cấp bộ công cụ hướng dẫn hoạt động hỗ trợ người có HIV/AIDS hòa nhập
cộng đồng mà sẽ là những kiến thức hiệu quả để các cá nhân NCH có thể học tập và
tham gia hiệu quả vào các hoạt động trong cộng đồng nhằm hướng đến sự xóa bỏ
kỳ thị, phân biệt đối xử với NCH.
1.2.3 Lý thuyết nhu cầu
Theo Abraham Maslow, nhu cầu của con người phù hợp với sự phân cấp từ
nhu cầu thấp nhất đến nhu cầu cao nhất. Khi một nhóm các nhu cầu được thỏa mãn
thì loại nhu cầu này không còn là động cơ thúc đẩy nữa.

18


Nhu cầu sinh lý (Vật Chất): Là những nhu cầu cơ bản để có thể duy trì bản
thân cuộc sống con người (Thức ăn, đồ mặc, nước uống, nhà ở…). A.Maslow quan
niệm rằng khi nhu cầu này chưa được thỏa mãn tới mức độ cần thiết để có thể duy
trì cuộc sống thì nhu cầu khác sẽ không thúc đẩy được mọi người.
Nhu cầu về an toàn: Là những nhu cầu tránh sự nguy hiểm về thân thể và sự
đe dọa mất việc, mất tài sản…
Nhu cầu xã hội (về liên kết và chấp nhận): Do con người là thành viên của
xã hội nên họ cần được những người khác chấp nhận. Con người luôn có nhu cầu
yêu thương gắn bó. Cấp độ nhu cầu này cho thấy con người có nhu cầu giao tiếp để
phát triển.
Nhu cầu đƣợc tôn trọng: Theo A.Maslow, khi con người bắt đầu thỏa mãn
nhu cầu được chấp nhận là thành viên trong xã hội thì họ có xu thế tự trọng và
muốn được người khác tôn trọng. Nhu cầu loại này dẫn tới sự thỏa mãn như: quyền
lực, uy tín, địa vị và lòng tự tin. Đây là mong muốn của con người nhận được sự
chú ý, quan tâm và tôn trọng từ những người xung quanh và mong muốn bản thân là

một “mắt xích” không thể thiếu trong hệ thống phân công lao động xã hội. Việc
họ được tôn trọng cho thấy bản thân từng cá nhân đều mong muốn trở thành
người hữu dụng theo một điều giản đơn là “xã hội chuộng của chuộng công”. Vì
thế, con người thường có mong muốn có địa vị cao để được nhiều người tôn
vọng và kính nể.
Nhu cầu tự hoàn thiện: A.Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách
phân cấp của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới chỗ mà một con người có thể đạt
tới. Tức là làm cho tiềm năng của một người đạt tới mức tối đa và hoàn thành được
một mục tiêu nào đó. Đây là khát vọng và nỗ lực để đạt được mong muốn. Con
người tự nhận thấy bản thân cần thực hiện một công việc nào đó theo sở thích và
chỉ khi công việc đó được thực hiện thì họ mới cảm thấy hài lòng. Thuyết nhu cầu
sắp xếp nhu cầu con người từ thấp lên cao. Những nhu cầu ở cấp cao hơn sẽ được
thỏa mãn khi nhu cầu cấp thấp hơn được đáp ứng.
Vận dụng lý thuyết nhu cầu nhằm xác định nhu cầu của NCH trong tiến trình
thực hành CTXH cá nhân đối với người có HIV/AIDS tiếp cận điều trị ARV từ thực
tiễn thành phố Hà Nội

19


×