Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.67 KB, 14 trang )

lOMoARcPSD|11424851

Trường Đại học Kinh Tếế Quốếc dân
…...0O0…..

BÀI TẬP LỚN

TRIẾẾT HỌC MÁC – LẾNIN
Đềề tài sốố :4
…………………………………………………
…………………………………………………

Họ, tến SV: Trâần Hữu Đống. Mã SV:11200826.
Lớp: Kinh Tếế Tài Nguyến Thiến Nhiến 62A .
Khóa : 62

GĐ: D

Hà Nội 28- 5/2021


lOMoARcPSD|11424851

Đề Tài 4

: Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa
phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn
Bài Làm
I.


Lời Nói Đầu :

Triết học Marx-Lenin (phiên âm tiếng Việt: Triết học Mác - Lenin) hay học thuyết
Marx-Lenin là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa marx-lenin sáng lập
vào giữa thế kỷ thứ XIX, sau đó được Lenin và các nhà macxit khác phát triển
thêm. Triết học Marx-Lenin ra đời vào những năm 30 thế kỉ XIX và được phát triển
gắn chặt với những thành tựu khoa học và thực tiễn trong phong trào cách mạng
công nhân. Sự ra đời của triết học Marx-Lenin là một cuộc cách mạng thực sự trong
lịch sử tư tưởng loài người, trong lịch sử triết học. Triết học Marx-Lenin hình thành
dựa trên hệ thống quan điểm của Marx, Engels và được Lenin bổ sung sau này.
Trong đó Engels đã phát triển triết học Marx, thơng qua việc khái quát các thành tựu
khoa học và phê phán các lý thuyết triết học duy tâm, siêu hình và cả những quan
niệm duy vật tầm thường ở những người muốn trở thành những người Mác-xít. Với
những tác phẩm chủ yếu của mình như: Chống Duyring, Biện chứng của tự
nhiên, Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước, Lut vich Phoi bách
và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Engels đã trình bày học thuyết Mác nói
chung và triết học Mác nói riêng dưới dạng một hệ thống lý luận. Ngoài ra những ý
kiến bổ sung, giải thích của Engels sau khi Mác qua đời đối với một số luận điểm
của ông trước đây cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển học thuyết
Mác. Triết học Mác-Lenin ra đời và hồn chỉnh đã góp phần quan trọng trong nhận
thức và đấu tranh của giai cấp công nhân, các tầng lớp vô sản. Các Mác đã phát
biểu rằng: Giống như triết học thấy giai cấp vơ sản là vũ khí vật chất của mình, giai
cấp vơ sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình .Tinh thần cách mạng của
triết học Mác-Lenin được Các Mác phát biểu rằng: Các nhà triết học đã chỉ giải thích
thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới . Làm đề tài tiểu

luận này, vơí tư cách là một sinh viên của trường đại học Kinh
Tế Quốc Dân , một cơng dân của nước Cộng hồ xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, một mặt tôi muốn cùng mọi người tìm hiểu sâu
hơn và kĩ hơn về Triết học Mác - Lênin phần chủ nghĩa duy vật



lOMoARcPSD|11424851

biện chứng. Cụ thể hơn, đó là mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất với ý thức từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận chung và
liên hệ thực tiễn . Điều này sẽ được lý giải rõ hơn trong phần nội
dung của đề tài !

1. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa vật chất với ý thức.
1.1. Vật chất quyết định ý thức.
Trước tiên chúng ta phải đi tìm hiểu vật chất là gì ,ý thức là gì ?
+)Ý thức : là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao là
bộ óc con người .Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức cịn
ý thức à chức năng của bộ óc con người vì vậy khơng thể tách
rời ý thức ra khỏi bộ óc
Ý thức có 2 nguồn gốc chính : nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc
xã hội
Nguồn gốc tự nhiên : óc người là cơ quan vật chất của ý
thức là kết quả q trình tiến hóa lâu dài của vật chất .Sự tiến
hóa của các hình thức tổ chức phản ánh phụ thuộc vào những
cấp độ phát triển khác nhau của vật chất . Phản ánh tâm lý ở
động vật cấp cao và chuyển hóa của phản ánh tâm lý thành
phản ánh ý thức con người
Nguồn gốc xã hội : ý thức hình thành thơng qua q trình
lao động , ngôn ngữ và những quan hệ xã hội của con người
+) Theo Lênin thì “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác
và được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại

và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác’’. như vậy định nghĩa
vật chất của Lê- nin nổi lên một số nội dung cơ bản sau:


lOMoARcPSD|11424851

Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngồi ý
thứcvà khơng phụ thuộc vào ý thức.
Thứ hai, vật chất là cái gây lên cảm giác ở con người khi
bằng cách nào đó (trực tiếp hay gián tiếp) tác động lên các giác
quan của con người.
Thứ ba, vật chất cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua
chỉ là sự phản ánh của nó.
Qua đó, Lênin muốn khẳng định rằng, trong nhận thức
luận, vật chất luôn mang tính thứ nhất, là cái quyết định: vật
chất quyết định sự hình thành ý thức, quyết định nội dung phản
ánh, quyết định sự biến đổi của ý thức và nó cịn là điều kiện để
hiện thực hố ý thức. Dựa trên những thành tựu của khoa học
tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện
chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất
nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính
của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ
óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Khoa học cũng đã
chứng minh được rằng, thế giới vật chất nói chung và trái đất
nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người và
bộ óc người, rằng ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu
dài của giới tự nhiên cho tới khi xuất hiện con người và bộ óc
người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt
động sinh lý thần kinh của bộ não người. Bộ não người bao gồm
khoảng 15 đến 17 tỉ tế bào thần kinh, các tế bào này tạo nên

vô số các mối liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, truyền dẫn và điều
khiển toàn bộ các hoạt động của cơ thể trong quan hệ đối với


lOMoARcPSD|11424851

thế giới bên ngồi qua cơ chế phản xạ khơng điều kiện và có
điều kiện.
Khơng chỉ có thế, vận động của ý thức, tư duy trên thực
tế cũng là sản phẩm của sự vận động của vật chất. Điều đó
được chứng minh một cách khá rõ ràng ở hình thức vận động xã
hội của vật chất. Đó là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái
kinh tế- xã hội, từ đó sớm hay muộn cũng dẫn đến sự thay đổi
của ý thức, của cách nghĩ, bởi tồn tại xã hội bao giờ cũng quyết
định ý thức xã hội.
Vai trò cơ sở, quyết định của vật chất còn được thể hiện ở
chỗ nó quyết định nội dung phản ánh, quyết định sự biến đổi
của ý thức.
Từ nội dung thứ hai trong định nghĩa vật chất của Lênin
rằng: Vật chất mà cái cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là
sự phản ánh của nó, mà ta thấy rằng nội dung phản ánh của ý
thức là thế giới bên ngoài, là hiện thực khách quan. Hay nói như
chủ nghĩa duy vật macxit : ý thức là sự phản ánh thế giới khách
quan vào trong bộ óc của con người. Chính vì vậy mà thế giới
khách quan như thế nào thì ý thức phản ánh như thế ấy, không
nên phản ánh một cách xuyên tạc, hư ảo, bóp méo sự thật về
thế giới khách quan như việc tơ vẽ hình tượng các vị thần linh.
Nói cách khác, nội dung phản ánh của ý thức phải lấy cái khách
quan làm tiền đề và bị cái khách quan quy định.
Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức. Do ý thức là

chức năng của bộ não người. Hoạt động ý thức không diễn ra ở
đâu ngoài những hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não. ý thức
phụ thuộc vào hoạt động của bộ não, do đó khi bộ não bị tổn


lOMoARcPSD|11424851

thương thì hoạt động ý thức sẽ khơng được bình thường hoặc bị
rối loạn.
Mặt khác, trong hoạt động của con người, nhu cầu vật chất
bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định mục
đích hoạt động bởi vì con người trước hết phải được thoả mãn
nhu cầu vật chất tối thiểu : ăn, ở, mặc… rồi mới nghĩ đến vui
chơi, giải trí, các hoạt động tinh thần.Tức là, hoạt động nhận
thức của con người trước hết hướng tới mục tiêu cải biến tự
nhiên để thoả mãn nhu cầu sống. Cuộc sống tinh thần của con
người phụ thuộc và bị chi phối bởi nhu cầu vật chất và những
điều kiện vật chất hiện có. ý thức con người không thể tạo ra
các đối tượng vật chất, cũng khơng thay đổi được quy luật vận
động của nó. Do đó, mọi mục tiêu ước muốn của con người
khơng dựa trên điều kiện vật chất hiện có, trên mảnh đất hiện
thực đều là ước mơ chủ quan, khơng tưởng.
Ví dụ: Vận dụng trong sự nghiệp cơng nhiệp hố, hiện đại
hố của nước ta. Trước kia do không nhận thức được rằng mọi
chủ trương đường lối…đều phải dựa trên điều kiện vật chát hiện
có mà chúng ta đã chủ trương phát triển công nghiệp nặng
trong khi mọi tiền đề vật chất thì chưa có. Do đó, chúng ta đã bị
thất bại.
Khơng chỉ có thế, tính thứ nhất của vật chất so với tính thứ
hai của ý thức cịn được thể hiện ở chỗ vật chất là điều kiện để

hiện thực hoá ý thức. Nó quy định khả năng các nhân tố tinh
thân có thể tham gia vào hoạt động của con người. Nó tạo điều
kiện cho nhân tố tinh thần này hoặc nhân tố tinh thần khác
biến thành hiện thực và qua đó quy định mục đích, chủ trương,


lOMoARcPSD|11424851

biện pháp mà con người đề ra cho hoạt động của mình bằng
cách chọn lọc, sửa chữa, bổ sung, cụ thể hố các mục đích, chủ
trương biện pháp đó.
Khi khẳng định vai trò cơ sở, quyết định trực tiếp của vật
chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật macxit đồng thời cũng
vạch rõ sự tác dộng trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối
với vật chất.
1.2. ý thức tác động trở lại vật chất.
ý thức do vật chất sinh ra song sau khi ra đời, ý thức có
tính độc lập tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với
vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. ý thức
đúng đắn là ý thức dựa trên quy luật khách quan của con người
Do đó nó có tác động tích cực, làm biến đổi hiện thực, vật
chất khách quan theo nhu cầu của mình.
ý thức sai lầm, trái quy luật khách quan của con người có
tác động tiêu cực thậm chí phá hoại các điều kiện khách quan,
hoàn cảnh khách quan, kéo lùi lịch sử. Bởi mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức là mối quan hệ tác động qua lại. Không nhận
thức được điều này sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thườngvà
bệnh nảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động.
Nói tới vai trị của ý thức về thực cất là nói tới vai trị của
con người bởi ý thức là ý thức của con người. Trái với các nhà

triết học duy tâm muốn biến ý thức của con người thành động
lực của lịch sử, Cácmac và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Xưa
nay, tư tưởng không thể đưa người ta vượt ra ngoài trật tự thế
giới cũ được, trong bất cứ tình huống nào, tư tưởng cũng chỉ có


lOMoARcPSD|11424851

thể đưa người ta vượt ra ngoài phạm vi tư tưởng của trật tự thế
giới cũ mà thôi”.
Thật vậy, tư tưởng căn bản khơng thể thực hiện được cái
gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử
dụng lực lượng thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là con người
muốn thực hiện các quy luật khách quan thì phải nhận thức,
vận dụng đúng đắn các quy luật đó, phải có ý chí và phương
pháp để tổ chức hành động.
Như vậy vai trò của ý thức là ở chỗ nó giúp con người đề
ra chủ trương, đường lối, chính sách, những mục đích, kế
hoạch, biện pháp, phương hướng phù hợp với thực tế khách
quan. Nói như vậy có nghĩa là cũng có những ý thức khoa họcvà
những ý thức không khoa học so với hiện thực khách quan,
tương ứng với nó là hai tác động trái ngược nhau tích cực và
tiêu cực của ý thức đối với vật chất. Vai trị tích cực của ý thức,
tư tưởng khơng phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế
giới vật chất mà là nhận thức thế khách quan từ đó hình thành
được mục đích, phương hướng, biện pháp đúng đắn đồng thời
có ý chí, quyết tâm cần thiết cho hoạt dộng của mình.
Sức mạnh cuả ý thức con người không phải ở chỗ tách rời
điều kiện vật chất, thoát ly hiện thực khách quan, mà là biết
dựa vào điều kiện vật chất đã có, phản ánh đúng quy luật

khách quan để cải tạo thế giới khách quan một cách chủ động,
sáng tạo với ý chí và quyết tâm cao nhằm phục vụ lợi ích của
con người và xã hội.
Con người nhận thức và phản ánh thế giới thế giới khách
quan càng đầy đủ chính xác bao nhiêu thì cải tạo chúng càng


lOMoARcPSD|11424851

có hiệu quả bấy nhiêu. ở đây vai trị năng động sáng tạo của ý
thức, của nhân tố chủ quan của con người có vị trí hết sức quan
trọng. Bảo thủ trì trệ hoặc tiêu cực thụ động, ỷ lại ngồi chờ
chính là kìm hãm sự phát triển, triệt tiêu tính năng động tích
cực sáng tạo của ý thức. Mặt khác, do có tính vượt trước, nên ý
thức giúp cho hoạt động của con người trở nên tự giác, tích cực,
chủ động hơn như trong việc dự báo, lập kế hoạch, đề ra đường
lối, phương pháp hành động. Vai trò của ý thức còn thể hiện ở
vai trò của tri thức, trí tuệ, tình cảm và ý chí. Nó khơng những
là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà cịn là động lực của
thực tiễn. Khơng có sự thúc đẩy của tình cảm, ý chí, hoạt động
thực tiễn sẽ diễn ra một cách chậm chạp, thậm chí khơng thể
diễn ra được.
Nhờ ý chí và tình cảm, ý thức quy định tốc độ và bản sắc
của hoạt động thực tiễn. Tinh thần, dũng cảm, dám nghĩ dám
làm, lịng nhiệt tình, chí quyết tâm, tình u, niềm say mê với
cơng việc, khả năng sáng tạo và vượt qua khó khăn nhằm đạt
tới mục tiêu xác định đều có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động
thực tiễn làm cho nó diễn ra nhanh hay chậm. Tuy nhiên, ý chí,
tình cảm chỉ là động lực mà không thể là kim chỉ làm cho hoạt
động thực tiễn. Bởi vì, sự thành cơng hay thất bại của hoạt

động thực tiễn, tác dụng tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với
sự phát triển của tự nhiên và xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai
trị chỉ đạo ý thức. Chính vì vậy phải biết kết hợp giữa tri thức,
trí tuệ, khoa học với ý chí, tình cảm. Bởi tri thức càng được tích
luỹ, con người ngày càng đi sâu vào bản chất sự vật và cải tạo
sự vật có hiệu quả hơn. Tuy nhiên cơ sở cho việc phát huy tính
năng động chủ quan của ý thức là việc thừa nhận và tôn trọng


lOMoARcPSD|11424851

tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã
hội.
Nếu như thế giới vật chất – với những thuộc tính và quy
luật vốn có của nó – tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý
thức con người thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực thể khách quan làm
căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Chính vì vậy, Lênin đã
nhiều lần nhấn mạnh rằng, khơng được lấy ý muốn chủ quan
của mình làm chính sách, khơng được lấy tình cảm làm điểm
xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất
phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy
ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy
ý chí. Khơng chỉ có thế, khi vai trị chỉ đạo của ý thức phạm sai
lầm thì tinh thần, dũng cảm, lịng nhiệt tình, chí quyết tâm cũng
làm cho hoạt động thực tiễn thất bại một cách nhanh chóng.

2.ý nghĩa phương pháp luận
2.1 Vì vật chất quyết định ý thức, sinh ra ý thức cho nên mọi
chủ trương CS hoạt động nhận thức, hoạt động con người đều

phải xuất phát từ hiện thực khách quan và hoạt động tuân theo
quy luật khách quan, nghĩa là chúng ta phải có quan điểm
khách quan trong nhận thức hoạt động thực tiễn.
2.2 Xuất phát từ hiện thực khách quan, không phải từ những cái
lẻ tẻ của hiện thực khách quan, phải xuất phát từ cái chung là
quy luật khách quan
+ Hoạt động tuân theo quy luật (quan điểm khách quan) là
nhận thức sự vật phải tôn trọng chính nó có, phải phản ánh


lOMoARcPSD|11424851

đúng quy luật vận động phát triển của sự vật và chống chủ
nghĩa khách quan, đồng thời chống chủ quan duy ý chí.
2.3 Vì ý thức có tính độc lập tương đối, có tính năng động sáng
tạo có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động con
người, cho nên cùng với xuất phát từ cái hiện thực khách quan
thì phải phát huy tính năng động chủ quan , tức là phát huy
mặt tích cực ý thức, hạn chế mặt tiêu cực của ý thức.
2.4 Giữa vật chất và ý thức chỉ có đối lập tuyệt đối trong phạm
vi nhận thức luận. Ngồi lĩnh vực đó ra, sự phân biệt chỉ là
tương đối (Câu của Lê Nin)
Vì thế một chính sách đúng đắn là cơ sở liên kết hợp hai yếu tố
này
+ Công tác tư tưởng phải gắn liền với cơng tác tổ chức nếu
tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, yếu tố kinh tế mà coi nhẹ ý thức
của con người, coi nhẹ tính năng động , sáng tạo của con người
sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường, ngược lại nếu tuyệt
đối hóa yếu tố ý thức và coi nhẹ điều kiện vật chất nhất định thì
sẽ rơi vào chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.


3.Liên hệ thực tiễn
+) Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong cuộc
sống học tập của sinh viên :
Thứ nhất vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách
quan . Đầu tiên bản thân mỗi ngày phải xác định được các điều
kiện khách quan ảnh hưởng đến cuộc sống học tập của bản
thân .Là sinh viên sống trong đất nước Việt Nam một đất nước


lOMoARcPSD|11424851

đang phát triển nằm trên bán đảo Đông Dương nhận thấy rằng
điều kiện của đất nước cịn khó khăn cơ sở vật chất vẫn chưa
hoàn thiện và hiện đại để đáp ứng nhu cầu của sinh viên , do
thiếu thốn về trang thiết bị nên quá trình giảng dạy của giảng
viên và quá trình học tập của sinh viên đều bị ảnh hưởng
Mặt khác , mỗi người cần tôn trọn tính khách quan và
hành động theo các quy luật mang tính khách quan , thể hiện
qua một số hành động như : tuân thủ theo thời khóa biểu của
mỗi khoa đã giao cho sinh viên để đi học đúng giờ , tham dự
các tiết học đầy đủ đồng thời làm theo những điều giảng đã
hướng dẫn . Ngoài ra cần phải tuân thủ theo đúng nội quy của
nhà trường chấp hành đúng kỉ luật đặc biệt là những quy chế
về việc cấm thi học lại
Thứ hai , vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất
nên cần phải phát huy tính năng động chủ quan tức là phải
phát huy tính tích cực , năng động và sáng tạo của ý thức
Trong kết cấu của ý thức thì tri thức là yếu tố quan trọng nhất .

Tri thức là là phương thức vận động và tồn tại của ý thức . Chính
vì vậy sinh viên phải tích cực trong học tập , chủ động tìm hiểu
và khai thác vẫn đề , khi học bài không quá phụ thuộc vào
giảng viên mà thay vào đó nên suy nghĩ những ý tưởng nới của
riêng mình . Ví dụ như những buổi học nhóm hay những buổi
thảo luận kĩ năng
Thứ ba cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như
bện bảo thủ trì trệ .Cụ thẻ là cần phải tiếp thu có chọn lọc
những kiến thức mới , việc hôm nay không nên để ngày mai ,
không chủ quan trước mọi tình huống , phải biết lắng nghe và
tiếp thu sự góp ý của người khác . Ví dụ sau một bài thuyết

Downloaded by nhung nhung ()


lOMoARcPSD|11424851

trình phải nán lại lắng nghe ý kiến chỉnh sửa của cả lớp và
giảng viên hay khi làm bài tập nhóm cần sáng tạo, đột phá cải
tiến cái cũ nhưng khơng nên q cầu tồn . Khi đăng kí học
phần khơng nên đăng kí q nhiều tránh việc khơng kham nổi
Thứ tư , khi giải thích các hiện tượng xã hội cần tính đến
các điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh thần , điều kiện khách
quan lẫn yếu tố khách quan . Ví dụ đối với việc đăng kí học
phần , sinh viên cần phải tính đến năng lực học tập của bản
thân , điều kiện tài chính của gia đình , cân nhắc q thời gian
khơng nên đăng kí học phần một cách lan man với mục đích tốt
nghiệp sớm tránh trường hợp không theo kịp dẫn đến hao phí
tiền bạc sức lực mà kết quả lại khơng như ý muốn


Downloaded by nhung nhung ()


lOMoARcPSD|11424851

Mục lục
Nội dung

trang

Lời nói đầu

1

1. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa vật chất với ý thức

2

1.1 Vật chất quyết định ý thức

2

1.2 ý thức tác động trở lại vật chất
5
2. ý nghĩa phương pháp luận

7

3.liên hệ thực tiễn


8

Downloaded by nhung nhung ()



×